Bài viết tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu để giải thích sự dịch chuyển trong sản
xuất, thương mại và các chiến lược để cạnh tranh trong ngành dệt may toàn cầu, và
chiến lược đối với các quốc gia đang phát triển cho việc gia nhập và dịch chuyển trong
chuỗi giá trị. Ngành dệt may mang đặc tính toàn cầu và cạnh tranh cao, ở đó các doanh
nghiệp dẫn đạo cần phát triển các năng lực nguồn trên phạm vi toàn cầu. Trong khi đó,
quá trình tích hợp dọc sản xuất nhằm thiết lập các hoạt động để gia tăng giá trị trong
khâu thiết kế và các phân đoạn marketing trong chuỗi giá trị, điều này có thể xóa mờ
ranh giới, liên kết và cơ hội trong chuỗi giá trị.
Chìa khóa thành công của các nước Đông Á là sựdịch chuyển từ hợp đồng gia
công với các yếu tố đầu vào nhập khẩu sang hình thức tích hợp nội địa và gia tăng giá
trị xuất khẩu cao hơn được biết như là mô hình sản xuất trọn gói hay OEM (sản xuất
thiết bị gốc). Mô hình OEM ở cấp độ quốc tế là hình thức hợp đồng thương mại mà ở
đó mối liên kết người mua-bán giữa người mua nước ngoài và các nhà sản xuất nội địa
cho phép doanh nghiệp nội địa học hỏi nhiều hơn từ các phân đoạn tuyến trên và tuyến
dưới của chuỗi giá trị.
11 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2744 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận chuỗi giá trị cho việc nâng cấp ngành dệt may Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
158
TIẾP CẬN CHUỖI GIÁ TRỊ CHO VIỆC NÂNG CẤP
NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
THE VALUE CHAIN APPROACH TO INDUSTRIAL UPGRADING
OF VIETNAM TEXTILE INDUSTRY
Trương Hồng Trình, Nguyễn Thị Bích Thu, Nguyễn Thanh Liêm
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Bài viết tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu nhằm giải thích sự chuyển đổi trong hệ thống sản
xuất và thương mại của ngành dệt may trên thế giới. Dựa trên mô hình OEM (sản xuất thiết bị
gốc) của các nước Đông Á và các đặc tính của ngành dệt may Việt Nam, bài viết phân tích và
xác định chiến lược nâng cấp ngành là sự dịch chuyển từ sản xuất gia công (chủ yếu nhập
khẩu các yếu tố đầu vào) sang mô hình sản xuất tích hợp OEM và OBM (đòi hỏi tăng cường
các liên kết dọc ở cấp độ khu vực và quốc gia). Ngoài ra, bài viết đề xuất các chính sách nhằm
hỗ trợ nâng cấp quá trình, sản phẩm và chức năng cho mô hình OEM, thay vì nhắm đến bước
nhảy đột phá từ sản xuất gia công sang hệ thống sản xuất định hướng xuất khẩu với thương
hiệu của nhà sản xuất (OBM).
ABSTRACT
This article presents the global commodity chain approach in view of explaining
transformation in the production and trade of the world’s textile networks. Based on East Asia’s OEM
model and the specific characteristics of Vietnam’s textile industry, this article argues that the
industrial upgrading strategy is the transfer from the simple processing production (with mostly
imported inputs) to more integrated forms of the OEM and OBM networks, which require the
intensification of vertical linkages on regional and national levels. Moreover, this study deals with the
suggestion of several policies aimed at upgrading the process, production and functions of the OEM
model instead of targeting on a radical breakthrough from the processing production type to an
export-oriented production system with producers’ trademarks (OBM network) .
1. Giới thiệu
Ngành dệt may là một trong những ngành xuất khẩu lớn và lâu đời trên thế giới.
Hầu hết các quốc gia sản xuất và cung cấp hàng dệt may cho thị trường thế giới
(Dickerson, 1995), một ngành có tính toàn cầu lớn nhất trong tất cả các ngành. Ngành
dệt may là một ngành “khởi đầu” đặc trưng của các quốc gia trong tiến trình công
nghiệp hóa định hướng xuất khẩu, và đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng
của các nước Đông Á.
Việt Nam được biết đến như một câu chuyện thành công về chiến lược tăng
trưởng định hướng xuất khẩu từ sau chính sách đổi mới những năm cuối thập kỷ 1980.
Ngành dệt may cũng là một trong những lĩnh vực quan trọng trong chính sách tăng
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
159
trưởng định hướng xuất khẩu, hiện tại chiếm hơn một nửa giá trị xuất khẩu công nghiệp
của nền kinh tế. Các nhà sản xuất dệt may trong nước không chỉ chuyển dịch theo
hướng thị trường mà còn chuyển bị đối phó với sự thay đổi của cạnh tranh toàn cầu.
Thách thức toàn cầu đã tạo áp lực và đòi hỏi các nhà sản xuất dệt may phải nâng cấp để
cải tiến chất lượng, hạ giá thành, và thời gian giao hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị
trường thế giới trong chuỗi giá trị toàn cầu (Nadvi and Thoburn, 2004).
Bài viết tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu nhằm giải thích sự chuyển đổi trong hệ
thống sản xuất và thương mại của ngành dệt may trên thế giới. Theo nghiên cứu của
Gereffi (2002), xu hướng phát triển ngành dệt may khu vực là theo mô hình OEM, mô
hình đòi hỏi sự chuyển dịch và nâng cấp dựa trên lợi thế cạnh tranh của các nhà sản xuất
trong khu vực. Dựa trên mô hình OEM của các nước Đông Á và các đặc tính của ngành
dệt may Việt Nam, bài viết phân tích và xác định chiến lược nâng cấp ngành là sự dịch
chuyển từ sản xuất gia công (chủ yếu nhập khẩu các yếu tố đầu vào) sang mô hình sản
xuất tích hợp OEM và OBM (đòi hỏi tăng cường các liên kết dọc ở cấp độ khu vực và
quốc gia). Ngoài ra, bài viết đề xuất các chính sách nhằm hỗ trợ nâng cấp quá trình, sản
phẩm và chức năng cho mô hình OEM, thay vì hướng đến bước nhảy đột phá từ sản
xuất gia công sang hệ thống sản xuất định hướng xuất khẩu với thương hiệu của nhà sản
xuất (OBM).
2. Mô hình Đông Á
Ngành dệt may thế giới đã trải qua vài cuộc gia nhập ngành kể từ những năm
1950, tất cả đều diễn ra ở các quốc gia Châu Á. Gia nhập ngành đầu tiên đến từ các
nước Bắc Mỹ và Tây Âu vào Nhật Bản trong những năm 1950 và đầu những năm 1960,
khi đó có sự chuyển đổi sản xuất dệt may từ các nước Phương Tây sang Nhật Bản. Cuộc
dịch chuyển thứ hai từ Nhật Bản sang các nhà sản xuất dệt may “Big Three” Châu Á
(Hồng Kông; Đài Loan; và Hàn Quốc), nhóm nước này đã thống lĩnh xuất khẩu dệt may
toàn cầu vào những năm 1970 và 1980. Trong khoảng thời gian 10 đến 15 năm sau, có
cuộc nhập ngành thứ ba, lần này từ “Big Three” Châu Á sang một số nước đang phát
triển khác. Vào những năm 1980, sự dịch chuyển chủ yếu sang Trung Quốc, một số
quốc gia Đông Nam Á và Sri Lanka. Vào những năm 1990, có sự gia tăng nhanh chóng
các nhà cung cấp mới từ Việt Nam, các nước Nam Á và Châu Mỹ La Tinh (Khanna 1993,
Gereffi 1998). Hình 1 biểu thị mô hình nâng cấp ngành trong chuỗi dệt may Châu Á.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
160
Hình 1. Mô hình nâng cấp ngành trong chuỗi dệt may Châu Á
Nguồn: The international competiveness of Asian economies in the apparel commodity chain (Gereffi, 2002)
Lưu ý: Mũi tên nét rời biểu thị trình tự năng lực sản xuất và xuất khẩu trong nền kinh tế
Mũi tên nét liền biểu thị dòng dịch chuyển thương mại giữa các nền kinh tế.
Nhật
Các nước Các phân đoạn của chuỗi dệt may
C
ấp
đ
ộ
ph
át
tr
iể
n
May mặc Dệt may Sợi Máy
(sợi, dệt, cắt, may)
Những năm 1950
và những năm
đầu 1960
Từ 1960 trở đi
Hồng Kông,
Hàn Quốc
Đài Loan
May mặc Dệt may Sợi
Những năm cuối
1970 và đầu 1980 Những năm cuối 1980
và những năm1990 Trung
Quốc
Indonesia
Thái Lan
Ấ
May mặc
Dệt may
Những năm
cuối 1980
Những năm 1990
Việt Nam
Sri Lanka
Bangladesh
May mặc
Giữa những năm 1990
Giá trị tăng thêm Thấp Cao
Từ 1970 trở đi
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
161
Hình 2. Chuỗi dệt may toàn cầu
Nguồn: The international competiveness of Asian economies in the apparel commodity chain (Gereffi, 2002)
Sợi
tự nhiên
Sợi
nhân tạo
Dầu, khí đốt
CÁC CÔNG TY DỆT CÁC CÔNG TY MAY MẶC CÁC NHÀ BÁN LẺ
Bắc Mỹ
Các nhà bán lẻ
Châu Á
Các nhà
bán lẻ
HỆ THỐNG
SẢN XUẤT
CÁC YẾU TỐ
SẢN XUẤT
NGUYÊN LIỆU
ĐẦU VÀO
HỆ THỐNG
XUẤT KHẨU
HỆ THỐNG
MARKETING
Bông, gỗ, tơ
lụa, vv.
Sợi
(kéo sợi)
Vải
(dệt, đan
len, hồ)
Các công ty may mặc
Hoa Kỳ
(thiết kế, cắt, may,
nút, ủi)
Hợp đồng nội địa, và
các nhà sản xuất
Mexico/ vùng
Caribbean
Hóa dầu Sợi
tổng hợp
Hợp đồng gia công
may mặc Châu Á
Hợp đồng gia công
nội địa và nước ngoài
Công ty may
với thương
hiệu riêng
Văn phòng
người mua
nước ngoài
Các công ty
thương mại
Hệ thống cửa hàng
đặc biệt
Hệ thống cửa hàng
chuyên dụng
Chuỗi bán buôn
khối lượng lớn
Chuỗi bán lẻ
chiết khấu
Bán buôn, đại lý ,
đặt hàng qua mail,
khác
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
162
Dệt may là một ngành mang đặc trưng của chuỗi giá trị chịu sự chi phối của
người mua. Một ngành với sự gia nhập ngành dễ dàng, nhưng lại chịu tác động bảo hộ
từ các nước phát triển, đã dẫn đến sự đa dạng hóa chưa từng có của các nhà xuất khẩu
dệt may trong thế giới thứ ba. Ngoài ra, các liên kết trước và sau cũng được mở rộng, và
điều này tạo ra một số lượng lớn công việc liên quan trong ngành (Appelbaum et al.,
1994). Chuỗi dệt may được cấu thành từ năm thành phần chính như trong Hình 2: cung
ứng nguyên liệu đầu vào, bao gồm: bông tự nhiên và nhân tạo; các yếu tố sản xuất như
sợi, vải được sản xuất bởi các công ty dệt; hệ thống sản xuất được hình thành bởi các
công ty may mặc, bao gồm gia công nội địa và quốc tế; hệ thống xuất khẩu được thiết
lập bởi các trung gian phân phối; và hệ thống marketing ở cấp độ bán lẻ (Gereffi, 2002).
Mô hình Đông Á dựa trên sự thành công của các nhà xuất khẩu dệt may Hồng
Kông, Đài Loan, và Hàn Quốc (Nhật Bản trước đây, và tiếp theo sau là Trung Quốc)
đều phát huy vai trò xuất khẩu theo trình tự từ sản xuất gia công đến OEM đến OBM.
Các quốc gia mới nổi Đông Á (NIEs) đã phát triển năng lực OEM vào những năm 1960
và 1970 thông qua việc thiết lập quan hệ gần gũi với các nhà bán lẻ và tiếp thị Hoa Kỳ,
và sau đó học hỏi các đối tác nước ngoài nhằm xây dựng năng lực xuất khẩu Đông Á
(Gereffi, 1999). Hiện tại, các quốc gia Đông Á NIEs đang dịch chuyển theo hướng
OEM bằng nhiều cách thức khác nhau; dịch chuyển sang các sản phẩm có giá trị cao
hơn trong chuỗi dệt may (xuất khẩu sản phẩm dệt và chỉ sợi thay vì tập trung vào gia
công may mặc); dịch chuyển từ OEM sang OBM trong ngành dệt may; và chuyển đổi
sang các chuỗi giá trị mới giữa các ngành.
3. Ngành dệt may Việt Nam
Với chính sách đổi mới trong 20 năm qua, ngành dệt may cũng chịu tác động
tích cực từ chính sách đổi mới, một ngành đóng vai trò quan trọng trong chiến lược định
hướng xuất khẩu của nền kinh tế và đang tích hợp thành công vào nền kinh tế thế giới
(Hill, 1998).
Ngành dệt may tiếp tục đóng góp đáng kể đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế
năm 2007. Tốc độ tăng trưởng là 33,36% vào năm 2007 với giá trị 7,78 tỷ USD, trong
đó thị trường Hoa Kỳ chiếm hơn 50% doanh thu. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế phần lớn tập
trung vào công đoạn xử lý nguyên vật liệu và sản xuất phụ liệu cho hàng may mặc,
trong khi tỷ trọng nội địa đầu vào đáp ứng khoảng 30% giá trị hàng dệt may xuất khẩu.
Nhược điểm lớn nhất của mô hình sản xuất dệt may đó là hình thức hợp đồng gia công
với đối tác nước ngoài. Các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may thường phụ thuộc vào
nguồn cung nguyên liệu và phụ liệu nước ngoài để thực hiện các đơn đặt hàng từ các tập
đoàn quốc tế (EU, report on Vietnam, 2006).
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
163
Bảng 1. Giá trị xuất khẩu hàng dệt may trên các thị trường
Thị trường 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng doanh thu 1.892 3.654 4.386 4.838 5.834 7.780
Tốc độ tăng trưởng 8,29% 93,13% 20,03% 10,31% 20,59% 33,36%
Hoa Kỳ 49,5 1.973 2.474 2.603 3.044 4.465
EU 609 580 762 882 1.243 1.489
Nhật Bản 620 514 531 604 628 704
Khác 614 587 619 749 919 1.122
Nguồn: Bộ thương mại Việt Nam
Sự phát triển của ngành dệt may cũng biểu thị sự mất cân đối, khi mà tốc độ tăng
trưởng cao nhưng giá trị tăng thêm thấp. Mặc dù công nghệ của ngành dệt may đã được
nâng cấp thường xuyên và tốt hơn rất nhiều với sự hỗ trợ của chính phủ, nhiều doanh
nghiệp có khả năng điều chỉnh sản xuất nhanh chóng đáp ứng với các thay đổi sản
phẩm. Công nghệ mới và thiết bị máy móc hỗ trợ công nghệ thông tin đã được đầu tư ở
một vài doanh nghiệp (Hoang, 2001). Tuy nhiên, sự nâng cấp công nghệ dường như
không đủ để dịch chuyển ngành ở mức độ cao hơn trong chuỗi giá trị. Ngành dệt may
không chỉ ở mức thấp về công nghệ sản xuất mà còn thiếu sự phát triển nguồn nguyên
vật liệu, dệt may Việt Nam hàng năm nhập khẩu đến 95% bông, 70% vải và 50% sợi
tổng hợp cho nhu cầu sản xuất nội địa.
Bảng 2. Nhập khẩu nguyên liệu và phụ liệu 2005-2007
2005 2006 2007
Khoản mục Số
lượng
(tấn)
Giá trị
(Triệu
USD)
Số
lượng
(tấn)
Giá trị
(Triệu
USD)
Số lượng
(tấn)
Giá trị
(Triệu
USD)
Bông 150.577 167 181.200 219 212.000 268
Sợi/Chỉ 202.912 340 338.831 544 425.000 744
Vải 2.398 2.980 3.980
Phụ liệu 2.282 1.952 2.152
Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS)
Thực tế, ngành dệt may chỉ tập trung sản xuất các sản phẩm theo hạn ngạch và
sản phẩm không đòi hỏi độ tinh xảo cao như áo sơ mi, áo jacket, áo khoát, đồ dùng
trong nhà, trong khi đó một số danh mục được cấp hạn ngạch hay một số thị trường sản
phẩm giá trị cao đã bị bỏ qua. Mức công nghệ thấp giải thích một phần giá trị tăng thêm
của xuất khẩu thấp. Hầu hết nguyên vật liệu (vải và phụ liệu) đều nhập khẩu từ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
164
Indonesia, Malaysia, Nhật Bản, Anh, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, và Hồng Kông.
Chỉ có một số lượng hạn chế (như vải sợi nhân tạo) được cung cấp từ trong nước.
Quyết định 36/2008/QĐ-TTg của chính phủ về chiến lược phát triển ngành công
nghiệp dệt may Việt Nam trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm,
mũi nhọn về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều
việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực
và thế giới.
Bảng 3. Các mục tiêu sản xuất và tăng trưởng xuất khẩu hàng năm
Tốc độ tăng trưởng Giai đoạn 2008-2010 Giai đoạn 2008-2010
Tăng trưởng sản xuất hàng năm 16-18% 12-14%
Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm 20% 15%
Các chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020 được biểu thị trong Bảng 4.
Bảng 4. Các chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam
Mục tiêu toàn ngành đến
Chỉ tiêu Đơn vị tính
Thực
hiện 2006 2010 2015 2020
1. Doanh thu Triệu USD 7.800 14.800 22.500 31.000
2. Xuất khẩu Triệu USD 5.834 12.000 18.000 25.000
3. Sử dụng lao
động
1.000 người 2.150 2.500 2.750 3.000
4. Tỷ lệ nội địa
hóa
% 32 50 60 70
5. Sản phẩm
chính:
1.000 tấn
- Bông xơ 1.000 tấn 8 20 40 60
- Xơ, sợi tổng
hợp
1.000 tấn - 120 210 300
- Sợi các loại 1.000 tấn 265 350 500 650
- Vải Triệu m2 575 1.000 1.500 2.000
- Sản phẩm may Triệu SP 1.212 1.800 2.850 4.000
Với sự cam kết của Việt Nam đối với khu vực tự do thương mại ASEAN
(AFTA), và thành viên chính thức của WTO, các chính sách thay thế nhập khẩu không
phải là cách thức lựa chọn tốt. Ngoài ra, Việt Nam cũng sẽ gặp những khó khăn trong
việc cạnh tranh quốc tế bởi các chính sách bảo hộ của các thị trường thế giới đối với các
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
165
quốc gia xuất khẩu như Thái Lan, Indonesia, và hiện tại là Trung Quốc, là những thủ
cạnh tranh trực tiếp. Dưới những điều kiện như vậy, việc xây dựng năng lực sản xuất và
cung ứng nguyên vật liệu đầu vào bao gồm cả đầu từ trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ trở
thành con đường phát triển đầy triển vọng (Goto, 2007).
Ngành dệt may Việt Nam vẫn đóng vai trò một ngành then chốt trong chiến lược
tăng trưởng định hướng xuất khẩu. Tuy nhiên, thách thức toàn cầu đã đặt các nhà sản
xuất dệt may dưới áp lực cạnh tranh, đòi hỏi phải nâng cấp để cải tiến chất lượng, hạ giá
thành và thời hạn giao hàng theo nhu cầu của người mua trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Chiến lược cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam là dịch chuyển từ gia công với tỷ
trọng nhập khẩu nguyên liệu cao sang tích hợp dần vào hình thức định hướng xuất khẩu
có giá trị gia tăng theo mô hình OEM.
4. Chiến lược nâng cấp ngành
Nâng cấp được hiểu như là việc dịch chuyển các hoạt động nhằm mang lại giá trị
cao hơn. Giá trị cao hơn có thể đạt được hoặc bằng cách dịch chuyển sang các sản phẩm
có giá trị cao hoặc bằng cách tăng cường thêm các chức năng mới trong chuỗi giá trị
như tham gia vào khâu thiết kế và marketing. Gereffi (1999) chỉ ra rằng sự thành công
các nước Đông Á trong việc vận dụng chuỗi giá trị chi phối bởi người mua là từ việc
nâng cấp ngành, một sự dịch chuyển chuỗi từ giai đoạn một, gia công với các yếu tố đầu
vào nhập khẩu sang các hoạt động sản xuất tích hợp dọc để mang lại giá trị xuất khẩu
tăng thêm cao hơn: OEM và OBM.
Sản xuất theo mô hình OEM là hình thức sản xuất định hướng xuất khẩu phức
tạp hơn nhiều so với hợp đồng gia công bởi vì hình thức này yêu cầu các nhà cung cấp
thực hiện liên kết nhiều hơn trong chuỗi giá trị. Các nhà sản xuất chịu trách nhiệm đối
với nhiều hoạt động bao gồm mua sắm vải cho nhu cầu sản xuất may mặc, có thể thay
đổi các tiêu chuẩn thiết kế, tạo mẫu và chào hàng, nâng cấp và tạo mẫu sản phẩm, giặt
ủi hay hồ vải, thậm chí vận chuyển sản phẩm đến nhà bán lẻ. Sản xuất trọn gói được cho
là phù hợp hơn so với hợp đồng gia công bởi vì: (1) gia tăng các liên kết tuyến trên với
các nhà cung cấp; (2) thúc đẩy đầu tư vốn nhiều hơn vào thiết bị sản xuất (Bair and
Gereffi, 2001); (3) tăng cường cạnh tranh cho các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát
triển so với đối thủ cạnh tranh do hình thức sản xuất trọn gói OEM ít phổ biến hơn
(Schrank, 2004); và (4) tạo ra liên kết gần gũi giữa các doanh nghiệp dẫn đạo với các
nhà sản xuất địa phương, điều này cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu tích lũy kiến
thức về chất lượng, giá và thời trang ở các thị trường nước ngoài (Gereffi, 1999).
Theo kết quả điều tra của Goto (2007), có 20 doanh nghiệp trong số 23 nhà sản
xuất được phỏng vấn cho biết sản xuất dưới hình thức hợp đồng gia công chiếm hơn
93,6%, trong số đó có một số doanh nghiệp thực hiện mua sắm nguyên liệu theo thỏa
thuận cụ thể trong hợp đồng gia công. Chỉ có 6,4% với chiến lược nguồn thực hiện sản
xuất trọn gói OEM, và theo kết quả khảo sát thì không có doanh nghiệp nào sản xuất
hàng may mặc theo nhãn hiệu gốc OBM như mô tả trong Hình 3. Nghiên cứu của Goto
(2007) cũng cho biết chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam nhằm gia tăng giá
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
166
trị xuất khẩu thông qua tích hợp dọc và xuất khẩu theo nhãn hiệu gốc. Mức độ giá trị
tăng thêm sẽ xác định mô hình nâng cấp của Việt Nam trong chuỗi giá trị, vận dụng qui
trình nào, cung cấp sản phẩm nào và chức năng nào đóng vai trò trong hệ thống sản xuất
và phân phối. Ngoài ra, kết quả điều tra cũng cung cấp bằng chứng cho biết bước nhảy
từ sản xuất gia công sang xuất khẩu theo nhãn hiệu gốc là điều khó khăn bởi Việt Nam
thiếu năng lực để trở thành các nhà điều phối trong chuỗi giá trị và quản lý rủi ro trong
hệ thống sản xuất và phân phối.
Chiến lược nâng cấp ngành dệt may Việt Nam là dịch chuyển từ hợp đồng gia
công với các yếu tố đầu vào nhập khẩu sang hình thức tích hợp sâu hơn của OEM và
OBM, mô hình đòi hỏi liên kết trước và liên kết sau nhiều hơn ở cấp độ quốc gia và khu
vực. Các chính sách phải thúc đẩy nâng cấp qui trình để đạt hiệu quả trong các hợp
đồng gia công thông qua quá trình chuyển giao công nghệ của người mua. Liên kết với
người mua nước ngoài thông qua hợp đồng gia công có thể dẫn đến nâng cấp sản phẩm.
Bằng cách dịch chuyển danh mục sản phẩm theo hướng sản xuất sản phẩm giá trị cao sẽ
giúp các doanh nghiệp dệt may có khả năng cạnh tranh hơn. Quá trình nâng cấp sản
phẩm và công nghệ định hướng vào qui trình sản xuất, các kỹ năng và tri thức sẽ được
chuyển giao từ người mua sang các nhà cung cấp Việt Nam.
Hình 3. Các chiến lược nâng cấp ngành dệt may
Nguồn: Industrial upgrading of the Vietnamese garment industry: an analysis from the global value
chains perspective, (Goto, 2007).
Trong khi khả năng nâng cấp ngắn hạn có thể đạt được cho cả nâng cấp qui trình
và sản phẩm, thì từ khía cạnh dài hạn đòi hỏi nâng cấp cả chức năng và tăng cường vai
trò dẫn đạo trong chuỗi giá trị. Nâng cấp chức năng đòi hỏi nhiều thời gian bởi vì đòi
hỏi kỹ năng và tri thức trong việc xử lý thông tin thị trường cho việc thiết kế, sản xuất
và marketing các sản phẩm giá trị cao. Bởi vì sự sáng tạo và quản lý hệ thống phân phối
Thiết kế sản
phẩm và
nhãn hiệu
Các chiến
lược
nguồn
Mua sắm
nguyên vật
liệu
Gia công Phân phối
và
Marketing
Hợp đồng gia công
(chiếm hơn 93,6%)
Sản xuất thiết bị gốc (OEM)
(chiếm khoảng 6,4%)
Sản xuất nhãn hiệu gốc (OBM)
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
167
hiệu quả cũng rất quan trọng cho việc nâng cấp chức năng, xây dựng năng lực thông
qua thúc đẩy phát triển thị trường nội địa cũng chính là cách thức hỗ trợ của chính sách.
Các chính sách này đòi hỏi đầu tư vào nguồn nhân lực để tăng cường kỹ năng và tri
thức ngành, thay vì chỉ tập trung vào máy móc và công nghệ.
5. Kết luận
Bài viết tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu để giải thích sự dịch chuyển trong sản
xuất, thương mại và các chiến lược để cạnh tranh trong ngành dệt may toàn cầu, và
chiến lược đối với các quốc gia đang phát triển cho việc gia nhập và dịch chuyển trong
chuỗi giá trị. Ngành dệt may mang đặc tính toàn cầu và cạnh tranh cao, ở đó các doanh
nghiệp dẫn đạo cần phát triển các năng lực nguồn trên phạm vi toàn cầu. Trong khi đó,
quá trình tích hợp dọc sản xuất nhằm thiết lập các hoạt động để gia tăng giá trị trong
khâu thiết kế và các phân đoạn marketing trong chuỗi giá trị, điều này có thể xóa mờ
ranh giới, liên kết và cơ hội trong chuỗi giá trị.
Chìa khóa thành công của các nước Đông Á là sự dịch chuyển từ hợp đồng gia
công với các yếu tố đầu vào nhập khẩu sang hình thức tích hợp nội địa và gia tăng giá
trị xuất khẩu cao hơn được biết như là mô hình sản xuất trọn gói hay OEM (sản xuất
thiết bị gốc). Mô hình OEM ở cấp độ quốc tế là hình thức hợp đồng thương mại mà ở
đó mối liên kết người mua-bán giữa người mua nước ngoài và các nhà sản xuất nội địa
cho phép doanh nghiệp nội địa học hỏi nhiều hơn từ các phân đoạn tuyến trên và tuyến
dưới của chuỗi giá trị.
Do vậy, chiến lược nâng cấp ngành dệt may Việt Nam nhắm đến việc gia tăng
giá trị xuất khẩu may mặc thông qua tích hợp dọc. Trong khi công nghệ sản xuất của
các doanh nghiệp nội địa lạc hậu, thì mối quan hệ giữa công nghệ và giá trị tăng thêm
thấp chỉ là gián tiếp. Việc gia tăng giá trị tăng thêm của các nhà cung cấp Việt Nam
trong chuỗi dệt may toàn cầu có thể được thực hiện bằng cách nâng cấp qui trình, sản
phẩm hoặc chức năng. Hiện tại, ngành dệt may Việt Nam vẫn còn thiếu năng lực để trở
thành các nhà điều phối dẫn đạo trong chuỗi giá trị và quản lý các hoạt động trong chuỗi
hiệu quả. Do đó, các chính sách của chính phủ nên tập trung vào cách thức hỗ trợ nâng
cấp qui trình, sản phẩm và chức năng, thay vì phát triển liên kết theo hướng tạo bước
nhảy đột phá từ hình thức gia công sang kiểu sản xuất đòi hỏi tri thức và kinh nghiệm
xuất khẩu cao, sản xuất nhãn hiệu gốc OBM.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Appelbaum, R., D. Smith, and B. Christerson, 1994. “Commodity Chains and
Industrial Restructuring in the Pacific Rim: Garment Trade and Manufacturing.” In
G. Gereffi and M. Korzeniewicz, eds., Commodity Chains and Global Capitalism.
Westport, CT: Praeger.
[2] Bair, J., and Gereffi, G. 2001. Local clusters in global chains: The causes and
consequences of export dynamism in Torreon’s blue jeans industry. World
Development, 29(11), 1885–1903.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(37).2010
168
[3] Dickerson, K. G., 1995. Textiles and Apparel in the Global Economy, 2nd ed.
Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall.
[4] Gereffi, G. 1999. International trade and industrial upgrading in the apparel
commodity chain. Journal of International Economics, 48(1), 37–70.
[5] Gereffi, G. 2002. The International Competitiveness of Asian Economies in the
Apparel Commodity Chain, ERD Working Paper Series No. 5, Asian Development
Bank.
[6] Goto, K., 2007. “Industrial Upgrading of the Vietnamese Garment Industry: An
Analysis from the Global Value Chains Perspective”. RCAPS Working Paper
No.07-1, Ritsumeikan Asia Pacific University.
[7] Hill, H., 1998. “Vietnam Textile and Garment Industry: Notable Achivements,
Future Challenges”, draft report prepared for Development Strategy Institute
Vietnam and United Nations Industrial Development Organization, Vietnam.
[8] Hoang, L. M., 2001. Study on the investment in Textile and Garment in dustry of
Vietnam. University of Foreign Trade, Vietnam.
[9] Khanna, S. R., 1993. “Structural Changes in Asian Textiles and Clothing
Industries: The Second Migration of Production.” Textile Outlook International
49(September):11-32.
[10] Nadvi, K. and J. Thoburn, 2004, ‘Challenges to Vietnamese Firms in the World
Garment and Textile Value Chain, and the Implications for Alleviating Poverty’
Journal of the Asia Pacific Economy, 9 (2), pp. 249-267.
[11] Report on Vietnam, 2006. European Union Economic and commercial counselors.
[12] Schrank, A. 2004. Ready to wear development? Foreign investment, technology
transfer and learning by watching in the apparel trade. Social Forces, 83(1),
123-156.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so37bai20_5009.pdf