Tiểu luận Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại

Hiệu quả ròng của phá giá đối với cán cân thương mại tùy thuộc vào các độ co dãn theo giá. Nếu hàng xuất khẩu co dãn theo giá, thì tỷ lệ tăng lượng cầu về hàng hóa sẽ lớn hơn tỷ lệ giảm giá; do đó, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng. Tương tự, nếu hàng nhập khẩu co dãn theo giá, thì chi cho nhập khẩu hàng hóa sẽ giảm. Cả hai điều này đều góp phần cải thiện cán cân thương mại.

pdf33 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3679 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 TIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI LÊN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI. 2 A/.Lý thuyết truyền thống: Nếu đồng tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với đồng tiền của các nước khác, tài khoản vãng lai của nước đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Hàng hóa xuất khẩu thừ nước này sẽ trở nên mắc hơn đối với đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền của họ mạnh.Kết quả là nhu cầu các hàng hóa đó sẽ giảm. Ngược lại, nếu đồng nội tệ của một quốc gia giảm giá thì sẽ có tác dụng khuyến khích tăng xuất khẩu của quốc gia đó vì đồng nội tệ giảm giá sẽ làm hàng hóa xuất khẩu từ quốc gia đó trở nên rẻ hơn trước đối với người nước ngoài. Tuy nhiên trong tác động của tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại trong thực tế đôi khi lại không diễn ra như trong lí thuyết nêu trên. B/. Tóm tắt một số nghiên cứu trước đây. Dưới đây là một tổng quan ngắn gọn cung cấp các phương pháp và kết quả của các tài liệu nghiên cứu đối với các nền kinh tế phát triển và mới nổi.Điều này sẽ chứng minh rằng sự đa dạng của kết quả, thường là với các quốc gia giống nhau, có thể do bằng chứng thực nghiệm trích từ các thời điểm khác nhau và các phương pháp khác nhau.Các nước phát triển, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã nhận được nhiều sự quan tâm nhất trong lĩnh vực nghiên cứu này. STT Tác giả Năm Phương pháp Kết luận 1 Rose và Yellen 1989 Sử dụng dữ liệu tách biệt (disaggregated) về thương mại song phương trong trường hợp dữ liệu của Mỹ giai đoạn 1960 đến 1985. -Không tìm thấy đặc điểm nào hỗ trợ cho hiệu ứng đường cong J -Cũng không phải bằng chứng về mối quan hệ dài hạn. 3 2 Bahmani Oskooee và Brooks 1999 Phân tích dữ liệu tách biệt về thương mại song phương Hoa Kỳ đối với 6 đối tác thương mại lớn bằng cách sử dụng các phương pháp tiếp cận ARDL (phát triển bởi Pesaran và Shin (1997) và Pesaran, Shin và Smith (1996)) -Đã tìm thấy bằng chứng của hiệu ứng đường cong J. - Tuy nhiên họ đã làm báo cáo vềmối quan hệ dài hạn đáng kể giữa cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái, chỉ ra rằng sự giảm giá thực của đồng đô la Mỹ có ảnh hưởng thuận lợi tới cán cân thương mại của Mỹ. 3 Shirvani và Wilbratte 1997 Sử dụng một phương pháp tiếp cận VECM cho Hoa Kỳ với các nước G7. Họ tìm thấy bằng chứng của một hiệu ứng đường cong L đảo ngược. 4 Demirden và Pastine 1995 Sử dụng phương pháp VAR của Sim. Chứng minh trong ví dụ thực nghiệm đơn giản rằng: hiệu ứng phản hồi ( feedback effects) trong môi trường tỷ giá hối đoái linh hoạt có thể là đáng kể - kết quả của hiệu ứng đường cong J. 5 Felmingham 1988 Kiểm tra các mệnh đề của đường cong J bằng cách sắp đặt một độ trễ phân phối không giới hạn (A unrestricted distributed lag) với dữ liệu của Úc cho giai đoạn 1965-1985. Ông cũng không thể tìm thấy bằng chứng về hiện tượng đường cong J 6 Marwah và Klein 1996 Sử dụng dữ liệu tách biệt trong một hồi quy IV và OLS Tìm thấy bằng chứng của một đường cong S cho cả Canada và 4 cho giai đoạn 1977 đến 1992. Hoa Kỳ. Theo kết quả của họ, cán cân thương mại lúc đầu giảm khi phá giá, sau đó là một sự cải thiện cán cân thương mại - hiệu ứng điển hình của đường cong J. Tuy nhiên, sau một vài quý có vẻ có xu hướng cán cân thương mại xấu đi. Phát hiện gợi nhớ các phản ứng hình chữ S của cán cân thương mại với những thay đổi về thương mại được đề cập trong Backus, Kehoe và Kydland (1994). 7 Bahmani- Oskooee và ALSE 1994 Thử nghiệm ở 41 nước phát triển và kém phát triển về sự tồn tại của đồng liên kết (cointegration )và hiệu ứng đường cong J áp dụng thủ tục hai bước Engle-Granger. Kết quả cho thấy cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái thực là đồng liên kết chỉ có 14 quốc gia. Trong các nước tham gia đồng lien kết, có một số bằng chứng của hiệu ứng đường cong J. 8 Gupta-Kapoor và Ramakrishnan 1999 Phân tích tác động của sự tăng giá đồng yên trên dữ liệu cán cân thương mại Nhật Bản đối với bảy đối tác thương mại lớn, sử dụng VECM. Hàm phản ứng thúc đẩy ước tính(the estimate impulse response function) đã chỉ ra sự tồn tại của một đường cong J ở Nhật Bản. 9 Jung và Doroodian 1998 Họ đã áp dụng mô hình độ trễ Shiller với sự khác biệt đầu tiên để tìm kiếm đặc điểm hỗ trợ cho hiệu ứng đường cong Kết quả tương tự như trên cho Nhật Bản. Bằng chứng dường như cho thấy rằng đường cong J là một hiện 5 J. tượng thực nghiệm, tức là nó có thể hoặc không thể được tìm thấy trong một quốc gia nhất định. 10 Baharumshah 2001 Sử dụng mô hình VAR không giới hạn cho các cán cân thương mại song phương của Thái Lan và Malaysia với Hoa Kỳ và Nhật Bản cho giai đoạn 1980 đến 1996. Ông tìm thấy mối quan hệ dài hạn ổn định và tích cực giữa cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái. Bằng chứng về phản ứng ngắn hạn của cán cân thương mại hỗ trợ hiệu ứng đường cong J là pha trộn. Một đường cong J trì hoãn có vẻ để áp dụng cho dữ liệu của Thái Lan trong khi không có hỗ trợ nào cho đường cong J được tìm thấy trong dữ liệucủa Malaysia. 11 Bahmani Oskooee và Kantipong 2001 Thử nghiệm đường cong J trên các dữ liệu tách biệt giữa Thái Lan và các đối tác thương mại lớn như Đức, Nhật Bản, Singapore, Anh, và Hoa Kỳ cho giai đoạn 1973 đến 1997. Họ chỉ tìm thấy bằng chứng của đường cong J trong thương mại song phương với Mỹ và Nhật Bản 12 Upadhyaya và Dhakal 1997 Kiểm tra hiệu quả của phá giá lên cán cân thương mại ở 8 nước phát triển (Colombia, Cyprus, Hy Lạp, Guatemala, Phát hiện thực nghiệm của họ là mâu thuẫn với những phát hiện của Baharumshah vềThái Lan. Họ cung cấp bằng chứng dường 6 Mexico, Morocco, Singapore và Thái Lan) áp dụng các phương pháp được đề xuất bởi Wickens và Breusch (1988). như cho thấy rằng chỉ trong trường hợp phá giá của Mexico là cải thiện cán cân thương mại trong dài hạn. 13 Bahmani Oskooee 2001 Điều tra phản ứng lâu dài của cán cân thương mại các quốc gia Trung Đông với việc phá giá bằng cách áp dụng phương pháp Engle-Granger và đồng liên kết Johansen- Juselius. Bằng chứng cho thấy rằng có tồn tại một ảnh hưởng dài hạn tích cực của sự phá giá thực lên cán cân thương mại cho bảy quốc gia (Bahrain, Ai Cập, Jordan, Morocco, Syria, Tunisia và Thổ Nhĩ Kỳ). Trong trường hợp của Morocco, điều này đối lập với các kết quả thu được bởi Upadhyaya và Dhakal. 14 Wilson 2001 Kiểm tra mối quan hệ giữa cán cân thương mại thực và tỷ giá hối đoái thực cho thương mại hàng hóa song phương giữa Singapore, Hàn Quốc và Malaysia đối với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Không có bằng chứng của hiệu ứng đường cong J được tìm thấy ngoại trừ thương mại giữa Hàn Quốc với Hoa Kỳ. 15 Akbostanci 2002 Sử dụng hàm phản ứng đẩy tổng quát(the generalized impulse response function). - Tìm thấy sự hỗ trợ cho mối quan hệ dài hạn tích cực giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại. - Trong ngắn hạn cán cân thương 7 Cho đến đây, các ưu thế của bằng chứng cho thấy rằng Hoa Kỳ không thể hiện rằng sự co giãn nhập khẩu và xuất khẩu ngắn hạn dẫn đến một hiệu ứng đường cong J. Hỗ trợ cho mối quan hệ dài hạn ổn định giữa cán cân thương mại Mỹ và các yếu tố của nó được trộn lẫn. Mặt khác, Nhật Bản là một ví dụ về sự co giãn thương mại dẫn tới hện mại phản ứng với phá giá theo hình chữ S. Quan điểm này liên quan với mối quan hệ tích cực dài hạn được đưa ra bởi Bahmani Oskooee (2001). Tuy nhiên Kale (2001) thu được kết quả mâu thuẫn, cung cấp bằng chứng về tác động dài hạn tiêu cực của phá giá trên cán cân thương mại. Trong ngắn hạn Kale tìm thấy bằng chứng của một hiệu ứng đường cong J trễ (a delayed J-curve effect). 16 Hacker và Hatemi 2002 Nghiên cứu trong các nước CEEC, đã xem xét dữ liệu song phương tách biệt giữa Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan đối với Đức. - Họ phát hiện ra bằng chứng của một mối quan hệ dài hạn tích cực giữa cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái cho cả ba nước. - Cộng hòa Séc và Ba Lan dường như có đặc điểm dẫn đến hiệu ứng đường cong J. Điều này không đúng trong trường hợp của Hungary. 8 tượng đường cong J.Tiếp theo là những nghiên cứu liên quan đến các nước kém phát triển, chủ yếu mới nổi ở thị trường châu Á. Nhìn chung, bằng chứng cho thấy rằng đường cong J không phải là một quy luật thực nghiệm. Với một số quốc gia, hiệu ứng đường cong J được áp dụng chủ yếu, một số nước khác không có. Các bằng chứng hỗ trợ sự tồn tại của một mối quan hệ dài hạn ổn định tích cực giữa cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái (trừ một vài ngoại lệ) đáng chú ý nhất là Hoa Kỳ. C/.Tìm hiểucụ thể hơn các nghiên cứu gần đây đối với một số nước. I.Malaysia Bài nghiên cứu: của Ng Yuen-Ling, Har Wai-Mun, Tan Geoi-Mei vào năm 2008 tại Malaysia. “Real Exchange Rate and Trade Balance Relationship: An Empirical Study on Malaysia” Mô hình cán cân thương mại trong bài báo này tuân theo phương trình tương tự được lựa chọn từ Shirvani và Wilbratte (1997),Baharumshah (2001), Gomez và Alvarez- Ude (2006), trong đó nhấn mạnh tỷ giá hối đoái trong bằng chứng từ các quan hệ thương mại song phương. NX = NX (Y,Y*,ε ), cán cân thương mại là một hàm theo các biến: thu nhập trong nước y, thu nhập nước ngoài Y* và tỷ giá hối đoái ε. Hàm đó có dạng như sau: lnTBt = β0 + β1 lnYt + B2 ln Y*t + B3 ln RERt +ut Tỷ giá hối đoái thực, RERt, thể hiện tỉ lệ Ringgit Malaysia (RM) so với đồng Dollar Mỹ (USD) và Y * t diễn tả như tổng sản phẩm quốc nội của Hoa Kỳ. Các dữ liệu hàng năm được sử dụng trong mô hình này từ năm 1955đến 2006 thu được từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế(IMF). Trong thời gian đó, Malaysiacó một số thay đổi đáng kể trong tỷ giá hối đoái thực vàsự mất cân bằng thương mại. Do đó điều này cung cấp 9 mộtđiềukiệnnghiêncứuthuận lợi đểxem xét liệunhững thay đổi trongtỷ giá hối đoái cóthực sựảnh hưởng đếnkhối lượngthương mại. Thử nghiệmJohansen-Juselius đượcsử dụng đểdiễn tả các kiểm tra lý thuyết về số lượng cácmốiquanhệlâu dàitồn tại trongphương trình. Kết quả cho dấu dương β3củatỷ giá hối đoái(RER) thể hiện cho việcgiảmgiátiền tệtạo ramột sự cải thiệntrongcán cân thương mạitrong dài hạn. Thử nghiệm của Augmented Dickey-Fuller (ADF) vàthử nghiệm của Philips- Perron (PP)chothấyrằnglnRERđược tích hợpở bậc 1 Thử nghiệm Kwiatkowski-Philips-Schmidt-Shin (KPSS) cũng cho thấy ln RERđược tích hợpở bậc 1 Phương pháp Engle-Granger cho kết quả là cómối quan hệtuyến tính giữalnTB vớilnRER, YlnvàlnY*.  việcgiảmgiátiền tệtạo ramột sự cải thiệntrongcán cân thương mạitrong dài hạn. Để kiểm trasự tồn tại củahiệuứngđường congJởMalaysia, tiến hànhkiểm traphản ứng củacán cân thương mạivớiđổi mới trong tỷ giáhối đoái thực.Hiệu ứng đường cong J có nghĩalàsự giảm giá nội tệ sẽlàm trầm trọng thêmcán cân thương mạitrong ngắn hạn vàsau đó cónhững cải tiến sau một thời gian. 10 Từ hình 1, chúng ta thấy rằng cán cân thương mại tăng một cách nhanh chóng để đáp ứng sự đổi mới do nội tệ giảm giá trong hai năm tiếp theo. Sau đó, cán cân thương mại đã được cải thiện từ từ xuống từ năm 2 đến năm 7.Và sau đó, tình trạng này đã tiếp tục có hiệu lực vĩnh viễn. Từ hình 1, tác động không theo các mô hình J-đường cong cổ điển. II.Các nước có hiệu ứng đường cong J. 1. Lý thuyết. Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng cán cân thương mại bị xấu đi trong ngắn hạn và chỉ cải thiện trong dài hạn. Đường biểu diễn hiện tượng này giống hình chữ J. Theo kết quả nghiên cứu của Krugman (1991), người đã tìm ra hiệu ứng đường cong J khi phân tích cuộc phá giá đô la Mỹ trong thời gian 1985 –1987, thì ban đầu cán cân thương mại xấu đi, sau đó khoảng hai năm cán cân vãng lai đã được cải thiện. Nguyên nhân xuất hiện đường cong J là do trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính trội hơn hiệu ứng số lượng nên làm xấu đi cán cân thương mại, ngược lại trong dài hạn, hiệu ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện. 2.Phân tích một số trường hợp cụ thể. 11 2.1/ Một số nước Đông Nam Á. Bài nghiên cứu: Tỉ giá hối đoái và cán cân thương mại ở Đông Á: có tồn tại đường cong J? (2003) (Exchange rate and trade balance in east asia: is there a J−curve?) Tác giả: Olugbenga Onafowora, Trường Đại học Susquehanna, Economics Bulletin, vol.5,No.18, pp 1-13 a/Mục đích nghiên cứu:Nhiều phân tích thực nghiệm cho thấy rằng, cả những mô hình hồi qui và mô hình kinh tế đều được áp dụng cho từng quốc gia riêng biệt, được tiến hành để xem làm thế nào tỉ giá hối đoái có thể tác động đến cán cân thương mại và sự phát triển của quốc gia. Mặc dù có nhiều nghiên cứu lí thuyết và thực nghiệm về việc thay đổi tỉ giá hối đoái có ảnh hưởng thế nào đến cán cân thương mại, vẫn còn có bất đồng liên quan đến các mối quan hệ giữa các biến số kinh tế và hiệu quả của việc phá giá đồng tiền như một công cụ để tăng sự cân bằng thương mại của một quốc gia. Do đó, tác động củathay đổitỷ giá hối đoáitrêncán cân thương mạiphải được xem xétmột câu hỏi mởtừcả hai quan điểmphântíchvà thực nghiệm. Một sự sụt giảm trong tỉ giá hối đoái được thấy ở phần lớn các nước Đông Á từ giữa những năm 1990, cung cấp 1 cơ hội để trả lời câu hởi có hay không phá giá đồng tiền của mình có 1 tác động đáng kể đến dòng chảy thương mại, và có hay không xảy ra các điều kiện của Marshall-Lerner (ML). Mục đích của bài báo này là để kiểm tra các mối quan hệ giữa cán cân thương mại thực với tỉ giá hối đoái thực cho các nước ASEAN- Thái Lan, Malasia và Indonesia trong thương mại song phương với Mỹ và Nhật Bản. Để thực hiện điều này, bài viết này sử dụng công cụ phân tích đồng liên kết (cointegration- phương pháp xác định mối liên hệ dài hạn giữa các biến chuỗi thời gian) và mô hình chữa lỗi vector (VECM- xử lí tất cả các biến nội sinh trong mô hình) từ đó kiểm định những ảnh hưởng của nhưng biến đổi và theo dõi hiệu ứng đường cong J tiềm năng trong các dữ liệu. 12 b/ Diễn giải mô hình Cán cân thương mại thường được đo là sự khác biệt giữa giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu và tổng lượng nhập khẩu.Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá cán cân thương mại là tỷ lệ của giá trị xuất khẩu song phương (X) với giá trị nhập khẩu song phương (M).Tỷ lệ X / M hoặc nghịch đảo của nó đã được sử dụng trong điều tra thực nghiệm về mối quan hệ giữa cán cân thương mại và tỉ giá hối đoái.Một lý do cho việc sử dụng nó là tỷ lệ này là không nhạy cảm với các đơn vị đo lường và có thể được hiểu là cán cân thương mại danh nghĩa hoặc thực (Bahmani Oskooee, năm 1991). Hơn nữa, theo ghi nhận của Boyd et al.(2001), tỷ lệ trong một mô hình logarit cung cấp cho các điều kiện Marshall-Lerner chính xác hơn. Chúng tôi xác định cán cân thương mại song phương thực sự là một hàm số của thu nhập trong nước, thu nhập của nước ngoài, tỷ lệ trao đổi song phương, và một biến giả (0,1) để nắm bắt sự thay đổi trong quan hệ thương mại song phương kết quả từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Hình thức giản lược của phương trình được đưa ra như sau: lnX/Mt α0 α1 ln Yt α 2 ln Yt *  α3 ln RER t α4D97t Chú thích: ln là logarit tự nhiên Yt là thu nhập trong nước thực sự Yt * là thu nhập của nước ngoài RERt là tỷ giá hối đoái song phương thực tế D97 là một biến giả mà mất giá trị của số không trong khoảng thời gian trước năm 1997 Åt: là một thuật ngữ lỗi RERt được định nghĩa là RERt = (EP * / P), E là tỷ giá hối đoái danh nghĩa hiệu quả, và P là mức giá trong nước và nước ngoài tương ứng. 13 (1) mô tả mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến trong mô hình cán cân thương mại song phương thực cho mỗi quốc gia. c/.Kết quả thực nghiệm Trong tất cả trường hợp, kết quả cho thấy một mối quan hệ tích cực trong dài hạn giữa giữa tỷ giá hối đoái thực và cán cân thương mại thương mại thực, như sẽ được dự kiến nếu sự mất giá thực dẫn đến số lượng xuất khẩu nhiều hơn và số lượng nhập khẩuít hơn. Kết quả cho Indonesia-Nhật Bản, Indonesia, Mỹ, và Malaysia Mỹ chỉ ra rằng cán cân thương mại thực có một mối quan hệ dài hạn tiêu cực với thu nhập thực tế trong nước và một mối quan hệ tích cực với thu nhập dài hạncủa nước ngoài. Những dấu hiệu này là những gì chúng ta mong đợi nếu nhu cầu là động lực trong việc xác định hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Trong các mô hình Thái Lan-Nhật Bản, Thái Lan-Mỹ, và Malaysia, Nhật Bản, cán cân thương mại thực có một mối quan hệ tích cực với thu nhập thực trong nước và một mối quan hệ tiêu cực lâu dài với thu nhật nước ngoài thực. Những dấu hiệu này là những gì chúng ta mong đợi nếu một gia tăng trong thu nhập thực tế là do tăng năng suất sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu và cung cấp động lực trong xác định xuất khẩu và nhập khẩu. Trong hình 1 và 2, hiệu ứng đường cong Jcho quan sát ở Indonesia trong thương mại song phương với Nhật Bản và Mỹ. Sau khi phá giá nội tệ, Indonesia cho thấy sự thâm hụt ban đầu của cán cân thương mại nhưng sau đó là một sự cải thiện lâu dài.Các hình còn lại cho thấy kết quả tương tự ở Indonesia. Các mô hình trước đó cho thấy sau khi một sự phá giá có một xu hướng cho cán cân thương mại đầu tiên xấu đi và sau để cải thiện, nhưng sau một vài quý, cán cân thương mại xấu đi một lần nữa. 14 d/ Kết luận: Mục tiêu của bài báo nàyđãđượckiểmtrangắn hạnvàảnh hưởnglâu dàicủatỉ giá hối đoáithựctếvềcán cân thương mạithực sự chocác nước ASEAN-TháiLan, Malaysia, vàIndonesiatrong thương mạisongphươngvớiMỹvà Nhật Bảnvà xem xét sự tồn tại của 15 các điều kiện ML. Trong mọi trường hợp, phân tích đồng liên kết chỉ ra rằng có một mối quan hệ lâu dài giữa các trạng thái ổn định giữa cán cân thương mại, tỉ giá hối đoái thực, thu nhập trong nước và thu nhập nước ngoài. Và các mô hình khá ổn định trong giai đoạn phân tích. Đối vớiIndonesiavàMalaysiatrong thương mạisong phươngMỹ vàNhật Bản,vàThái Lantrong thương mạisong phươngvớiMỹ, những phát hiện củachúngtôichothấyrằng có nhữnghiệu ứngđường congJ-ngắn hạn. Việc sụt giá nội tệ cho thấy 1 sự xấu đi trong cán cân thương mại kéo dài khoảng ¼ giai đoạn, nhưng điều này được theo sau bởi một sự cải tiến trong thời gian dài. Thái Lan có phongtràođốidiệntrong thương mạisongphươngvớiNhật Bản: mộtbiến động tỷ giáhối đoái thực làmgiảm giánội tệ ban đầuđược cải thiệnsau đótrở nên tồi tệ hơnvà sau đócải thiệncán cân thương mại. Mô hình này không hỗ trợgiả thuyếtđường congJ-cổ điển, nhưnglàphùhợpvới các mô hìnhS-đường cong mô tảBackus(1994) vàMarwahvàKlein(1996). Nhìn chung, kết quả phân tích cho thấy điều kiện của ML tồn tại trong thời gian dài với các mức độ khác nhau của hiệu ứng đường cong J trong ngắn hạn. Những phát hiệncómộtsốtác động đối vớicác quốc giaĐông Átrong thương mại song phươngvới Nhật BảnvàMỹ.Căn cứ vào điều kiện ML, việc tiếp tục mất giá tiền tệ của cácnướcĐông Áso với đồng USDvà đồng yênNhậtBảncó thể sẽdẫn đếnsự cải thiện trongcán cân thương mạicủahọvới Mỹ vàNhậtBản.Tuy nhiên,sự cải tiến nàyxảy rachỉcó3 hoặc4 giai đoạnsaukhimột sự phá giáthựcsự. 2.2.Crotia Bài nghiên cứu:“Ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá hối đoái thực lên cán cân thương mại ở Croatia”(The Effects of Exchange Rate Change on the Trade Balance in Croatia).IMF Working Paper, April 2004. Tác giả:Tihomir Stucka Authorized for distribution by Jeroen J. Kremers 16 Tihomir Stucka là Cố vấn Giám đốc điều hành của IMF ở Armenia, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Croatia, Cyprus, Georgia, Israel, Cộng hòa Nam Tư cũ của Macedonia, Moldova, Vương quốc Hà Lan, Romania và Ukraine. Bài viết này đã được công bố trước đó là Working Paper No. W-l1 (10/2003) ở Ngân hàng quốc gia Croatia. a/ Mục đích nghiên cứu. Thành phần chính của sự thâm hụt tài khoản vãng lai đáng kể ở Croatia là thâm hụt thương mại hàng hóa do tình trạng trì trệ xuất khẩu và gia tăng nhập khẩu trong ba năm qua. Để cải thiện cán cân thương mại có hai phương pháp tiếp cận nhằm thay đổi khả năng cạnh tranh trong nước bằng sự can thiệp của chính phủ: -Phương pháp tiếp cận nội bộ dựa trên chính sách từ phía nhà cung cấp, chẳng hạn như tác động đến năng suất lao động, tiền lương bằng cách kiềm chế lạm phát, giảm thuế (ví dụ như phần thuế đóng góp hoặc thuế lợi nhuận (profit tax) của nhà sản xuất) hoặc nới lỏng các điều kiện cứng nhắc trên thị trường lao động. -Phương pháp tiếp cận từ bên ngoài làphá giá (làm mất giá nội tệ). Các tranh luận ở Croatia trong việc giảm bớt thâm hụt hàng hóa được phân chia thành 2 nhóm: một nhóm ủng hộ việc giảm tỷ giá hối đoái danh nghĩa, nhóm khác ủng hộ việc duy trì chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn đang thiếu một ước tính chính thức những tác động trong dài hạn và ngắn hạn của sự thay đổi tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại hàng hóa. Đây chính là mục đích cho bài nghiên cứu này. b/ Lý do nghiên cứu phản ứng trong ngắn hạn và dài hạn của cán cân thương mại do những thay đổi trong tỷ giá hối đoái. Việc lượng hóa phản ứng trong ngắn hạn và dài hạn của cán cân thương mại hàng hóa đối với những thay đổi trong tỷ giá hối đoái là rất quan trọng với các chính sách kinh tế vì nhiều lý do: -Đầu tiên, nó thiết lập một mối quan hệ dài hạn ổn định(a stable long-run relationship) giữa việc thay đổi tỷ giá và cán cân thương mại hàng hóa.Nếu như một mối quan hệ dài hạn ổn định không tồn tại thì việc giảm tỷ giá hối đoái (phá giá đồng tiền 17 trong nước) dường như không phải là một cách hợp lý để cải thiện khả năng cạnh tranh của quốc gia trên cơ sở lâu dài. -Thứ hai, nếu một mối quan hệ dài hạn tồn tại thì nó là cần thiết để thiết lập một sự phá giá dẫn đến một sự cải thiện cán cân thương mại ròng trong dài hạn. -Thứ ba, lượng hóa mức độ cải thiện của cán cân thương mại sẽ được như mong muốn, vì làm như vậy sẽ cho phép chúng ta cân nhắc lợi ích của sự cân bằng thương mại so với chi phí phá giá dài hạn (the costs of permanent depreciation). -Thứ tư, việc ước tính ảnh hưởng ngắn hạn cung cấp thông tin về tác động trước mắt và trung hạn của sự thay đổi tỷ giá hối đoái lên cán cân thương mại. Cụ thể hơn, câu hỏi ở đây là liệu phá giá có gây ra tác động ngắn hạn bất lợi đến cán cân thương mại hàng hóa không? Nếu có, nó có vẻ hợp lý để đo lường thời gian duy trì và mức độ ảnh hưởng bất lợi. Đây thường là một câu hỏi thực nghiệm, và trong tài liệu được gọi là hiệu ứng đường cong J. -Thứ năm, kết quả trình bày có thể góp phần tạo nên cái nhìn sâu sắc hơn về sự lan truyền ra quốc tế của những biến động trong hoạt động kinh tế và giá cả. -Thứ sáu, suy rộng hơn, việc ước tính cũng có thể cung cấp một số thông tin về tác động của chính sách giảm chi tiêu (cả về tài khóa và tiền tệ) lên cán cân thương mại trong nước. -Thứ bảy, nó có thể khuyến khích hơn nữa việc phân tích tác động cho vay đáng kể của chính phủ nước ngoài lên cán cân thương mại và tài khoản vãng lai nói chung. -Thứ tám, kết quả này có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá sự phù hợp của một chính sách can thiệp bất cân xứng của ngân hàng trung ương đối với một lựa chọn khác như đưa vào chế độ neo tỷ giá kiểu con rắn tiền tệ (crawling- peg) để hỗ trợ sự phá giá dài hạn của đồng nội tệ. c/Các điều kiện trong bài nghiên cứu. -Các phản ứng của cán cân thương mại hàng hóa do thay đổi tỷ giá hối đoái được đánh giá trong một mô hình thay thế không hoàn hảo truyền thống giữa 2 nước. -Cán cân thương mại xấp xỉ bằng dòng tiền tổng hợp của sáu đối tác thương mại lớn của Croatia (trung bình chiếm trên 55% tổng thương mại của nó). 18 -Tỷ giá hối đoái thực có hiệu lực (The real effective exchange rate_ REER) được mô phỏng bằng cách sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số giá sản xuất (PPI), thường được gọi là cácphương pháp đo lường cạnh tranh (competitiveness measures). -Thu nhập trong nước và ngoài nước được đại diện bởi GDP. -Thời gian quan sát từ quý đầu tiên của năm 1994 đến quý II năm 2002. -Ba kỹ thuật lập mô hình và hai phương pháp đo lường cạnh tranh được sử dụng để đạt được kết quả chính xác hơn. -Điều này được thực hiện với lưu ý rằng Croatia là một quốc gia đang chuyển đổi với chuỗi thời gian ngắn có sẵn và một môi trường kinh doanh năng động đặc trưng bởi nhiều giá trị ngoại lai. -Việc ước tính phản ứng của cán cân thương mại do phá giá thể hiện bởi kết quả bình quân gia quyền của biến số tổng thu nhập từ nước ngoài trên sáu đối tác thương mại lớn và sự biến động được tính trung bình của tỷ giá hối đoái thực có hiệu lực. Nói cách khác, phản ứng của cán cân thương mại kết hợp với các phản ứng bất đối xứng của dòng chảy thương mại đối với sự thay đổi tỷ giá hối đoái qua sáu quốc gia. d/ Tỉ giá hối đoái thực và sự phát triển hàng hoá mậu dịch ở Croatia. Theo mục đích của bài nghiên cứu này, ảnh hưởng của tỉ giá hối đoái thực được tính toánliên quanđến sáuquốcgiagiao dịch dựatrênchỉsốgiá tiêu dùng(CPI) vàchỉ sốgiá sản xuất(PPI). Tác động của tỷ giá hối đoái thựcdựa trênchỉ số CPI vàPPIthường được coi là phương pháp đo lường khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Chỉ số giá tiêu dùng chứathông tin vềgiáhàng hóa cuối cùnggiao dịchvàkhônggiao dịch, bao gồm cảnhập khẩu.Trái ngược với PPI, CPI không chứa thôngtinliênquanđếnhàng hóa trung gian, nguyên liệu, hàng hóa vốnđượcmuabởinhà sản xuất.Ngoài ra, nó còn được biểu hiện bởi nhiều dạng khác nhau ví dụ nhưgiáhành chínhvàáp dụngthuếtiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên, kể từ khi lao động đầu vào được định giá phù hợp với chỉ số CPI thì có thểcoinó như làmột chỉ sốhữuíchcho các chi phísảnxuất(MarshvàTokarick, 1994). 19 Chỉ số giá sản xuất (PPI) thường được sử dụng mang tính đại diện cho giá xuất khẩu trong nước. Nó được thiết kế để đo lường những thay đổi giá trong tổng sản lượng của ngành công nghiệp trong nước không tính điểm đến của đầu ra. Chỉ số PPI bao gồm giá cả của hàng hóa trung gian, nguyên liệu và hàng hóa vốn và từ quan điểm của lý thuyết sản xuất nó tương tự như chỉ số giá xuất khẩu (Altermann, 1997).Kể từ khi PPI mục tiêu là sản xuất trong nước, nhập khẩu được loại trừ. Tỷ giá hối đoái thựchiệu quảdựa trênchỉ số giá tiêu dùnggiảm giá trịíthơn so với mứcPPItrao đổi giữanăm1998và 2000.Điều nàylàdosự tăng trưởngmạnh mẽ củagiá cảcủadịch vụ, sản phẩm thuốc lávà đồ uống.Trong hai trường hợp sau, việc tăng giácó thểđượcliên quan đếntăngthuếtiêu thụ đặc biệt. Hiệu suất yếukémcủacán cân thương mạiđã dẫn đếnđềxuấtchomột cách tiếp cậnbên ngoài đểcảithiệnkhả năng cạnh tranhcủađấtnước. Có hai khía cạnh củacán cân thương mạiđáp ứngvới những thay đổitrongtỷ giá hối đoái–phản ứng dài hạn và ngắn hạn. Trong dài hạn mô tả cáctrạng thái ổn địnhgiữa cáccấp độ mới củatỷ giá hối đoáivà cán cân thương mại. Một khi các trạng thái ổn địnhđãđạt được, các phản hồi sẽ dần chậm lại (worn out = cũ kĩ) và hệ thống sẽ tiến đến bước cân bằng mới. Ban đầu, sự thâm hụt trong ngắn hạn của cán cân thương mại cho thấy 1 sự sụt giảm giá trị được biết đến bởi đường cong J. Tên gọi này bắt nguồn từcác mô hình củacán cân thương mạigâyrabởicáchợp đồngchưa được chi trảtrong khi thay đổitỷ giá hối đoái. Đường cong J xảy ra khi giá trị xuất khẩu gắn với đồng nội tệ, hợp đồng này có thể là trung hạn.Vì thế, giá xuất khẩu tính bằng ngoại tệ sẽ giảm và cùng thời điểm đó, giá nhập khẩu sẽ làm tăng sản lượng trong nước. Một thời gian sau tại mức nhập khẩu và xuất khẩu sẽ điều chỉnh 1 mức giá mới, cán cân thương mạibắt đầucảithiện. Nói cách khác,cácđường congJđại diện cho một conđườngchuyểnđổicó thểtừmức cân bằngcũđếnmức cân bằngmới. Độ trễ của thời gian (time lag) diễn ra do nhiều lí do như là sự nhận ra trễ, quyết định trễ, phân phối trễ, đổi mới trễ và sản xuất trễ (Junz and Rhomberg, 1973). Sự nhận ra trễ thời gian cần thiếtcho các thị trườngnhận ra rằngđiều kiệnnăng lực cạnh tranhđã 20 thay đổi.Quyết định trễ xảyrado có 1 thờigiancần thiết đểthiết lập kết nốikinhdoanhvàđơn đặt hàngmới.Điều nàyđòihỏiphảixây dựngmối quan hệkhách hàng-nhà cung cấpmớimàcả hai bên đềukhông muốnphávỡ.Thời gian trễ giaohàngliênquanđếnthời gian cần thiếtđể cung cấp cácđơnđặthàngsau khithanhtoánđược thực hiệnvàcácdòng chảythương mạicông bố. Kết luận:các hiệu ứng đường cong J đại diện cho một con đường chuyển tiếp cụ thể để đạt mức cân bằng (equilibriumlevel) mới do thay đổi tỉ giá hối đoái hiện hành. Hiện tượng này xảyranhưđộ trễnhấtđịnhphát sinh dohoàn cảnhcạnh tranhmớitrênphương diện cung và cầu. e/Diễn giải mô hình. - Mô hình lý thuyết: Trong đó: Md : Nhu cầu nhập khẩu trong nước. M*d : Nhu cầu nhập khẩu của phần còn lại của thế giới. Biến đổi ta được kết quả cán cân thương mại TB:  Tỷ giá hối đoái thực có tương quan dương với cán cân thương mại. 21 - Mô hình kinh tế: 3 Phương pháp ARDL được phát triển bởi Pesaran, Shin, và Smith (1995); Bewley (1979) cũng đã đề cập bởi Wickens Breusch (1988); Pesaran và Shin (1997). f/Kết luận Bài viết này cố gắng để ước tính ảnh hưởng của tỉ giá hối đoái với cán cân thương mại sử dụng một mô hình tinh giản. Mô hình này được ước tính bằng cách sử dụng ba phương phápARDL. Cùng với baphương pháp lập mô hình, nghiên cứu này sử dụnghai định nghĩacủa tỷ giáhối đoái thựchiệu quảđể có đượckết quảchính xác hơn. Trung bình chung, 1% sự giảm giá trị của nội tệ là kết quả của sự cải thiện cán cân thương mại 0,94% và 1,3%. Trung bình cân bằng mới được thành lập sau khoảng 2,5 năm. Chiều dài trung bình của hiệu ứng ngược của việc giảm 1% giá trị là trên ¼.Nghiên cứu này tìm thấy bằng chứng của hiệu ứng đường cong J ở Croatia. Sự gia tăng thâm hụt trong cán cân thương mại là kết quả của hiệu ứng đường cong J được ước tính là từ 2% và 3,3%. Là một nước đang chuyển đổi, Croatia cho thấy một môi trường thương mại năng động đặc trưng với những quốc gia khác. Do đó, kết quả cho thấy điều gì đó khá nhạy cảm về các biến giả (tính không chắc chắn). Tuy nhiên, kết quảthựcnghiệmlàphùhợpvới ngoại lệcủa mô hình.Nhìn chung, trực giác có vẻ không đúng khi 1 sự giảm giá nội tệ không đáng kể thường xuyên thể hiện trong chính sách can thiệp tỉ giá hối đoái không đối xứng(asymmetric) sẽ có mộtảnh hưởng thựcthuậnlợitrêntoànbộnền kinh tế, có tính đến tác dụng phụtiềm năngtiêu cực. 2.3.Paskitan 22 Bài nghiên cứu:“Vai trò của tỷ giá hối đoái trên cán cân thương mại: Kinh nghiệm từ Pakistan”(The Role of Exchange Rate on Balance ofTrade: Empirical From Pakistan)trích từ European Journal of Social Sciences,2010. Tác giả: Sulaiman D. MohammadPhó Giáo sư, Đại học Liên bang tiếng Urdu và Adnan HussainTrung tâm Nghiên cứu Kinh tế Ứng dụng, Trường Đại học Karachi a/ Mục đích của nghiên cứu: Tỷ giá hối đoái đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế mở cho việc hoạch định chính sách. Sau những cải cách mở rộng tự do hóa, nó có thể ảnh hưởng đến một số biến như quyết định đầu tư, FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài), dòng chảy thương mại, dòng chảy vốn và chuyển tiền quốc tế và trao đổi dự trữ nước ngoài của nền kinh tế. Các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu nhấn mạnh vấn đề này sau khi chế độ Bretton Woods, nơi có tỷ giá hối đoái nước ngoài được đánh giá cao ngẫu nhiên do sự khởi đầu của chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt năm 1973. Alfered Marshall và Abba Lerner và những người theo ý kiến của họ có cho rằng phá giá (hoặc sự giảm giá của đồng nội tệ) gây ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Khi một quốc gia phá giá đồng nội tệ kết quả là xuất khẩu trong nước trở nên rẻ hơn cho các nhà nhập khẩu nước ngoài, mặt khác nhập khẩu nước đó trở nên đắt hơn và làm giảm nhu cầu nhập khẩu. Một phân đoạn của các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu nhấn mạnh vào sự phá giá như là một chính sách quan trọng để cải thiện vị trí của cán cân thương mại. Như những giải thích ở trên một ảnh hưởng tích cực đến cán cân thương mại nếu đồng nội tệ có một sự mất giá thực nhưng nó sẽ mất một thời gian dài. Các động lực học ảnh hưởng sự mất giá đồng nội tệ trong ngắn hạn và dài hạn có thể là khác nhau. Kết quả của sự mất giá thực của đồng nội tệ sẽ không xảy ra ngay lập tức bởi vì những nhà ngoại thương phải mất một khoảng thời gian để hiểu được hoàn cảnh và những thay đổi xảy ra trên khả năng cạnh tranh thị trường. Mặt khác,trên thị trường quốc tế sẽ mất thời gian nhiều hơn so với thị trường trong nước. Thông tin, khoảng cách, ngôn ngữ và các vấn đề 23 khác là những lý do chính đằng sau nó. Thay vì những lý do kinh doanh trên, hiệp hội ngoại thương, hóa đơn hoàn thành, trở ngại hành chính,sự có sẵn của đầu vào, sự tự tin của nhà sản xuất trong nước, năng lực sản xuất... cũng có thể là yếu tố trì hoãn. Thỉnh thoảng được dành cho việc phân phát chậm vì thời gian thực hiện thanh toán mới được chuẩn bị cho đơn đặt hàng đã được đặt sau sự mất giá tỷ giá hối đoái thực. Mua bán nguyên vật liệu mới cũng gây ra chậm trễ cho việc sử dụng hàng tồn kho này được gọi là độ trễ sự thay thế. Cuối cùng nhưng không phải là kém quan trọng nhất là độ trễ sản xuất trước khi nhà sản xuất trong nước trở nên tự tin vào thị trường hiện tại sẽ cung cấp cho họ một cơ hội lợi nhuận. Sau năm 1982, Pakistan đã từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định và chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi sau tháng 7 năm 2000 hệ thống này đã được thay thế bằng hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi tự do. Nó không phải là một tỷ giá hối đoái thả nổi trong một ý nghĩa thực tế bởi vì Ngân hàng nhà nước của Paskistan vẫn điều chỉnh tỷ giá hối đoái thông qua can thiệp thị trường, do đó có khả năng sự giảm giá thực là nguyên nhân để cải thiện cân bằng thương mại thông qua can thiệp thị trường tỷ giá hối đoái. Trong bài nghiên cứu này, mục đích là rà soát các điều kiện Marshall-Lerner (ML) có đúng cho Pakistan trong dài hạn. Điều kiện ML cho thấy rằng độ co giãn của tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu phải lớn hơn 1 nếu phá giá là để có một tác động tích cực lên cán cân thương mại hơn nữa, nó khởi xướng cho phần lớn các nước, mặc dù các điều kiện được đáp ứng trong dài hạn, trong động lực học ngắn hạn, tuy nhiên, độ co giãn tỷ giá hối đoái của nhu cầu xuất khẩu và nhập khẩu là không co dãn và điều này có thể là một trong những yếu tố giải thích đường cong J. Xác nhận sự đồng ý của điều kiện ML trong dài hạn và sự tồn tại của đường cong J trong ngắn hạn cho trường hợp Paskitan. Mục tiêu của nghiên cứu này là ước tính tác động của sự phá giá tỷ giá hối đoái thực lên cán cân thương mại ở Pakistan. Nghiên cứu xem xét sự có căn cứ của các điều kiện Marshall Lerner trong dữ liệu ở Paskistan (1970-2008) bằng cách sử dụng hàm phản ứng đẩy thực hiện ý tưởng đường cong J. Để đánh giá kết hợp lâu dài giữa các biến bằng cách sử dụng kiểm định đồng liên kết Johansson. 24 b/Diễn giải mô hình b.1.Lý thuyết mô hình hóa Lý thuyết kinh tế giải thích và chúng tôi đã thảo luận rằng sự mất giá thực của tiền tệ một quốc gia có ảnh hưởng tích cực đến cán cân thương mại, nhưng tính phù hợp của lý thuyết này phụ thuộc vào độ nhạy khối lượng xuất khẩu, nhập khẩu đến tỷ giá hối đoái thực. Trong một phần của nghiên cứu này, chúng tôi sẽ cố gắng để lấy các điều kiện được gọi là Điều kiện Marshall Lerner. Các điều kiện giải thích nếu mất giá thực sự gây ra để cải thiện cán cân thương mại khi độ co giãn xuất khẩu, nhập khẩu là khá cao và giả định tất cả các yếu tố khác không thay đổi. Điều kiện Marshall Lerner giải thích rằng sự mất giá thực gây ra sự thặng dư cán cân thương mại chỉ khi tổng của độ co giãn của xuất khẩu và nhập khẩu hơn lớn hơn 1. (Nguồn: Kinh tế quốc tế, Paul Krugman, ấn bản thứ tư trang 477) b.2.Mô hình hóa và các nguồn dữ liệu. ln TBt = α1+ β1 REERt+ β2 ln GDPt+ β3 ln GDPt*+ ε t Trong đó: ln= lôgarit tự nhiên TBt = cán cân thương mại (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) REERt = tỷ giá hối đoái thực có hiệu lực GDPt = tổng sản phẩm quốc nội GDPt *= chỉ số thế giới công nghiệp của những ngành sản xuất được chọn của phần còn lại của GDP thế giới (tổng sản phẩm quốc dân nước ngoài) εt= sai số hiệu chỉnh -Nguồn dữ liệu là Chỉ số Phát triển Thế giới (WDI) và IFS của IMF từ các vấn đề khác nhau. Tất cả biến lấy đơn vị đồng đô la Mỹ. -Nghiên cứu bao gồm 35quan sát hàng năm (1975 - 2009). Khái niệm lý thuyết nhắc nhở rằng xuất khẩu và nhập khẩu tăng là thu nhập thực của đối tác thương mại và thu nhập trong nước đi lên theo thứ tự đó, và ngược lại. Trong trường hợp đó, chúng ta có thể dự đoán β2 0. 25 -Tuy nhiên, nhập khẩu có thể giảm trong khi thu nhập tăng, khi sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu tăng như là kết quả của sự gia tăng trong thu nhập thực, và trong trường hợp được đề cập, chúng tôi có thể dự đoán β2> 0 và β3 <0. -Ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá hối đoái thực lên cán cân thương mại là không chắc chắn. Do đó, β1 có thể là dương hay âm. -Thông thường, nếu phá giá / mất giá thực sự xảy ra, có thể gây ra tỷ giá hối đoái thực tăng, xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm như là kết quả ảnh hưởng tích cực đến cán cân thương mại. c.Kết quả phân tích. Bằng cách sử dụng kiểm định của Augmented Dicky fuller (ADF) (unit root test) phát hiện cho thấy sự không ổn định của tất cả các biến số của kinh tế vĩ mô. Sự kết hợp dài hạn khuyến cáo rằng tỷ giá hối đoái thực có hiệu lực và thu nhập thực tế của các đối tác thương mại có tác động tích cực lên cán cân thương mại, Pakistan có thể giữ như vậy. Mặt khác thu nhập thực (trong nước) có mối liên quan tiêu cực, nhưng dấu hiệu của hệ số là không đáng kể. Nó cũng giải thích rằng sự kết hợp trong trạng thái cân bằng trong dài hạn có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái thực điều này khá là quan trọng trong cán cân thương mại. 26 Kết quả của IRF (phương trình phản ứng đẩy) cho thấy rằng điều kiện Marshall Lerner có ở Pakistan. Kết quả cho thấy rằng mất giá của đồng nội tệ dẫn đến sự sụt giảm bất ngờ trong thu nhập xuất khẩu ở Pakistan. Cán cân thương mại vẫn còn tiêu cực trong 2 năm nhưng sau 2 năm, nó bắt đầu cải thiện như thể hiện trong sơ đồ trên và dẫn đến cán cân thanh toán tích cực trong vòng 4 năm. Kết quả xác nhận điều kiện Marshall Lernerbởi những ý tưởng đường cong J. Onafowora (2003) cũng chứng minh kết quả tương tự ở các nước ASEAN: Thái Lan, Indonesia và Malaysia. d/Kết luận Kết quả của bài nghiên cứu này cho thấy rằng sự mất giá thực của tỷ giá hối đoái có tác động tích cực lên cán cân thương mại. Vì vậy, sự mất giá là có lợi cho xuất khẩu của Paskitan. Nhưng các nhà hoạch định chính sách và nhà kinh tế bị miễn cưỡng giảm giá đồng nội tệ bởi vì nó có thể ảnh hưởng xấu đến kinh tế vĩ mô như tiền tệ tổng hợp, lãi 27 suất và lạm phát. Hơn nữa tính minh bạch hoàn toàn của quốc gia cũng là yếu tố quan trọng để xác định dòng chảy thương mại. Tại Pakistan thị trường tỷ giá được hoạt động theo hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi tự do, một thị trường có chính quyền mạnh mẽ hơn là cần thiết cho mục đích này nói cách khác những nhà đầu cơ có thể phá hủy thị trường tỷ giá hối đoái và hủy hoại tỷ giá điều này có thể làm tổn hại đến chính sách tỷ giá hối đoái của Paskitan. 2.4. Trung Quốc. Bài nghiên cứu: “Thặng dư trong cán cân thương mại Trung Quốc có thể được giảm bởi chính sách tỷ giá hối đoái ?”(Can the Chinese trade surplus be reducedthrough exchange rate policy?) (2007) Tác giả: Alicia Garcίa-Herrero and Tuuli Koivu a/.Diễn giải mô hình: Cổ phần thương mại trên thế giới của Trung Quốc đã phát triển cực kỳ nhanh chóng trong những năm gần đây. Trung Quốc đã trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới ( với thặng dư thương mại 2011 là155,14 tỷ). Theo hải quan Trung Quốcthống kê, thặng dư thương mại lên tới 32 tỷ đô la Mỹ (hay 1,7%GDP) chỉ trong năm 2004. Tuy nhiên, từ năm 2005, thặng dư thương mại đã tăng vọt, và nóđạt gần 180 tỷ đô la Mỹ vào năm 2006, hay gần 7% GDP của Trung Quốc.Việc thặng dư thương mại một lượng lớntrở thành vấn đề quan trọng không chỉ đối với Trung Quốc mà còn chophầncòn lại của thế giới. Liệu Trung Quốc có nên cho phép đồng tiền của mình đánh giá caonhư là một công cụ để giảm thặng dư thương mại khổng lồ của nó. Câu trả lời phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quảsự đánh giá đồng Nhân dân tệ có thể giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu.Bài nghiên cứu phân tích điều nàytheo kinh nghiệm sử dụng phân tích cùng đồng liên kết. Theokết quả này, thặng dư thương mại của Trung Quốc sẽ thu nhỏsau một sự đánh giá 28 thực sự củađồng Nhân dân tệ, nhưng sự giảm sẽ được hạn chế. Tác động tương đối nhỏ chủ yếu được giải thích bởi tính đàn hồi giá, đặc biệt thấy đối với hàng nhập khẩu. Để xác định độ nhạy của xuất khẩu và nhập khẩu Trung Quốc do sự thay đổi tỷ giá hối đoái thực tế, ta ước tính độ co giãn giá của khối lượng nhập khẩu và xuất khẩu.Khuôn khổ thực nghiệm chung cho các loại hình phân tích là các cặp phương trìnhsau đây:  Xt = 0 +1REERt + 2 + Yt* +∑ ࢔࢏ୀ૜ i contronlst + t  Mt = 0 +1REERt + 2 + Yt* +∑ ࢔࢏ୀ૜ i contronlst + t  Xt: khối lượng xuất khẩu từ Trung Quốc  Mt : khối lượng nhập khẩuvào Trung Quốc,  REERt: tỷ giá hối đoái thực của đồng Nhân dân tệ,  Yt*: nhu cầu nước ngoài  Yt: nhu cầu trong nước của Trung Quốc.  α1: độ co giãn giáxuất khẩu,  α2: độ co giãn thu nhập xuất khẩu,  β1: độ đàn hồi giá của hàng nhập khẩu  2: độ co giãn thu nhập của hàng nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái thực (REER) được rút ra từ tài chính quốc tế của IMF thống kê. Nó được xây dựng như sau: REER = ∏ (࢘ࢋ࢘ࡺ࢏ୀ૚ i)wi  N: số lượngtiền tệbao gồmtrong chỉ mục  Wi :trọng lượngcủa các loại tiền tệthứi  RER: tỷ giá hối đoáisongphươngthựcsựđốivớimỗigiao dịchcủaTrung Quốc b/.phương pháp Alicia Garcίa-Herrero và Tuuli Koivu (2007) sử dụng kỹ thuật hội nhập để ước tính độ co dãn giá nhập khẩu và xuất khẩu trong Trung Quốc. 29 Ví dụ: tính hiệu quả các công cụ tỷ giá hối đoái, giả định một sự đánh giá 10% thực sự của đồng Nhân dân tệ và áp dụng các độ co giãn giá ước tínhxuất khẩu và nhập khẩu kể từ khi gia nhập WTO đã được biết đến. Trên cơ sở đó, xuất khẩu sẽ giảm 14% và nhập khẩu 12% trong năm 2005. Từ đó,thặng dư thương mại sẽ được giảm 26% với một sự đánh giá 10% thực sự đồng Nhân dân tệ. Để hiểu rõ hơn về điều này, đặc biệt là lý do giảmnhập khẩu sau khi một sự đánh giá thực tế, bài nghiên cứu đã tập trung vào thương mại song phương. Nó đã chỉ ra rằng, nếu một sự đánh giá thựclàm giảm nhập khẩu từ tất cả các đối tác thương mại chính của Trung Quốc, chúng ta có thể nói rằng đánh giá cao làm giảm nhu cầu tại Trung Quốc do liên quan đến sự giảm sút trong xuất khẩu. Và chúng ta thấy rằng các nước đang xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ có những phản ứng khác nhau trước sự đánh giá này. Điều này nói lên việc có sự khác nhau giữa các nước về việc đánh giá thực của đồng nhân dân tệ, tùy thuộc vào thành phần xuất khẩu của họ sang Trung Quốc. c/. Kết luận Bài báo này cho thấy bằng thực nghiệm rằng cán cân thương mại của Trung Quốc là nhạy cảm với biếnđộngtỷ giá hiệu dụng thực. Trong thực tế, việc ước tính độ co giãn dài hạn xuất - nhập khẩu Trung Quốc với những thay đổi trong tỷ lệ trao đổi hiệu quả thực sự của đồng Nhân dân tệ trong khoảng thời giantừ năm 1994 đến cuối năm 2005, ông tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ rằng một sự đánh giá thực sự làm giảm xuất khẩu trongdài hạn theo một cách khá đáng kể. Trong khi muốn thay đổi thặng dư thương mại thì chính sách tỷ giá hối đoái một mình không thể giải quyết sự mất cân bằng phát triểncủa nền kinh tế Trung Quốc, cụ thể là thặng dư thương mại phình to. Như vậy, về lâu dài, một đồng Nhân dân tệ được đánh giá cao sẽgiảmthặng dư thương mại.Nhưngngắn hạnhiệu lựccủamột loại tiền tệmạnhmẽhơntrongthực tế có thểlàtăngthặng dư thương mạido hiệu ứngđường congJ. D. Điều kiện Marshall-Lerner: 30  Phản biện: Mặc dù hiệu ứng đường cong J đã chỉ ra được rằng sự mất giá đồng nội tệ có hiệu quả tức thì là làm tăng giá nhập khẩu và làm giảm giá xuất khẩu. Vì vậy, trong một thời gian ngắn, cán cân thương mại có thể thâm hụt trước khi những hiệu quả của sự thay đổi trong giá cân đối của xuất khẩu so với nhập khẩu, đem lại sự bành trướng dài hạn của xuất khẩu và một sự cắt giảm nhập khẩu, sẽ cải thiện được cán cân thương mại. Tuy nhiên nó vẫn có những hạn chế và không hoàn toàn đúng.Điều này được thể hiện trong bài nghiên cứu của Ng Yuen-Ling, Har Wai- Mun, Tan Geoi-Mei vào năm 2008 tại Malaysia. Mô hình cán cân thương mại trong bài báo này tuân theo phương trình tương tự được lựa chọn từ Shirvani và Wilbratte (1997), Baharumshah (2001), Gomez và Alvarez-Ude (2006), trong đó nhấn mạnh tỷ giá hối đoái trong bằng chứng từ các quan hệ thương mại song phương. Điều kiện Marshall – Lerner Marshall-Lerner tiếp cận cán cân thương mại theo phương pháp hàm số, đã chứng minh lý thuyết đường cong J và lý thuyết truyền thống có những hạn chế và không hoàn toàn đúng. Điều kiện Marshall-Lerner phát biểu rằng, để cho việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới cán cân thương mại, thì giá trị tuyệt đối của tổng haiđộ co dãn theo giá cả của xuất khẩu và độ co dãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1. Phương trình toán học: e được định nghĩa là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài được quy về đồng nội tệ. Sử dụng định nghĩa này, cán cân thương mại bằng đồng nội tệ, với giá cả trong nước và nước ngoài chuẩn hóa cho một, được cho bởi: N x = X - Q e X biểu thị xuất khẩu, và Q nhập khẩu. 31 Phân biệt đối với e cho: Chia thông qua của X: Ở trạng thái cân bằng, X = e Q. Do đó: Nhân thông qua của e: Mà có thể được thể hiện như nơiηX e và η Q e là ký hiệu chung cho tính đàn hồi của xuất khẩu và nhập khẩu đối với tỷ giá hối đoái tương ứng. Để cho sự sụt giảm giá trị tương đối của tiền tệ của một quốc gia (tức là 1 sự gia tăng e bằng cách sử dụng định nghĩa trên) có 1 hiệu ứng tích cực về cán cân thương mại của nước đó, các bên vế trái của phương trình phải là tích cực (tức là gia tăng e để gây ra một sự gia tăng trong N x).Do đó: Mà có thể được viết là: 32 Hiệu quả ròng của phá giá đối với cán cân thương mại tùy thuộc vào các độ co dãn theo giá. Nếu hàng xuất khẩu co dãn theo giá, thì tỷ lệ tăng lượng cầu về hàng hóa sẽ lớn hơn tỷ lệ giảm giá; do đó, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng. Tương tự, nếu hàng nhập khẩu co dãn theo giá, thì chi cho nhập khẩu hàng hóa sẽ giảm. Cả hai điều này đều góp phần cải thiện cán cân thương mại. -Mặc dù lý thyết Marshall chỉ ra được những khuyết điểm của hiệu ứng đường cong J nhưng bản thân nó cũng có hạn chế. Điều kiện Marshall-Lerner cho rằng để cán cân thương mại theo chiều hướng tích cực sau khi nội tệ giảm giá thì tổng của các co giãn của cầu cho xuất khẩu và nhập khẩu là lớn hơn 1, điều này thuyết phục vì tại một số trường hợp đặc biệt, co giãn của cung là không đếm được. Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, hàng hóa thường không co dãn theo giá cả trong ngắn hạn, bởi vì thói quên tiêu dùng của người ta không thể thay đổi dễ dàng. Do đó, điều kiện Marshall-Lerner không được đáp ứng, dẫn tới việc phá giá tiền tệ chỉ làm cho cán cân thương mại trong ngắn hạn xấu đi. Trong dài hạn, khi người tiêu dùng đã điều chỉnh thói quen tiêu dùng của mình theo giá mới, cán cân thương mại mới được cải thiện. E/.Kết Luận. Như vậy, lý thuyết truyền thống cho rằng đồng nội tệ giảm sẽ giúp cải thiện cán cân thương mại. Theo điều kiện Marshall-Lerner (M-L), điều này chỉ xảy ra khi giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co dãn theo giá cả của xuất khẩu và độ co dãn theo giá cả của nhập khẩu lớn hơn 1. Trên thực tế vẫn tồn tại hiệu ứng đường cong J, tức là nội tệ giảm giá sẽ làm cán cân thương mại xấu đi trong ngắn hạn sau đó mới cải thiện dần trong dài hạn.Vì thói quen tiêu dùng không thể thay đổi nhanh chóng, hàng hoá không co dãn theo giá trong ngắn hạn, dẫn đến việc điều kiện M-L không được đáp ứng.Trong dài hạn, khi 33 người tiêu dùng đã điều chỉnh thói quen tiêu dùng của mình theo giá mới, điều kiện M-L được đáp ứng thì cán cân thương mại mới được cải thiện.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvanluong_blogspot_9748.pdf
Luận văn liên quan