Có thể nói rằng, trước vấn đề cấp bách như hiện nay, cạn kiệt
nguồn nước đang là vấn đề toàn cầu. Tất cả mọi người đều đồng ý
phải coi bảo vệ nước, khai thác và tái tạo nó như là một trong những
lĩnh vực, đối tượng của sự quản lý toàn cầu, nó phải là trách nhiệm
của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia trong cộng đồng xã hội và toàn thế
giới. Tôi nhớ có một bài hát về hành tinh xanh của chúng ta trước
những vấn đề toàn cầu là: " đất nước Việt Nam có đẹp được mãi hay
không điều, đó tùy thuộc vào bạn và chỉ có bạn mà thôi". Điều này có
nghĩa là tất cả chúng ta hãy chung tay xây dựng một thế giới tươi đẹp
hơn, khang trang hơn. Mỗi cá nhân , quốc gia hãy nâng cao nhận thức
trước những vấn đề không chỉ của riêng ai này.
18 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2803 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các vấn đề toàn cầu Chủ đề: cạn kiệt nguồn nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
TIỂU LUẬN
CÁC VẤN ĐỀ TOÀN CẦU
Chủ đề: Cạn Kiệt Nguồn Nước
Nhóm thực hiện 8:
1. Hoàng Thanh Phương
2. Nguyễn Tuấn Phương
3. Nguyễn Thanh Trọng
4. Lý Láo Tả
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
2
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của thế giới đương đại. Cùng với sự
phát triển ngày càng lớn mạnh của trang thiết bị khoa học kỹ thuật,
nhân loại dường như đang đứng trước những thách thức mới, điều này
giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về vấn đề toàn cầu hóa.
Phạm vi vấn đề toàn cầu hóa rất rộng lớn, trong bài tiểu luận này
chúng tôi xin đề cập đến một trong những vấn đề mà đang được nhiều
chuyên gia, các nhà quan hệ quốc tế quan tâm trong giai đoạn đầu của
thế kỷ XXI này: Cạn kiệt tài nguyên nước.
Nước, thứ tài nguyên thiên nhiên vốn được coi là một tặng vật của
thiên nhiên, là “cái lộc trời ban” không bao giờ cạn kiệt.Người ta đã
nhầm khi quan niệm như vậy khi mà thứ “vàng xanh” này đang ngày
một cạn kiệt dần đi. Trong thời đại toàn cầu hóa, cạn kiệt nguồn nước
là vấn đề đáng báo động không chỉ ở quốc gia phát triển mà còn ở cả
quốc gia đang phát triển, những nước giàu cũng như những nước
nghèo. Điều này chứng tỏ đây là vấn đề toàn cầu trong thời đại ngày
nay, để làm được điều này cần sự nỗ lực chung của toàn thể các quốc
gia trên thế giới, vì một thế giới tươi đẹp hơn.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, trong khuôn khổ bài tiểu luận này
chúng tôi sẽ giải thích tại sao cạn kiệt nguồn nước lại là vấn đề toàn
cầu Bài tiểu luận này gồm những nội dung như: nguyên nhân của vấn
đề, thực trạng của vấn đề này ra sao, nó ảnh hưởng như nào đến quan
hệ quốc tế, đồng thời cũng đưa ra một số hướng giải quyết.
I/ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC
( sinh viên thực hiện : Nguyễn Tuấn Phương )
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
3
Hiện nay, sự thiếu hụt nguồn nước đang là vấn đề nghiêm trọng mang tính
toàn cầu, nhưng quan trọng hơn là mang tính khu vực và quốc gia. Uỷ ban tài
nguyên thiên nhiên của Liên hợp quốc cho rằng 40% dân số thế giới hiện nay và
khoảng 80 nước đang đứng trước vấn đề thiếu nước nghiêm trọng. Các chuyên
gia hữu quan đánh giá rằng đến năm 2025 sẽ có khoảng 2/3 dân số thế giới sống
trong điều kiện căng thẳng do thiếu nước. Trung Đông và Bắc Phi là những khu
vực thiếu nước nghiêm trọng nhất. Theo dự tính, 6 nước Trung Phi và 5 nước
Bắc Phi là những quốc gia thiếu nước nghiêm trọng. Quốc tế lấy 1000m3 bình
quân theo đầu người 1 năm làm “tuyến cảnh báo”. Hai phần ba của lục địa Phi
châu, chín phần mười của lục địa Úc châu, hai phần ba lục địa Á châu và hai
phần ba của lục địa Mỹ châu; các nguồn nước ngọt đã dần dần cạn kiệt. Nhiều
nơi trên thế giới trong những thập niên qua đã chứng kiến cảnh sa mạc hóa đất
đai nơi mà họ đã canh tác từ hằng nhiều thế kỷ qua.
Trên thực tế, lượng nước bình quân theo đầu người của nhiều nước thấp hơn
nhiều so với “tuyến cảnh báo”. Năm 1990, trong số 18 quốc gia Trung Đông và
Bắc phi chỉ có 7 nước có lượng nước bình quân theo đầu người từ 100m3 trở
lên, đến năm 2005, lượng nước bình quân của khu vực này thấp hơn 670m3.
Lượng nước bình quân theo đầu người của các quốc gia như Angiêri, Burrundi,
Tandania,...chỉ trong khoảng:600-700m3,các nước Ixraen, Tuynidi…khoảng
400-500m3,các nước Xyri, Ả Rập Xê Út, Gioócđani, Yemen chỉ có khoảng 100-
200m3. Châu Á vốn là khu vực có tài nguyên nước phong phú nhưng do sự tăng
trưởng dân số và sự phát triển của kinh tế nên châu Á cũng sẽ trở thành châu lục
thiếu nước nghiêm trọng. Báo cáo nghiên cứu của 1 số chuyên gia quốc tế về tài
nguyên nước chỉ ra rằng, đến thế kỷ XXI, phần lớn các nước ở khu vực Châu Á
sẽ phải đứng trước nguy cơ thiếu nước trầm trọng.
Bắc Kinh gần đây cũng đã lo ngại rất nhiều cho các vùng đất đã sa mạc hóa
của họ, tạo thành những cơn bão quét qua thành phố Bắc Kinh. Theo thống kê
của Trung quốc, trong năm l950 chỉ có 5 trận bão cát thổi qua thành phố, nhưng
đến năm 2000 thì con số đó đã lên đến 13 cơn bão! Nhiều vùng đất ở miền tây
bắc Trung quốc đã sa mạc hóa rất nhanh, tạo ra sự khan hiếm nước ngọt rất trầm
trọng. Sông Hoàng Hà, một trong hai con sông huyết mạch lớn ở Trung quốc, có
đoạn hàng năm đã khô cạn đến ngàn cây số. Con sông này dài trên 3,400 dặm,
và là cái nôi của Trung quốc. Sông nhiều đoạn đã bị khô hạn, bùn ở lòng sông
bồi lên khi con nước cạn đi. Đến mùa nước lũ nước sông lại dâng lên rất mau
làm vỡ cả đê điều, nước tràn ra hai ven sông làm ngập lụt những vùng dọc theo
ven sông gây thiệt hại về mùa màng cùng nhân mạng khá lớn. Tình trạng hạn
hán thường xuyên biến các dòng sông khô cạn trong đó dòng sông Hoàng Hà có
nguy cơ khô cạn mau nhất. Từ năm cây số đến cửa khẩu của dòng sông này đã
bắt đầu khô cạn trong những tháng mùa hè (theo bản tường trình gần đây nhất
của ký giả Richard Hayes của dài BBC ở Bắc kinh)
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
4
Thế giới chúng ta đang sống chỉ có 3% nước ngọt, còn lại 97% là nước mặn
không thể dùng để uống hay canh tác được, mặc dầu gần đây đã có những quốc
gia tiến bộ đã dùng nước biển chế tạo ra nước ngọt như Hoa Kỳ hoặc Do Thái,
song giá thành của nước ngọt còn quá đắt và lại rất giới hạn. Trong số 3% nước
chúng ta có trên địa cầu, thì đã có đến 68.7% là nước đá dưới dạng đóng băng,
30.1% nước nằm trong lòng đất, 0.9% nước đá trong lòng đất, và phần còn lại là
0.3% là nguồn nước sông hồ và đầm lầy.
Trên một vài phần đất trên thế giới, nhu cầu nước ngọt đã vượt quá giới hạn
cung cấp. Lý do rất dễ hiểu là vì một số lớn các cư dân đó đã ở vào những vùng
đất khô hạn định kỳ hoặc thường xuyên. Theo thống kê của Viện nghiên cứu
môi sinh Stockholm (The Stockholm Environment Institute) gần đây cho biết
rằng một số rất lớn nhân loại đã ở vào những vùng đất khô hạn thiếu nước
thường xuyên, và nhu cầu dùng nước hằng ngày đã cao gấp đôi hơn sự tăng
trưởng nhân số. Những giếng nước đào thật sâu vào lòng đất cùng những hồ
chứa nước có thể cung cấp nước cho nhân loại một cách tạm thời, song số lượng
nước mưa và số lượng nước nằm trong lòng đất vẫn không thay đổi. Các chuyên
viên khí tượng tiên đoán rằng trong vòng 25 năm tới, số lượng nước mà mỗi
người trên thế giới đang dùng sẽ phải cắt đi một nửa. Trong khi đó một số nước
trên thế giới đã làm ô nhiễm nguồn nước địa phương của mình trầm trọng, như ở
Phần Lan chỉ có 5% nguồn nước sông rạch còn có thể dùng để uống, 75% bị ô
nhiễm nặng cho dù để dùng cho kĩ nghệ cũng không được.
Nhà máy cung cấp nước cho đô thị Mễ tây cơ, lớn đứng hàng thứ nhì trên
thế giới, nguồn nước uống cung cấp gần 80% cho thị dân ở đây đã tụt xuống
một cách đáng ngại. Bắc Kinh, thủ đô của Trung quốc cũng đang gặp phải nạn
thiếu nước như trên. Lượng nước dùng đang trên đà tụt xuống 3 feet mỗi năm,
và 1/3 các giếng nước cung cấp cho thành phố hầu như đã khô cạn. Hàm lượng
nước vĩ đại Ogallala của Hoa Kỳ cũng đã dùng gần hết cho việc canh tác nông
sản ở các miền Tây Bắc tiểu bang Texas, hiện đang co rút lại đến 1/3 vì thiếu
nước để canh tác. Hai nước lớn là Trung Hoa và Ấn độ, đứng hạng nhì và ba
trên đà sản xuất nông phẩm cũng đã khựng lại đối đầu với tình trạng thiếu nước
ngày càng trầm trọng. Tình trạng càng bi đát hơn vì các giòng sông lớn như sông
Hằng (Ganges) bên Ấn độ đã không còn chảy ra đến biển vì dòng sông đã đổi
chiều chảy, cũng giống như giòng sông Colorado ở Bắc Mỹ vậy.
Cơ thể chúng ta rất cần nước sạch để đem các chất thải ra ngoài, thế nhưng
lại không có đủ nước sạch để sử dụng. Con số người trên địa cầu hiện nay không
có đầy đủ nước sạch để sử dụng đã gia tăng từ 2.6 tỉ người vào năm 1990 lên
đến 2.9 tỉ người vào năm 1997 và từ đó đến nay chỉ có tăng. Con số đó chiếm
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
5
gần nửa dân số trên địa cầu, và điều kiện vệ sinh của nước là cả một vấn đề sinh
tử.
Để sản xuất thực phẩm cũng phải tùy thuộc vào nước. Để tưới cho hoa màu
cây trái dĩ nhiên chúng ta cũng cần đến nước và nước mưa. Những thời gian gần
đây “dẫn thủy nhập điền” trở thành một phương tiện chính để có thể cung cấp
thực phẩm cho nhân số hoàn cầu càng ngày càng gia tăng. Ngày nay 36% mùa
màng trên toàn thế giới đều dựa vào phương tiện “dẫn thủy nhập điền”. Tổng số
các vùng đất canh tác hoa màu trên thế giới nhờ vào phương tiện dẫn thủy đó đã
lên đến tột đỉnh khoảng hai mươi năm về trước, và bây giờ thì đang tụt xuống
một cách từ từ. Nếu ta phải dùng rất nhiều nước để dội cầu cho mạnh, cho bồn
rửa mặt và cho bồn tắm thật sạch, thật khó mà tin rằng thế giới chúng ta đang
sống đã không cung cấp đủ nước cho chúng ta xài. Nên nhớ rằng đó là chỉ mới
có là 20% những người hưởng thụ được những phương tiện xa xỉ trên mà thôi.
Tại lục địa Phi châu hầu hết đàn bà phải mất mỗi ngày ít nhất là 6 tiếng đồng hồ
để đi kiếm nước đặng dùng và thường thường thì họ chỉ tìm được nước dơ bẩn
và ô nhiễm mà thôi. Dĩ nhiên là những người đàn bà đó hiểu thế nào là nước
sạch, nhưng họ phải đối diện một thực tế phủ phàng rằng càng ngày nguồn nước
càng cạn kiệt! Thế giới với kĩ thuật hiện đại có thể giải quyết vấn nạn này được
không? Nước đã đi dâu hết ? Trong khi đó thì nhu cầu đòi hỏi nước càng ngày
càng gia tăng.
Khu vực Nam Á, hạn hán ngày càng trầm trọng, do khai thác nước ngầm bừa
bãi nên tài nguyên nước ngầm của các nước Ấn Độ, Pakixtan, Banglađet…bị
khô kiệt. Tổng lượng Tài nguyên nước của Trung Quốc đứng thứ 6 trên thế giới,
nhưng lượng nước tính theo bình quân đầu người chỉ có 2400m3, thấp hơn rất
nhiều so với lượng nước bình quân đầu người trên Thế giới là 7700m3, chỉ đứng
ở vị trí 109 và bị liệt vào 1 trong số các quốc gia thiếu nước trên thế giới. Lượng
nước bình quân theo đầu người của 9 tỉnh miền bắc Trung Quốc chưa đến
500m3, thấp hơn tiêu chuẩn lượng nước ngọt thấp nhất thế giới. Diện tích biển
nước mặn Aran đã thu nhỏ lại còn không bằng một nửa trước đây. Khu vực
Trung Á cũng đang đứng trước vấn đề thiếu nước, 5 quốc gia ven biển đã bắt
đầu hành động để bảo vệ nguồn nước của khu vực này. Tài nguyên nước của
khu vực Châu Mỹ rất phong phú nhưng do phân bố không đồng đều nên các
bang miền Tây và miền Bắc Mêhicô vẫn thiếu nước, thành phố Mêhicô thường
xuyên không đủ nước để cung cấp trong thời gian dài, do việc khai thác bừa bãi
mạch nước ngầm đã làm cho thành cổ này mỗi năm tụt xuống 17cm. Xét ở góc
độ toàn cầu, các khu vực như Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á, Nam Á đang ở
trong tình trạng thiếu nước nghiêm trọng, tài nguyên nước ngày càng có ảnh
hưởng to lớn đến sức khoẻ người dân, với môi trường sinh thái, và sự phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội của những nước này
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
6
II/ NGUYÊN NHÂN CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC
( sinh viên thực hiện : Hoàng Thanh Phương )
Sự suy giảm mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng của nước trên toàn
thế giới hiện nay là một thực tế nguy hiểm. Nước là nguồn tài nguyên thiên
nhiên quý hiếm và quan trọng số một. Nguy cơ thiếu nước là một hiểm họa lớn
cho sự sinh tồn của con người cũng như toàn bộ sự sống trên Trái Đất. Vậy
nguyên nhân nào đã dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn nước ? Chúng ta sẽ cùng
tìm hiểu
1 ) Nguyên nhân “nhân tạo”
Nguyên nhân của thảm cảnh về nước trên thế giới hiện nay có rất nhiều,
nhưng chủ yếu vẫn là do sự gia tăng nhanh chóng những hoạt động kinh tế của
con người nhằm đáp ứng những nhu cầu sống còn của một số dân tăng quá
nhanh. Trong thế kỉ XX, nhu cầu của toàn thế giới về nước đã tăng lên gấp 7 lần
và cũng trong thời gian đó dân số tăng lên gấp 3 lần. Từ năm 1975 đến năm
1990 lượng nước dùng trong nông nghiệp toàn cầu tăng 6 lần, trong công nghiệp
tăng 21 lần, nước sinh hoạt của thành phố tăng 7,5 lần. Sự gia tăng dân số cùng
với sự phát triển kinh tế, kéo theo đó là sự gia tăng về nhu cầu nước sạch cho
sinh hoạt và sản xuất khiến cho khả năng đáp ứng của nguồn tài nguyên này
giảm dần. Ở Việt Nam hiện nay, mức đảm bảo nước trung bình cho một người
trong một năm đã giảm từ 12.800 m3/người vào năm 1990 xuống còn 10.900
m3/người vào năm 2000 và có khả năng chỉ còn khoảng 8.500 m3/người vào
khoảng 2020. Việt Nam có tài nguyên tương đối phong phú với tổng lượng dòng
chảy của các con sông chiếm khoảng 2% của thế giới, trong khi diện tích đất
liền chỉ chiếm khoảng 1,35%. Tuy nhiên, sự gia tăng dân số cùng với sự phát
triển kinh tế, kéo theo đó là sự gia tăng về nhu cầu nước sạch cho sinh hoạt và
sản xuất khiến cho khả năng đáp ứng của nguồn tài nguyên này giảm dần. Sự
tăng trưởng dân số ở các quốc gia đang phát triển nhưng thiếu nước ngày càng
nổi bật, vì vậy một số nước đang đứng trước nguy cơ tài nguyên nước không thể
nào đáp ứng được yêu cầu của việc tăng dân số
Nguồn nước ngọt và sạch là nguồn tài nguyên không thể thay thế. Tuy nhiên
nó đang ngày càng bị khan hiếm bởi sự khai thác quá mức, sự tiêu dùng lãng phí
và cũng bởi do chúng ta không có biện pháp quản lý tốt tài nguyên này. Để thỏa
mãn nhu cầu ngày càng tăng của mình, con người đã khai thác, vơ vét tất cả
những nguồn tài nguyên thiên nhiên (trong đó có nguồn nước quý giá) để đưa
vào sản xuất, bất chấp các quy luật tồn tại của chúng, miễn là thu được lợi nhuận
cao nhất, nhanh nhất. Một số công trình thủy lợi do không hợp lý trong thiết kế,
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
7
quản lý và sử dụng đã làm cho nước bị rò rỉ cháy thoát ra ngoài, gây ngập tràn
lan, lãng phí một lượng nước rất lớn. Ước tính 60% nước dùng trong thủy lợi đã
bị thất thoát qua các hệ thống tưới tiêu kém hiệu quả và 50% nước ở các vùng
đô thị bị lãng phí do rò rỉ và bốc hơi. Cuộc khủng hoảng nước trên thế giới hiện
nay, được nhận định, không chỉ do nước quá ít so với nhu cầu mà còn do quản lý
nguồn nước quá kém. Báo cáo của Liên Hợp Quốc còn cho thấy: nguồn nước
sạch toàn cầu đang cạn kiệt một cách đáng lo ngại. Hiện nay đã có khoảng
12.000 km3 nước sạch trên thế giới bị ô nhiễm. Hàng năm có hơn 2,2 triệu
người chết do các căn bệnh liên quan đến nguồn nước ô nhiễm và điều kiện vệ
sinh nghèo nàn.
Sự phá hoại môi trường sinh thái cũng là một trong những nguyên nhân làm
giảm tài nguyên nước ngọt của đất liền. Bất chấp những lời cảnh báo, con người
vẫn tiếp tục tác động ngày càng nhanh hơn, mạnh hơn lên giới tự nhiên vì lợi ích
riêng của mình. Cụ thể là rừng bị tàn phá ở nhiều nơi trên thế giới góp phần vào
việc làm xói mòn đất và khan hiếm nước. Hàng năm có khoảng 11 triệu ha rừng
bị chặt phá khiến cho đất đai bị thoái hóa, nguồn nước bị phá hủy, khả năng hấp
thụ và giữ nước giảm đi, mùa mưa nước tràn ngập, mùa mưa thiếu nước
lớn…v.v.. gây thiệt hại nghiêm trọng đến môi trường sống của con người.
Nước trong lòng đất mà chúng ta đang dùng là nguồn nước cung cấp bởi các
giếng. Ở Việt Nam, tình trạng khoan giếng tràn lan của dân cư là nguyên nhân
chính dẫn đến tình trạng nhiễm phèn, nhiễm mặn và cạn kiệt nguồn nước
nghiêm trọng.Việc đào giếng tạo thành các phễu mực nước ngày càng dày đặc.
Có nơi tốc độ hạ thấp phễu mực nước đến 2m/năm gây ra tình trạng tầng nước
ngầm thấm nước dơ bẩn nhanh chóng hơn. Hiện nay ở TP HCM, tổng công suất
khai thác tầng nước ngầm của thành phố đạt khoảng 520.000 m3/ngày và có thể
đạt đến mức 570.000 m3/ngày trong 5 năm nữa. Thế nhưng theo nghiên cứu từ
Liên đoàn địa chất thủy văn - địa chất công trình miền Nam thì lượng nước
ngầm bổ cập tự nhiên chỉ đạt khoảng chưa tới 200.000 m3/ngày. Điều này có
nghĩa trữ lượng nước ngầm không được bổ sung kịp thời và cần phải tăng cường
bổ cập nhân tạo bằng nguồn nước mưa, nước sông... . Ở các huyện Đức Trọng,
Đơn Dương, Di Linh… nhiều hộ nông dân và một số doanh nghiệp đã tự động
khoan giếng lấy nước tưới cho cây trồng, phục vụ chế biến nông sản với khối
lượng lớn đang làm cạn kiệt nguồn nước ngầm dẫn tới hiện tượng sạt lở đất kéo
dài.
Nạn khan hiếm nước chỉ là một mặt của vấn đề về nước hiện nay trên thế
giới. Mặt khác của vấn đề này là “chất lượng nước” cũng đang bị suy giảm một
cách nghiêm trọng. Ô nhiễm nước theo nhận định của mọi người thì nó là dạng ô
nhiễm nguy hiểm nhất, bởi vì toàn bộ sự sống trên Trái Đất gắn liền với nước Ở
một số vùng trên thế giới nước đã bị ô nhiễm nặng nề đến mức không thể dùng
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
8
được, ngay cả cho nông nghiệp và công nghiệp.. Nguyên nhân là do nước đã sử
dụng rồi (nước sinh hoạt và nước thải công nghiệp có nhiều chất độc hại) đã
không được xử lý. Các chất độc hại thẩm thấu xuống đất rồi đi vào các mạch
nước ngầm mang theo nhiều chất gây ô nhiễm cho nước. Theo báo cáo của “Tổ
chức quốc tế cứu trợ trẻ em của Liên hiệp quốc” thì nguồn nước trong đất là
nguồn nước nguy hiểm vì không nhìn thấy được và rằng một nửa số nước đó đã
dùng cho con người và cho việc canh tác. Cũng vì nước giếng là nước sạch và ít
bị ô nhiễm hơn nước trên mặt đất, một số lượng lớn đã dùng cho con người sử
dụng để uống, kể cả thành thị lẫn nông thôn. Nước ở các thành phố còn bị ô
nhiễm bởi các chất độc hại phân hủy từ các bãi rác thành phố, nước thải từ các
bệnh viện, các cơ sở y tế và các khu trại chăn nuôi …v..v.. Người ta ước tính
rằng 90% nước đã được sử dụng trong các nước đang phát triển đã không được
xử lý mà đổ trực tiếp vào môi trường. Nếu chúng ta dùng một cách có điều độ,
nước trong lòng đất sẽ cung cấp đủ cho chúng ta, vì nước mưa sẽ thấm vào lòng
đất sau mỗi cơn mưa và tồn trữ lại trong những hồ chứa dưới mặt đất. Nhưng
trong nhiều thập niên qua, con người đã lạm dụng bằng cách đặt ống mang nước
đến các nơi khác và tiêu dùng nhiều hơn khi thiên nhiên không tái tạo và tuần
hoàn kịp. Kết quả là mực nước trong lòng đất càng ngày càng sâu hơn, khó có
thể cho ta đào sâu đủ để lấy được nước. Khi mà nước các giếng đã cạn, thì hậu
quả về kinh tế và con người khó mà lường trước được mức độ thiệt hại nặng nề.
Việc thi công nhiều công trình thủy lợi, thủy điện có dung tích lớn đã tạo
nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển KT-XH , nhưng lại đang làm giảm diện
tích rừng tự nhiên và ảnh hưởng lớn đến tài nguyên nước. Đây là nguyên nhân
chính dẫn tới tình trạng sông suối cạn kiệt nước vào mùa khô và ngập úng trên
diện rộng vào mùa mưa hàng năm. Việc gia tăng khai thác khoáng sản trên đất
dốc cùng phần nào đang làm cho đất ngày càng bị xói mòn, rửa trôi làm bồi lấp
sông suối, ao hồ, dẫn đến tài nguyên nước ngày càng mai một.
Những hạn chế về mặt tiền vốn, kĩ thuật cũng phần nào dẫn đến tính trạng
thiếu thốn nước sạch ở một số nơi. Vì không có đủ vốn, kĩ thuật để khai thác,
bảo vệ và cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt nên hơn ¼ dân số toàn thế giới thiếu
nước sạch, nước an toàn, khoảng 1,8 tỉ người trong tình trạng không có bảo đảm
y tế vệ sinh về nước.
2 ) Nguyên nhân “tự nhiên”
Không chỉ kiệt quệ trước nhu cầu tăng lên của con người, nguồn nước còn
có thể bị suy giảm do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, có mùa lượng mưa
tập trung tạo thành lũ lụt, có mùa lại hạn hán. Sự nóng lên của khí hậu toàn cầu
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
9
cũng là một nguyên nhân làm giảm tài nguyên nước. Khuynh hướng nóng lên
của nhiệt độ trên hành tinh kéo dài 15 năm qua đã báo động về mối đe dọa thiếu
nước nghiêm trọng, đồng thời cũng kéo theo bệnh tật do vi trùng và côn trùng
gây ra đang lan nhanh ở các khu vực trên thế giới. Báo cáo của Liên Hợp Quốc
đầu tháng cho thấy, nhiệt độ trái đất nóng lên sẽ làm mất khoảng 1/3 nguồn
nước đang sử dụng của thế giới trong 20 năm tới. Ở Việt Nam, mức biến đổi
lượng dòng chảy, được xác định, xảy ra mạnh nhất ở Nam Trung Bộ và Đông
Nam Bộ.
Sự phân bố tài nguyên nước trên toàn cầu hoàn toàn không theo ý muốn của
con người, một số quốc gia và khu vực có nguồn tài nguyên nước rất lớn, trong
khi một số quốc gia và khu vực khác lại đứng trước nguy cơ thiếu nước trầm
trọng. Phần lớn tài nguyên nước lớn lại chảy qua các khu vực không có người
hoặc ít người, trong khi ở những khu vực mật độ dân cư đông đúc lại thiếu nước
nghiêm trọng. Sự phân bố tài nguyên nước không đồng đều không những gây
lãng phí nước mà còn làm cho các quốc gia và các khu vực dễ xảy ra tranh chấp
và mâu thuẫn.
III/ TÁC ĐỘNG CỦA VẤN ĐỀ TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ
( sinh viên thực hiện : Nguyễn Thanh Trọng)
Như trên đã trình bày thì đây là một vấn đề có tính toàn cầu bởi nó đang ảnh
hưởng trực tiếp tới đời sống của mỗi cá nhân cũng như toàn thể các quốc gia
trong quan hệ quốc tế. Tài nguyên nước ngày càng thiếu thốn, chất lượng nước
ngày càng xấu đi, vai trò của nó đối với an ninh quốc gia và an ninh quốc tế
ngày càng rõ nét, vì vậy, người ta cũng dự tính rằng nước cũng giống như những
tài nguyên chiến lược khác như dầu lửa, năng lượng,… sẽ dẫn đến những mâu
thuẫn và tranh chấp giữa các quốc gia.
Tại diễn đàn Thế giới lần thứ 3 về nước họp ở Kyoto( Nhật Bản) tháng 3-
2003, các đại biểu đã cảnh báo nguy cơ nước sẽ trở thành nguyên nhân của
những xung đột sắp tới, khi mà trạng thái thiếu nước ngọt và sạch ngày càng
tiếp tục gia tăng. Liên hợp quốc cũng thừa nhận hiện nay trên thế giới đã và
đang xảy ra xung đột dữ dội về nước trong gần 300 khu vực. Sự suy giảm một
cách nhanh chóng cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng cuả nước dẫn
đến những cuộc khủng hoảng về nước trên quy mô toàn cầu.
1. Nhân tố liên quan vấn đề an ninh tài nguyên nước
Có thể nói rằng tình trạng thiếu hụt nước ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực là
khác nhau do lượng nước phân bổ không đồng đều nhau, do đó phạm vi ảnh
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
10
hưởng tài nguyên nước với vấn đề an ninh quốc gia và quốc tế là khác nhau.
Vậy những nhân tố nào ảnh hưởng tới vấn đề này?
Thế giới đang đứng trước nguy cơ tiềm ẩn thiếu nước, do sự phân bố tài
nguyên nước không đồng đều nên một số quốc gia và khu vực đang đứng trước
nguy cơ thiếu nước một cách trầm trọng. Nếu lấy 1.000 m3 làm tuyến cảnh báo
lượng nước bình quân tính theo đầu người, thì những nước có con số dưới 1000-
1600 m3 coi là quốc gia căng thẳng về thiếu nươc ngọt, là các quốc gia thiếu
nước nghiêm trọng. Liên hợp quốc chia tình trạng sử dụng nước thành 4 loại:
những quốc gia mà lượng nước sử dụng không đến 10% lượng nước có thể dùng
được coi là những quốc gia căng thẳng về nước ở mức độ thấp, và không đứng
trước vấn đề căng thẳng về nước. Những quốc gia có lượng nước sử dụng
khoảng 10- 20% coi là những quốc gia căng thẳng về nước ở mức độ trung bình,
tức là nước đang trở thành nhân tố ức chế sự phát triển của đất nước. Những
quốc gia có lượng nước khoảng 20-40% được coi là quốc gia căng thẳng về
nước ở mức độ cao, điều này dẫn đền sự tranh giành tài nguyên nước. Những
quốc gia có lượng nước sử dụng quá 40% được coi là căng thẳng về nước ở mức
độ quá cao. Điều này dẫn đến phải coi trọng ảnh hưởng của nước đối với an
ninh.
Như chúng ta cũng biết phần lớn những xung đột về nước nổ ra giữa các
quốc gia có chung tài nguyên nước.Trên thế giới có khoảng hơn 200 con sông
chảy qua hai hay nhiều quốc gia. Đơn cử ở đây như dòng sông Mêkông chảy
qua Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam. Hay như sông Nil ở
châu Phi chảy qua 10 quốc gia là: Burundi, Ruada, Uganda, Keenia, Aicap….
Do lợi ích kinh tế ở mỗi quốc gia là khác nhau và việc tiêu thụ nước vào các
lãnh vực là khác nhau nên việc quản lý nguồn nước rất dễ xảy ra xung đột. Một
nhân tố nữa gây ra xung đột về nước là mức độ phụ thuộc vào nước và đặc điểm
phân bố nước trong mỗi quốc gia là khác nhau. Hơn nữa với tốc độ tăng trưởng
dân số quá cao như hiện nay dẫn đến nhu cầu về nước ngày càng tăng. Trong
phạm vi một nước cũng có thể xảy ra tranh chấp về nước giữa các khu vực và
giữa các quốc gia có thể dẫn đến những tranh chấp về nước. Vấn đề an ninh do
nước gây ra có thể chia thành 2 loại : trong nước và quốc tế.
2. Ảnh hưởng của vấn đề cạn kiệt tài nguyên nước với cấp quốc gia
Tài nguyên nước ảnh hưởng đến sự sinh tồn và khả năng phát triển liên tục
của một quốc gia. Đây là vấn đề an ninh cơ bản nhất của một quốc gia hay một
dân tộc. Với một quốc gia mà có tài nguyên phong phú thì vai trò của nước đối
với an ninh không rõ nét, nhưng với một quốc gia thiếu nước nghiêm trọng thì
đó là vấn đề chiến lược hàng đầu liên quan đền sự sinh tồn và phát triển của dân
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
11
tộc và quốc gia. Chẳng hạn như ở Trung Đông thiếu nước nghiêm trọng điều
này ảnh hưởng đến an ninh trong quốc gia này. Hơn thế nữa, vấn đề có quan hệ
mật thiết tới nước là vấn đề an ninh lương thực. Một quốc gia không thể sản
xuất lương thực nếu không sử dụng nước bởi nông nghiệp là ngành dùng nhiều
nước nhất(70- 80%) . Với sự gia tăng dân số như ngày nay thì nhu cầu về lương
thực cũng tăng lên, nước dùng cho sinh hoạt cũng tăng lên.
Một vấn đề mà có quan hệ mật thiết tới chính mỗi người dân đó là chất
lượng nước. Nước có ảnh hưởng tới an toàn sức khỏe của người dân.Theo thống
kê của Tổ chức y tế thế giới, 20% dân số toàn cầu thiếu nước an toàn, 50% dân
số thiếu nước sạch. Thiếu nước và uống nước không sạch sẽ gây ra các bệnh tật,
điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của một quốc gia.
Nước gây ra sự mâu thuẫn giữa các quốc gia. Nước là thứ cơ bản nhất của
cuộc sống, thiếu nước quan hệ xã hội sẽ trở nên căng thẳng hơn, tranh giành vì
nước để sinh tồn và phát triển xảy ra ngày càng nhiều hơn. Nó có thể là giữa dân
cư của thành phố, giữa những người nông thôn …Ví dụ như ở Trung Quốc vừa
qua có xảy ra hạn hán ở Tứ Xuyên làm thiệt hại tới ản xuất nông nghiệp và đời
sống của người dân. Hạn hán kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng di cư hàng loạt, điều
này gây ảnh hưởng đến trât tự xã hội. Có thể nói rằng vấn đề tài nguyên nước
ảnh hưởng một cách rõ nét đối với an ninh trong phạm vi quốc gia.
3. Ảnh hưởng cạn kiệt nguồn nước trên phạm vi quốc tế.
Tranh chấp tài nguyên nước do lịch sử để lại. Ở các nước và khu vực thiếu
nước các cuộc tranh chấp tài nguyên nước bắt đầu từ rất sớm trong lịch sử. Ví
dụ trong thời kì thống trị của thực dân Anh, để đảm bảo chắc chắn cho nguồn
nước dùng ở Ai Cập, Anh đã ký hiệp định với các nước thượng nguồn sông Nil
để xác định vị trí ưu tiên của Ai Cập trong việc sử dụng nước sông Nil. Một ví
dụ khác là, biên giới giữa Xyri và Ixarel cho đến nay vẫn chưa xác định được là
do giới hạn vạch ra trong thời kì Anh, Pháp thống trị liên quan đến sự phân phối
tài nguyên nước.
Mâu thuẫn tranh chấp tài nguyên nước của các quốc gia thiếu nước. Isaren là
quốc gia thiếu nước nên nước là tài nguyên chiến lược được nước này chú ý
nhất. Để giành được nhiều nguồn nước hơn Isaren đã áp dụng các thủ đoạn bành
trướng về quân sự chiếm phần lớn lãnh thổ của Ả Rập khiến xung đột của Isaren
và Ả Rập ngày càng phức tạp hơn. Thập kỷ 50-60 thế kỷ XX, Isaren đã đơn
phương xây dựng công trình dẫn nước để lấy nước sông Gioocdan. Đối phó với
tình thế này, Ả Rập cho xây dựng công trình chuyển đổi dòng nước, hai bên đã
nhiều lần gây nên xung đột quân sự phá hoại công trình của nhau. Đây cũng là
nguyên nhân chủ yếu làm nổ ra cuộc chiến tranh Trung đông lần thứ ba. Có
người nói : vấn đề tài nguyên nước ở khu vự này là quả bom hẹn giờ, và cuộc
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
12
chiến tranh trong thế kỷ sau sẽ không phải là tranh giành dầu mỏ mà là tranh
giành tài nguyên nước. Điều này được tổng thư ký Liên hợp quốc , ông Gali, từ
những năm 82 đã cho rằng: " Nguyên nhân chính đe doạ hoà bình Trung đông là
thiếu hụt nguồn tài nguyên nước".
Nước cũng được coi là một công cụ gây ra những cuộc xung đột. Trong
chiến tranh thế giới thứ hai, chiến tranh Triều Tiên hay chiến tranh Việt Nam
đều diễn ra hoạt động quân sự phá huỷ hệ thống nước. Hay như năm 1986, việc
Triều Tiên dự định xây dựng đập nước trên sông Hán Giang khiến cho Hàn
Quốc phải lo lắng. Vì nếu xảy ra chiến tranh, đập nước có thể trở thành công cụ
chiến tranh. Seoul có thể bị nhấn chìm. Vì vây, Hàn Quốc phải áp dụng biện
pháp phòng thủ. Việt Nam xây đập ở Lào nhằm nhập năng lượng các con đập
này . Một ví dụ khác là đập thuỷ điện Yali trên sống Sesan, chảy từ Việt Nam
sang Campuchia, gây ảnh hưởng xấu cho hệ sinh thái hạ lưu của Campuchia. Nó
khiến người dân nông thôn và cả người trong Chính phủ Campuchia giận dữ.
Campuchia phản đổi nhưng vô hiệu. Uỷ ban sông Mêkông cố gắng thương
lượng nhưng cũng không thành công. Điều này gây rất nhiều tranh cãi xung
quanh việc xây dựng hệ thống đập nước.
Xung đột do khai thác, quản lý và phân phối nước gây ra. Trong trường hợp
một số quốc gia có chung nguồn nước, nếu một nước trong số đó xây dựng công
trình thuỷ lợi hoặc thực thi kế hoạch phát triển công- nông nghiệp, thường có
ảnh hưởng lớn tới các tài nguyên nước hoặc các mặt khác của nước khác trong
vùng, từ đó dẫn đến xung đột.
Khủng hoảng tài nguyên nước cũng dẫn đến vấn đề di dân. Những người dân
phải di cư do môi trường xấu đi cũng gây ảnh hưởng đến nguồn nước. Công
trình đập nước Axoan của Ai Cập không những làm cho hơn 100.000 người dân
của nước này phải di cư mà còn làm cho rất nhiều người dân của Xuđăng phải di
cư. Những tị nạn môi trường cũng gây nên nhiều vấn đề về xung đột, do xung
đột về lợi ích.
IV/ HƯỚNG GIẢI QUYẾT
( sinh viên thực hiện : Hoàng Thanh Phương, Lý Láo Tả)
Với những hậu họa và đe dọa sinh thái như ngày nay, vấn đề bảo vệ nguồn
nước đang thực sự trở thành một trong những vấn đề bức xúc, phức tạp và nan
giải nhất. Nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên có tính toàn cầu, có vai trò
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì vậy nhiệm vụ cấp thiết cần
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
13
đặt ra bây giờ là phải có những phương cách, biện pháp để giữ gìn nguồn tài
nguyên thực sự quý giá này. Cuộc khủng hoảng về nước hiện nay chỉ có thể giải
quyết được trên cơ sở chung sức của cả loài người trên Trái đất, đó là sự chia sẻ
bình đẳng và trách nhiệm giữa người và người, giữa các quốc gia, dân tộc. Các
giải pháp về nước có thể được thực thi là kinh tế, khoa học, công nghệ, quản lý
hành chính, luật pháp ..v.v… nhưng quan trọng hơn cả là biết sử dụng hợp lý
yếu tố xã hội, nhân văn, văn hóa.
1) Áp dụng các biện pháp kĩ thuật và quản lý :
- Hiện nay, ngày càng có nhiều quốc gia coi trọng vấn đề khai thác, sử
dụng và quản lý hợp lý tài nguyên nước. Những biện pháp về mặt này chủ
yếu gồm khống chế tăng dân số, tiết kiệm sử dụng nước, giảm lãng phí,
làm ngọt nước biển, bảo vệ môi trường sinh thái, chống ô nhiễm.
- Tiết kiệm nước, giảm lãng phí là biện pháp các nước hiện nay tích cực áp
dụng mở rộng. Ví dụ : nhiều quốc gia đang áp dụng kĩ thuật tưới tiêu mới
để thay thế cách tưới tiêu truyền thống làm lãng phí lượng nước lớn. Các
quốc gia Trung Đông hầu như đều đã áp dụng kĩ thuật tưới phun, cách
làm này tiết kiệm được 30-50% lượng nước so với cách làm trước kia.
Hơn nữa một loạt kĩ thuật mới-tưới nhỏ đang được áp dụng, kĩ thuật này
có thể tiết kiệm 30% nước so với cách tưới phun. Dẫn thủy không đúng
cách chúng ta đã phung phí đến 60% nước trước khi nước đến cho hoa
màu. Dẫn thủy đúng phương pháp – như sử dụng các kĩ thuật hiện đại –
có thể hạn chế bớt việc phí phạm nước trong kĩ nghệ đến một nửa, và
nước sử dụng trong thành phố cũng sẽ cắt bớt được đến 30% nếu các ống
dẫn nước bị bể được sửa chữa cấp thời.
- Các quốc gia thiếu nước ở Trung Đông đã bắt đầu được xây dựng các
công trình ngọt hóa nước biển. Nhiều quốc gia xây dựng mới nhiều xưởng
làm ngọt nước biển. Điều này đã giải quyết một phần vấn đề thiếu nước
của các nước này.
- Ô nhiễm nước làm cho lượng nước lớn không sử dụng được, càng làm
nghiêm trọng thêm sự thiếu hụt tài nguyên nước. Nhiều quốc gia đã đạt
được hiệu quả rõ rệt trong việc bảo vệ tài nguyên nước và xử lý ô nhiễm
nước. Ví dụ : sông Missisipi của Mĩ, sông Thêm và sông Ranh của Châu
Âu từng bị ô nhiễm nghiêm trọng, nay qua xử lý và bảo vệ, tình hình đã
được cải thiện cơ bản, 99% đoạn trên sông Thêm nước có thể uống được,
85% lượng nước đạt tiêu chuẩn nước chất lượng tốt, một số loại cá biến
mất từ lâu nay xuất hiện trở lại.
2 ) Áp dụng các biện pháp thị trường :
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
14
- Do nước phân bố không đều, một số quốc gia và khu vực có nguồn nước
phong phú trong khi một số quốc gia và khu vực khác lại thiếu nước
nghiêm trọng. Điều này đã dẫn đến việc mua bán nước.
Ví dụ : Theo người dân ở những khu vực khan hiếm nước vào mùa nóng tại TP
HCM, mới tháng 4 mà nhiều giếng đã không thể dùng nước được. Nhiều hộ
buộc phải đi mua nước ngọt với giá 20.000 đồng/thùng 200 lít, thậm chí 40.000-
50.000 đồng. Một số muốn tránh tình trạng mua nước đã buộc phải đầu tư để
khoan thêm giếng, nhưng rốt cục vẫn không có nước
Mĩ là quốc gia có nguồn nước dồi dào nhưng các bang ở miền Tây lại thiếu
nước, mức nước của sông Colorado giảm xuống, vì vậy khu vực này thực hiện
luật về nước và chế độ phân phối nước, nâng giá nước lên.
- Nước là hàng hóa có giá trị, căn cứ vào quan hệ cung-cầu của thị trường
để phân phối lại nước, nâng cao hiệu suất sử dụng nước, chính phủ cũng
dùng biện pháp khống chế giá nước để bảo vệ và tiết kiệm nước.
- Các quốc gia thiếu nước mua nước của các quốc gia nhiều nước, đây là
một trong những biện pháp để giải quyết vấn đề thiếu nước ( ví dụ :
Gioócdania mua nước của Irắc, Ixraen mua nước ngọt của Thổ Nhĩ Kì
….v.v. ). Tuy nhiên biện pháp này trong một số trường hợp mất tác dụng,
đặc biệt là khi quan hệ quốc tế căng thẳng, việc mua nước bị các nhân tố
chính trị chế ước.
3 ) Áp dụng các biện pháp hợp tác và thương lượng
- Đây là một trong những biện pháp quan trọng nhất. Vì đây là vấn đề toàn
cầu nên toàn cộng đồng quốc tế phải bắt tay nhau cùng nhau giải quyết, ở
đây cụ thể là chính phủ của mỗi quốc gia cần có những biện pháp thiết
thực và tính tổng thể trong việc giải quyết vấn đề nước toàn cầu. Ngoài sự
chung sức của các quốc gia thì các tổ chức quốc tế cũng đóng một vai trò
rất quan trọng như: Liên hợp quốc (United Nations), UNICEF ( United
Nations International Children’s Emergency Fund), Liên minh Châu Âu
(EU), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)…tất cả các tổ chức
trên có vai trò gắn kết các quốc gia lại với nhau để giải quyết các vấn đề
mang tính toàn cầu trong đó tiêu biểu là Liên hợp quốc. Một mặt phòng
ngừa được mâu thuẫn xung đột về nước vốn đã gay gắt không bị nghiêm
trọng thêm, mặt khác, phòng ngừa sự xấu đi trong quan hệ giữa các nước,
từ đó tránh được xung đột do vấn đề nước gây nên hoặc việc dùng “vũ khí
nước”.
- Trong cuộc tìm kiếm những giải pháp có tính tổng thể cho vấn đề nước
toàn cầu, Liên minh châu Âu có thể được xem như một hình mẫu trong
việc hợp tác quốc tế về bảo vệ tài nguyên nước với những Hiệp định
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
15
khung có hiệu lực cho tất cả 27 nước thành viên. Trong Liên minh châu
Âu, những nghiên cứu cũng như những thành quả thực tế trong quản lý
nước và hợp tác khoa học và kĩ thuật cũng như Trợ giúp công cộng và
phát triển đa phương của Pháp đã được nhiều tổ chức quốc tế thừa nhận
và áp dụng: mô hình quản lí nước toàn bộ lưu vực sông, sự liên kết và
nhượng bộ giữa các đơn vị quản lí và sử dụng nước, cơ cấu phối hợp quản
lí và cung ứng dịch vụ phối hợp công – tư, mạng thông tin quốc gia về tài
nguyên nước và hệ thống đào tạo nghề nước với Trung tâm quốc gia đào
tạo nghề nước ở Limoges-La Souterraine. Có thể nói, tính đặc sắc của
kinh nghiệm Pháp thể hiện ở tính liên kết và thỏa hiệp giữa các đơn vị tiêu
thụ nước, hệ thống quản lí hiện đại và hữu hiệu tài nguyên nước, thương
mại hóa các dịch vụ liên quan đến nước, sự phối hợp giữa các đơn vị liên
quan đến nguồn tài nguyên nước và sử dụng nước.
- Như chúng ta biết sự ấm lên toàn cầu, sự biến đổi khí hậu cũng là một
trong những nguyên nhân làm cạn kiệt nguồn nước, do vậy các quốc gia
cần phải hạn chế sự ấm dần lên toàn cầu đó là : Các quốc gia cần phải hạn
chế và quản lý chặt chẽ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và những khí
nhà kính khác. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng những loại nhiên liệu sạch
mới thân thiện môi trường như nhiên liệu hydrogen cũng như nhiều nhiên
liệu xanh và nhiên liệu tái sinh khác. Quản lý và bảo tồn rừng, đất nông
nghiệp, nguồn nước và những hệ sinh thái là động thái quan trọng cho
phát triển bền vững bảo vệ hành tinh thoát khỏi tình trạng nguồn nước cạn
kiệt.
4 ) Áp dụng các biện pháp pháp luật :
Luật pháp về tài nguyên nước rất phổ biến, cả các nước phát triển và các
nước đang phát triển đều nhận thức được rằng phải xây dựng và hoàn thiện luật
pháp về vấn đề tài nguyên nước, thông qua pháp luật bảo vệ và giải quyết tranh
chấp tài nguyên nước một cách có hiệu quả. Các luật tương đối phổ biến như
luật tài nguyên nước, luật chống ô nhiễm nước, luật sông ngòi….
Trên thế giới hiện nay, luật quốc tế về nước vẫn chưa được chấp nhận rộng
rãi song cộng đồng quốc tế trong thực tiễn giải quyết mâu thuẫn đã xây dựng
được các điều ước, thông lệ, nguyên tắc có liên quan mang tính quốc tế. Những
nguyên tắc chủ yếu gồm có : nguyên tắc giải quyết xung đột quốc tế bằng con
đường hòa bình, nguyên tắc sử dụng tài nguyên nước công bằng, nguyên tắc
không làm tổn hại đến lợi ích quốc gia khác, nguyên tắc cùng trao đổi thông tin
về tài nguyên nước, nguyên tắc cùng quản lý sông ngòi quốc tế, nguyên tắc
thông báo trước việc làm của mình. Những nguyên tắc này nói chung nhận được
sự đồng tình của quốc tế và được sử dụng trong các cuộc đàm phán.
5 ) Áp dụng các biện pháp khác :
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
16
Ngoài những giải pháp trên còn một số giải pháp như:
- Tiết kiệm cũng được xem là một trong những biện pháp hữu hiệu để khắc
phục tình trạng trên, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ nước, đặc
biệt là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tài nguyên nước. Ví dụ :Từ thập
niên 80, Nhật bản đã là nước đi tiên phong một phần trong việc tiết kiệm
và tái sử dụng nước dơ trong thành phố bằng cách đặt chậu rửa mặt trên
bồn cầu vệ sinh cá nhân. Nước đã sử dụng trên chậu rửa mặt sẽ được giữ
lại trong hộp cầu của bồn cầu vệ sinh để tái xử dụng khi giật nước dội
bồn cầu.
- Cần tích cực cải tạo, nâng cấp hệ thống đường ống cấp nước, giảm thất
thoát và góp phần khắc phục tình trạng thiếu nước. Các đô thị lớn cần có
những nhà máy xử lý nước thải thành nước sạch. Tiến hành lắp đặt các
thiết bị tiết kiệm nước.
- Trước những thực tế trên, một cuộc khủng hoảng nước có tính toàn cầu
trong khoảng hai mươi năm tới hoàn toàn không phải là một sự cường
điệu nếu không có những cái thiện thực sự có tính cách mạng hệ thống
khai thác và tiêu thụ nước. Cần phải làm sao để sử dụng ít nước đi nhưng
vẫn bảo đảm được nước tưới tiêu, công nghiệp cũng như sinh hoạt. Điều
này đòi hỏi cùng với việc nghiên cứu và ứng dụng những công nghệ mới
làm giảm thiểu thất thoát nước, tái chế, chống ô nhiễm và đặc biệt một nỗ
lực đáng kể trong việc giáo dục và thay đổi hành vi, cần có những giải
pháp có tính tổng thể và dài hạn về vấn đề nước, trong đó sự hợp tác quốc
tế là rất cần thiết để có thể hỗ trợ được các nước nghèo.
Lời kết
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
17
Có thể nói rằng, trước vấn đề cấp bách như hiện nay, cạn kiệt
nguồn nước đang là vấn đề toàn cầu. Tất cả mọi người đều đồng ý
phải coi bảo vệ nước, khai thác và tái tạo nó như là một trong những
lĩnh vực, đối tượng của sự quản lý toàn cầu, nó phải là trách nhiệm
của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia trong cộng đồng xã hội và toàn thế
giới. Tôi nhớ có một bài hát về hành tinh xanh của chúng ta trước
những vấn đề toàn cầu là: " đất nước Việt Nam có đẹp được mãi hay
không điều, đó tùy thuộc vào bạn và chỉ có bạn mà thôi". Điều này có
nghĩa là tất cả chúng ta hãy chung tay xây dựng một thế giới tươi đẹp
hơn, khang trang hơn. Mỗi cá nhân , quốc gia hãy nâng cao nhận thức
trước những vấn đề không chỉ của riêng ai này.
Trên đây là những gì chúng em nhận thức được vấn đề cạn kiệt
nguồn nước . Bài tiểu luận này chắc chắn còn nhiều thiếu sót, chúng
em rất mong cô có những đóng góp và những lời đánh giá cho bài tiểu
luận này. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
Tiểu luận các vấn đề toàn cầu_ nhóm 8
18
1. Gs. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên
đầu của thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2006.
2. Vương Dật Châu (Chủ biên), An ninh Quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004.
3. Thời báo kinh tế Việt Nam.
4. Tài liệu của tạp chí Awake và BBC.
5. Báo cáo của Bộ tài nguyên và môi trường.
6.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom8_nguon_nuoc_9987.pdf