Thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và mở rộng sự
hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế đã, đang và sẽ là mục tiêu phấn đấu của các
ngành, các cấp cũng như của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Với vị thế của một
ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế nước nhà, ngành dệt may Việt Nam đang
không ngừng đẩy mạnh xuất khẩu, tích cực tham gia vào quá trình tạo và tích luỹ vốn
cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để làm được điều này, bên cạnh
việc củng cố các thị trường truyền thống, ngành dệt may Việt Nam còn cần phải tiếp
cận với các thị trường mới, trong đó, thị trường Mỹ được đánh giá là một thị trường đầy
tiềm năng.
60 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2301 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
d/ Chính sách về lao động và phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực tốt là một sự đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Vì
vậy, để đáp ứng nguồn lực có tay nghề cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 là hết
sức cần thiết và cấp bách.
Trong Quyết định 55/2001/QĐ-TTg của Chính phủ đã nêu ra 6 điểm để hỗ trợ
ngành dệt may phát triển đến năm 2010. Trong đó, điểm 5 của Quyết định cho phép:
“Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch dệt may cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu,
trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức dệt may quốc tế, cho công
tác xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may”. Như vậy, trong
chủ trương và trong các chính sách của mình, Nhà nước ta luôn thể hiện sự quan tâm tới
việc nâng cao chất lượng của người lao động trong ngành dệt may. Quyết định này sẽ
đưa ra một định hướng cho công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở các doanh
nghiệp.
Bên cạnh Quyết định này, Nhà nước cũng có nhiều biện pháp hỗ trợ cho việc
phát triển nguồn nhân lực dệt may như: hỗ trợ kinh phí đào tạo lực lượng lao động, đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho công tác đào tạo... Có thể khẳng định rằng, để ngành dệt
may nâng cao khả năng cạnh tranh, đạt được kế hoạch và nhiệm vụ được giao thì cần có
những giải pháp có tính lâu dài, được sự hỗ trợ của Nhà nước để có được đội ngũ lao
động, lực lượng quản lý đủ năng lực, trình độ được đào tạo tại các trường chuyên
ngành, chính qui, có sự tham gia của các chuyên viên nước ngoài với đầy đủ các khâu
từ thiết kế, kỹ thuật, điều hành sản xuất, thương mại... chứ không thể trông chờ vào
những giải pháp tình thế đã và đang thực hiện như hiện nay.
e/ Chính sách về tổ chức quản lý
Để quản lý tốt hoạt động của ngành dệt may, Chính phủ đã có những quyết định
rất đúng đắn và kịp thời. Ngày 29/4/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thành
lập Tổng công ty Dệt May Việt Nam (VINATEX) trên cơ sở sáp nhập Tổng công ty Dệt
và Tổng công ty May trước đây. Tổng công ty Dệt May Việt Nam là cơ quan quản lý
Nhà nước đối với ngành dệt may. Thêm vào đó, ngày 14/11/1999, Hiệp hội dệt may
Việt Nam (VITAS) ra đời đáp ứng được lòng mong mỏi của các doanh nghiệp. Từ nay,
các doanh nghiệp dệt may đã có một tổ chức thống nhất nhằm bảo vệ quyền lợi của họ,
tránh tình trạng dẫm chân lên nhau, chèn ép nhau, tự mình làm hại mình như trước đây.
Ngoài ra, VITAS còn hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin, về đầu tư, chuyển giao công
nghệ, về thị trường và đào tạo nguồn nhân lực...
Với sự ra đời của hai tổ chức này đã tạo ra sự quản lý thống nhất của Nhà nước
đối với ngành dệt may, từ đó thúc đẩy sự phối hợp giữa các đơn vị trong ngành thuộc
các thành phần kinh tế, các địa phương khác nhau.
2.2.2-Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm
a/ Chính sách thuế quan
Thông tư 106 của Bộ Tài chính ban hành ngày 23/7/1998 đã cho phép tăng thời
gian tạm chưa nộp thuế nhập khẩu đối với nguyên phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu
(từ 90 ngày theo quy định cũ) lên 270 ngày. Trong thời hạn này, nếu doanh nghiệp đã
xuất khẩu sản phẩm thì không phải nộp thuế nhập khẩu cho số nguyên phụ liệu đã sử
dụng, ngoài thời hạn này, doanh nghiệp phải nộp thuế nhập khẩu và được hoàn thuế sau
khi đã xuất khẩu sản phẩm. Quy định này đã tháo gỡ được khó khăn nhiều năm nay của
các doanh nghiệp sản xuất gia công hàng may do thời hạn 90 ngày theo quy định cũ
không đủ để doanh nghiệp triển khai sản xuất lô sản phẩm.
Thông tư số 83/1998/thị trường-BTC quy định về hoàn thuế doanh thu nguyên
vật liệu và bán thành phẩm mua của cơ sở sản xuất để sản xuất hàng xuất khẩu, cho
phép các doanh nghiệp được hoàn thuế doanh thu với các nguyên vật liệu và bán thành
phẩm mua của cơ sở khác để sản xuất hàng xuất khẩu đã khuyến khích các doanh
nghiệp sản xuất hàng may mặc sử dụng trong nước tạo điều kiện liên kết giữa lĩnh vực
may xuất khẩu tăng “đầu ra” cho ngành dệt tạo cho các doanh nghiệp dệt cơ hội “xuất
khẩu gián tiếp”, đồng thời giảm sự lệ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập ngoại của ngành
may xuất khẩu.
b/ Chính sách thị trường
Việc thành lập Cục xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương Mại đã góp phần rất
quan trọng trong việc hỗ trợ các thông tin về hoạt động xuất nhập khẩu, về thị trường...
cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói
riêng. Tuy rằng chưa làm được gì nhiều trong việc hỗ trợ xuất khẩu dệt may sang thị
trường Hoa Kỳ, nhưng đây chính là nền tảng quan trọng cho các hoạt động xúc tiến
thương mại trong tương lai.
Bên cạnh đó, để hỗ trợ các doanh nghiệp có được những thông tin đầy đủ về thị
trường Mỹ, Chính phủ cũng đã tổ chức và hỗ trợ kinh phí để tổ chức nhiều cuộc hội
thảo, trao đổi về việc xuất khẩu hàng hoá, đặc biệt là hàng dệt may sang thị trường này.
Tất cả những điều này rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam để
xâm nhập thành công sang thị trường đầy tiềm năng này.
c/ Chính sách tỷ giá hối đoái
Đối với ngành dệt may, cần khuyến khích xuất khẩu sản phẩm và nhập khẩu máy
móc, công nghệ hiện đại, nguyên liệu phục vụ sản xuất. Vì vậy, việc duy trì một chính
sách tỷ giá thả nổi có quản lý như hiện nay là tối ưu. Với chính sách tỷ giá này, tỷ giá
hối đoái được thả nổi tự do không có sự can thiệp nào của Chính phủ vào thị trường
ngoại hối nhưng nền kinh tế thường xuyên điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên cơ sở đánh giá
diễn biến của các biến số như tình hình dự trữ và thanh toán.
d/ Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, thành lập theo Quyết định 195 QĐ/TTG của Thủ tướng
Chính phủ có chức năng hỗ trợ về lãi suất, tài chính có thời hạn đối với những mặt hàng
xuất khẩu bị lỗ do thiếu sức cạnh tranh hoặc gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan và
thưởng về tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Qua 3 năm triển khai, Quỹ hỗ trợ
xuất khẩu đã có những đóng góp nhất định cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu tuy rằng quy
mô còn quá nhỏ.
Trong thời gian qua, Quỹ hỗ trợ phát triển đã thực hiện hỗ trợ thông qua 3 hình
thức: cấp tín dụng đầu tư với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng
đầu tư. Chủ yếu vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển tập trung vào một số ngành sản xuất, chế
biến nông lâm sản, thuỷ hải sản, giầy da, cơ khí... và đặc biệt là dệt may.
Các chính sách này đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam ra thị trường nước ngoài.
2.3-Đánh giá các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ hiện nay
2.3.1-Những kết quả đạt được
Sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ được xác định là lĩnh
vực được ưu tiên đầu tư phát triển với nhiều chính sách ưu đãi về đầu tư, về tín dụng, về
thuế xuất nhập khẩu, cũng như các quy định về quản lý sản xuất, xuất nhập khẩu ban
hành trong thời gian qua, đặc biệt là trong năm 1998. Những chính sách này của Nhà
nước ta đã có tác dụng thiết thực trong khuyến khích và tháo gỡ các khó khăn cho
doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang thị
trường đầy tiềm năng này. Nhờ những chính sách này, cùng với sự nỗ lực của các doanh
nghiệp dệt may, trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ liên tục
tăng, đặc biệt là từ sau khi Hiệp định Thương mại được ký kết và có hiệu lực. Tương
lai, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này sẽ còn tiếp tục tăng.
2.3.2-Những tồn tại
Bên cạnh những đổi mới đáng kể trong công tác quản lý xuất nhập khẩu, nhiều
chính sách hiện hành vẫn còn những bất cập, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong
việc sản xuất, xuất nhập khẩu hàng dệt may. Nhiều quy định không còn phù hợp trong
điều kiện sản xuất, kinh doanh có nhiều thay đổi như hiện nay.
Thứ nhất: Hàng hoá chỉ được thông quan khi có giấy chứng nhận chất lượng của
các cơ quan kiểm tra chất lượng của Nhà nước. Tuy nhiên, do lượng hàng hoá luân
chuyển ngày càng lớn và những nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan, các cơ
quan giám định không đảm bảo được thời hạn giám định hàng hoá để các doanh nghiệp
kịp thực hiện hợp đồng.
Thứ hai: Tuy Nhà nước đã có nhiều chính sách để thu hút vốn đầu tư nhưng
ngành dệt may vẫn thiếu vốn để tăng tốc đầu tư phát triển. Riêng Tổng công ty Dệt May
Việt Nam có nhu cầu vốn 3.500 tỷ đồng, trong đó huy động từ Quỹ hỗ trợ phát triển và
đầu tư là 2.900 tỷ đồng nhưng thực tế, nguồn vốn này cũng mới chỉ đáp ứng được 50%
nhu cầu.
Trong đầu tư cho ngành dệt may hiện nay có một điều đáng lưu ý là có tình trạng
đầu tư không hợp lý, thiếu đồng bộ, nơi nhiều, nơi ít dẫn đến có địa phương không sử
dụng hết công suất, có nơi lại không được đầu tư. Như vậy, việc phân bổ nguồn vốn đầu
tư của Nhà nước ta vẫn chưa hiệu quả.
Thứ ba: Việc xin được miễn giảm thuế theo giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của
Việt Nam gặp rất nhiều phiền phức: ngành thuế quy định doanh nghiệp phải làm “Đơn
xin được ưu đãi” hoặc yêu cầu xem lại dự án đầu tư hoặc chỉ được hưởng miễn giảm
thuế khi chứng minh việc đầu tư có hiệu quả lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước.
Trong khi thị trường xuất khẩu đang gặp khó khăn, quy định này trở thành một trở ngại
lớn đối với doanh nghiệp.
Thứ tư: Thuế suất thuế nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất trong nhiều trường
hợp vẫn còn cao hơn thuế nhập khẩu sản phẩm hoàn chỉnh (ví dụ: thuế suất nhập khẩu
nguyên liệu vải mộc và vải pha là 40% trong khi vải thành phẩm là 20%) làm cản trở
việc thực hiện nội địa hoá sản phẩm.
Bên cạnh đó, quy định doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu phải nộp đủ thuế
nhập khẩu theo quy định và làm thủ tục xin hoàn thuế khá phức tạp mất nhiều thời gian
và phụ thuộc vào các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Thứ năm: Hiện nay nhà sản xuất vải bán trong nước để may hàng xuất khẩu vẫn
chưa được miễn thuế GTGT mặc dù Chính phủ đã đồng ý miễn thuế GTGT với loại
hàng này.
Thứ sáu: Ngành dệt may được Chính phủ coi là trọng tâm của công tác xuất
khẩu, đã đề nghị thưởng xuất khẩu hàng dệt may theo tỷ lệ 327 đ/1 USD, chủ trương
này đã được Chính phủ đồng ý nhưng đến nay vẫn chưa có hướng dẫn thực hiện. Nếu
các khuyến khích này được thực hiện thì sẽ có tác dụng tích cực để đẩy mạnh hàng dệt
may Việt Nam nói chung và vào thị trường Mỹ nói riêng.
Thứ bảy: Theo quy định về nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp sản xuất gia công
hàng xuất khẩu có sử dụng nhãn hiệu nước ngoài phải xin giấy chứng nhận tại Cục Sở
hữu công nghiệp Việt Nam. Giấy chứng nhận này có hiệu lực một tháng nhưng thực tế
có khi doanh nghiệp phải mất tới hai tháng mới nhận được.
Thứ tám: Doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ đều vướng mắc về Luật
Lao động Việt Nam hiện hành. Luật pháp Mỹ rất chặt chẽ, vì vậy các đối tác Mỹ rất
quan tâm tới tiêu chuẩn SA 8000 (chứng chỉ về Hệ thống trách nhiệm xã hội) liên quan
đến chế độ sử dụng lao động trong các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu (quy định số
giờ làm thêm...); điều này mâu thuẫn với Lụât Lao động Việt Nam (theo Luật, doanh
nghiệp chỉ được sử dụng lao động ngoài giờ không quá 200 giờ/năm). Thực tế này
không được sửa đổi sẽ hạn chế xuất khẩu vào Mỹ, sẽ mất các hợp đồng lớn của các
hãng có tên tuổi của Mỹ. Ngành dệt may kiến nghị sửa đổi quy định “làm thêm giờ”
trong Luật lao động Việt Nam, tăng lên 400 giờ/năm. Đây là vấn đề đang hạn chế
nghiêm trọng chiến dịch tăng tốc của ngành dệt may, đặc biệt khi xuất khẩu vào Mỹ.
Bên cạnh đó là những tiêu cực và những thủ tục hành chính phức tạp, chồng chéo
gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Đồng thời, các quy định mới được ban hành không
được thông tin đầy đủ và kịp thời đến các doanh nghiệp hoặc không có một thời gian
đệm hợp lý cho các nhà đầu tư chuẩn bị trước khi các quy định mới có hiệu lực.
2.3.3-Nguyên nhân
Những tồn tại trong các chính sách hỗ trợ của Nhà nước để thúc đẩy xuất khẩu
hàng dệt may sang thị trường Mỹ xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu sau;
Một là: Nguyên nhân trong quá trình hoạch định chính sách. Khi đưa ra các
chính sách để hỗ trợ cho ngành dệt may, Chính phủ đã chưa tính đến tất cả các khía
cạnh cần phải hỗ trợ của ngành dệt may. Bên cạnh đó, có những vấn đề đã được chú ý
đến nhưng vẫn còn chưa triệt để, chưa giải quyết hết những nhu cầu, những đòi hỏi của
ngành dệt may trong quá trình tiến hành xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Hai là: Nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách. Có nhiều những chính
sách hỗ trợ cho ngành dệt may xuất khẩu sang Mỹ rất hiệu quả, tuy nhiên cho đến nay
các chính sách này vẫn chưa được thực hiện. Một khi các chính sách này được thực hiện
thì chắc chắn ngành dệt may sẽ có cơ hội tăng nhanh xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Chính vì những lý do đó, điều chỉnh kịp thời các chính sách của Nhà nước đối
với họat động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ là yếu tố quan trọng cho sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp tạo sức cạnh tranh cho sản phẩm.
Chương III. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang
Mỹ những năm tới
3.1-Chiến lược xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ những năm tới
3.1.1-Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ
Có thể nói, Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn nhất và luôn giữ vị trí dẫn đầu thế giới
về nhập khẩu hàng may mặc. Giá trị kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này liên tục tăng
qua các năm. Ngay từ năm 1995, con số kim ngạch nhập khẩu đã đạt trên 40 tỷ USD,
những năm gần đây kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ đạt trên 60, gần 70
tỷ USD, trong đó kim ngạch từ Châu á chiếm khoảng 55%, Bắc Mỹ: 17%, Mỹ la tinh:
10%, Tây Âu: 7%, Trung Đông: 2,5%, Châu Phi: 2,5%. Hiện nay, hàng nhập khẩu
chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng mức tiêu thụ trên thị trường Hoa Kỳ. Trong những
năm tới, tỷ trọng hàng nhập khẩu còn lớn hơn và tiếp tục có xu hướng gia tăng.
Với dung lượng và khả năng tiêu thụ rất lớn của thị trường Mỹ, Việt Nam hoàn
toàn có cơ hội tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường Mỹ, một thị
trường đang được xem là có mức tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới.
Do tác động của xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế Mỹ, ngành dệt may của nước này đang mất dần các lợi thế so sánh. Hàng
nhập khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức tiêu thụ trên thị trường Mỹ. Xu
hướng gia tăng hàng dệt may nhập khẩu của Mỹ đã và đang mở ra cơ hội to lớn và đầy
hấp dẫn đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ, trong đó có Việt
Nam.
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết đã mở ra nhiều triển vọng mới cho
ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn tới. Khi được hưởng thuế suất NTR, xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam sẽ gia tăng mạnh vì với cơ hội tiếp cận thị trường Mỹ ngang
bằng với hầu hết các nước khác, các nhà xuất khẩu hàng dệt may chắc chắn sẽ tìm thấy
thị phần riêng của mình. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh xuất khẩu chỉ có thể được duy trì
song song với việc đầu tư hiệu quả để đổi mới công nghệ sản xuất và nắm bắt biến động
của thị trường.
Theo các chuyên gia thương mại Việt Nam tại Mỹ dự đoán, sau khi Việt Nam
được hưởng NTR, nếu chuẩn bị tốt các điều kiện, Việt Nam có thể xuất vào thị trường
này lượng hàng dệt may các loại đạt giá trị vài trăm triệu USD ngay từ năm đầu tiên.
Bởi, không phải đến bây giới mà ngay sau khi Tổng thống Mỹ tuyên bố bình thường
hoá với Việt Nam, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã có hàng vào thị trường
Mỹ. Điển hình là Công ty May Thăng Long – doanh nghiệp đầu tiên xuất khẩu sản
phẩm dệt may sang Mỹ. Hiện nay, mỗi tháng công ty xuất trên 100.000 sản phẩm bao
gồm: sơ mi, quần áo dệt kim các loại. Công ty Dệt Thành Công đến nay đã đầu tư trên
70 tỷ đồng đổi mới thiết bị, mở rộng nhà xưởng, nâng cao năng lực dệt lên 8 lần, nhuộm
lên 10 lần so với thời bao cấp. Hàng của Công ty Dệt Thành Công chất lượng không
thua kém so với hàng cùng loại của các nước tiên tiến. Sản phẩm của Công ty Thành
Công vào thị trường Mỹ là vải thun và quần áo dệt kim – những mặt hàng người Mỹ ưa
chuộng.
Tiềm năng của hàng dệt may Việt Nam là rất lớn. Vài năm tới, kim ngạch xuất
khẩu của ngành dệt may vào Mỹ có thể tăng nhanh chóng.
3.1.2-Định hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ những năm tới
Căn cứ vào năng lực xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam và triển vọng xuất
khẩu sang thị trường Mỹ, chúng ta có thể tin tưởng khả năng tiếp cận và phát triển trên
thị trường Hoa Kỳ của sản phẩm dệt may Việt Nam sẽ trở thành hiện thực trong tương
lai không xa. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang các thị trường khó tính như EU,
Nhật Bản vẫn tăng trưởng ổn định qua các năm, đủ sức chứng minh sản phẩm của
chúng ta có thể cạnh tranh được với các đối thủ khác trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên,
để có thể thuyết phục thị trường thế giới tốt hơn nữa, ngành dệt may Việt Nam cần phải
nỗ lực khắc phục những mặt còn tồn tại. Nếu thực hiện tốt vấn đề này, triển vọng thâm
nhập thị trường dệt may Hoa Kỳ sẽ ngày càng sáng sủa và khả thi hơn, bởi lẽ Hoa Kỳ
được nhìn nhận như một khu vực tiêu thụ “không có điểm dừng”.
Với dung lượng nhập khẩu hàng dệt may khoảng 60 tỷ USD/năm, Mỹ là thị
trường tiêu thụ có tiềm năng rất lớn. Chỉ cần chiếm thị phần 1% giá trị nhập khẩu hàng
dệt may trên thị trường Mỹ, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt may Việt Nam sẽ
tăng lên đáng kể. Nếu có những bước tiếp cận và thâm nhập thích hợp vào thị trường
này thì dự báo kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ có mức tăng khả quan trong
những năm tới. Nhất là từ sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được Quốc hội hai
nước thông qua, và một Hiệp định song phương về hàng dệt may được ký kết, hai nước
trao cho nhau quy chế thương mại bình thường (NTR), hàng dệt may xuất khẩu Việt
Nam được hưởng thuế suất ưu đãi (MFN) thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm
2005 dự báo đạt 450 triệu USD và năm 2010 đạt 750 – 850 triệu USD với tốc độ tăng
trưởng bình quân 10 – 13,5%/năm trong giai đoạn 2006 – 2010.
Tuy nhiên, trong những năm tới, hàng dệt may Việt Nam sẽ phải chịu những bất
lợi như bị khống chế bằng hạn ngạch và vấn đề xuất xứ. Mặt khác, thị trường Mỹ cũng
đòi hỏi phải đáp ứng các quy định chặt chẽ về sản phẩm theo Hệ thống quản lý chất
lượng ISO 9000, tuân thủ các quy định theo Luật thương mại Mỹ về thủ tục xuất nhập
khẩu, về nhãn hiệu hàng hoá và xuất xứ sản phẩm cũng như quy định khắt khe về thời
hạn giao hàng. Việc Trung Quốc được công nhận là thành viên của WTO với những lợi
thế về xuất khẩu hàng dệt may cũng như xu hướng tăng buôn bán nội khu vực các nước
được hưởng ưu đãi NAFTA của Mỹ trong những năm gần đây cũng gây nhiều khó khăn
cho các nước xuất khẩu hàng dệt may Châu á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Mặc dù phải đối mặt với những khó khăn và thách thức nói trên, song theo đánh
giá của các nhà chuyên môn, khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam là khá lớn
và nhu cầu của thị trường Mỹ vẫn có xu hướng tăng trong những năm tới.
Trong chiến lược phát triển xuất khẩu 2001 – 2010, với chủ trương tiếp tục mở
rộng thị trường xuất khẩu theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ đối
ngoại, Việt Nam coi Mỹ là thị trường đầy tiềm năng của khu vực Bắc Mỹ và là một thị
trường có nhiều điều kiện phát triển. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào
thị trường Hoa Kỳ ước tính sẽ chiếm tới 11% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành
vào năm 2010.
Tương lai, cùng với sự phát triển và thịnh vượng của nhiều nước, thị trường dệt
may sẽ còn tiếp tục tiến triển theo xu thế mở rộng, khối lượng buôn bán không ngừng
tăng lên; việc chuyển dịch sản xuất hàng may mặc từ các nước phát triển sang các nước
đang phát triển là quy luật tất yếu. Khi đó, vai trò của các nước trong quan hệ thương
mại hàng dệt may cũng có nhiều biến đổi: những nước trước kia chuyên sản xuất nay sẽ
trở thành nước nhập khẩu và ngược lại, những nước chuyên nhập khẩu sẽ đóng vai trò
cung cấp. Với một chiến lược phát triển đúng đắn, ngành dệt may Việt Nam hoàn toàn
có thể nâng cao năng lực sản xuất cũng như năng lực cạnh tranh, hơn nữa thị trường
Hoa Kỳ đang dần mở rộng với sức tiêu thụ rất lớn. Hai yếu tố khách quan và chủ quan
đó đủ để ngành dệt may Việt Nam dám tháy, dám tin vào những triển vọng tốt đẹp trong
tương lai.
3.1.3-Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ giai đoạn 2001 – 2010
Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế, đặc biệt là chiến lược xuất khẩu đến
năm 2010 của Chính phủ, tiềm năng thị trường nội địa cũng như thị trường xuất khẩu
của hàng dệt may Việt Nam, Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược tăng tốc phát triển
ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010”. Trong chiến lược này đã khẳng định thị
trường Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng và triển vọng mà các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam cần nỗ lực để thâm nhập thành công. Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may sang
thị trường Mỹ giai đoạn 2001 – 2010 được chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1 (Từ năm 2001 – 2006): Doanh số xuất khẩu đạt 500 – 600 triệu
USD. Hai năm đầu tiên phải tăng tốc độ 6 – 7 lần.
Giai đoạn 2 (Từ năm 2006 – 2010 ): Doanh số xuất khẩu đạt 1,2 tỷ USD với tốc
độ tăng bình quân mỗi năm là 15%.
3.2-Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ những năm tới
Những kết quả đạt được của ngành dệt may trong những năm qua cho thấy, sự
phát triển và những tác động của ngành đã phản ánh trực tiếp kết quả của việc đổi mới
một số chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Nói cách khác, trên cơ sở xác định rõ
vai trò và vai trò của thị trường Mỹ trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam,
Chính phủ đã có những giải pháp chính sách cụ thể, bảo đảm sự trợ giúp và khuyến
khích phát triển. Tuy nhiên, căn cứ vào năng lực sản xuất và xuất khẩu của ngành dệt
may, mục tiêu định hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ từ nay
đến năm 2010, căn cứ vào triển vọng của thị trường nhập khẩu hàng dệt may Mỹ cũng
như những đòi hỏi của thị trường này, Nhà nước cần phải có những đổi mới và có
những bước cải tiến tích cực hơn nữa nhằm giúp cho ngành công nghiệp dệt may Việt
Nam cất cánh, nhanh chóng hội nhập vào thị trường Mỹ.
3.2.1-Nhóm công cụ hỗ trợ sản xuất
a/ Chính sách đầu tư phát triển
Việc xây dựng và thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư đến năm 2010, ngoài việc
đầu tư chiều sâu và mở rộng các doanh nghiệp hiện có, ngành dệt may dự kiến đầu tư
xây dựng 10 cụm doanh nghiệp dệt may theo từng vùng là định hướng phát triển mới có
tính hiệu quả và khả thi cao. Đối với 10 cụm doanh nghiệp này, Chính phủ chỉ đạo các
Tỉnh, Thành phố cấp đất (không thu phí) để xây dựng. Nên khuyến khích các dự án đầu
tư mới ngành dệt may vào các cụm công nghiệp tập trung để thuận tiện cho việc xử lý
môt trường và liên kết kinh doanh bằng các chính sách ưu đãi đầu tư, cụ thể là:
- giảm 50% phí hạ tầng trong 5 năm đầu
- Miễn thuế thu nhập (thuế lợi tức) trong 5 năm đầu và được giảm 50% trong 5
năm tiếp theo
Để hướng tới sự phát triển nhanh và bền vững của ngành dệt may Việt Nam,
chính sách thu hút đầu tư và hỗ trợ đầu tư cần lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Các mục tiêu đầu tư mang tính cấp thiết trước mắt là phát triển và hiện
đại hoá ngành sợi dệt, đồng bộ hoá trình độ công nghệ của ngành may. Mục tiêu có tính
chất trung hạn và dài hạn là sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt (gồm cả trồng bông,
trồng dâu nuôi tằm, sản xuất sợi hoá học, thuốc nhuộm), sản xuất các phụ liệu cho
ngành may, cơ khí dệt may.
Thứ hai: Đối với ngành dệt may xuất khẩu, cần ưu tiên trong việc thành lập các
liên doanh may xuất khẩu và thị trường Mỹ và cam kết cấp Quota vào Mỹ (nếu có)
tương ứng với số thực xuất trong các năm được hưởng chế độ phi Quota.
Thứ ba: Có sự phân công hợp lý giữa đầu tư Nhà nước và đầu tư nước ngoài.
Đầu tư của Nhà nước trực tiếp vào ngành dệt may chủ yếu hướng vào xây dựng mới
một số cơ sở hiện đại, đặc biệt là ngành dệt và các cơ sở sản xuất tơ sợi hoá học, hoá
chất, thuốc nhuộm, đầu tư đổi mới công nghệ, hiện đại hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Ngành dệt may tuy có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã
hội ở Việt Nam nhưng lại là ngành sản xuất hàng hoá thông thường, bởi vậy, Nhà nước
không cần nắm giữ và khống chế. Việc đa dạng hoá hình thức sở hữu các doanh nghiệp
Nhà nước trong ngành dệt may cần được coi là hướng tất yếu. Qua đó, Nhà nước có thể
thu lại được nguồn vốn lớn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu ưu tiên.
Thứ tư: Để các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước tập trung theo định hướng
phát triển ngành dệt may, cần có những kích thích đủ mạnh, tạo sự hấp dẫn cao đối với
các nhà đầu tư. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
vào phát triển công nghiệp dệt và sản xuất các nguyên phụ liệu cho ngành công nghiệp
dệt may nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng lạc hậu của ngành dệt và may. Định
hướng này cần được trợ giúp bằng những khuyến khích mạnh mẽ hơn qua những ưu đãi
về thuê đất, về thuế, về tiêu thụ sản phẩm.
Thứ năm: Đổi mới chính sách tín dụng cho đầu tư đổi mới công nghệ của các
doanh nghiệp. Trước mắt tập trung vào những nội dung sau:
- Mở rộng tín dụng đầu tưu dài hạn với những điều kiện ưu đãi cho các doanh
nghiệp dệt may đầu tư đổi mới công nghệ. Tình trạng sử dụng tín dụng ngắn hạn vào
mục đích đầu tư chắc chắn sẽ gây bất ổn về tài chính cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
- Phân phối nguồn tài trợ ODA với những điều kiện ưu đãi về thời hạn hoàn vốn và lãi
suất cho việc đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế.
- áp dụng hình thức thuê mua tài chính cho các doanh nghiệp may xuất khẩu, dần dần
mở rộng cho tất cả các doanh nghiệp trong ngành dệt may. Với hình thức này, ngân
hàng thương mại sẽ tham gia trực tiếp hơn vào sự phát triển công nghiệp dệt may và
thực sự trở thành người bạn đồng hành với các doanh nghiệp dệt may.
- Tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển
ngành dệt may, trong đó hướng khuyến khích là ngành công nghiệp dệt bằng việc tạo
những khuyến khích mạnh mẽ và đơn giản hoá các thủ tục.
b/ Chính sách về nguyên phụ liệu
Vấn đề nguyên liệu cho ngành may hiện đang là vấn đề lớn của ngành dệt may
nước ta. Bên cạnh đó, công nghiệp phụ liệu chưa được quan tâm đúng mức càng làm
cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may nói chung và xuất khẩu sang thị trường Mỹ nói
riêng đạt hiệu quả kinh tế thấp. Để khắc phục tình trạng này, cần có quy hoạch và các
chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng phát triển vùng nguyên liệu, đồng thời phải có
chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may mặc.
Để chủ động cung ứng được nguyên liệu chính của ngành dệt với giá cả cạnh
tranh, việc đầu tư phát triển cây bông vải cần được Chính phủ quan tâm, hỗ trợ. Hiện
nay, diện tích trồng bông mới đạt 22.600 ha với sản lượng bông xơ 6.700 tấn (đáp ứng
11% nhu cầu của ngành dệt). Dự kiến đến năm 2010, diện tích trồng bông vải cần đạt
150.000 ha với sản lượng bông xơ 95.000 tấn, đáp ứng 70% nhu cầu ngành dệt. Để thực
hiện mục tiêu này, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và uỷ ban nhân dân các
Tỉnh sớm thực hiện Quyết định số 168/1999/QĐ-CP ngày 17/8/1999 của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển cây bông và Nghị quyết số
09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Trước mắt cần sớm thực hiện những vấn
đề sau đây:
Quy hoạch các vùng trồng bông trên cơ sở bố trí lại cơ cấu cây trồng thích hợp
để tăng nhanh diện tích trồng bông. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như thuỷ lợi, giao
thông cho các vùng trồng bông để tăng nhanh diện tích trồng bông.
Hỗ trợ vốn cho Công ty Bông Việt Nam trong công tác quy hoạch vùng trồng
bông, nghiên cứu khoa học, khuyến nông, sản xuất hạt giống, chế biến bông để đủ khả
năng giữ vai trò chủ đạo của ngành sản xuất bông. Cơ cấu vốn đề nghị hỗ trợ như sau:
Tổng vốn đầu tư cho ngành bông trong 10 năm 2001 – 2010 là 1.505 tỷ đồng,
trong đó: Vốn ngân sách cấp là 605 tỷ đồng; Vốn tự huy động là 300 tỷ đồng; Vốn vay
tín dụng ưu đãi là 600 tỷ đồng.
Cho phép Công ty Bông Việt Nam thực hiện khoản vay ODA 60 triệu FFR của
Chính phủ Pháp (thông qua tổ chức AFD) theo đúng thời hạn 23 năm, 3 năm ân hạn, lãi
suất 35 năm như phía Pháp đã ký với Việt Nam.
Cho phép ngành bông vải được sử dụng các quỹ sau:
- Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp để giúp cho nông dân trồng bông trong giai
đoạn đầu.
- Quỹ bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đầu tư tín
dụng cho nông dân trồng bông.
- Quỹ bảo hiểm ngành hàng đối với một số hàng nông sản xuất khẩu và thay thế nhập
khẩu.
Bên cạnh chương trình phát triển cây bông vải, cần phải thực hiện đồng bộ cả
việc phát triển các cơ sở chế biến. Ngay sau khi thu hoạch, các cơ sở chế biến phải sẵn
sàng tiếp nhận để chế biến, tránh trường hợp không có đầu ra cho cây bông.
Nhà nước cũng nên miễn thuế nhập khẩu các loại hoá chất, thuốc nhuộm, thuốc
trợ nhuộm trong nước chưa sản xuất được, cho giảm thuế VAT vải sợi xuống 5% và
tăng thời gian khấu hao cơ bản các máy sợi, dệt từ 10 năm lên 15 năm nhằm tạo điều
kiện giảm giá thành vải cung cấp trong nước, thúc đẩy việc sử dụng vải sợi để may hàng
xuất khẩu. Hiện nay mới chỉ có doanh nghiệp dệt FDI được hoàn thuế khi bán vải để
tiếp tục may xuất khẩu. Đề nghị cho các doanh nghiệp dệt khác cũng được hưởng quy
định này và Bộ Tài chính cho hoàn thuế nhanh để các nhà máy dệt được thuận lợi.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may mặc, Nhà nước nên có nhiều
biện pháp ưu tiên để thúc đẩy việc sản xuất mặt hàng này. Phát triển hệ thống công ty
sản xuất nguyên phụ liệu trong nước sẽ là một hướng đi đúng nhằm sản xuất một cách
đồng bộ tất cả các loại phụ liệu cần thiết. Các cơ quan chức năng cần tạo điều kiện
thuận lợi cho các dự án sản xuất phụ liệu may mặc có công nghệ hiện đại. Ngoài ra, Nhà
nước cần có chính sách khuyến khích sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước. Dành
một tỷ lệ thích đáng quỹ thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp may xuất khẩu sử
dụng nguyên phụ liệu trong nước và ưu tiên hạn ngạch cho các doanh nghiệp sử dụng
nguyên phụ liệu được sản xuất trong nước với tỷ lệ cao là một biện pháp tốt nhất cho
vấn đề này. Trong thời gian chưa thể tự túc phụ liệu, nên kết hợp sản xuất phụ liệu trong
nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ liệu.
Theo ước tính, phụ liệu chiếm khoảng 10 – 15%, có khi đến 25 – 35% giá thành sản
phẩm may, vì vậy, nếu chủ động và hạ chi phí bằng cách lựa chọn hợp lý, chính xác nhà
cung cấp có thể đem lại hiệu quả đáng kể trong việc giảm giá sản phẩm này.
c/ Chính sách về khoa học công nghệ
Thực hiện chính sách “hai tầng công nghệ”: công nghệ cao, đòi hỏi nhiều vốn
nhằm sản xuất các mặt hàng cao cấp, rút ngắn khoảng cách về trình độ công nghệ dệt
may với các nước tiên tiến kết hợp với công nghệ ít vốn, sử dụng nhiều lao động và giải
quyết việc làm, thích hợp với những cơ sở sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ, tạo ra sản
phẩm với giá thành hạ, có tính cạnh tranh cao. ưu tiên cho công nghệ may vi tính nhằm
nâng cao năng lực sáng tạo mẫu mã. Có chính sách khuyến khích đầu tư với các dự án
sản xuất sản phẩm mới theo hệ thống quản lý chất lượng TQM, ISO 14000, ISO 9000.
Triển khai và tăng cường hiệu quả của Hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm thu
hút công nghệ mới trong khu vực và hợp tác phát triển sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá,
phát huy thế mạnh mỗi nước trong hợp tác kinh tế.
Đầu tư công nghệ sản xuất hàng dệt kim cotton OE 100% nhằm phục vụ mục
tiêu xuất khẩu sang thị trường Mỹ, phù hợp với yêu cầu về quy trình ráp sản phẩm, chất
lượng và kiểu dáng... theo thị hiếu của khách hàng.
Tuy nhiên, nếu đầu tư cho công nghệ mới mà không thể tận dụng được hết các
tính năng thì cũng không thể đưa ngành dệt may phát triển được. Vì vậy, công tác đào
tạo cán bộ khoa học dệt may cần phải được Chính phủ quan tâm. Để giải quyết vấn đề
này, Nhà nước cần có các biện pháp:
- Hỗ trợ kinh phí để củng cố, nâng cấp các Viện nghiên cứu; cung cấp, trang bị các
thiết bị cần thiết cho các phòng thí nghiệm, các trường đào tạo... để tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác nghiên cứu và thực hành, là tác nhân thúc đẩy công nghệ của ngành dệt
may phát triển. Tăng cường đầu tư nghiên cứu và triển khai các dự án có tính khả thi,
luôn đi trước, đón trước những công nghệ tiên tiến để áp dụng vào sản xuất mang lại
hiệu quả cao.
- Có cơ chế đãi ngộ thoả đáng đối với cán bộ nghiên cứu khoa học nói chung và của
ngành dệt may nói riêng để động viên, khuyến khích và giữ gìn lực lượng này để họ yên
tâm phục vụ cho sự nghiệp khoa học, tránh tình trạng chảy máu chất xám qua các công
ty nước ngoài hay chuyển sang làm các ngành nghề khác.
Ngoài ra, Nhà nước cần khuyến khích việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ về
nguyên liệu mới thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển công nghệ. Nguồn vốn lập quỹ một
phần lấy từ Ngân sách Nhà nước, một phần do chính các doanh nghiệp đóng góp. Hiện
nay, thế giới đã có nhiều thành tựu lớn trong việc phát triển nguyên vật liệu sản xuất
mới. Việt Nam cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, hơn nữa, nhiều
nhà khoa học của Việt Nam đang cố gắng nghiên cứu công nghệ tận dụng nguyên liệu
tơ làm nguyên liệu kéo sợi nhưng các dự án chưa được triển khai do nguồn tài chính hạn
hẹp. Quỹ hỗ trợ phát triển công nghệ mới của Nhà nước sẽ là một trong những biện
pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề này.
d/ Chính sách về lao động và phát triển nguồn nhân lực
Văn hoá thấp, tay nghề thấp – Thiếu hiểu biết về pháp luật, kỹ thuật – Khó nâng
cao tay nghề – Năng suất thấp – Làm việc nhiều giờ – Không có thời gian học tập... và
hệ quả là văn hoá, tay nghề tiếp tục thấp. Đó là thực trạng của nguồn nhân lực dệt may
Việt Nam hiện nay. Do vậy, việc đầu tư cho đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ
quản lý là hết sức cần thiết và không thể chậm trễ.
Cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích và thu hút các học sinh có khả năng theo
học ngành công nghiệp dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư dệt may trầm trọng đã
xuất hiện và có thể kéo dài trong một vài năm tới. Nhà nước nên cấp kinh phí đào tạo
cho các trường dạy nghề để đào tạo miễn phí cho lực lượng lao động ở những vùng
nông thôn khó khăn nhưng chấp nhận học nghề may công nghiệp để vào làm việc tại
các doanh nghiệp may, dĩ nhiên với nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy
phải được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của ngành. Nhà nước cần chỉ đạo các
Bộ ngành liên quan như Bộ Giáo dục, Bộ khoa học và công nghệ... lập chương trình đào
tạo phù hợp với nhu cầu thực tế.
Về đào tạo đại học: chú trọng tới các loại hình kỹ sư công nghệ, kỹ sư thực hành,
cử nhân quản trị kinh doanh. Kỹ sư công nghệ cần có trình độ cả về lý thuyết lẫn thực
hành thiết kế, nắm được nguyên tắc vận hành thiết bị công nghệ. Kỹ sư thực hành (cao
đẳng kỹ thuật) trực tiếp điều hành sản xuất nên khi đào tạo cần chú trọng vào khâu thực
hành. Cử nhân quản trị kinh doanh, ngoài nghiệp vụ chuyên môn, phải am hiểu đặc thù
riêng của ngành để có thể đề ra các biện pháp quản lý có hiệu quả. Ngoài ra, cần thiết
đào tạo một đội ngũ cán bộ có trình độ trên đại học làm nòng cốt cho công tác nghiên
cứu khoa học của ngành. Đặc biệt, phải ưu tiên đào tạo cho các chuyên gia về thiết kế
thời trang và Marketing khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may xuất khẩu trong
khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trường, từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang
xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.
Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kịp thời, đảm bảo công ăn việc
làm, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động, khắc phục tình trạng thiếu lao
động do các kỹ sư công nghệ và công nhân có tay nghề bị “hút” sang các công ty liên
doanh đang ngày càng trầm trọng hơn trong ngành dệt may.
e/ Chính sách về tổ chức quản lý
Những bất cập trong công tác quản lý xuất nhập khẩu, các chính sách tài chính,
thuế, ưu đãi đầu tư..., những thủ tục hành chính rườm rà đang gây nhiều trở ngại cho các
nhà đầu tư Việt Nam cũng như các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước. Cần
phải khắc phục những bất cập này nhằm tạo một môi trường thuận lợi cho hoạt động
của các doanh nghiệp, tạo thế mạnh trong thu hút đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ vào
Việt Nam thông qua hệ thống chính sách hợp lý và thông thoáng.
Như hầu hết các nước sản xuất mạnh về dệt may, đều có một tổ chức cấp quốc
gia để phối hợp trong việc hoạch định và thực hiện chính sách phát triển, kiến nghị
Chính phủ nghiên cứu thành lập văn phòng “Chương trình quốc gia phát triển ngành dệt
may” đặt thường trực tại Bộ Công nghiệp với sự tham gia kiêm nhiệm của đại diện một
số Bộ tổng hợp khác và Hiệp hội dệt may Việt Nam. Văn phòng có nhiệm vụ tham mưu
cho Chính phủ trong việc hoạch định và theo dõi việc thực hiện một cách đồng bộ các
chính sách phát triển ngành dệt may Việt Nam.
Bên cạnh đó, tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả
nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt may với các trung tâm tiêu thụ và
xuất khẩu. Cụ thể là:
- Gắn vùng công nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác nhằm tận dụng lao
động, mối quan hệ liên ngành.
- Gắn các công trình chế biến, kéo sợi dệt tơ tằm với vùng nguyên liệu dâu tằm.
- Gắn công nghiệp dệt may (là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động) vào các
vùng trung tâm dân cư để vừa tận dụng lao động tại chỗ, vừa tận dụng điều kiện hạ tầng
giao thông, dịch vụ, văn hoá, thông tin, vận chuyển...
- Gắn công nghiệp dệt may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu, sợi, dệt,
nhuộm may dịch vụ... giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm, nâng cao một
bước công nghiệp hoá và có điều kiện gọi vốn nước ngoài.
Trên nguyên tắc trên, dự kiến quy hoạch dệt may thành hai vùng chính:
- Vùng quy hoạch chiến lược I: Gồm Thành phố Hồ Chí Minh là trọng tâm và các tỉnh
Đồng Nai, Bà Rịa, Long An, Cần Thơ... Đây chính là vùng có năng lực dệt may lớn,
dân cư đông, cơ sở hạ tầng, ngành nghề truyền thống mạnh. Vùng này chiếm 25 – 30%
năng lực sản xuất của cả nước.
- Vùng quy hoạch chiến lược II: Gồm Thành phố Hà Nội là trọng tâm và một số tỉnh
trọng điểm thuộc Đồng bằng sông Hồng như Nam Định, Hải Hưng, Vĩnh Phú, Hải
Phòng, Thái Bình... và một số tỉnh thuộc khu 4 cũ: Nghệ An, Thanh Hoá. Đây là vùng
có mật độ dân cư cao nhất, nhiều làng xã có làng nghề truyền thống. Dự kiến vùng này
sẽ chiếm 15 – 20% năng lực sản xuất của cả nước.
3.3.2-Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm
a/ Chính sách thuế quan
Nhà nước cần đổi mới chính sách thuế quan theo hướng:
- Ưu đãi đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan đến xuất
khẩu hàng hoá, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, tận dụng
nguyên liệu trong nước, xuất khẩu sang thị trường mới.
- Giảm bớt mức độ bảo hộ nhằm tăng cường tính sáng tạo, thúc đẩy, nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Ngành dệt may là ngành nhập khẩu hầu hết nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng xuất
khẩu. Nhà nước đã coi ngành dệt may là ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước thì
nên áp dụng thuế suất 0% đối với nguyên liệu chính nhập khẩu như bông, vải sợi và áp
dụng thuế suất ưu đãi cho các nguyên liệu khác. Khi đã đảm bảo được phần lớn nguyên
phụ liệu chủ động sản xuất hàng xuất khẩu, có thể tăng mức thuế lên để đảm bảo nguồn
thu ngân sách, đồng thời bảo hộ sản xuất nguyên liệu trong nước.
- Việc hoàn thuế tạm nhập tái xuất cần phải tiến hành nhanh hơn, tránh tình trạng nhà
sản xuất bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài (trong thực tế hiện nay diễn ra quá chậm
chạp, thủ tục phiền hà). Nhà nước nên quyết định cơ quan nào thu thuế sẽ có trách
nhiệm hoàn thuế để các doanh nghiệp không phải gõ cửa nhiều nơi, đồng thời quyết
định thủ tục hoàn thuế phải hoàn thành trong bao nhiêu ngày nếu doanh nghiệp có đầy
đủ chứng từ hợp lệ.
- Nhà nước cũng nên miễn thuế nhập khẩu các loại hoá chất, thuốc nhuộm, thuốc trợ
nhuộm trong nước chưa sản xuất được, cho giảm thuế suất VAT vải sợi xuống 5% và
tăng thời gian khấu hao cơ bản các loại máy sợi, dệt từ 10 đến 15 năm nhằm tạo điều
kiện giảm giá thành vải cung cấp trong nước, thúc đẩy việc sử dụng vải sợi để may hàng
xuất khẩu. Hiện nay mới chỉ có các doanh nghiệp FDI mới được hoàn thuế nhập khẩu
khi bán vải để tiếp tục may xuất khẩu. Đề nghị cho các doanh nghiệp khác cũng được
hưởng quy định này và Bộ Tài chính cho hoàn thuế nhanh để các doanh nghiệp dệt được
thuận lợi.
- Đối với Luật thuế GTGT mới áp dụng cần giảm mức thuế suất 10% đối với các
doanh nghiệp kéo sợi và may mặc xuống 5%. Mức thuế suất 10% là quá cao so với
mức thuế suất doanh thu trước đây (2% và 4%). Với thuế VAT 10%, doanh nghiệp sẽ
phải nộp thuế nhiều hơn trước 45 – 70%, điều đó không phù hợp với một ngành đang
rất cần đẩy mạnh xuất khẩu.
b/ Chính sách thị trường
Trong điều kiện xu thế hội nhập đang phát triển mạnh mẽ, nhiều tổ chức thương
mại đã được hình thành và hoạt động khá rộng rãi như: Tổ chức thương mại thế giới
WTO, thị trường EU, khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ AFTA..., thị trường trở thành
vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Hiện nay, các nhà xuất khẩu dệt may Việt
Nam chưa có điều kiện để tìm kiếm, tiếp xúc và thâm nhập thị trường Hoa Kỳ khổng lồ.
Vì vậy, việc tổ chức các cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia, có chi nhánh tại các
trung tâm thương mại tại Hoa Kỳ để quản lý và định hướng cho hoạt động xuất khẩu có
ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Bộ phận xúc tiến thương mại chịu trách nhiệm đảm bảo cung cấp cho các nhà
xuất khẩu những thông tin về thị trường và điều kiện pháp lý khi xâm nhập thị trường
Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp có thể được tư vấn miễn phí tại các Đại sứ quán, Lãnh sự
quán và Đại diện dệt may ở nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước nên tài trợ cho các chuyến
công tác sang Hoa Kỳ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế
trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm. Đồng thời, thường xuyên tổ chức các cuộc
hội thảo chuyên đề về thị trường dệt may Hoa Kỳ nhằm nâng cao trình độ hiểu biết và
kinh nghiệm của nhà xuất khẩu Việt Nam khi tiếp cận thị trường này. Trước mắt,
Thương vụ Việt Nam và một số công ty tư vấn tại Hoa Kỳ phải thực hiện tốt các nhiệm
vụ sau:
- Đảm bảo cung cấp cho giới kinh doanh trong nước những kết quả phân tích có chất
lượng về điều kiện pháp lý và kinh doanh của thị trường Hoa Kỳ.
- Tiến hành đường lối kiên trì để Hoa Kỳ đưa ra những luật pháp mở cửa thị trường.
- Xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam với mục đích tăng cường kinh tế, đảm
bảo việc làm hiện có và tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới.
Về lâu dài, để tăng kim ngạch xuất khẩu nói chung, cần thiết lập hệ thống các
trung tâm thương mại tại một số thành phố lớn như New york, Los Angeles, San
Fransisco, Chicago, Boston... nhằm tạo cầu nối, giảm chi phí giao dịch cho các công ty
xuất nhập khẩu trong nước. Các trung tâm này có thể do Nhà nước đứng ra bảo trợ hoặc
kết hợp với các công ty của Mỹ và Việt kiều tổ chức...
Thương vụ sẽ phối hợp với các doanh nghiệp trong nước tiếp tục hỗ trợ tổ chức
các cuộc toạ đàm, hội thảo phổ biến các chính sách luật lệ của Mỹ, khảo sát thị trường
và tổ chức trưng bày, giới thiệu hàng hoá Việt Nam.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
Để có thể từng bước giảm tỷ lệ buôn bán qua trung gian, tăng cường xuất khẩu
trực tiếp. Nhà nước cần hỗ trợ ngành dệt may thành lập trung tâm thông tin. Trung tâm
này sẽ thực hiện các chức năng chủ yếu như thu thập, phân tích và thông tin cho các
doanh nghiệp thành viên về các thay đổi trên thị trường hàng dệt may, từ đó dự báo tình
hình thị trường trong thời gian tới, đồng thời tổ chức hội thảo các dịch vụ tư vấn.
Việc tham gia tích cực vào hệ thống thông tin ngành dệt may chắc chắn sẽ tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được thông tin về thị trường hàng dệt may các
nước, từ đó xây dựng được các chính sách phát triển sản xuất và mở rộng thị trường
đúng hướng cũng như tự giới thiệu mình với các bạn hàng, với mức chi phí thấp nhất.
“Trung tâm thông tin ngành dệt may”, do đó có thể là một giải pháp tốt cho các doanh
nghiệp dệt may trong việc giải quyết một phần những khó khăn về tài chính trong
Marketing xuất khẩu.
Tuy nhiên, xây dựng hệ thống thông tin đòi hỏi phải có sự nỗ lực và hợp tác chặt
của cơ quan quản lý hữu quan: Bộ Thương mại, Hiệp hội dệt may Việt Nam, Tổng cục
Hải quan, Ngân hàng Ngoại thương... cũng như sự cộng tác của từng doanh nghiệp, đảm
bảo cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, luôn được cập nhật và phải ngắn
gọn, dễ truy cập đốivới tất cả thành viên. Để đáp ứng các yêu cầu trên, hệ thống thông
tin cần được xây dựng như sau:
- Thiết lập mạng lưới thông tin cơ bản giữa các cơ quan quản lý kinh tế nhà nước, cụ
thể giữa Tổng cục Hải quan, Bộ Thương mại, Tổng cục thống kê, Ngân hàng ngoại
thương Việt Nam.
- Đa dạng hoá thông tin xung quanh mạng cơ bản, cụ thể là phát triển các trung tâm
thông tin ở các Bộ ngành trên. Các doanh nghiệp sản xuất xuất nhập khẩu hàng dệt may
thuộc các cấp quản lý khác nhau đều phải tập trung số liệu qua đơn vị quản lý rồi từ đó
thông tin nối mạng báo cáo về Tổng cục Hải quan. Nội dung báo cáo cần quy định rõ
ràng, chi tiết: mặt hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu, thị trường, sản lượng, giá cả... và các
thông tin khác.
Khẩn trương tiến hành các bước cần thiết để tham gia vào hệ thống thông tin
ngành dệt may khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Tạo khả năng truy cập nhanh, kịp
thời, đầy đủ các thông tin về tình hình sản xuất, buôn bán đầu tư... về hàng dệt may của
các đối thủ cạnh tranh trong khu vực, giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí trong
việc tiếp cận và đối phó với những áp lực cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ.
c/ Chính sách tỷ giá hối đoái
Đối với ngành dệt may, cần khuyến khích xuất khẩu sản phẩm và nhập khẩu máy
móc, công nghệ hiện đại, nguyên liệu phục vụ sản xuất. Vì vậy, việc duy trì một chính
sách tỷ giá thả nổi có quản lý như hiện nay là tối ưu. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện
nay, khi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ là không nhỏ, cần có giải
pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái một cách khéo léo. Khi điều chỉnh tỷ giá, cần chú ý tới
mối quan hệ chặt chẽ giữa tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu, phải có sự
chuẩn bị kỹ lưỡng trên cơ sở phân tích các biến số như: tỷ lệ lạm phát trong và ngoài
nước, cán cân thương mại, khuynh hướng thay đổi giá của các đồng tiền và tâm lý của
người dân. Việc điều chỉnh cần được thực hiện từ từ qua từng giai đoạn, nên tiến hành
trong thời điểm nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của nước ta đang ở mức tăng.
Đối với ngành dệt may, việc áp dụng chính sách nhiều tỷ giá là rất quan trọng vì
mong muốn xuất khẩu nhiều và nhập khẩu cũng lớn, nên áp dụng một tỷ giá cao cho
xuất khẩu và thấp cho nhập khẩu.
d/ Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu
Tín dụng và trợ cấp xuất khẩu là một công cụ hữu hiệu của Nhà nước để đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hoá. Đối với ngành dệt may – một ngành rất cần khuyến khích
xuất khẩu, Nhà nước cần có các chính sách phù hợp:
- Thành lập Quỹ Bảo hiểm và Quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước, đồng thời cho
phép Hiệp hội dệt may thành lập Quỹ Bảo hiểm riêng của ngành nhằm hỗ trợ cho các
doanh nghiệp khi giá cả thị trường thế giới có biến động cũng như khi gặp rủi ro trong
việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
- Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua công cụ lãi suất. Một điều hết sức
quan trọng là Nhà nước cần cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các dự án phát triển
vùng trồng bông để trong tương lai, Việt Nam có thể tự túc nguyên liệu ngành dệt. Điều
này có ý nghĩa hết sức to lớn bởi nếu không đáp ứng được nguồn nguyên liệu cơ bản,
chúng ta sẽ tránh được những bất lợi và bị động khi xảy ra những biến động về giá trên
thị trường nguyên liệu thế giới.
- Thành lập Quỹ thưởng xuất khẩu để có nguồn vốn thưởng cho các doanh nghiệp có
thành tích trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may.
Lời kết
Thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và mở rộng sự
hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế đã, đang và sẽ là mục tiêu phấn đấu của các
ngành, các cấp cũng như của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Với vị thế của một
ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế nước nhà, ngành dệt may Việt Nam đang
không ngừng đẩy mạnh xuất khẩu, tích cực tham gia vào quá trình tạo và tích luỹ vốn
cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để làm được điều này, bên cạnh
việc củng cố các thị trường truyền thống, ngành dệt may Việt Nam còn cần phải tiếp
cận với các thị trường mới, trong đó, thị trường Mỹ được đánh giá là một thị trường đầy
tiềm năng. Thị trường Mỹ là một thị trường còn bỏ ngỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam
nhưng lại chứa đựng không ít các cơ hội làm ăn đầy hứa hẹn. Vì vậy cần phải có các
biện pháp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu sang thị trường này.
Bên cạnh nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu sang thị
trường Mỹ, ngành dệt may rất cần có sự khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước, của Chính
phủ trên các mặt, các lĩnh vực mà không một doanh nghiệp nào có thể làm được. Trong
đề tài nghiên cứu khoa học này, em đã mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện
hệ thống các chính sách nhằm hỗ trợ cho việc thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị
trường Mỹ. Mặc dù đã rất cố gắng, song do sự hạn chế về thời gian và nguồn tài liệu
cộng với sự hiểu biết chưa được toàn diện, bên cạnh đó Hiệp định Thương mại Việt –
Mỹ cũng mới chỉ bắt đầu nên khó có thể giải quyết triệt để mọi vấn đề nên bài viết của
em chắc chắn không tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy
cô và các bạn để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100711_0382.pdf