Thuế thu nhập cá nhân - Lý luận và thực tiễn

MỞ ĐẦU Thuế là một công cụ quan trọng của Nhà nước, nó vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để sử dụng hiệu quả công cụ thuế, về cơ bản hệ thống chính sách thuế gồm có thuế gián thu và thuế trực thu. Thuế gián thu như thuế GTGT, thuế Tiêu thụ đặc biệt, thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu. Thuế trực thu như thuế Thu nhập cá nhân (TNCN), thuế Thu nhập doanh nghiệp. Theo thông lệ của các quốc gia, thuế trực thu sẽ chiếm tỷ trọng lớn, ngược lại, giảm dần thuế gián thu. Việt Nam đang bước vào hội nhập sâu, rộng với kinh tế quốc tế và tiến trình chuyển đổi dần cơ cấu tỷ trọng tăng dần của các sắc thuế trực thu đang là xu hướng tất yếu.Thuế TNCN cũng đóng một vai trò đáng kể trong nguồn thu ngân sách và là nghĩa vụ của tất cả những người lao động trên lãnh thổ Việt Nam. Thuế TNCN điều tiết thu nhập cá nhân, thể hiện rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được căn cứ trên các nguyên tắc: lợi ích, công bằng và khả năng nộp thuế. Trong thời gian qua cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế, thu nhập của các tầng lớp dân cư cũng tăng lên đáng kể, thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng. Đối tượng nộp thuế TNCN và hình thức thu nhập của các bộ phận dân cư và người lao động cũng đa dạng. Trong những năm tới, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010, các thị trường tài chính, tiền tệ, vốn, lao động sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Nền kinh tế sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh, có thêm nguồn thu nhập khác nhau. Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một số người nước ngoài làm ăn sinh sống tại Việt Nam và số người Việt Nam có thu nhập từ nước ngoài cũng tăng lên. Sự đa dạng và gia tăng thu nhập của các cá nhân trong xã hội sẽ làm cho khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng lớn. Với tình hình đó, ta có thể thấy thuế TNCN ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Mặc dù, thuế TNCN đã được đưa vào áp dụng ở Việt Nam từ năm 1991 với tên gọi “Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao”, song từ khi Chính phủ công bố dự thảo lần đầu cho đến khi công bố luật thuế TNCN đến nay thì vẫn còn những tranh cãi vướng mắc xung quanh vấn đề này. Vì thế em quyết định chọn đề tài : “ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ” với mong muốn góp ý kiến đánh gía nhằm hoàn thiện và đưa chính sách thuế đến gần với người dân và phát huy thật tốt vai trò của nó theo đúng định hướng mà Nhà nước đã đề ra. MỤC LỤC  LỜI MỞ ĐẦU Trang CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 1.1 Nguồn gốc ra đời thuế thu nhập cá nhân . 2 1.2 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân: 3 1.3 Nội dung cơ bản luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam . 5 1.3.1 Đối tượng nộp thuế . 5 1.3.2 Thu nhập chịu thuế 5 1.3.3 Thu nhập được miễn thuế 7 1.3.4 Giảm thuế - kỳ tính thuế 9 1.3.5 Căn cứ tính thuế 9 1.3.5.1 Đối với cá nhân cư trú 9 1.3.5.2 Đối với cá nhân không cư trú 15 1.3.6 Quản lý và hoàn thuế . 18 1.4 Mô hình thuế thu nhập cá nhân ở một số nước 18 1.4.1. Phần Lan. 19 1.4.2. Nhật Bản. 20 1.4.3. Hà Lan 23 1.4.4. Trung Quốc. . 26 CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THU THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO - CHUẨN BỊ ÁP DỤNG LUẬT THUẾ MỚI 2.1 Tình hình thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao giai đoạn 2000-200729 2.2 Chuẩn bị áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân mới . 31 2.2.1. Những mặt hạn chế về chính sách và biện pháp quản lý. . 31 2.2.2. Nguyên nhân ban hành luật thuế TNCN. . 33 2.2.3. Những điểm mới của luật thuế TNCN . 35 2.2.4. Thuận lợi cho ngành thuế và người nộp thuế . 38 2.2.5. Khó khăn cho ngành thuế và người nộp thuế 39 CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 3.1 Tình hình ngành thuế sau khi Việt Nam gia nhập WTO. . 41 3.2 Các kiến nghị . 45 3.3 Giải pháp 46 3.3.1. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý ngành thuế 46 3.3.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến đến người dân. .47 3.3.3. Những điểm mới của luật thuế TNCN . 49 3.3.4. Hạn chế sử dụng tiền mặt . 50 3.3.5. Đẩy mạnh việc kết hợp quản lý thuế TNCN . 51 3.3.6. Hoàn thiện phương pháp quản lý thu thuế 52 KẾT LUẬN . 55

pdf57 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7039 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thuế thu nhập cá nhân - Lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập của họ như thế thay vì họ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là 28% trên tổng mức thu nhập của họ thì có thể chuyển sang chịu thuế TNCN, như vậy việc chuyển đổi này sẽ có lợi cho người dân hơn khi họ được trừ phần khởi điểm chịu thuế. Như vậy mặc dù đã có nhiều sự thay đối tích cực trong chính sách thuế thu nhập cá nhân, nhưng vẫn còn đó một số vướng mắc cần được giải quyết trong thời gian sắp tới để tiến tới xây dựng một chính sách thuế hoàn thiện, hợp lý, phù hợp với tiêu chí “Góp phần thực hiện công bằng xã hội”. 2.2.2. Nguyên nhân ban hành luật thuế TNCN Ban hành luật thuế TNCN là cần thiết để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra: “Áp dụng thuế TNCN thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, đảm bảo công bằng xã hội và tạo động lực phát triển”. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ…Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Triển khai các nghị quyết của Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra 55 Đề tài nghiên cứu khoa học yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỉ trọng các nguồn thu trong nước cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỉ lệ thu từ thuế trực thu”. Ban hành luật thuế TNCN nhằm thực hiện công bằng xã hội, tăng cường kiểm tra, kiểm soát thu nhập và điều tiết, phân phối lại thu nhập, thu hẹp hợp lý sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Khác với thuế gián thu (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…) động viên thu nhập xã hội thông qua tiêu dùng của các tổ chức và cá nhân, khác với thuế thu nhập doanh nghiệp điều tiết thu nhập của doanh nghiệp, thuế TNCN động viên một phần thu nhập của cá nhân, thể hiện nghĩa vụ cụ thể của công dân đối với đất nước. Công dân được hưởng những thành quả của đất nước: cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật tự,…thì đồng thời có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Thuế TNCN được xây dựng trên nguyên tắc “công bằng” và “khả năng nộp thuế”, được thể hiện: người có thu nhập thấp thì chưa nộp thuế, người có thu nhập cao thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khác nhau thì mức nộp thuế cũng khác nhau. Thực hiện nộp thuế TNCN góp phần làm giảm hợp lý khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư. Chính vì vậy mà thuế TNCN đã được nhiều nước áp dụng từ rất sớm, ngay từ khi nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập của dân cư cũng chưa cao, điều kiện kiểm soát thu nhập còn hạn chế. Đến nay đã có trên 180 nước trên thế giới áp dụng loại thuế này. Ban hành luật thuế TNCN góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, việc động viên thu nhập của cá nhân vào ngân sách Nhà nước đang được thực hiện bởi 3 văn bản pháp luật thuế: thu nhập của cá nhân kinh doanh thực hiện theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập từ tiền lương, tiền công, trúng thưởng xổ số, chuyển giao công nghệ thực hiện theo quy định của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Việc thực hiện chính sách thuế như nói trên trong thời gian qua là tương đối phù hợp, nên đã phát huy tác dụng trong quản lý và thu ngân sách. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Trong những năm tới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được tiếp tục hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ (thị trường tài chính tiền tệ, thị trường vốn, chứng khoán, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ,…) tạo điều kiện cho các cá nhân có thêm nhiều nguồn thu nhập khác nhau ngoài nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công (đầu tư vào sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư tài chính, chuyển nhượng vốn, chứng khoán,…). Đồng thời cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, không chỉ có người Việt Nam mà người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống, có thu nhập tại Việt Nam cũng ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục áp dụng 3 loại thuế như hiện hành đối với thu nhập của cá nhân là không còn phù hợp:  Chưa đảm bảo sự công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế: cũng là thu nhập của cá nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh thì nộp thuế 28% trên tổng thu nhập; nhưng thu nhập từ tiền công; tiền công, tiền lương trên mức 5 triệu đồng/ tháng mới nộp thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần từ 10% đến 40%;  Nghĩa vụ thuế còn phân biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài (người Việt Nam nộp thuế cao hơn).  Chưa có chính sách thuế điều tiết thống nhất TNCN trong 1 văn bản pháp luật như thông lệ quốc tế. Do vậy, việc ban hành Luật thuế TNCN là để hoàn thiện một bước hệ thống chính sách thuế của nước ta, góp phần khuyến khích cá nhân tích cực lao động, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ổn định, bền vững. 2.2.3. Những điểm mới của Luật thuế TNCN so với chính sách thuế hiện đang áp dụng: Thuế TNCN có diện điều chỉnh rộng, áp dụng đối với hầu hết cá nhân có thu nhập. Thu nhập chịu thuế rất đa dạng, bao gồm: thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ kinh doanh; từ đầu tư gián tiếp như cho vay, tham gia mua cổ phần, góp vốn liên doanh; thu nhập từ chuyển nhượng vốn; chuyển nhượng bất động sản; thu nhập về trúng thưởng, từ tiền bản quyền; thu nhập từ quà biếu, quà tặng, thừa kế. Do đặc điểm của thuế TNCN có tính đến khả năng của người nộp thuế, hướng tới mục tiêu công bằng xã hội nên bên cạnh các loại thu nhập chịu thuế, luật thuế của nhiều nước có quy định cụ thể một số 55 Đề tài nghiên cứu khoa học khoản thu nhập không chịu thuế, một số khoản thu nhập được miễn thuế cùng với quy định về giảm trừ gia cảnh. Các nước châu Âu đã coi thuế TNCN là “Nữ hoàng”, ở Châu Á như Nhật Bản lại gọi thuế TNCN là “Vua” của các loại thuế. Sắc thuế này có vị trí quan trọng bậc nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trước hết, loại thuế này thường chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu của ngân sách Nhà nước như: thuế TNCN của Mỹ chiếm 56% tổng thu, Đức và Thụy Điển 45%, Anh 36%, Nhật 29%, Pháp 28%. Tỷ trọng thuế TNCN trong tổng thu ngân sách của một số nước châu á đang phát triển có thấp hơn như: Philippin 17%, Malaysia 15%, Thái Lan 13%. Thứ hai, cùng với khả năng huy động nguồn thu, thuế TNCN còn có chức năng quan trọng hơn, đó là điều tiết, phân phối lại thu nhập trong xã hội. Việc điều tiết được thiết kế phù hợp với khả năng đóng góp của cá nhân, trên cơ sở xem xét đến hoàn cảnh cụ thể của người nộp thuế: đảm bảo người có thu nhập thấp thì chưa nộp thuế, người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau, nhưng nếu có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn. Thứ ba, việc thiết kế biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với những thu nhập chủ yếu như thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công đảm bảo chính sách điều tiết được công bằng. Biểu thuế luỹ tiến từng phần được thiết kế theo mức độ tăng dần về thu nhập tính thuế và thuế suất, do đó số thuế phải nộp cũng luỹ tiến tăng theo, đảm bảo công bằng xã hội. Đây là đặc điểm riêng có của thuế TNCN, vì các sắc thuế khác đều qui định thuế suất toàn phần mà thuế suất này có nhược điểm điều tiết bình quân trong mọi trường hợp, không phân biệt giàu nghèo. Thứ tư, tính nhân văn của loại thuế này cũng được thể hiện ở chỗ: Ngoài việc áp dụng các mức giảm trừ gia cảnh, người nộp thuế còn được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế đối với những khoản chi đóng góp từ thiện, nhân đạo, hỗ trợ phát triển sự nghiệp giáo dục, khuyến khích người có thu nhập cùng chung sức với Nhà nước giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo. Ở Việt Nam, Luật Thuế TNCN được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21/11/2007 (số 04/2007/QH12), Chủ tịch nước đã có Lệnh công bố số 13/2007/L- CTN ngày 05/12/2007 và Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học  Luật thuế TNCN so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao có những điểm mới là:  Về đối tượng nộp thuế: Cá nhân kinh doanh đang nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, cá nhân có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và một số thu nhập theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành sẽ được điều chỉnh bởi Luật thuế TNCN. Ngoài ra, có bổ sung thêm đối tượng nộp thuế là cá nhân có thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ thừa kế, quà tặng.  Thu nhập chịu thuế được mở rộng đối với các khoản như: thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản trong đó có chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sử dụng đất ở; chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước. Một số khoảng thu nhập từ thừa kế, quà tặng; thu nhập từ trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino.  Thay việc áp dụng mức khởi điểm chịu thuế bằng quy định về giảm trừ gia cảnh và mở rộng áp dụng đối với cá nhân có thu nhập từ kinh doanh. Về giảm trừ gia cảnh, ngoài việc giảm trừ cho cá nhân người tạo ra thu nhập như quy định hiện hành, luật còn quy định mức giảm trừ cho những người phụ thuộc mà người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng. Đây là nội dung cơ bản nhất của Luật, thể hiện được tính công bằng, hợp lý trong điều tiết TNCN, khắc phục được nhược điểm bình quân cào bằng qua mức khởi điểm của thuế thu nhập cao  Người nộp thuế được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học, khoản đóng góp vào các tổ chức, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật, người già không có nơi nương tựa.  Xác định cụ thể về thu nhập tính thuế để đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu, đặc biệt là khi xác định thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của các cá nhân cư trú: Ngoài khoản giảm trừ gia cảnh, thu nhập này còn được trừ thêm các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm nghề nghiệp đối với một số ngành nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo để áp dụng theo biểu thuế lũy tiến từng phân. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Quy định riêng về thu nhập tính thuế, biểu thuế giữa các cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú. Thống nhất nghĩa vụ thuế giữa người Việt Nam và người nước ngoài. Về biểu thuế, có ba điểm mới là:  Áp dụng thống nhất biểu thuế lũy tiến từng phần, xóa bỏ được sự phân biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài (người Việt Nam đang nộp thuế cao hơn);  Thuế suất lũy tiến từng phần áp dụng đối với cá nhân có thu nhập về tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh là những thu nhập chính với mức thuế thấp hơn trước bảo đảm được tính thống nhất và bình đẳng trong động viên;  Thuế suất cao nhất từ 40% xuống còn 35%, thuế suất thấp nhất 10% giảm xuống còn 5%, vừa nhằm thực hiện chủ trương khoan sức dân, vừa tạo sự hợp lý để khuyến khích người nộp thuế tự nguyện chấp hành. 2.2.4. Thuận lợi cho ngành thuế và đối tượng nộp thuế khi áp dụng luật thuế TNCN: Nước ta đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi phải tuân thủ các cam kết và thông lệ quốc tế, luật pháp nói chung và pháp luật về thuế nói riêng cần phải được điều chỉnh để phù hợp với lộ trình thực hiện cam kết hội nhập.Việc ban hành Luật thuế TNCN là nhằm thực hiện các yêu cầu này. Hiện nay, việc áp dụng pháp lệnh thuế thu nhập cao ở nước ta đã và đang thực hiện tốt, đây chính là một trong những điều kiện quan trọng để áp dụng tốt luật thuế TNCN. Việc áp dụng luật thuế TNCN có một số thuận lợi cho ngành thuế và đối tượng nộp thuế. Cụ thể:  Đối với ngành thuế: Trước hết, việc áp dụng luật thuế TNCN làm tăng dần tỷ trọng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước (do diện chịu thuế được mở rộng) Làm cho hệ thống thuế Việt Nam dần dần đạt được tiêu chuẩn thuế của các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước thành viên WTO. Tạo được sự công bằng không phân biệt đối xử giữa người bản xứ và người nước ngoài. Không cần phải tổ chức 2 bộ phận, hai biểu thuế phân biệt để thu cho từng đối tượng. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Cách tính toán đơn giản, gọn nhẹ vì không phân biệt người trong nước hay người nước ngoài, chỉ xét có định cư hay không.  Đối với đối tượng nộp thuế: Việc nộp thuế TNCN của cá nhân lợi nhiều so với thuế TNC Thuế suất áp dụng thấp (từ 0% đến 35%) hơn so với thuế TNC (từ 0% đến 40%), ngoài ra phần tiền nộp thuế cũng tương đối thấp hơn so với thuế TNC do có tính giảm trừ gia cảnh. Ví dụ: Giả sử người có thu nhập là 6 triệu đồng, sống độc thân, không có người phụ thuộc. Theo pháp lệnh thuế TNC số tiền thuế phải nộp là: 6trđ x 10%= 600.000đ Theo luật thuế TNCN, do được tính giảm trừ gia cảnh 4trđ nên người này phải nộp thuế là (6trđ -4trđ) x 5% = 100.000đ Nếu người này phải nuôi cha mẹ già, khi đó ngoài giảm trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế là 4trđ, người này còn được giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc bao gồm cha và mẹ là 1,6trđ x 2 = 3,2 trđ. Tổng số tiền được giảm trừ là 4trđ + 3,2trđ = 7,2trđ. Người này không phải nộp thuế TNCN Mức điều tiết thuế thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực, ngoài việc phù hợp với khả năng và mặt bằng thu nhập của nước ta, còn có ý nghĩa tạo điều kiện hạ thấp chi phí về lao động, tạo thuận lợi trong kinh doanh, góp phần làm cho môi trường đầu tư nước ta thêm hấp dẫn Không phân biệt người nước ngoài, người Việt Nam tạo tính công bằng, không phân biệt đối xử, thu hút người nước ngoài làm việc tại Việt Nam 2.2.5. Khó khăn cho ngành thuế và đối tượng nộp thuế khi áp dụng luật thuế TNCN:  Đối với ngành thuế: Thuế là công cụ để tạo ra sự công bằng, thể hiện năng lực quản lý của Nhà nước. Luật Thuế TNCN cũng phải đạt yêu cầu trên, tức là phải đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Muốn vậy phải làm tốt việc xác định thu nhập chịu thuế và giảm trừ gia 55 Đề tài nghiên cứu khoa học cảnh đảm bảo người có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp. Theo luật thuế thì diện chịu thuế cũng như đối tượng nộp thuế sẽ được mở rộng, mức tính chịu thuế tăng hơn và các hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh công thương đang thuộc diện điều chỉnh luật thuế thu nhập doanh nghiệp nay chuyển sang chịu thuế TNCN. Bộ máy thuế hiện nay chủ yếu chỉ quản lý thuế các doanh nghiệp và các đối tượng khác đã quá nhiều. Theo tính toán của cơ quan thuế nếu thực thi luật này vào năm 2009 sẽ có khoảng 2,5 đến 3 triệu người thuộc diện nộp thuế TNCN. Với hàng loạt các công việc như hướng dẫn kê khai, cấp mã số thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, thanh kiểm tra... sẽ rất khó khăn để ngành thuế đủ sức đảm trách tốt việc quản lý và hành thu thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặt khác, ở nước ta hiện nay, khu vực kinh doanh nhỏ và hành nghề tự do rất lớn, thói quen không sử dụng tài khoản cá nhân, thẻ thanh toán, việc chi trả lương, nhận thù lao bằng tiền mặt, mua bán trao tay trong nền kinh tế còn phổ biến, những điều kiện theo dõi và kiểm soát TNCN còn hạn chế, việc xác định TNCN chủ yếu trông chờ vào sự tự giác khai báo của cá nhân có thu nhập.  Đối với đối tượng nộp thuế: Do không kiểm soát được nguồn thu nhập của đối tượng nộp thuế, nên khi áp dụng luật thuế TNCN thì những công chức có thu nhập cao sẽ chịu thiệt so với các thành phần kinh tế khác. Điều đó dẫn đến việc người dân lo ngại khi phải nộp thuế. Về vấn đề giảm trừ gia cảnh, xét về mặt lý thuyết là tốt, tuy nhiên để có thể hiểu rõ các quy định này thì tương đối phức tạp và chưa phù hợp với điều kiện hiện tại của xã hội Việt Nam. Cách thức tuyên truyền về Luật thuế TNCN thì lại chưa phù hợp. Điều này thể hiện ở chỗ sử dụng quá nhiều những thuật ngữ chuyên môn sâu mà đa số dân chúng không hiểu được. Thậm chí, các phương tiện truyền thông khi giới thiệu về sắc thuế này còn dùng các thuật ngữ “Chiết trừ gia cảnh”, “Biểu thuế luỹ tiến từng phần”, “khấu trừ tại nguồn”... Hệ thống thuế nên xây dựng chặt chẽ, đồng bộ nhưng phải đảm bảo tính đơn giản để mọi người đều có thể thực hiện được. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 3.1. Tình hình ngành thuế sau khi Việt Nam gia nhập WTO: Sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đã phải tuân thủ các cam kết và thông lệ quốc tế nói chung và pháp luật thuế nói riêng để phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết hội nhập (cắt giảm thuế suất với hầu hết hàng hóa nhập khẩu, giảm trợ cấp hàng xuất khẩu…). Cũng chính những cam kết khi gia nhập WTO nên đã có không ít những quan ngại cho rằng số thu NSNN của Việt Nam sẽ giảm do chúng ta phải cắt giảm thuế suất nhập khẩu theo cam kết với tổ chức thương mại thế giới (số dòng thuế đã công bố cắt giảm là 1.812 với mức thuế suất giảm bình quân 14,5%). Thêm vào đó, hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài sẽ có mức giá thấp hơn trước đây khiến thị phần của hàng hóa sản xuất trong nước bị thu hẹp, làm giảm số thu thuế nội địa. Vậy liệu những quan ngại đó có trở thành hiện thực không, chúng ta hãy nhìn lại những kết quả đã đạt được của ngành thuế trong năm 2007. Năm 2007 với ý nghĩa là năm thứ hai triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, năm trọng tâm thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế, công tác thuế của Đảng và Nhà nước đã đạt được những thành tựu quan trọng. Một là, Năm 2007, bên cạnh những thuận lợi như: kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ cao hơn năm trước; cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; thị trường bất động sản sau một thời gian trì trệ đã hồi phục và đang phát triển rất năng động… thì cũng xuất hiện những khó khăn thách thức mới do thiên tai, dịch bệnh xảy ra thường xuyên, liên tục trong năm, tại nhiều vùng trong cả nước; tình hình giá cả nhiều hàng hoá vật tư trên thế giới tăng cao, gây ảnh hưởng lớn đến SXKD và đời sống của nhân dân. Trong khi các tổ chức kinh tế của Nhà nước đang trong quá trình chuyển đổi sắp xếp lại, thì các doanh nghiệp trong nước, sau một năm Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO đang phải đối mặt với thách thức cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ hơn, cả với trong nước và quốc tế, trong đó, số doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả ngày càng nhiều, làm giảm mức đóng góp cho ngân sách. Trong bối cảnh thuận lợi và khó khăn đan xen như vậy, Chính phủ, các ngành, các cấp đã có nhiều giải pháp quyết liệt để tháo gỡ mọi khó khăn vướng mắc, tạo nhiều điều kiện cho hoạt động SXKD phát triển; tạo ra môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi và hấp 55 Đề tài nghiên cứu khoa học dẫn. Cộng đồng các doanh nghiệp, doanh nhân, bằng những nỗ lực cao độ đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức để giành chiến thắng trong cạnh tranh; đồng thời ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật thuế ngày càng tiến bộ hơn. Trong hệ thống cơ quan thuế các cấp đã tiến hành đồng bộ các giải pháp: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ, tư vấn dưới mọi hình thức để nâng cao sự hiểu biết và tính tuân thủ, tự giác cho người nộp thuế; Tăng cường phối hợp với các ngành có liên quan như Tài nguyên Môi trường, Kế hoạch đầu tư, các cơ quan pháp luật… để nâng cao hiệu quả, chất lượng quản lý thuế; Tiến hành đồng bộ các biện pháp từ đăng ký thuế, giám sát kê khai nộp thuế, đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra, xử lý các vi phạm, đồng thời triển khai quyết liệt các biện pháp quản lý, cưỡng chế, thu hồi nợ đọng… Nhờ đó, kết quả thu nội địa (trừ dầu) năm 2007 đã hoàn thành vượt mức dự toán do Nhà nước giao và đạt mức tăng trưởng khá. Tổng thu nội địa ước đạt 161.600 tỷ đồng, vượt 6,5% dự toán pháp lệnh, tăng trưởng 23% so với năm 2006. Với con số này, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN đã chiếm 55,1%, tăng 4,2% so với năm trước. Số thu từ khu vực SXKD đã đạt 112.027 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 69,3% tổng thu NSNN. Đặc biệt, số thu từ khu vực doanh nghiệp dân doanh đạt 30.335 tỷ đồng, tăng 38,6% so với cùng kỳ, năm 2007 là năm đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay. Thuế TNCN, một khoản thu khó khăn và phức tạp vì liên quan trực tiếp đến các cá nhân trong xã hội nhưng cũng đã đạt 7.105 tỷ đồng, vượt 16,1% dự toán pháp lệnh, tăng 37,1% so cùng kỳ. Toàn ngành, có 62/64 địa phương hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán Nhà nước giao, trong đó có 36 địa phương hoàn thành dự toán phấn đấu và tăng trưởng thu so với cùng kỳ. Quy mô thu ngân sách tại các địa phương ngày càng tăng trưởng theo hướng tích cực, trong đó 11 tỉnh, TP có số thu 3.000 tỷ đồng; 21 địa phương có số thu từ 1.000 tỷ đến dưới 3000 tỷ đồng. Đặc biệt, TP Hà Nội và TP HCM là hai địa phương có số thu lớn nhất cả nước cũng đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán phấn đấu cao của ngành, trong đó, Hà Nội ước đạt 35.301,5 tỷ đồng, vượt 6,25 dự toán Nhà nước giao, vượt 3,1% dự toán phấn đấu cao và tăng trưởng 25,2% so cùng kỳ. TP HCM thu đạt 42.125 tỷ đồng, vượt 2,6% dự toán Nhà nước giao, hoàn thành dự toán phấn đấu cao và tăng trưởng 27%. Hai là, Kỳ họp thứ II Quốc Hội khoá XII đã thông qua Luật Thuế TNCN, tạo khuôn khổ pháp lý để kiểm tra, kiểm soát thu nhập và điều tiết, phân phối lại thu nhập 55 Đề tài nghiên cứu khoa học dân cư, góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, thực hiện công bằng xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập và ổn định nguồn thu cho NSNN. Ba là, Luật Quản lý thuế được hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện từ 1/7/2007 là cơ hội lớn để nâng cao vai trò công tác thuế của Đảng và Nhà nước lên bước phát triển mới. Luật đã quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người nộp thuế, cơ quan thuế, cán bộ thuế và tất cả các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện pháp luật thuế. Thủ tục hành chính thuế đã quy định đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và tạo thuận lợi hơn cho người nộp thuế. Bốn là, Toàn ngành đã thực hiện chuyển đổi tổ chức bộ máy cơ quan thuế các cấp theo mô hình chức năng, nhằm nâng cao tính chuyên sâu, chuyên nghiệp công tác quản lý thuế, phù hợp với thông lệ và yêu cầu hội nhập quốc tế; theo đó đã giảm bớt 2.756 đầu mối; thực hiện điều động, luân phiên, luân chuyển công việc định kỳ đối với hơn 19.000 CBCC để kịp thời kiện toàn bộ máy theo mô hình mới. Năm là, Trong năm, bằng việc đầu tư trang bị 1.475 máy chủ, 35.309 máy tính các loại; phát triển thêm 04 phần mềm ứng dụng mới và nâng cấp 15 chương trình ứng dụng, ngành thuế đã đẩy mạnh đầu tư phát triển ứng dụng công nghệ tin học vào tất cả các khâu quản lý thuế để giải quyết công việc nhanh chóng, chính xác, kịp thời phục vụ nhanh nhu cầu của người nộp thuế và nâng cao hiệu suất, hiệu quả quản lý thuế. Sáu là, Đã triển khai áp dụng cơ chế tự khai - tự nộp trên phạm vi toàn quốc, tạo cơ sở căn bản, vững chắc để hiện đại hoá phương thức quản lý thuế, theo đó ý thức tuân thủ của người nộp thuế được đề cao, đồng thời chất lượng, hiệu quả công tác thuế cũng được tăng cường. Bảy là, Đã triển khai cơ chế “một cửa” tại bộ phận hỗ trợ của cơ quan thuế để giải quyết các thủ tục hành chính thuế, tạo thuận lợi nhất cho người nộp thuế, đồng thời nâng cao chất lượng thực thi công vụ của CBCC thuế. Tám là, Là năm công tác đào tạo CBCC thuế có nhiều bức phá với tốc độ nhanh và phạm vi rộng, trong đó điểm nổi bật là đã chú trọng đào tạo các kỹ năng phục vụ mô hình quản lý theo chức năng, đào tạo nâng cao tính chuyên sâu, chuyên nghiệp của cán bộ thuế. Trong năm đã có 60.787 lượt cán bộ thuế được tập huấn đào tạo, trong đó, số được đào tạo các kỹ năng quản lý thuế cả trong và ngoài nước là 48.803 lượt cán bộ. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Chín là, Được ghi nhận là năm đạt được tốc độ đầu tư phát triển tin học lớn chưa từng có, trong năm 2007, ngành thuế đã đầu tư khoảng 600 tỷ đồng để trang bị 1475 máy chủ, 35.309 máy tính các loại (bình quân mỗi cán bộ nghiệp vụ có 01 máy tính, 84% cán bộ thuế có máy tính làm việc); đảm bảo đường truyền kết nối 24/24 giờ, thông suốt đến hơn 600 chi cục thuế trong cả nước; phát triển thêm 04 phần mềm ứng dụng mới và nâng cấp 15 chương trình ứng dụng đã có... Nhờ đó đã nâng cao hiệu suất, hiệu quả quản lý thuế. Cũng trong năm này, toàn ngành đã tập trung cải tạo, nâng cấp hệ thống công sở ngành thuế, với 554 công trình xây dựng mới và cải tạo sửa chữa lớn, đã triển khai 338 công trình, hoàn thành 212 công trình chuyển tiếp từ các năm trước sang năm 2007, khởi công mới 70 công trình, duyệt 56 dự án đầu tư và báo cáo kinh tế kỹ thuật để khởi công mới trong năm 2008. Mười là, Trong nội bộ ngành thuế đã đẩy mạnh phân cấp quản lý về đầu tư tài sản, kinh phí, quản lý xây dựng để tăng cường trách nhiệm và tạo tính chủ động cho thủ trưởng cơ quan thuế các cấp, đồng thời giảm bớt thủ tục hành chính trong công tác đầu tư XDCB. Như vậy bên cạnh một số trở ngại khi gia nhập WTO, việc thực hiện các cam kết với WTO sẽ có những yếu tố kích thích tăng trưởng kinh tế như: thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển, gia tăng đầu tư nước ngoài, thị trường xuất khẩu được mở rộng do được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu thấp của các nước thành viên WTO… Như vậy, gia nhập WTO sẽ tạo tiền đề tăng thu nội địa. Tất nhiên, để tiền đề này có thể diễn ra theo đúng kịch bản mong muốn, đòi hỏi sự nỗ lực thực sự của Nhà nước và của chính các doanh nghiệp với một chiến lược phát triển đúng đắn. Chúng ta hoàn toàn có thể mong đợi một "kịch bản" thời WTO như Trung Quốc đã từng trải qua (sau 5 năm gia nhập WTO, nền kinh tế Trung Quốc liên tục tăng trưởng với tốc độ hai con số, giúp nước này trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới). Cũng cần phải nói thêm rằng, tăng trưởng kinh tế chỉ tạo ra khả năng tăng thu NSNN, việc biến khả năng đó thành hiện thực còn phụ thuộc vào những cố gắng trong tổ chức quản lý thu, chống thất thu và trốn lậu thuế của ngành Thuế và ngành Hải quan. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học 3.2. Các kiến nghị Việc xây dựng và ban hành Luật Thuế TNCN là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, vì nó trực tiếp tác động đến đời sống hàng ngày của người dân, nhất là trong khi mức thu nhập của đại đa số người dân còn rất thấp. Để có thể thực hiện tốt Luật này sau khi đã được ban hành nên chia thành các giai đoạn 3.2.1. Giai đoạn thứ nhất: Giai đọan chuẩn bị. Giai đoạn này kéo dài khoảng 3 năm kể từ khi ban hành luật đến khi đưa vào áp dụng chính thức. Mục tiêu của giai đoạn này là chuẩn bị các điều kiện xã hội, điều kiện về kỹ thuật và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến thuế thu nhập cá nhân. Khi có những loại thu nhập mới thì tùy theo mức độ, nhà nước dùng các văn bản dưới luật để điều chỉnh và thu thuế thu nhập cá nhân. Mặc dù tận thu là quan trọng, nhưng không phải là mục tiêu hàng đầu, mà tạo nguồn thu và nuôi dưỡng nguồn thu mới là nhiệm vụ cơ bản. 3.2.2. Giai đoạn 2: Giai đoạn thử nghiệm. Giai đoạn này kéo dài khoảng 5-7 năm kể từ khi đưa luật vào áp dụng chính thức. Sau khi đã có hệ thống pháp luật về thuế thu nhập cá nhân hoàn chỉnh, hạ tầng cơ sở đã được nâng cấp và đội ngũ cán bộ quản lý thuế đã được chuẩn bị, Luật thuế TNCN được đưa vào áp dụng thử nghiệm với đầy đủ các nội dung và hạng mục, duy chỉ có biểu thuế để ở mức vừa phải vừa để xã hội làm quen với phương thức mới, với nội dung của luật và hình thành ý thức trách nhiệm trong việc đóng thuế TNCN, đồng thời cũng là để nuôi dưỡng nguồn thu và có những điều chỉnh cần thiết về khuôn khổ pháp luật xuất phát từ nhu cầu thực tiễn. 3.2.3. Giai đoạn 3: Giải đoạn áp dụng. Đây là giai đoạn tiếp theo, giai đoạn đưa vào áp dụng chính thức với đầy đủ ý nghĩa và nhiệm vụ của nó. Như vậy, giai đoạn 3 được bắt đầu sau khi giới thiệu Luật được 10 năm, kinh tế đất nước chắc chắn đã có nhiều đổi thay; hệ thống pháp luật đã cơ bản được hoàn thiện; nhận thức và ý thức về trách nhiệm đóng thuế của người dân đã nâng lên; đặc biệt, thu nhập của người dân đã có những thay đổi đáng kể. Lúc này là lúc 55 Đề tài nghiên cứu khoa học chín muồi để chúng ta có đủ điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội để thu đúng, thu đủ thuế thu nhập cá nhân. Thế giới mất cả hàng trăm năm, nên chúng ta cũng không thể nóng vội được. 3.3. Giải pháp 3.3.1. Hoàn thiện bộ máy tổ chức ngành thuế Khi luật thuế TNCN ra đời, diện chịu thuế cũng như đối tượng nộp thuế sẽ được mở rộng trong khi đó bộ máy thuế hiện nay chủ yếu quản lý thuế các doanh nghiệp và các đối tượng khác đã quá nhiều. Chính vì vậy cần phải xúc tiến việc hoàn thiện bộ máy tổ chức ngành thuế nhằm đáp ứng việc thu đúng, thu đủ nguồn thu NSNN, tạo công bằng cho mọi đối tượng nộp thuế. Một số biện pháp để hoàn thiện bộ máy tổ chức ngành thuế đó là:  Đẩy mạnh công tác nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ quản lý và thu thuế: thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, thi kiến thức chuyên môn nhằm nâng cao tay nghề. Nền kinh tế trong những năm tới đây sẽ phát triển với tốc độ cao theo hướng hội nhập, toàn cầu hóa và chịu sự ảnh hưởng mạnh của sự phát triển của khoa học - công nghệ của thế giới, đòi hỏi cán bộ ngành thuế cũng phải có sự thay đổi để phù hợp với tiến trình hội nhập của đất nước. Một trong những vấn đề trước mắt là phổ cập, tin học hóa tối đa cho tất cả các cán bộ công nhân viên chức ngành thuế. Thường xuyên theo dõi, đánh giá năng lực cán bộ ngành thuế nhằm phát hiện những cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành, phát triển phát triển đội ngũ công chức ngành thuế có phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp tốt, có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu và chuyên nghiệp.  Hiện nay thái độ và phong cách ứng xử của một bộ phận thuế chưa thật tận tụy, công tâm, khách quan, văn minh, lịch sự, chưa coi đối tượng nộp thuế là khách hàng quan trọng nhất để nâng cao chất lượng phục vụ, chưa trở thành người bạn đồng hành của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện các luật thuế và chưa thực sự được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin yêu, thậm chí còn có biểu hiện thiếu tin thần trách nhiệm, vụ lợi, thông đồng với đối tượng nộp thuế hoặc gây phiền hà, sách nhiễu các đối tượng nộp thuế, vừa làm thất thu cho NSNN, vừa gây tốn kém và bức xúc cho một số đối tượng nộp thuế. Chính vì vậy cần tăng cường hơn nữa các biện pháp thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật các cán bộ 55 Đề tài nghiên cứu khoa học có hành vi nhũng nhiễu hay cố tình làm khó cho đối tượng nộp thuế trong quá trình làm việc.  Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong cơ quan thuế tuy đã được kiện toàn nhưng thực trạng vẫn còn chồng chéo, chưa thật chuyên sâu, chyên nghiệp. Đã có sự phân cấp, nhiệm vụ rõ ràng cho từng chức danh, vị trí công việc theo mô hình chức năng nhưng các bộ phận vẫn chưa thật sự kết nối, liên kết chặt chẽ với nhau gây khó khăn cho đối tượng nộp thuế. Cơ quan ban ngành cần xem xét hoàn thiện thêm khâu này nhằm đảm bảo quá trình hành và thu thuế đạt hiệu quả, tạo thuận lợi hơn cho người nộp thuế.  Áp dụng các mô hình thu thuế hiện đại ở các nước vào Việt Nam  Khi ngành thuế có nhu cầu tuyển dụng nhân viên mới thông báo, thông tin rộng rãi trên báo chí, phương tiện truyền thông một cách công khai, minh bạch, công bằng nhằm tạo điều kiện cho tất cả các ứng viên hội đủ điều kiện có thể đăng ký dự tuyển, tránh hiện tượng gian lận trong thi tuyển. Điều đó góp phần cho việc hoàn thiện bộ máy tổ chức ngành thuế  Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin mạnh hơn vào tất cả các khâu quản lý thuế; cung cấp thông tin nhanh chóng, chính xác phục vụ yêu cầu quản lý cung cấp các dịch vụ thuế, đầy đủ, kịp thời nhanh chóng, chất lượng cao. 3.3.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế đến người dân Bằng phương tiện thông tin đại chúng qua truyền hình, truyền thanh, hàng tháng hay hàng quý, các cơ quan chức năng, ngành thuế bố trí một số thời lượng nhất định để phổ biến, hướng dẫn các đối tượng nộp thuế các sắc thuế nói chung và riêng thuế TNCN, những hiểu biết cần thiết về thuế, đối tượng nộp thuế, người chịu thuế, căn cứ tính thuế… Ngoài phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan chức năng ngành thuế in ấn những tài liệu hướng dẫn về các loại thuế nói chung và thuế thu nhập nói riêng. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, luật thuế TNCN mới ra đời, người dân chưa nắm bắt kịp những thông tin về luật, những trường hợp giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc, về những thay đổi trong thuế suất…. Tăng cường tổ chức các bộ phận, dịch vụ hướng dẫn về thuế thông qua các phương tiện hiện có…hướng dẫn việc kê khai, tự tính thuế và tiến tới tự nộp thuế mà không đợi phải có thông báo của ngành cơ quan thuế. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Đối với các tổ chức ủy nhiệm thu cần hướng dẫn cụ thể về các thủ tục kê khai việc sử dụng các biểu mẩu, ấn chỉ, thuế suất nhằm đảm bảo tốt công tác khấu trừ thuế tại nguồn, đảm bảo công bằng, minh bạch. Thường xuyên mở hội nghị đối thoại trực tiếp nhằm giải đáp những vướng mắc các quy định về thuế. Tổ chức các lớp tập huấn pháp luật miễn phí cho các doanh nghiệp mới thành lập và các lớp tập huấn hướng dẫn chính sách thuế mới cho các doanh nghiệp. Để người dân ủng hộ sắc thuế TNCN này, phải làm cho họ thấy được cái hay, cái tiến bộ, cái lợi ích của họ khi nộp thuế. Thậm chí từ lúc nhỏ đã phải để họ được làm quen với “văn hoá” nộp thuế. Hơn nữa, cần phải thừa nhận là trình độ dân trí của ta còn thấp, bản thân thuế TNCN cũng là sắc thuế khá phức tạp. Bởi vậy trước mắt, cần nói sao cho dân hiểu. Dù được thực hiện bằng công cụ nào thì các nội dung trong Luật cũng phải rất dễ hiểu. Chẳng hạn như: thay vì nói “áp dụng chiết trừ gia cảnh” thì cần nói “chỉ đánh thuế vào phần thu nhập của người lao động sau khi trừ đi một mức nhất định của thu nhập dành để nuôi sống người lao động và những người phụ thuộc như cha mẹ, con cái”. Chẳng hạn, một người phải nuôi một con nhỏ có thu nhập 8 triệu đồng/tháng thì mức thu nhập để dành nuôi sống người lao động và nuôi con theo Luật là 5 triệu + 40% x 5 triệu = 7 triệu đồng. Tức là mỗi tháng người này chỉ phải nộp (8 – 7) x 5% = 50.000 đồng tiền thuế TNCN. Một ví dụ khác, thay vì nói “đưa lãi tiền gửi vào thu nhập chịu thuế” thì nên nói “Đánh thuế vào những người có lãi tiền gửi cao trên 5 triệu đồng/tháng. Tức là, nếu một người có thu nhập từ lãi tiền gửi 7 triệu đồng/tháng và không có thu nhập khác, sẽ chỉ phải nộp (7 – 5) x 10% = 200.000 đồng. Rõ ràng, có hiểu được các nội dung trong luật mà Nhà nước quy định thì dân chúng mới sẵn lòng móc hầu bao đóng thuế. Nhận thức của người dân về thuế nói chung và thuế TNCN còn khá mơ hồ mà lý do dẫn đến quan niệm về thuế của đại bộ phận dân chúng hiện nay là do chúng ta chưa quan tâm đưa nội dung giáo dục pháp luật về thuế vào trong chương trình giáo dục phổ thông. Mặt khác, khi tuyên bố về mục tiêu của sắc thuế này, không nên nói là “Chuyển từ điều tiết thu nhập của người có thu nhập cao sang điều tiết thu nhập của đại bộ phận dân 55 Đề tài nghiên cứu khoa học cư” mà nên nói “Đảm bảo điều tiết công bằng thu nhập của các tầng lớp dân cư, theo hướng những người có thu nhập thấp thì không thu thuế, những người có thu nhập càng cao càng phải nộp thuế nhiều hơn nhưng tỷ lệ thu không quá cao”. Với mức sống chưa cao, khi mục tiêu áp dụng được diễn đạt như trên, chắc chắn sẽ nhận được sự ủng hộ của nhân dân. Khi được giải thích, tuyên truyền đầy đủ, cụ thể bằng các con số, cặn kẻ về nội dung đạo lý và lợi ích của thuế TNCN chắc chắn mọi người sẽ đồng tình ủng hộ và nghiêm túc thực hiện. 3.3.3. Tạo thuận lợi cho người nộp thuế Luật thuế TNCN vừa mới ban hành, rất còn mới mẻ đối với đối tượng nộp thuế, nhiều điều luật người dân vẫn chưa nắm được. Do đó, các cơ quan ban ngành cần phải tạo mọi điều kiện thuận lợi, tốt nhất cho tất cả các đối tượng nộp thuế. Trước hết cần xúc tiến tiến hành ban hành các văn bản hướng dẫn các điều luật, giải đáp thắc mắc cho đối tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, do yêu cầu thời gian, công việc của mọi người dân, mọi đối tượng nộp thuế là khác nhau nên khi áp dụng thuế TNCN trên diện rộng sẽ gây khó khăn cho người nộp thuế, cần phải phối hợp với chính quyền địa phương để họ có thể vừa làm, vừa nộp thuế kip thời, đúng, đủ. Song song đó, cơ quan có thẩm quyền cho phép tổ chức, cá nhân mở các dịch vụ, đại lý thuế, công ty tư vấn thuế … để hỗ trợ phần nào cho cơ quan ngành thuế cũng như các đối tượng nộp thuế trong việc quản lý thuế và thu thuế. Thêm vào đó công khai thông tin và minh bạch trong giải quyết. Lúc đó, cả người nộp thuế và cán bộ thừa hành sẽ giám sát lẫn nhau để không bên nào làm sai quy trình được xây dựng. Tính công khai đã giúp các cơ quan thuế liên tục hoàn chỉnh quy trình cho phù hợp với thực tế không ngừng phát triển và đổi thay. Xây dựng phần mềm cho phép người nộp thuế kê khai thuế qua mạng để tiết giảm chi phí tuân thủ luật. Để tạo thuận lợi tốt nhất cho người nộp thuế thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình không thể tách rời những thành tựu đạt được về mặt công nghệ thông tin. Tuy nhiên, để nâng cao và giữ vững chất lượng các dịch vụ thì tại từng cơ quan thuế, từng mảng công việc vấn đề áp dụng ISO là rất cần thiết đối với các lĩnh vực có tần suất giao dịch nhiều. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học 3.3.4. Hạn chế sử dụng tiền mặt, khuyến khích thanh toán qua hệ thống ngân hàng Hiện nay, trên cả nước nói chung và TP.HCM nói riêng việc sử dụng thanh toán bằng tiền mặt, mua bán trao tay còn rất phổ biến. Tiền mặt là loại phương tiện thanh toán khó kiểm soát nhất; đặc biệt trong điều kiện cụ thể hiện nay của Việt Nam, một trong những nước có nền kinh tế tiền mặt lớn nhất thế giới. Khi tiền mặt được sử dụng trong các giao dịch thanh toán, chi trả càng lớn, thì việc kiểm soát tính chất đúng đắn của các khoản chi rất khó thực hiện, nhất là các khoản chi được thực hiện bằng các nguồn kinh phí thuộc ngân sách Nhà nước. Điều đó cũng gây khó khăn rất lớn trong việc quản lý nguồn thu NSNN khi luật thuế TNCN ra đời. Trước luật thuế TNCN, nước ta áp dụng pháp lệnh thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (vốn chỉ khoanh vùng trong một số đối tượng chủ yếu làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, một số ngành nghề có thu nhập cao như hàng không, dầu khí, ca sĩ “hạng sao” cũng gặp không ít khó khăn do không kiểm soát được thu nhập của họ. Chẳng hạn như, một bác sĩ của bệnh viện C. có thu nhập kê khai hằng tháng là 300 triệu đồng. Mỗi ngày, ngoài công việc chính ở bệnh viện C., bác sĩ này nhận thêm các ca mổ ở bệnh viện V., bệnh viện H. vào chiều và tối. Các bệnh viện mà bác sĩ làm việc ngoài giờ không thực hiện khấu trừ tại nguồn (vì sợ mất quan hệ). Tổng thu nhập tính đúng của bác sĩ này hằng tháng khoảng 1 tỉ đồng. Theo mức này, số thuế phải nộp khoảng 400 triệu đồng; nhưng do ngành thuế chỉ nắm được thu nhập của bác sĩ này tại bệnh viện C. là 300 triệu đồng, nên chỉ thu được số thuế là khoảng 75 triệu đồng (40%). Một ví dụ khác đối với nhóm đối tượng nộp thuế là nghệ sĩ. Năm 2005 (nộp cho năm 2004), tổng thuế thu nhập phải đóng của 144 nghệ sĩ tại TPHCM là 1,2 tỉ đồng, thì năm 2006 (nộp cho năm 2005), con số này giảm còn 888,6 triệu đồng; tổng thu nhập khai báo cũng giảm từ hơn 15 tỉ đồng (năm 2004) xuống còn 13,1 tỉ đồng (năm 2005). Trong khi đó, số nghệ sĩ thuộc diện chịu thuế ngày càng nhiều hơn, tổng thu nhập lẽ ra phải cao hơn. Từ những ví dụ điển hình trên ta có thể nhận thấy được việc thu thuế thu nhập đối với một số đối tượng là do tự cá nhân đối tượng nộp thuế kê khai, cơ quan thuế biết nhưng cũng đành chịu vì không thể kiểm tra từng trường hợp riêng lẻ. Do chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước, hàng năm sẽ có thêm hàng chục vạn doanh nghiệp và hộ kinh doanh ra đời. Tính đến năm 2004 đã có trên 170.000 doanh nghiệp (trong đó có trên 150.000 doanh nghiệp thành lập theo Luật Công 55 Đề tài nghiên cứu khoa học ty và gần 6.000 doanh nghiệp Nhà nước, còn lại là các loại hình doanh nghiệp khác, dự kiến đến năm 2010, nước ta sẽ có khoảng 500.000 doanh nghiệp), trên 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể (mỗi năm có thêm hàng chục vạn hộ kinh doanh mới), trên 11 triệu hộ sử dụng đất nông nghiệp, trên 10 triệu hộ nộp thuế nhà đất, gần ba trăm nghìn người nộp thuế TNC. Chính vì vậy mà khi luật thuế TNCN ra đời thì diện chịu thuế càng được mở rộng hơn, thì sẽ tăng thêm hàng triệu người nộp thuế TNCN đòi hỏi phải có biện pháp, chính sách hợp lý nhằm quản lý tốt nguồn thu. Để có thể giảm được khối lượng tiền mặt được sử dụng trong các giao dịch giữa các tổ chức, cơ quan, và giữa dân chúng với nhau, Ngân hàng Nhà nước cần khẩn trương tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng, khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, đoàn thể trả lương, thanh toán… qua ngân hàng. Khi hầu hết các doanh nghiệp, tổ chức, đoàn thể cùng thực hiện thì đã giảm phần nào khó khăn cho việc quản lý nguồn thu. Đối với cá nhân, hộ gia đình buôn bán nhỏ lẻ cũng hạn chế thanh toán mua bán trao tay, chuyển dần sang thanh toán bằng thẻ, hay trực tiếp quan ngân hàng (đặc biệt là đề án thanh toán qua ngân hàng của Chính phủ khiển khai và bắt đầu thực hiện). Điều này có thể thực hiện được do điều kiện hiện nay hệ thống ngân hàng tại Việt Nam đang phát triển rất mạnh. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần có những chế tài thật nghiêm khắc buộc các đơn vị chi trả thu nhập cho các cá nhân, đặc biệt là các cá nhân có thu nhập cao như ca sĩ, bác sĩ, người làm việc tại các công ty nước ngoài..phải thanh toán qua hệ thống ngân hàng, nếu không sẽ không được trừ vào chi phí khi tính thuế TNDN. Có như thế mới kiểm soát tốt thu nhập của mọi người, để thuế TNCN thật sự là một sắc thuế công bằng đối với mọi người. 3.3.5. Đẩy mạnh việc kết hợp quản lý thuế TNCN giữa cơ quan thuế và các cơ quan có liên quan Mọi công dân sống và làm việc ở một địa phương đều gánh chịu sự quản lý đồng thời của hai tổ chức ở cơ sở: tổ chức ở nơi làm việc và tổ chức ở nơi người đó thường xuyên sinh sống. Tại nơi làm việc người lao động chịu sự quản lý của thủ trưởng cơ quan, của tổ trưởng sản xuất, cửa hàng trưởng, chủ cơ sở, chủ hàng kinh doanh dịch vụ. Ngoài ra còn chịu sự quản lý và giám sát của các đoàn thể chính trị xã hội mà người lao 55 Đề tài nghiên cứu khoa học động tham gia tại nơi làm việc. Tại nơi người lao động sinh sống có sự quản lý, giám sát của chính quyền địa phương mà gần nhất là Tổ trưởng dân phố và cảnh sát khu vực, ban điều hành khu phố, trưởng ấp và chính quyền phường, xã. Cũng như trên, người lao động nếu sinh hoạt đoàn thể ở địa phương thì cũng chịu sự giám sát của các đoàn thể. Vai trò của các tổ chức quản lý xã hội ở địa phương là vô cùng quan trọng, mọi nguồn thu nhập của người dân đều được giám sát của chính quyền địa phương, (thông qua những công chức làm công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn phường, xã, cũng như Tổ trưởng dân phố và Cảnh sát khu vực). Mặt khác, đó cũng là yếu tố nhằm hoàn thiện công tác quản lý và hành thu thuế TNCN, giúp cơ quan thuế quản lý tốt việc giảm trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế, giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc. Chỉ có tổ chức quản lý xã hội ở địa phương mới có thể kiểm soát và quản lý tốt nhất việc kê khai giảm trừ gia cảnh của đối tượng nộp thuế. Từ việc kê khai giảm trừ gia cảnh của đối tượng nộp thuế kết hợp với việc kê khai nộp thuế tại nơi làm việc của họ sẽ góp phần cho việc thu thuế của cơ quan thuế được thuận lợi hơn, hiệu quả hơn. Chính những việc đó phần nào tạo thói quen cho người trong việc công khai các khoản thu nhập của mình, kê khai đúng, tuân theo pháp luật về các khoản giảm trừ gia cảnh, vừa đăng ký thu nhập lại vừa giúp cho Nhà nước giám sát được thu nhập của mọi công dân, kể cả cán bộ công chức, tạo sự công bằng cho mọi đối tượng nộp thuế và cũng là một trong những biện pháp chống tham nhũng. Mở rộng ủy nhiệm thu đối với một số loại thu cho UBND xã, phường gắn với chi tiêu của chính quyền địa phương để chống thất thu và giảm chi phí quản lý thuế. Ngoài ra sự kết hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng như: Sở Kế hoạch - Đầu tư; Sở Thương mại; Sở Lao động - TBXH, cùng với các Trung tâm dịch vụ việc làm; Sở Công an và Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh; Cục Quản lý Xuất nhập cảnh - Bộ công An sẽ được phát huy nhiều hơn khi mở rộng sự kết hợp với Sở Văn hóa - Thông tin; Sở Ngoại vụ; Sở Giáo dục; Các đài phát thanh, truyền hình, báo chí…. để quản lý và hành thu thuế của cơ quan thuế đạt hiệu quả cao. 3.3.6. Hoàn thiện phương pháp quản lý thu thuế Trước hết cần tăng cường các biện pháp quản lý đối tượng nộp thuế thông qua việc xây dựng một chính sách thuế đồng bộ với khung pháp lý về quản lý thu cùng hệ thống 55 Đề tài nghiên cứu khoa học kê khai, quyết toán mọi khoản thu nhập, giám sát chặt chẽ việc tự kê khai các khoản giảm trừ của đối tượng nộp thuế mới có thể tránh được hiện tượng trốn lậu thuế, giảm thiểu thất thu cho ngân sách. Do đó khi tiến hành luật thuế mới cần xúc tiến việc cấp mã số thuế cho đối tượng nộp thuế và tiến dần đến cấp mã số cho những người phụ thuộc. Mã số thuế sẽ là công cụ hỗ trợ cho việc kiểm soát, đối chiếu thu nhập của cá nhân, khi các tổ chức cá nhân chi trả thu nhập phải ghi mã số thuế kết hợp với việc kê khai giảm trừ gia cảnh, từ đó cơ quan thuế có thể kiểm tra đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời tiền thuế cho Nhà nước. Ngoài ra cơ quan thuế cần áp dụng đồng thời nhiều hình thức và phương pháp sau:  Đối với hình thức kê khai và nộp thuế hàng tháng: Phương pháp khấu trừ tại nguồn: phương pháp này áp dụng cho mọi tổ chức chi trả thu nhập và đã quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành. Mọi tổ chức chi trả phải đăng ký với cơ quan thuế để được cấp một mã số thuế xác định. Tổ chức chi trả có trách nhiệm chặn trừ thuế ngay khi chi trả thu nhập, hàng tháng tổ chức này có trách nhiệm kê khai với cơ quan thuế và nộp lại tiền vào ngân sách Nhà nước theo nguyên tắc tự khai tự nộp. Tổ chức chi trả không được quyền từ chối trách nhiệm chặn trừ của mình. Khi khấu trừ tiền thuế, cơ quan thuế hoặc đơn vị chi trả phải cung cấp cho người nộp thuế chứng từ xác nhận việc đã thu. Hàng tháng, khi nộp hồ sơ kê khai thuế cho cơ quan thuế, tổ chức chi trả phải đính kèm chứng minh số thuế mình đã nộp vào ngân sách Nhà nước trong kỳ kê khai Cá nhân tạm khai và tạm nộp trực tiếp hàng tháng: hàng tháng, người nộp thuế tự khai thu nhập, tính thuế, kê khai các khoản giảm trừ (có xác nhận của chính quyền địa phương), tạm nộp thuế phát sinh của tháng đó cũng theo nguyên tắc tự khai, tự nộp. Khi gửi tờ khai thuế hàng tháng cho cơ quan thuế, người nộp thuế phải gửi kèm chứng từ có xác nhận của kho bạc Nhà nước xác nhận đã thu tiền, hoặc xác nhận đã chuyển tiền của ngân hàng nơi người nộp thuế mở tài khoản. Cơ quan thuế chỉ thông báo khi người nộp thuế chưa nộp đủ số thuế phải nộp  Đối với hình thức kê khai và nộp thuế một lần trong năm: Áp dụng cho những đối tượng không thuộc diện kê khai tạm nộp hàng tháng; những người là chủ cơ sở kinh doanh tư nhân có thu nhập kinh doanh không thuộc đối 55 Đề tài nghiên cứu khoa học tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp; những người hành nghề tự do khi kê khai, nộp thuế người nộp thuế phải kê khai toàn bộ thu nhập của mình trong năm trước, các khoản giảm trừ, kèm theo tất cả những chứng từ chứng minh số thuế mình đã nộp. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học KẾT LUẬN  Như đã trình bày trong các phần trên, thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc thuế cấu thành nên hệ thống chính sách thuế của quốc gia. Thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao ở nước ta tuy đã được ban hành và thực hiện trong một thời gian dài, nhưng lại bộc lộ nhiều nhược điểm trong quá trình vận hành, từ chính sách đến phương thức quản lý, hành thu, kết quả mang lại chưa cao, đóng góp thu cho ngân sách Nhà nước còn thấp, chưa thực hiện tốt mục tiêu công bằng xã hội. Nếu nhìn ở góc độ toàn cục thì chính sách thuế này còn dừng lại ở mức độ xử lý tình thế, chưa giải quyết được những vấn đề cốt lõi như: quan hệ giữa thuế thu nhập cá nhân với các sắc thuế khác; quan hệ giữa các chính sách thuế với các chính sách xã hội; quan hệ giữa chính sách thuế và việc thực hiện quản lý thu; đặc biệt là tác động của chính sách thuế đối với dân chúng. Để khắc phục những nhược điểm của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao Chính phủ đã thông qua Luật thuế thu nhập cá nhân mới và sẽ có hiệu lực từ năm 2009 nhằm khơi dậy tiềm năng tài chính của đất nước trong mọi tầng lớp dân cư, đảm bảo tính công bằng, tác động tích cực vào việc cân đối thu chi Ngân sách thông qua số thu từ thuế, góp phần xác lập các yếu tố cân đối cho tương lai một cách hợp lý trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Vấn đề đặt ra thực sự lớn lao nhưng kiến thức và khả năng của em còn nhiều hạn chế. Hơn nữa chính sách thuế là chính sách tổng hợp , phức tạp, đa dạng…do đó không tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các Cô, Chú, Thầy Cô để hoàn thiện thêm để đề tài được tốt hơn, góp phần đưa Luật thuế thành công cụ hỗ trợ tích cực cho Nhà nước thực hiện tốt vai trò của mình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
Luận văn liên quan