LỜI MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài:
Đất nước đang trong thời kì hội nhập, kinh tế đang chuyển dần từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong xu thế mở cửa đó, xuất khẩu hàng hoá là một chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương này được khẳng định trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và trong nghị quyết 01NQ/TW của Bộ Chính trị với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa hướng về xuất khẩu. Hơn nữa, đất nước ta xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, chúng ta có thế mạnh về sản xuất hàng nông sản như cà phê, gạo ,cao su trong đó cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, mang lại nguồn thu lớn cho đất nước. Hiện Việt Nam là quốc gia xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới. Các bạn hàng nhập khẩu cà phê chủ yếu của ta là EU, Mỹ, Nhật, Singapore, Trung Quốc EU đã và đang là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam và tiềm năng xuất khẩu hàng hoá nông sản, đặc biệt là cà phê vào thị trường này vẫn còn rất rộng mở. Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này, cùng sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc, em xin chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam vào thị trường EU” làm đề án nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu tình hình xuất khẩu cà phê thời gian qua, các thành tựu, hạn chế. Từ đó tìm ra nguyên nhân, rút ra bài học và đề xuất phương hướng, giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu cà phê Việt Nam vào thị trường EU.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề án nghiên cứu hoạt động sản xuất, xuất khẩu cà phê của việt Nam, trọng tâm là thị trường EU với phạm vi nghiên cứu trong nội bộ ngành từ 2006 đến nay bằng các phương pháp tổng hợp, phân tích số liệu từ các ấn phẩm có uy tín, từ báo chí, các số liệu của ngành .
4. Kết cấu của đề án gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu cà phê
Chương II: Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam vào thị trường EU
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê vào thị trường EU
46 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7609 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam vào thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trong sản xuất. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cũng tiến hành nghiên cứu, lựa chọn và cho lai nhiều giống cà phê mới đồng thời hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân trong việc thay thế các cây cà phê lâu năm cho phù hợp với điều kiện của khu vực canh tác và thu được lợi nhuận cao.
2.1.1.2. Chế biến cà phê
Do quy trình công nghệ chế biến cà phê ở Việt Nam chưa hiện đại do đó ta chủ yếu xuất khẩu cà phê nhân. Vì thế ở nước ta hình thành được hệ thống chế biến cà phê nhân. Hiện nay đang bắt đầu chế biến cà phê rang xay, cà phê hoà tan. Ở Việt Nam chế biến cà phê nhân thường theo hai phương pháp đó là chế biến theo phương pháp ướt và phương pháp chế biến khô.
Phương pháp chế biến ướt bao gồm các công đoạn thu lượm quả tươi đem lọc và rửa sơ bộ để loại bỏ đất, que, lá cây, đá... sau đó đến xát vỏ để loại bỏ vỏ rồi đến đánh nhớt, sau đó lên men ngâm rửa rồi đem phơi khô. Phương pháp chế biến khô là cà phê tươi để phơi khô không cần qua khâu sát tươi.
Việt Nam chủ yếu chế biến cà phê theo phương pháp khô (khoảng 90% sản lượng). Cũng có một số doanh nghiệp chế biến theo phương pháp ướt, tuy nhiên phương pháp chế biến ướt rất đắt nên chỉ sử dụng để chế biến một phần cà phê Arabica xuất khẩu. Đối với cà phê hoà tan thì thường sử dụng phương pháp công nghệ sấy phun của Liro- Đan Mạch.
Năng suất cà phê
Cà phê là loại cây trồng khá mẫn cảm với điều kiện tự nhiên và sâu bệnh, do vậy năng suất thường không ổn định qua các năm. Tuy nhiên so với năng suất trung bình của thế giới 847 kg/ héc ta năm 2008 thì năng suất cà phê Việt Nam vẫn thuộc loại cao 1989 kg/ héc ta (nguồn: FAOSTAT 2010). Trong khi đó năng suất ở các nước khác hầu hết dưới 1000kg/ héc ta. Như vậy so với các nước sản xuất khác trên thế giới thì năng suất cà phê Việt Nam cao hơn hẳn. Điều này là do Việt nam có rất nhiều lợi thế về sản xuất cà phê như điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu, có giống cho năng suất cao và nhờ việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh như chọn giống, bón phân, tưới nước, kỹ thuật tạo tán.
2.1.1.4. Đánh giá tình hình sản xuất cà phê của nước ta mấy năm trở lại đây
Những mặt làm được trong sản xuất cà phê ở Việt Nam
- Cây cà phê là cây công nghiệp chủ lực có giá trị kinh tế cao ở Việt Nam. Cùng với việc gia tăng không ngừng về diện tích và sản lượng cà phê đã góp phần thay đổi đời sống của nhân dân các vùng trồng cà phê. Với việc nhận thức vị trí và vai trò của cây cà phê trong nền sản xuất nông nghiệp nước ta, Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng cà phê như thực hiện sản xuất gắn với chế biến giúp cho Việt Nam từ nước sản xuất cà phê nhân xuất khẩu đã trở thành nước xuất khẩu với các mặt hàng cà phê rang xay, cà phê hoà tan. Tuy nhiên lượng cà phê rang xay và hoà tan này còn rất ít chiếm khoảng 10% sản lượng.
- Để đạt được kết quả như trên Việt Nam đã biết áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và thâm canh cà phê: bộ giống tốt được áp dụng vào sản xuất như các dòng cà phê vối chọn lọc có năng suất cao từ 3-6 tấn /héc ta, cỡ hạt to. Các giống cà phê chè có năng suất cao chất lượng tốt được trồng như TN1,TN2, TH1. Ngoài ra đã hình thành được một số vùng cà phê chè có năng suất chất lượng cao như ở Khe Xanh (Quảng Trị), A Lưới (Thừa Thiên Huế), Mai Sơn (Thuận Sơn, Sơn La).
- Sản xuất cà phê phát triển đã tạo ra công ăn việc làm cho người dân, góp phần nâng cao đời sống, thay đổi bộ mặt nông thôn đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc, thúc đẩy hình thành phát triển hệ thống dịch vụ.
- Sản xuất gắn với chế biến, hình thành hệ thống chế cà phê nhân và từng bước phát triển cà phê chế biến sản phẩm giá trị gia tăng như: cà phê rang xay, cà phê hoà tan, ngoài ra còn chế biến “sản phẩm có cà phê “ như: bánh kẹo cà phê, sữa cà phê, …
Những hạn chế trong sản xuất cà phê
- Diện tích cà phê tăng quá nhanh không theo quy hoạch, do giá cà phê xuất khẩu tăng cao cây cà phê là một cây nông nghiệp có thu nhập cao đã kích thích người trồng cà phê tìm mọi cách gia tăng sản lượng đẩy mạnh diện tích không theo quy hoạch, kế hoạch.
- Thâm canh quá mức, sản xuất cà phê thiếu tính bền vững. Cũng do giống cà phê xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao, nông dân quá chú trọng đến việc tăng năng suất và sản lượng đem lại hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích nên thúc đẩy người dân tăng phân bón trên mức cần thiết, khai thác và sử dụng nguồn nước để tưới cho cây cà phê một cách tự phát tạo nên những vườn cà phê phát triển không ổn định.
- Chất lượng cà phê xuất khẩu không cao: Trước hết là do những hạn chế, yếu kém trong khâu thu hoạch, thu mua, chế biến và bảo quản; các doanh nghiệp thu mua, chế biến xuất khẩu cạnh tranh lẫn nhau, thu mua xô không theo tiêu chuẩn, không phân loại thu mua theo chất lượng, không tạo điều kiện để nông dân thực hiện đúng quy trình sản xuất, thu hái, thiết bị chế biến không đồng bộ, thường dùng phương pháp chế biến thủ công. Mặc dù Nhà nước đã ban hành đầy đủ bộ tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật về trồng trọt, chế biến, chất lượng cà phê nhưng chưa được nông dân và doanh nghiệp áp dụng có hiệu quả và đầy đủ.
- Hệ thống sân phơi, chế biến, bảo quản còn thiếu so với yêu cầu nên chất lượng cà phê chưa đồng đều và ổn định, nhất là vào những năm khi vụ thu hoạch cà phê bị mưa kéo dài. Cà phê bị lên men, mốc, ảnh hưởng đến giá và hình ảnh của cà phê Việt Nam nói chung.
2.1.2. Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Ngày nay, ở một số nước người ta coi việc uống cà phê như một thức uống phổ thông, nhất là ở các nước phát triển. Nhu cầu về cà phê của thế giới ngày càng tăng. Đó là thuận lợi cho Việt Nam, nơi mà cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực.
Sản lượng, kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam
Bảng 2.3. Khối lượng, kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ 2006 -2010
Năm
Khối lượng (tấn)
Kim ngạch (1000USD)
Đơn giá bình quân(USD/tấn)
2006
897.000
1.101.000
1227
2007
1.229.233
1.911.463
1555
2008
1.059.506
2.111.187
1992
2009
1.183.523
1.730.602
1462
2010
1.217.868
1.851.358
1520
(Nguồn : tổng cục thống kê)
Ta thấy sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt mức cao nhất đạt 1.229.223 tấn vào năm 2007. Sang năm 2008 khối lượng xuất khẩu giảm sút gần 170000 tấn song kim ngạch lại tăng gần 200 triệu đô la (10,45%) so với 2007 do giá tăng mạnh. Mặc dù trong niên vụ cà phê 2008-2009, Việt Nam vẫn đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu về sản lượng, nhưng về giá trị xuất khẩu lại xếp thứ tư trên thế giới. Đến 2009 dù kim ngạch xuất khẩu cà phê tăng 11,7% về khối lượng nhưng lại giảm 18% về giá trị. Vicofa cho biết do ảnh hưởng của thời tiết mưa nhiều nên hạt đen nhiều (chỉ riêng hạt cà phê đen đã chiếm 15% sản lượng thu hoạch cà phê của cả nước), ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm khiến giá giảm. Mặc dù trong năm 2009, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách mới nhằm thúc đẩy việc tái cơ cấu lại cây cà phê, nhưng phần lớn người nông dân vẫn còn đầu tư và mở rộng diện tích sản xuất cây trồng hiện có.
Từ 2006-2010, khối lượng xuất khẩu cà phê chỉ tăng 35,8% (từ 897000 tấn năm 2005 lên 1.217.868 tấn năm 2010), nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng 68,2% (từ 1,1 tỷ USD năm 2005 lên 1,85 tỷ USD năm 2010). Có được điều này là do giá bình quân xuất khẩu có xu hướng tăng (từ 1227 USD/tấn năm 2005 lên 1520 USD/tấn năm 2010). Năm 2011, ước tính tổng lượng xuất khẩu của cả nước đạt 1,1 triệu tấn, trị giá 2,7 tỷ USD.
Cơ cấu cà phê xuất khẩu
Loại cà phê xuất khẩu
Việt Nam xuất khẩu 2 loại cà phê chủ yếu là cà phê Robusta và cà phê Arabica. Tuy nhiên chúng ta có lợi thế trong việc sản xuất cà phê Robusta nên loại cà phê này chiếm đa số trong cơ cấu loại hàng cà phê xuất khẩu. Việt Nam hiện là nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu cà phê Robusta. Đây là loại cà phê có sản lượng cao nhất ở nước ta (97% tổng sản lượng).
Sản phẩm cà phê xuất khẩu
Dù sản lượng cao như vậy, song nước ta chủ yếu xất khẩu cà phế nhân do công nghệ chế biến chưa phát triển. Hiện nay cơ cấu cà phê nhân xuất khẩu ở Việt Nam có khả năng cung cấp trên 30 loại quy cách chất lượng khác nhau. Tỷ lệ cà phê rang và cà phê hòa tan xuất khẩu còn rất thấp.
Bảng 2.4.Cơ cấu cà phê xuất khẩu từ niên vụ 2008/2009 (1 bao = 60kg)
2009
2010
2011
Niên vụ 2008/2009
Niên vụ 2009/2010
Niên vụ 2010/2011
Thời gian bắt đầu niên vụ: Tháng 10 năm 2008
Thời gian bắt đầu niên vụ:
Tháng 10 năm 2009
Thời gian bắt đầu niên vụ: Tháng 10 năm 2010
Số liệu báo cáo hàng năm
Số liệu
mới
Số liệu
báo cáo hàng năm
Số liệu
mới
Số liệu báo cáo hàng năm
Số liệu
mới
Official
Post
Data
Official
Post
Data
Official
Post
Data
Cà phê hạt xuất khẩu (nghìn bao)
16.333
16.333
16.283
16.675
16.667
16.667
16.667
Cà phê rang & nguyên hạt xuất khẩu (nghìn bao)
25
25
42
25
40
45
50
Cà phê hoà tan (nghìn bao)
105
156
105
110
100
110
115
Tổng xuất khẩu (nghìn bao)
16.463
16.514
16.430
16.810
16.807
16.822
16.832
(Nguồn: FAS)
Nhìn vào bảng ta thấy tổng lượng xuất khẩu hàng năm tăng song cơ cấu xuất khẩu có sự thay đổi. Niên vụ 2008/2009 tổng lượng cà phê rang & nguyên hạt, cà phê hòa tan là 147 nghìn bao (tương đương 8,82 tấn), sang niên vụ 2009/2010 tăng lên 155 nghìn bao (9,3 tấn) và niên vụ 2010/2011 con số này là 165 nghìn bao (9,9 tấn). Tỷ lệ cà phê hạt xuất khẩu tăng 2,3% trong niên vụ 2009/2010 xong giữ nguyên vào niên vụ sau. Xét về tương đối qua 3 niên vụ, tổng tỷ lệ cà phê rang & nguyên hạt, cà phê hòa tan chiếm lần lượt 0,90%; 0,92% và 0,98% tổng lượng xuất khẩu, tỷ lệ tăng không cao do tổng lượng xuất khẩu đều tăng hàng năm. Có được điều này là do công nghệ chế biến cà phê của nước ta ngày càng tiến bộ và đã được quan tâm đầu tư phát triển, sẽ mang lại giá trị lớn cho cà phê xuất khẩu của Việt Nam.
Thị trường cà phê xuất khẩu của Việt Nam
Hiện nay Việt Nam có trên 95% sản lượng cà phê sản xuất ra là để xuất khẩu vì vậy thị trường tiêu thụ cà phê thế giới chính là nhân tố quyết định cho sự phát triển của ngành cà phê Việt Nam. Cà phê Việt Nam đã có mặt trên 88 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Trong đó mười nước dẫn đầu về nhập khẩu cà phê Việt Nam chủ yếu là các nước trong khốI EU và Mỹ. Việt Nam đã có sự thay đổi trong chính sách xuất khẩu cà phê, với mục đích mở rộng thị trường xuất khẩu trực tiếp, giảm xuất khẩu trong các nước trung gian để tránh bị ép về giá xuất khẩu.
Bảng 2.5. 10 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu cà phê chủ lực của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2011
STT
Nước nhập khẩu
Khối lượng (Tấn)
Trị giá (1000 USD)
Thị phần(%)
1
E.U
363.388
795.944
39,2%
2
Hoa kỳ
93.611
227.866
11,2%
3
ASEAN
58.254
128.253
6,3%
4
Nhật Bản
31.874
82.565
4%
5
Hàn Quốc
19.712
41.349
2%
6
Trung Quốc
18.251
41.244
2%
7
An-giê-ry
15.588
32.943
1,5%
8
Nga
15.141
32.910
1,5%
9
Ân Độ
15.209
28.758
1,3%
10
Australia
7.677
17.289
0,8%
(Nguồn :Tổng cục thống kê)
EU là thị trường truyền thống được Việt Nam chú trọng. Đây chính là thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất của nước ta. 7 tháng đầu năm 2011, EU tiếp tục giữ vị trí số một về nhập khẩu cà phê Việt Nam với gần 40% thị phần, giá trị gần 800 nghìn USD. Tuy nhiên thị trường này cũng hết sức khó tính do vậy mà ta mới chỉ xuất khẩu cà phê nhân, còn cà phê hoà tan, cà phê thành phẩm rất ít.
Đứng thứ 2 là thị trường Hoa Kỳ. Đây là quốc gia có lượng nhập khẩu cà phê lớn nhất từ Việt Nam trong thời gian gần đây và là thị trường đầy tiềm năng. Chỉ riêng nước này đã nhập 11,2% lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài trong 7 tháng đầu năm nay, tăng 1,7% về khối lượng nhưng tăng tới 64,3% về giá trị so với năm trước chủ yếu là do giá cà phê thế giới tăng mạnh đầu năm 2011. Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký Hiệp định thương mại Việt-Mỹ ngày 14-7-2000 bắt đầu có hiệu lực tháng 12-2001. Nhờ Hiệp định này chúng ta đang tăng nhanh xuất khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ, trong đó có cà phê. Ngoài ra Việt Nam còn tiếp nhận nhiều công nghệ mới và các doanh nghiệp Mỹ và các Việt Kiều sẽ làm ăn thuận lợi đặc biệt sau WTO.
Ngoài các thị trường truyền thống, những thị trường mới như ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, cũng ngày càng được quan tâm. ASEAN đã vươn lên đứng thứ 3 trong top 10 thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Trong những năm gần đây, Ma Rốc cũng nổi lên là một thị trường đầy tiềm năng. Theo hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam, lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam của Marốc có chiều hướng tăng nhanh. Hiện cà phê đang đứng đầu trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Ma Rốc, chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu.
Lượng xuất khẩu tới hầu hết các thị trường trong 8 tháng đầu năm 2011 đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, trị giá xuất khẩu vẫn tăng rất mạnh do giá xuất khẩu trung bình năm nay đã tăng từ 45 – 53% so với năm trước. Đây thực sự là kết quả tốt, mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước, và cà phê xuất khẩu được giá cũng đem lại lợi nhuận cho người nông dân, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu.
Giá cà phê xuất khẩu
Nhìn chung, giá cà phê trong nước vận động theo cùng xu hướng với giá cà phê trên thị trường quốc tế, xu hướng này ngày càng chặt chẽ hơn khi mà Việt Nam trở thành một trong những nước hàng đầu về sản xuất và xuất khẩu cà phê Robusta, đặc biệt là sau chính sách tự do hoá thị trường cà phê xuất khẩu từ những năm đầu thập kỷ 90, và khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
Biểu đồ 2.2. Giá xuất khẩu trung bình của Cà phê thô Việt Nam, niên vụ 1990/1991 – 2010/2011
(đơn vị: USD/tấn)
(Nguồn: Trung tâm Xúc tiến thương mại - Đầu tư - Du lịch Đắk Lắk, VICOFA)
Năm 2008 giá thu mua cà phê đã có lúc đã lên mức giá cao kỷ lục 40.000-42.000 đồng/kg cà phê nhân (tuỳ loại và tùy vùng) xong ngay sau đó đã sụt giảm mạnh do giá giao dịch của thị trường giao dịch kỳ hạn LIFFE ở London đột ngột giảm mạnh và liên tiếp các ngày sau nữa, giá cà phê trên thị trường kỳ hạn đóng cửa đều ở mức âm (giảm). Đây là bài học về sự thiếu dự báo thông tin thị trường, dù Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới.
Trong vòng 7 tháng đầu niên vụ 2010/11 giá trung bình hạt cà phê Robusta của Việt Nam là 1.964USD/tấn (FOB HCM), tăng 55% so với cùng thời điểm năm ngoái (1.271USD/tấn). Giá tăng có thể do ảnh hưởng của lượng dự trữ cà phê thế giới sụt giảm mạnh, nhu cầu tiêu thụ toàn cầu tăng và yếu tố thời thiết không thuận lợi tại một số nước xuất khẩu cà phê. Ngày 4/5/2011, theo VICOFA, giá FOB (HCM) của hạt cà phê Robusta thô chưa phân loại là 2.570USD/tấn. Đây là mức giá cao nhất trong vòng 16 năm trở lại đây, nhưng vẫn thấp hơn mức giá kỷ lục 2.658USD niên vụ 1994/95. Tính chung giai đoạn 2006/2007 đến 2010/2011 giá cà phê đã tăng trung bình hơn 500USD/tấn.
Tuy nhiên, một thực tế đáng lo ngại là ở Việt Nam do có quá nhiều đơn vị tham gia xuất khẩu, chào đủ mọi giá khiến nhà nhập khẩu tìm mọi cách ép giá cà phê. Ngoài ra còn có hiện tượng tranh mua tranh bán của các doanh nghiệp thu mua nhỏ lẻ. Chính điều này khiến xảy ra tình trạng, chất lượng cà phê Việt Nam luôn được đánh giá cao hơn cà phê của Indonesia nhưng giá luôn thấp hơn. Vì vậy mới đây Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã nhất trí với Bộ Công thương đưa cà phê vào mặt hàng xuất khẩu có điều kiện, giúp có thể kiểm soát được thị trường, loại bỏ các doanh nghiệp nhỏ thiếu năng lực và tài chính để tránh bị ép giá. Từ đó giá cà phê xuất khẩu sẽ có điều kiện gia tăng trong tương lai.
Chất lượng cà phê xuất khẩu
Cà phê Robusta ở Việt Nam phần lớn được trồng trên đất đỏ bazan có độ phì nhiêu cao, nhất là có tính vật lý lý tưởng, tại các tỉnh Tây Nguyên có độ cao 450 - 600 m. Bởi vậy, cà phê robusta Việt Nam vừa có chất lượng cao, vừa rất phù hợp cho chế biến cà phê pha trộn và cà phê hoà tan. Nhưng do thói quen, nông dân Việt Nam đã để lẫn cà phê quả xanh với quả chín, cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phơi khô, bảo quản cà phê. Họ không biết rằng thu hoạch khi quả xanh sẽ làm giảm chất lượng cà phê. Vì vậy chất lượng cà phê xuất khẩu Việt Nam chưa đồng đều, đặc biệt số lượng cà phê xuất khẩu bị thải loại chiếm tỉ lệ cao nhất thế giới. Theo báo cáo của Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam, trong 6 tháng tính đến tháng 3/2007, cà phê xuất khẩu có nguồn gốc Việt Nam chiếm 88% trong tổng số cà phê xuất khẩu bị thải loại của thế giới. Ngay từ năm 2005 Việt Nam đã ban hành Tiêu chuẩn cà phê xuất khẩu TCVN 4193:2005, áp dụng phân loại theo cách tính lỗi để phù hợp với cách phân loại của Hội đồng Cà phê Thế giới, tuy nhiên, do đây là tiêu chuẩn có tính chất tự nguyện, nên tất yếu dẫn đến tình trạng nói trên.
Hơn nữa, cà phê của Việt Nam chủ yếu xuất dưới dạng thô, không qua chế biến, cà phê xuất khẩu nhưng vẫn phối trộn để tăng lượng và giảm giá thành. Chính vì vậy chất lượng không cao, giá thành luôn thấp hơn so với các đối thủ, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước.
Các phương thức xuất khẩu chủ yếu
Xuất khẩu trực tiếp là phương thức chính của Việt Nam trong xuất khẩu cà phê nói chung cũng như thâm nhập vào thị trường EU hiện nay. Các doanh nghiệp Việt Nam kí hợp đồng trực tiếp với các nhà nhập khẩu EU phần lớn thông qua các văn phòng đại diện của Việt Nam tại EU. Phương thức này hiện nay rất phổ biến do hiện nay các doanh nghiệp dễ dàng nắm bắt thông tin về thị trường, hiểu được nhu cầu của các nước nhập khẩu. Ở Việt Nam, trong thời gian qua, các doanh nghiệp áp dụng một trong hai phương thức ký kết hợp đồng xuất khẩu cà phê ra sau:
:
- Thứ nhất, đó là phương thức giao ngay, vốn là phương thức mua bán truyền thống trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam diễn ra trước năm 1995. Theo phương thức này hai bên mua và bán ký kết hợp đồng với giá cố định tại thời điểm hiện tại và thời gian giao hàng cố định. Họ không quan tâm đến giá tại thời điểm giao hàng cao hơn hay thấp hơn giá cố định đã ký kết.
- Thứ hai, phương thức “trừ lùi, chốt giá sau”. Phương thức bán hàng này được xem là một trong công cụ phòng chống rủi ro giá cả. Do vậy, kể từ đầu thập niên 1990 của thế kỷ 20 đến nay, đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu áp dụng phương thức này mà không áp dụng phương thức giao ngay. Phương thức kinh doanh chốt giá sau là hình thức cho phép người mua hoặc người bán “chốt giá” tại thời điểm nào đó trong tương lai, trước khi thực hiện giao, nhận hàng, người mua và người bán sẽ thỏa thuận về số lượng, chủng loại, tháng giao hàng. Riêng đối với điều khoản giá thì sẽ áp dụng một trong hai hình thức: thứ nhất, giá thanh toán là giá “trừ lùi” hoặc thứ hai, giá cộng thêm so với giá giao dịch trên thị trường kỳ hạn. Giá kỳ hạn này thường căn cứ vào giá trên Sàn giao dịch hàng hóa London (Liffe). Nếu chất lượng hàng hóa của người bán thấp hơn tiêu chuẩn chất lượng quy định trong hợp đồng kỳ hạn sẽ sử dụng áp dụng “giá trừ lùi”; nếu tốt hơn sử dụng “ giá cộng thêm”.
Các đơn vị xuất khẩu cà phê hàng đầu của Việt Nam
Trên thị trường cà phê Việt Nam hiện có 150 doanh nghiệp thương mại hoạt động, nhưng chỉ có khoảng 20 doanh nghiệp thương mại cà phê đúng nghĩa và 8 nhà rang xay, chiếm 80% sản lượng. Có thể kể đến các tên tuổi lớn như:
Tổng công ty cà phê Việt Nam (VINACAFE)
Công ty cổ phần INTIMEX Việt Nam
Tập đoàn Thái Hoà
Công ty xuất nhập khẩu Simexco Đắk lắk
Công ty cà phê Phước An Đắk lắk
Công ty thương mại kỹ thuật & đầu tư PETEC
Công ty đầu tư xuất nhập khẩu Đắk lắk
Công ty xuất nhập khẩu Tín Nghĩa Đồng Nai
Công ty cổ phần dịch vụ Phú Nhuận TP Hồ Chí Minh
Công ty thực phẩm miền Bắc.
Trong đó VINACAFE là một Tổng công ty Nhà nước với 100% số vốn của Nhà nước và là hội viên lớn nhất của Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam. Đây là một doanh nghiệp lớn, có tới 70 công ty, xí nghiệp và nông trường. Hàng năm VINACAFE xuất khẩu một lượng lớn tới 20- 25% sản lượng cà phê của cả nước.
2.2. Thực trạng xuất khẩu cà phê sang EU
2.2.1.Đặc điểm thị trường cà phê EU
Liên minh châu Âu được thành lập vào ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa trên Cộng đồng châu Âu (EC). Đây là một một liên minh kinh tế chính trị gồm 27 nước thành viên mà ở đó hàng hoá, sức lao động, vốn và dịch vụ được lưu chuyển hoàn toàn tự do giống như khi chúng ta ở trong một thị trường quốc gia.
Xu hướng tiêu thụ cà phê tại EU:
Cà phê đang ngày càng được ưa chuộng tại EU và được coi như một thức uống đem lại nhiều tác dụng về mặt tinh thấn, có tác dụng thư giãn, giảm stress trước nhịp sống làm việc hối hả của người dân EU hiện nay. Những xu hướng đáng chú ý trong tiêu dùng cà phê tại EU:
- Những sản phẩm như cà phê hoà tan đang gia tăng theo xu hướng tiện dụng và được chia thành những gói nhỏ để sử dụng. Tiêu thụ các sản phẩm cà phê nguyên chất đang ngày càng gia tăng.
- Sự gia tăng nhận thức về môi trường và khía cạnh xã hội của sản phẩm. Tiêu chuẩn về nhãn mác, môi trường, hóa chất được đặc biệt coi trọng. Quyền lợi người tiêu dùng rất được đề cao.
- Thị trường đang hướng về những sản phẩm được chứng nhận, có thương hiệu chủ yếu là về lối sống lành mạnh, do đó, các loại cà phê có lợi cho sức khoẻ đang được tiêu thụ ngày càng nhiều. Một trong những chứng nhận quan trọng về cà phê tại EU là chứng nhận Impatto Zero của Italia.
- Trên toàn EU có sự đồng nhất và nhiều nét chung trong sự tiêu thụ và sử dụng cà phê. Nhìn chung không có sự phân biệt giữa các vùng về sử dụng các loại cà phê. Việc sử dụng cà phê pha trộn cũng như cà phê có thêm hương vị trở nên phổ biến trên toàn EU.
Ngoài ra chính sách thương mại nội khối của EU tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung Châu Âu nhằm tạo cho các thành viên sự tự do như ở trong quốc gia mình. Điều này tạo cho Việt Nam thuận lợi trong việc tìm hiểu các đối tác mới của EU thông qua các đối tác truyền thống, ít phải điều tra ngay từ đầu, giảm chi phí cho việc tìm kiếm thị trường mới. Nếu có được quan hệ tốt với thị trường truyền thống, sẽ là điều kiện thuận lợi để thâm nhập vào thị trường mới dễ dàng hơn.
2.2.2.Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang EU
2.2.2.1 Kết quả xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu
EU là thị trường rất ưa chuộng sản phẩm cà phê và là một trong những khu vực thị trường tiêu thụ sản phẩm này hàng đầu thế giới. Hàng năm giá trị cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này chiếm từ 40-50% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của nước ta cho tất cả các thị trường trên thế giới. Những năm gần đây Việt Nam luôn chỉ chiếm thị phần từ 13-18 % thị phần EU và đứng ở vị trí thứ 3 trong các nước xuất khẩu vào EU, Brasin là nước chiếm thị phần lớn về cà phê xuất khẩu vào EU, thị phần của nước này chiếm từ 30-31 % thị phần EU và Clombia là nước xuất khẩu đứng thứ 2 (nguồn: ICO).
Bảng 2.6. Kim ngạch xuất khẩu cà phê vào EU giai đoạn 2008-2011
Nội dung
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Trị giá (triệu USD)
Tăng (%)
Trị giá
(triệu USD)
Tăng (%)
Trị giá (triệu USD)
Tăng(%)
Tổng kim ngạch xuất khẩu vào EU
10.000
17,6
10.600
6,0
12.100
14,2
Mặt hàng cà phê
820
-2,4
800
-2,4
815
1,9
(Nguồn: vinanet)
Kim ngạch xuất khẩu vào EU năm 2008 đạt 820 triệu USD, giảm 2,4% so với năm 2007 do sản lượng sản xuất trong nước giảm. Đến 2009, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, giá cả biến động nên giá trị cà phê xuất khẩu cũng giảm, tuy tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào EU vẫn tăng 6%. Năm 2010, dù tiêu dùng của dân cư các nước EU có giảm nhưng EU vẫn là thị trường tiêu thụ lớn nhất đối với cà phê Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu cà phê sang EU năm 2010 đạt 815 triệu USD, tăng 1,9% so với 2009 và chiếm gần 46% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này cả năm của Việt Nam (1.763 triệu USD). Theo số liệu tổng cục thống kê, trong 8 tháng đầu năm 2011, Việt Nam đã xuất khẩu 378057 tấn cà phê sang EU, trị giá hơn 829 triệu USD. Như vậy chỉ riêng 8 tháng đầu năm giá trị xuất khẩu của nước ta vào EU đã cao hơn của cả năm 2010. Điều này có được là do giá cà phê tăng cao vào đầu năm. Các nước nhập khẩu cà phê Việt Nam nhiều trong EU là Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Bỉ…
Bảng 2.7. Một số nước EU nhập khẩu cà phê chính của nước ta từ giai đoạn 2006/2007 đến 2009/2010
Thứ tự
Thị trường
2006/2007
2007/2008
2008/2009
2009/2010*
(Tháng 10 – tháng 3)
Khối lượng
(nghìntấn)
Giá trị
(nghìn USD)
Khối lượng
(nghìntấn)
Giá trị
(nghìn USD)
Khối lượng
(nghìntấn)
Giá trị
(nghìn USD)
Khối lượng
(nghìntấn)
Giá trị
(nghìn USD)
1
Đức
249
408.995
174
373.024
165
292.418
81
116.008
2
Tây Ban Nha
100
159.715
100
221.092
88
154.426
34
46.077
3
Italy
79
130.174
80
171.176
83
163.948
34
47.265
4
Bỉ
20
33.562
61
144.529
44
87.251
25
34.428
5
Pháp
44
72.589
37
79.558
37
66.545
7
9.633
6
Anh
40
55.922
29
53.587
25
45.698
19
24.640
7
Thụy Sĩ
10
16.857
10
23.149
9
18.047
18
23.245
(Nguồn: Global Trade Atlas; * Vicofa và Tổng cục Thống kê Việt Nam)
Có thể thấy Đức là nước nhập khẩu cà phê Việt Nam lớn nhất trong EU trong thời gian gần đây. Giá trị nhập khẩu có lúc đã lên tới hơn 400 triệu USD niên vụ 2006/2007. Tuy nhiên đã có sự sụt giảm về sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam vào thị trường này. Đến niên vụ 2008/2009 khối lượng cà phê xuất khẩu chỉ còn 165 nghìn tấn, đạt giá trị 292418 nghìn USD, giảm 84 nghìn tấn về khối lượng và 116577 nghìn USD về giá trị so với niên vụ 2006/2007. Đây cũng là tình hình chung cho các nước nhập khẩu chính của ta trong EU khi mà cung đã vượt quá cầu, chúng ta gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ các đối thủ như Braxin, Colombia và yêu cầu về mặt hàng ngày càng cao. Mặc dù vậy, vẫn có những điểm sáng về nhập khẩu cà phê Việt Nam như Bỉ, Thụy Sĩ, đặc biệt là Bỉ. Đây được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng cho cà phê Việt Nam. Vấn đề đặt ra cho ngành cà phê nước ta là phải có biện pháp củng cố các thị trường truyền thống và phát triển thị trường mới giàu tiềm năng.
Cơ cấu cà phê xuất khẩu
EU là thị trường khó tính, yêu cầu về các mặt hàng nhập khẩu là rất cao và cà phê cũng không phải là ngoại lệ. Vì vậy, loại cà phê Arabiaca (cà phê chè) rất được ưa chuộng ở thị trường này. Tuy nhiên từ trước đến nay chúng ta mới chỉ tập trung xuất khẩu cà phê Robusta (cà phê vối) vốn là thế mạnh của Việt Nam vào EU. Từ 2004 Việt Nam mới bắt đầu xuất khẩu và phê Arabica vào thị trường này, nhưng với tỉ lệ rất nhỏ chỉ khoảng 3-5%.
Về sản phẩm cà phê xuất khẩu, chúng ta hầu hết chỉ xuất khẩu cà phê nhân vào EU. Loại cà phê này không qua chế biến do đó giá trị xuất khẩu không cao. Do nhu cầu về sản phẩm ngày càng đa dạng nên Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu cà phê thành phẩm, cà phê hòa tan song tỷ trọng còn rất ít. Loại cà phê hoà tan này còn chưa chiếm được thị hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng EU nên lượng cà phê này xuất khẩu vào thị truờng EU chiếm một tỉ lệ thấp chỉ khoảng 4-5%. Ngoài ra cũng có cà phê thành phẩm nhưng tỉ lệ này cũng không cao, chỉ khoảng 7-9%.
Giá cà phê xuất khẩu
Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn khai thác tốt việc xuất khẩu cà phê sang thị trường EU với các sản phẩm cà phê có thương hiệu được các nước EU chấp nhận. Năm 2010 So với cùng kỳ năm 2009 thì giá cà phê xuất khẩu tăng khoảng 100 USD/tấn, đạt mức trung bình 1530 USD/tấn. Giai đoạn 2006/2007-2009/2010 đã có lúc giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào EU đạt 1937USD/ tấn vào mùa vụ 2007/2008 (nguồn VICOFA) do sản lượng giảm trong khi nhu cầu vẫn lớn đẩy giá lên. Tính chung cả giai đoạn thì giá cà phê đạt trung bình 1500USD/ tấn. Tuy nhiên, giá trị cà phê xuất khẩu của Việt Nam vẫn thấp hơn so với đối thủ trên thế giới do yếu tố chất lượng cà phê chưa cao.
2.2.2.2. Chính sách của Nhà nước và của ngành cà phê đã thực hiên để phát triển xuất khẩu
Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
Cà phê là mặt hàng xuất khẩu chủ lực và chiến lược của Việt Nam nên nó được Nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi hỗ trợ xuất khẩu.
Trong suốt những năm qua Nhà nước đã nhiều lần hỗ trợ cho vay tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp, lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng. Nhất là khi tình hình giá cà phê thế giới và giá cà phê xuất khẩu Việt Nam giảm liên tục và đạt mức thấp, Nhà nước có chính sách các doanh nghiệp và người trồng cà phê không phải trả lãi vay mà ngân sách Nhà nước sẽ cấp bù lãi suất cho các Ngân hàng và tiếp tục cho vay mới để cho người trồng cà phê có vốn chăm sóc cà phê (như năm 2001), sau đó còn cho giãn thời hạn trả nợ. Bên cạnh đó Nhà nước còn hỗ trợ tiền cho nhập khẩu giống.
Năm 2004 Tỉnh Đắk Lăk quyết định cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê trên địa bàn tỉnh vay 100 tỷ đồng từ nguồn quỹ hỗ trợ phát triển để thu mua cà phê dự trữ xuất khẩu với thời hạn dưới 12 tháng, với lãi suất ưu đãi là 0,36%/tháng trong khi lãi suất thông thường ở thời điểm đó là khoảng 0,62%/tháng. Với sự hỗ trợ này, các doanh nghiệp mua được 10.000 tấn cà phê. Chiều 26/10/2011, tại Hà Nội, Ngân hàng TMCP Kỹ thương VN (Techcombank) và Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN (Vicofa) đã ký kết thỏa thuận hợp tác phát triển xuất khẩu cà phê với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp cà phê VN nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khắc phục khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Theo đó, Techcombank cam kết sẽ dành nguồn vốn lên đến 2.000 tỷ đồng với lãi suất ưu đãi để tài trợ cho doanh nghiệp ngành cà phê niên vụ 2011/2012 (nguồn: báo Sài Gòn giải phóng).
Việc hỗ trợ trên đã góp phần thúc đẩy người trồng cà phê, doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cà phê có thể đứng vững được trong những thời điểm khó khăn và vẫn duy trì được vị trí là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới. Trong thời kỳ mà thị trường cà phê thế giới có nhiều biến động phức tạp như hiện nay thì việc hỗ trợ tài chính cho cà phê được coi như là biện pháp ngắn hạn hữu hiệu hơn cả để các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê như Việt Nam.
Chính sách tín dụng cho đầu tư
Trong những năm qua Việt Nam luôn là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới sau Braxin và là nước xuất khẩu cà phê vối nhiều nhất trên thế giới. Tuy nhiên giá của cà phê vối trong những năm gần đây biến động thất thường và có xu hướng giảm mạnh khiến cho giá trị xuất khẩu cà phê không cao, không tương xứng với sản lượng xuất khẩu của Việt Nam. Trong khi đó cà phê chè lại giữ được mức giá ổn định và tăng cao, có giá trị lớn. Mặt khác thị trường EU lại ưa thích loại cà phê chè hơn cà phê vối. Trước thực tiễn đó Nhà nước và ngành cà phê đã có chiến lược đầu tư mở rộng trồng cây cà phê chè, chuyển dịch dần cơ cấu cây cà phê nhằm mục tiêu là tỷ lệ cà phê chè và cà phê vối là 1: 4. Để thực hiện mục tiêu đó, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn phối hợp với Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (Vicofa) đã soạn thảo chương trình phát triển cà phê chè và giao cho Tổng công ty cà phê Việt Nam thực hiện. Đây là chính sách rất bám sát thị trường, mang lại giá trị cao cho cà phê xuất khẩu và nguồn thu lớn cho đất nước. Để thực hiện kế hoạch có 40.000 héc ta cà phê chè trong thời kỳ 1999 -2003 ở các tỉnh phía Bắc từ Huế trở ra với số vốn đầu tư là 150 tỷ đồng, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 172/QĐ –TTg ngày 24/3/97 cho phép ngành cà phê Việt Nam vay quỹ phát triển Pháp (CFD). Mới đây, ngày 20/10/2011, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Công văn 3017/BNN-CB về tháo gỡ khó khăn về vốn thu mua, xuất nhập khẩu cà phê và điều, đề nghị Ngân hàng xem xét điều chỉnh các điều kiện cho vay, tăng tỷ lệ áp dụng hình thức cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp.
Chính sách thuế
Với cà phê nhân xuất khẩu thì không chịu thuế xuất khẩu tức thuế xuất khẩu của cà phê là 0%, mặt khác cũng như các mặt hàng xuất khẩu khác thì cà phê xuất khẩu cũng không phải chịu thuế giá trị gia tăng, nên khi xuất khẩu các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê được hoàn thuế.
Ngoài ra với quyết định số 908/2001/QĐ –TTg của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định 79/2002/NĐ – TTg đã quy định chi tiết về thi hành luật thuế Giá trị gia tăng trong đó quy định tỷ lệ khấu trừ đầu vào 1% đối với hàng mua có hóa đơn Giá trị gia tăng là nông, lâm, thủy hải sản chưa qua chế biến, trong đó có cà phê nhân. Nhà nước cũng đã áp dụng chính sách hoàn phụ thu cho xuất khẩu cà phê, thu phí xuất khẩu ở mực thấp (hiện nay chỉ ở mức 0,4USD/ tấn). Những chính sách thuận lợi này đã tác dộng tích cực đến xuất khẩu cà phê nói chung và xuất khẩu vào EU nói riêng.
Chính sách bảo hiểm rủi ro
Để giúp cho người sản xuất chế biến và kinh doanh xuất khẩu cà phê tránh gặp phải những rủi ro. Nhà nước đã có chính sách bảo hiểm rủi ro đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cà phê. Các ngân hàng, công ty bảo hiểm sẽ tham gia bảo hiểm cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. Hình thức là bảo hiểm về giá. Ngoài ra các doanh nghiệp khi tham gia mua bán cà phê trên thị trường kỳ hạn, khi mức giá trong tương lãi thấp quá so với mức giá mua ở hiện tại thì doanh nghiệp có quyền không thực hiện hợp đồng mà chỉ phải chịu phí bảo hiểm với Ngân hàng còn giá lên cao thì doanh nghiệp thực hiện hợp đồng và bán lại để kiếm lời. Gần đây Tổng công ty cổ phần Bảo Minh đã ra sản phẩm bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nông nghiệp theo chỉ số sẽ được thí điểm đối với rủi ro hạn hán cho người trồng cà phê tại Đăk Lăk từ năm 2011. Tất cả những biện pháp này khiến doanh nghiệp và người trồng cà phê giảm thiểu được rủi ro. Từ đó giúp cho các doanh nghiệp tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu cà phê, hoạt động có hiệu quả hơn, người trồng cà phê yên tâm sản xuất, thúc đẩy xuát khẩu cà phê phát triển.
Chính sách hỗ trợ khác
Liên tục trong những năm qua từ năm 2002 đến nay cà phê luôn năm trong danh mục những mặt hàng được hỗ trợ về xúc tiến thương mại trọng điểm của quốc gia. Các cải cách quan trọng trong luật đất đai, luật doanh nghiệp cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất, xuất khẩu cà phê.
Trước khi gia nhập WTO, trong giai đoạn 1999-2001,Việt Nam trợ cấp dưới hình thức thưởng xuất khẩu đối với 7 mặt hàng nông sản trong đó có cà phê, tuy nhiên, có thể thấy trợ cấp của Nhà nước còn ít và còn chưa hoàn toàn hợp lý. Sau khi gia nhập WTO, tổ chức này yêu cầu việc trợ cấp phải có chương trình cụ thể, tiêu chí rõ ràng. WTO cũng quy định hỗ trợ trực tiếp cho nông dân nhưng Nhà nước thường hỗ trợ thông qua doanh nghiệp nên nông dân chỉ là người được hưởng lợi gián tiếp. Vì vậy, nhà nước chuyển số tiền trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa trước đây sang phát triển thủy lợi, kiện toàn giao thông, nâng cao chất lượng giống cây trồng, phát triển công nghệ sau thu hoạch, xây dựng các kho đệm để dự trữ cà phê cho bà con nông dân, tránh để họ phải bán ồ ạt khi vào vụ…
Năm 2002 lần đầu tiên nhà nước quy định cho phép các công ty thuộc sở hữu nước ngoài được quyền xuất khẩu cà phê (thông tư 26/2001/BTM) tuy nhiên không đồng ý cho các doanh nghiệp nước ngoài được mua trực tiếp cà phê từ nông dân. Điều này vừa nâng cao được tính cạnh tranh trong xuất khẩu cà phê lại vừa không để các doanh nghiệp trong nước bị lép vế so với doanh nghiệp nước ngoài.
Ngoài ra, những năm qua Chính phủ cũng có nhiều quan tâm trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu cà phê. Tháng 9/2003 Chính phủ đã cho phép xây dựng chợ giao dịch cà phê tại thành phố Buôn Ma Thuột. Bên cạnh đó Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam còn có dự án xây dựng trung tâm mua bán cà phê của Việt Nam được triển khai trong năm 2005. Việc này đã giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh cà phê xuất khẩu có điều kiện thu mua cà phê từ người trồng cà phê, tạo ra được một kênh phân phối tốt cho việc thúc đẩy xuất khẩu cà phê. Chính phủ Việt Nam tiếp tục khuyến khích đầu tư sâu vào chế biến như các nhà máy chế biến cà phê, đa dạng hóa các nguồn vốn để phục vụ chương trình tái canh cây cà phê, không tăng ồ ạt diện tích trồng. Khuyến khích đầu tư kỹ thuật phát triển cà phê sạch theo quy định GAP, 4C, cân bằng cà phê thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển nhà máy sấy khô và chế biến ướt, xây dựng các thương hiệu cà phê Việt Nam trong nước và quốc tế. Chúng ta cũng đang đàm phán tiến tới ký kết hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU, với kỳ vọng cắt giảm thuế quan, giảm các hàng rào phi thuế sẽ thúc đẩy xuất khẩu cà phê hơn nữa vào thị trường này. Gần đây, cà phê đã chính thức được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đưa vào mặt hàng xuất khẩu có điều kiện với mục đích để dễ quản lý đối với các doanh nghiệp kinh doanh và nâng cao chất lượng, hình ảnh cà phê Việt Nam.
Tóm lại, những chính sách của Nhà nước cũng như ngành cà phê đều nhằm mục đích đẩy mạnh xuất khẩu, tạo thương hiệu cho cà phê Việt Nam trên thế giới, mang lại giá trị lớn cho đất nước và là tiền đề để phát triển bền vững ngành cà phê Việt Nam.
2.2.3 Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu cà phê trên thị trường EU
2.2.3.1. Những ưu điểm, thành quả cần phát huy
Ngành cà phê đã và đang khẳng định được vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp nước nhà. Chỉ đứng vị trí số 2 sau gạo trong xuất khẩu nông sản, mỗi năm xuất khẩu cà phê đóng góp hàng triệu đô la cho đất nước. Giá trị xuất khẩu cà phê Việt Nam tăng gấp gần 6 lần từ khoảng 100 triệu USD đầu những năm 1990 lên khoảng 571 triệu USD vào năm 2003 (nguồn: TradeMap), đến 2010 đã đạt gần 2 triệu USD. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lớn thứ hai thế giới về khối lượng (sau Brazil) và đứng thứ ba thế giới về giá trị (sau Brazil và Columbia). Đối với cà phê Robusta, Việt Nam là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Xuất khẩu cà phê vào EU thời gian qua đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này khá ổn định, trung bình hơn 800 triệu USD mỗi năm. Chúng ta đang dẫn đầu về xuất khẩu cà phê vối (Robusta) vào EU và đứng thứ 3 trong top các nước xuất khẩu cà phê nhiều nhất vào thị trường này. Ngoài việc giữ vững các thị trường truyền thống như Đức, Tây Ban Nha, vương quốc Anh, Việt Nam đã và đang phát triền ra các thị trường mới giàu tiềm năng trong EU như Bỉ, Thụy Sĩ. Chất lượng cà phê của ta tuy vẫn chưa thể sánh ngang với các đối thủ Braxin, Colombia song đang ngày một nâng cao, đáp ứng được yêu cầu, tiêu chuẩn khắt khe của EU. Việt Nam cũng đang dần tăng cường tỷ lệ cà phê chè (Arabica) cũng như tỷ lệ cà phê đã qua chế biến vào EU để tăng giá trị.
Để đạt được những kết quả khả quan đó không thể không nhắc đến những chính sách hỗ trợ của Nhà nước cũng như ngành cà phê tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân, các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Các chính sách hỗ trợ về tín dụng đã tạo nguồn vốn kịp thời cho người nông dân và doanh nghiệp yên tâm sản xuất, kinh doanh và vẫn đứng vững trước biến động của thị trường. Các chính sách thuế, khuyến khích đầu tư công nghệ vào chế biến, áp dụng tiêu chuẩn thế giới đã tạo ra giá trị cao cho mặt hàng cà phê và thúc đẩy xuất khẩu ngày càng lớn. Với những điều trên, xuất khẩu cà phê vào EU hứa hẹn sẽ có bước tiến mới trong tương lai.
2.2.3.2 Những tồn tại cần khắc phục
Tuy có nhiều kết quả tốt nhưng xuất khẩu cà phê vào EU vẫn có những yếu kém sau chủ yếu sau :
Thứ nhất là về giá : giá xuất cà phê tuy vận động theo xu thế thị trường nhưng vẫn thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh do chất lượng thua kém. Mặt khác công tác dự báo giá của Việt Nam còn yếu, chưa theo kịp thị trường khiến nhiều thời điểm các doanh nghiệp bị thua lỗ không nắm bắt được thời cơ.
Thứ hai là về chất lượng : do công nghệ thu hoạch bảo quản còn kém nên chất lượng cà phê xuất khẩu chưa cao. Một nguyên nhân nữa là sản xuất cà phê cũng chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết, sâu bệnh.
Thứ ba về chủng loại : cà phê Việt Nam xuất khẩu vào EU chủ yếu là cà phê vối có giá trị thấp, lượng cà phê chè rất ít. Ngoài ra cà phê của ta xuất khẩu vào EU chủ yếu là cà phê nhân, cà phê thành phẩm, tỷ lệ cà phê hòa tan còn ít, vì ta chưa đáp ứng được các quy định của EU về tỉ lệ trong cà phê hoà tan.
Thứ tư về thương hiệu: Việt Nam chỉ có ít thương hiệu cà phê tại EU, chưa thể so sánh với các thương hiệu lớn trên thế giới. Mặt khác, chúng ta còn bị mất thương hiệu. Công ty ITM ENTREPRISES (Pháp) đã đăng kí tên Dak Lak, tên của tỉnh trồng nhiều cà phê nhất Việt Nam, đã được cơ quan sở hữu trí tuệ Pháp cấp độc quyền sử dụng cho sản phẩm cà phê của họ từ tháng 9/1997. Thương hiệu Buôn Ma Thuật cũng bị công ty Guangzhou Buon Ma Thuat coffee Co.,Ltd của Trung Quốc đăng kí độc quyền. Ngoài ra, mẫu mã bao bì còn đơn giản chưa hấp dẫn người tiêu dùng EU.
Vì vậy, nhiệm vụ của Nhà nước, của ngành cà phê và cả các doanh nghiệp là phải có biện pháp nâng cao giá trị, hình ảnh cho cà phê Việt Nam nếu muốn phát triển lâu dài tại thị trường EU.
Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê vào thị trường EU
3.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển cà phê Việt Nam trên thị trường EU
EU đã, đang và vẫn sẽ là thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam trong thời gian tới. Vì vậy cần có định hướng phát triển rõ ràng cho mặt hàng cà phê trên các phương diện :
Về sản phẩm : tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm không ngừng để thỏa mãn yêu cầu khắt khe của thị trường. Phải thực hiện ngay từ khâu sản xuất : chọn giống, kỹ thuật canh tác, kĩ thuật thu hoạch, bảo quản, chế biến. Lựa chọn và lai tạo những giống có năng suất cao, chống chịu được sâu bệnh, phù hợp điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu địa phương (như cà phê chè ở miền núi phía Bắc, Trung Bộ, cà phê vối ở các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ), tăng cường và đảm bảo hợp lý tỷ lệ cà phê chè so với cà phê vối, mục tiêu tăng tỷ lệ xuât khẩu cà phê chè lên thành 10-15%. Trong kỹ thuật canh tác, thâm canh trên diện tích hiện có, thực hiện thay thế cây trồng già cỗi, năng suất thấp, sử dụng hợp lý phân bón, hóa chất để đảm bảo tiêu chuẩn. Chỉ thu hoạch khi tỷ lệ cà phê đã chín từ 95% trở lên. Bảo quản đúng quy trình, không để cà phê xanh lẫn cà phê chín, phơi khô, sấy đảm bảo độ ẩm của cà phê dưới 12,5%. Từng bước nâng tỷ lệ áp dụng sản xuất bền vững, sản xuất cà phê có chứng chỉ đạt 50% diện tích vào năm 2015 và 80% vào năm 2020. Tăng cường đầu tư chế biến cà phê, rang, xay, công nghệ chế biến ướt để đa dạng hóa sản phẩm, hạn chế xuất thô, mục tiêu tỷ lệ cà phê qua chế biến là 20%. Áp dụng tự động hoá dây chuyền sản xuất và giám sát chất lượng sản phẩm, hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO: 9000, HACCP, ISO: 14000. Đẩy mạnh xuất khẩu cà phê chè (Arabica) có giá trị cao. Mặt khác cần chú ý tăng cường đầu tư phát triển, bảo vệ thương hiệu cà phê Việt tại thị trường EU để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Về thị trường : giữ vững thị trường truyền thống, đặc biệt là thị trường Đức. tăng cường đầu tư vào thị trường giàu tiềm năng là Bỉ, mở rộng thâm nhập thị trường mới trong EU để tăng kim ngạch xuất khẩu. Đảm bảo ổn định vị trí số 3 về xuất khẩu cà phê vào EU và vị trí số 1 về cà phê vối. Phấn đấu chiếm khoảng 20% thị phần cà phê xuất khẩu tại EU. Phải chú trọng đầu tư vào công tác nghiên cứu, dự báo thị trường về cung, cầu, giá cả…bám sát những biến động thị trường. Tăng cường xúc tiến thương mại và các hoạt động marketing.
3.2. Một số kiến nghị và giải pháp
Đối với chính phủ, bộ công thương
Chính phủ, bộ công thương có vai trò định hướng, quy hoạch, quản lý đối với sản xuất và xuất khẩu cà phê. Do vậy, đổi mới và hoàn thiện công tác quản lí nhà nước và các chính sách, giải pháp về tổ chức chỉ đạo đối với ngành hàng là một trong những giải pháp quan trọng trong nâng cao giá trị gia tăng mặt hàng cà phê xuất khẩu nói chung và xuất khẩu vào EU nói riêng. Chính phủ cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ nông dân, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tổ chức sản xuất lớn, an toàn, bền vững, như:
Khuyến khích các hộ nông dân trồng cà phê liên kết sản xuất dưới các hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã để sản xuất, sơ chế và kinh doanh. Phối hợp với các địa phương giám sát việc trồng mới cà phê, đầu tư có trọng điểm, không dàn trải gây lãng phí. Những diện tích cà phê không theo quy hoạch sẽ không được hưởng các quyền lợi, chính sách từ phía Nhà nước, xử phạt nghiêm minh những trường hợp vi phạm. Khuyến khích tăng diện tích cà phê chè phù hợp thị hiếu thị trường EU.
Có chính sách khuyến khích đầu tư phát triển khoa học công nghệ hướng đến xuất khẩu thành phẩm, nâng cao giá trị của cà phê xuất khẩu. Tăng đầu tư ngân sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học để chọn tạo ra các giống cà phê có năng suất, chất lượng ổn định. Đầu tư chế tạo, xây dựng hệ thống chế biến cà phê có đặc tính kỹ thuật tương đương với các thiết bị tiên tiến của thế giới. Ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với quốc tế và thị trường EU để các doanh nghiệp thực hiện.Thông qua các chương trình khuyến nông, đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi để làm chủ công nghệ, hướng dẫn người dân kỹ thuật sản xuất, thu hoạch, bảo quản.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến khích xuất khẩu thông qua Hiệp hội ngành hàng. Chuyển từ chính sách can thiệp thị trường sang hỗ trợ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê trên thị trường như: thành lập các trung tâm giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài, tham gia hội chợ, triển lãm, quảng bá sản phẩm tại EU. Tạo điều kiện thuận lợi để hình thành hệ thống giao dịch, ký, gửi cà phê đảm bảo đầy đủ tính pháp lý, công khai, minh bạch. Có chính sách phát triển hệ thống thông tin giúp người dân và doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp với thị trường EU.
Tiếp tục duy trì, phát triển các chính sách tài chính, tín dụng hỗ trợ người dân và doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, hỗ trợ kinh phí lập dự án phát triển hạ tầng thương mại đối với cà phê; thực hiện việc hỗ trợ doanh nghiệp được vay vốn tín dụng ưu đãi để xây dựng các sàn giao dịch, các trung tâm ký, gửi cà phê. Tăng cường nguồn vốn ngân sách cải tạo, nâng cấp và đầu tư giống mới. Xây dựng các chính sách ưu đãi (như vay vốn từ ngân hàng đầu tư phát triển, hoặc tham gia chương trình cơ khí trọng điểm) nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư thiết bị đồng bộ, hiện đại; khuyến khích người dân đầu tư máy móc, thiết bị, sân phơi xi măng phục vụ sơ chế - bảo quản bằng các hình thức hỗ trợ lãi suất hoặc hỗ trợ nguồn vốn vay từ Ngân hàng chính sách xã hội. Khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm, tín dụng phòng ngừa và hạn chế rủi ro.
Đối với hiệp hội cà phê-ca cao Việt Nam
Hiệp hội ngành cà phê cần tập trung vào công tác kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức hoạt động, củng cố và hoàn thiện để Hiệp hội thực sự là cầu nối giữa các doanh nghiệp, các hội viên và Nhà nước, cùng tham gia với cơ quan Nhà nước trong việc đưa ra các chủ trương chính sách, các văn bản pháp quy và hướng dẫn thi hành.
Hiệp hội hỗ trợ địa phương, doanh nghiệp xây dựng những thương hiệu mạnh cho mỗi loại sản phẩm. Làm tốt công tác tổ chức thông tin ngành hàng và xúc tiến thương mại vào EU để nâng cao hiệu quả và vai trò của Hiệp hội trong hoat động hỗ trợ các doanh nghiệp định hướng sản xuất, tìm kiếm thị trường… Tổ chức phổ biến các kiến thức mới về xúc tiến thương mại như khảo sát thị trường, xây dựng thương hiệu quốc gia, mở văn phòng đại diện, nâng cao năng lực phân tích và dự báo thị trường.
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế với các tổ chức, hiệp hội ngành nghề trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ hỗ trợ về tài chính, kĩ năng chuyên môn, công nghệ và kinh nghiệm hoạt động… Tập trung làm tốt chức năng là người đại diện, bảo vệ lợi ích của các hội viên trước các vụ kiện từ phía nhà nhập khẩu quốc tế.
Đối với các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất khẩu cà phê vào thị trường EU cần làm tốt những vấn đề sau:
Cần có sự hợp tác với người nông dân để hình thành hệ thống cung cấp nguyên liệu, chế biến và kinh doanh hoạt động đồng bộ, hiệu quả, tránh tình trạng làm ăn manh mún, tranh mua tranh bán và bị ép giá như hiện nay. Không những thế, các doanh nghiệp cũng cần liên kết với nhau xây dựng vùng nguyên liệu, đầu tư công nghệ chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, từ đó gia tăng vị thế, uy tín cho cà phê Việt Nam và cho bản thân các doanh nghiệp. Sự liên kết này cùng với việc tăng cường trao đổi thông tin sẽ giúp các doanh nghiệp thống nhất hơn trong thu mua và xuất khẩu cà phê, tránh bị lép vế trong hợp đồng xuất khẩu và sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài trong bối cảnh nước ta phải mở cửa thị trường do cam kết gia nhập WTO.
Các doanh nghiệp trong nước phải thay đổi phương thức kinh doanh, nên mua tạm trữ cà phê ngay từ đầu vụ để có lợi cho cả người sản xuất và nhà kinh doanh. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần chủ động về năng lực tài chính, có kế hoạch chủ động mua hàng vào để dự trữ, tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào ngân hàng và sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, sự phối kết hợp giữa ngân hàng và doanh nghiệp chặt chẽ cũng sẽ góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp có thêm tiềm lực tài chính để chủ động nguồn hàng. Ngoài ra cần tích cực tìm hiểu thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường kinh doanh để nắm bắt được cơ hội.
Cuối cùng và là yếu tố quan trọng không thể thiếu khi xuất khẩu cà phê vào EU là các doanh nghiệp phải quan tâm phát triển thương hiệu. Phải quan tâm đến vấn đề này ngay từ khi nghiên cứu thị trường, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua thực hiện nghiêm chỉnh tiêu chuẩn chất lượng, đa dạng, cải tiến mẫu mã và bao bì mới.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề án đã thấy được thực trạng sản xuất, xuất khẩu cà phê Việt Nam vào EU về kim ngạch, sản lượng, giá trị… trong những năm gần đây, các chính sách của nhà nước, của ngành. Từ đó cho thấy tuy xuất khẩu cà phê vào EU đã đạt được những kêt quả khả quan, song bên cạnh đó vẫn còn nhiều nhược điểm cần khắc phục như về chất lượng, chủng loại, thương hiệu.
Ngành cà phê đã và đang đóng góp giá trị rất lớn đất nước, và thị trường EU nói riêng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong hoạt động xuất khẩu cà phê của nước nhà. Chính bởi vậy, Nhà nước, các bộ ngành liên quan cần tiếp tục nghiên cứu thực hiện những chính sách hỗ trợ về vốn, công nghệ, tạo dựng thương hiệu… để thúc đẩy xuất khẩu cà phê vào thị trường này. Cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan từ trên xuống dưới, cùng các doanh nghiệp, hộ nông dân trồng cà phê để có thể đưa mặt hàng cà phê của Việt Nam lên một tầm cao mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Kinh Tế thương mại
Chủ biên GS-TS Hoàng Đức Thân
2. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại
Đồng chủ biên: PGS.TS Hoàng Minh Đường
PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc
3.Giáo trình Thương Mại quốc tế
Chủ biên TS Trần Văn Hòe
Niên giám thống kê 2010
Các trang web:
Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn
Tổng cục hải quan: www.customs.gov.vn
Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam: www.vicofa.org.vn
Cục xúc tiến thương mại:
Cổng thông tin điện tử - Bộ Nông nghiệp: www.agroviet.gov.vn
Trang thông tin thị trường:
Cùng số liệu, tin bài từ các trang báo điện tử …
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam vào thị trường EU.doc