Trong khi chúng tôi hi vọng đã cung cấp một sự phân tích toàn diện và chặt c hẽ
về tài khoản vãng lai, tỷ giá thực, và vị thế tài sản nước ngoài ròng ở những quốc gia
có thu nhập thấp, thì chắc chắn vẫn còn cơ hội cho những nghiên cứu xa hơn. Ưu tiên
hàng đầu là việc c ải thiên chất lượng và quy mô của tập dữ liệu. Nhiều chỉ số chính nói
chung đã bỏ qua phần lớn c ác quốc gia, điều này có thể làm yếu đ i kh ả năng đánh g iá
đúng cân bằng bên ngoài của nền kinh tế. Một sự am h iểu sâu hơn về tính chất không
đường nằm dưới mối quan hệ bên dưới vấn đề nghiên cứu thì c hắc chắn quan trọng. Ví
dụ, phân tích sự tương tác giữa sự tự do hóa tài khoản vốn với thu nhập, và giữa hai
nhân tố này với các yếu tố quyết định khác, tụt lại đằng sau sự dồi dào về những giả
thuyết mang tính lý thuyết đã được nêu lên.
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2246 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cân bằng bên ngoài trong các quốc gia có thu nhập thấp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đến tài khoản vãng lai một
cách đáng kể và chắc chắn trong mô hình hồi quy OLS gộp. Chính sách tài khóa cũng
ảnh hưởng đến tỷ giá thực thông qua ảnh hưởng đa hợp trong một nền kinh tế phát
triển thậm chí có sự hiện diện của lý thuyết tương đương của Ricardo (Obstfeld và
Rogoff, 1999). Nếu chính phủ chi tiêu nhiều vào hàng hóa phi mậu dịch hơn là tiêu
dùng cá nhân (thường là trường hợp tiêu dùng của chính phủ), điều này sẽ dẫn đến việc
tăng tỷ giá thực, bởi vì giá tương đối của hàng hóa phi mậu dịch sẽ tăng nhằm duy trì
cân bằng bên trong và bên ngoài ( Vegh (2009) và Hinkle và Montiel (1999)). Phù hợp
với dự đoán này, lý thuyết thực nghiệm đã tìm ra một hệ số dương (xem ví dụ Ricci et
al. (2008) và De Gregorio et al. (1994)).
Tài sản ròng nước ngoài. Những nước có tài sản ròng nước ngoài lớn hơn có thể
tài trợ cho chi tiêu nhiều hơn (nhiều hơn dòng thu nhập), vì thế sẽ có 1 tài khoản vãng
lai thấp hơn, trong khi đó vẫn duy trì được khả năng trả nợ. Tuy vậy, ở những nước có
tài khoản vãng lai ở trạng thái không ổn định và không chắc chắn lại được liên kết một
cách chắc chắn với tài sản ròng nước ngoài ở trạng thái ổn định (Lane và Milesi-
Ferretti (2002), Chinn và Prasad (2003), và Lee et al. (2008) về bằng chứng thực
nghiệm thống nhất trong mô hình hồi quy OLS gộp). Hơn thế nữa, trong tình trạng ổn
định, tài sản ròng nước ngoài lớn hơn cho phép tiêu dùng cả hàng hóa mậu dịch và phi
mậu dịch nhiều hơn trong khi đó vẫn duy trì được khả năng trả nợ, hàm ý một tỷ giá
thực cao hơn (Lane và Milesi-Ferretti (2002) và (2004) và Ricci et al. (2008)). Mối
quan hệ này có lẽ không xuất hiện ở những nước thu nhập thấp được miễn nợ: nếu một
sự gia tăng nợ được kỳ vọng sẽ được hưởng lợi từ việc miễn nợ trong tương lai, thì tài
sản ròng nước ngoài thấp hơn do việc gia tăng nợ có thể không liên quan đến việc tiêu
dùng ít hơn cần thiết để chi trả những khoản nợ nước ngoài thông qua thặng dư thương
mại, cũng như những thay đổi trong tỷ giá thực. Ảnh hưởng của những kỳ vọng như
8
vậy cũng sẽ được phản ánh trong hệ số tài sản ròng nước ngoài trong hàm hồi quy tài
sản ròng và tỷ giá thực.
Dân số. Theo giả thuyết vòng đời, phần dân số phụ thuộc nhiều hơn sẽ làm giảm
tiết kiệm quốc gia và cán cân tài khoản vãng lai, và vì thế làm cho tỷ giá thực tăng lên.
Trong mô hình thế hệ chồng chéo, số dân lao động cao hơn làm tăng tiết kiệm quốc
gia, vì thế làm tăng tài khoản vãng lai. Sự tăng trưởng dân số có ảnh hưởng tiêu cực
đến tài khoản vãng lai và ảnh hưởng tích cực đến tỷ giá thực nếu sự tăng trưởng dân số
tương quan với dân số trẻ ngoài độ tuổi lao động. Những dự đoán này được xác thực
trong phân tích tài khoản vãng lai (lee et al. (2008)), phân tích tỷ giá thực (Rose et al.
(2008)) và phân tích tài sản ròng nước ngoài (Lane và Milesi-Ferretti (2001)).
Giai đoạn phát triển và tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết tân cổ điển cho rằng
những nước ở giai đoạn phát tr iển đầu nên nhập khẩu vốn và vay mượn cho khoản thu
nhập tương lai để tài trợ cho nhu cầu đầu tư và giải quyết việc tiêu dùng hiện tại với
hữu dụng tiêu dùng biên cao cho trước (Obstfeld và Rogoff (1999)). Tương tự, những
nước phát triển nhanh với năng suất được kỳ vọng cao hơn nên đầu tư nhiều hơn, hàm
ý một sự biến dạng tài khoản vãng lai. Cuối cùng, sự tăng trưởng năng suất cao trong
lĩnh vực mậu dịch liên quan đến lĩnh vực phi mậu dịch nên được liên kết với tỷ giá
thực tăng lên (ảnh hưởng Balassa-Samuelson): Một sự gia tăng năng suất trong lĩnh
vực mậu dịch liên quan đến lĩnh vực phi mậu dịch, so với những đối tác thương mại, sẽ
dẫn đến mức lương cao hơn trong lĩnh vực mậu dịch (giá của nó phụ thuộc vào thị
trường thế giới nếu nước đó là nền kinh tế nhỏ) và kết quả là tạo áp lực lên lương và
giá trong lĩnh vực phi mậu dịch. Ricci et al. (2008) và Choudhri và Khan (2005) cho
thấy rằng một sự gia tăng 10% trong năng suất của lĩnh vực mậu dịch liên quan đến
lĩnh vực phi mậu dịch có khuynh hướng định giá tỷ giá thực cao hơn 1 đến 2% mức
trung bình. Hơn thế nữa, thu nhập cao hơn sẽ tạo ra áp lực lên giá của hàng hóa phi
mậu dịch liên quan đến hàng hóa mậu dịch, bởi vì hàng hóa mậu dịch được định giá
trên thị trường quốc tế, dẫn đến việc tăng lên của tỷ giá thực. Tuy nhiên, một sự đo
lường tốt về năng suất tương đối là không có một cách dễ dàng ở những nước có thu
9
nhập thấp. Vì vậy, bài này sử dụng GDP thực trên đầu người như là một biến số đại
diện, giống như trong hầu hết các lý thuyết. Bởi vì biến số này không phản ánh một
cách chính xác ảnh hưởng về mặt năng suất tương đối, nó đo lường mức năng suất
trung bình trong lĩnh vực mậu dịch và phi mậu dịch – dấu hiệu được kỳ vọng về con số
đại diện này là không rõ ràng.
Sự biến dạng chính sách và thể chế
Cải cách tài chính trong nước. Một hệ thống tài chính phát triển tài trợ đầu tư và
giúp thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, qua đó làm cán cân tài khoản vãng lai giảm
xuống và tỷ giá hiệu quả thực tăng lên. Một hệ thống tài chính phát triển cũng có thể
cải thiện cán cân tài khoản vãng lai và làm giảm tỷ giá hiệu quả thực nếu nó khuyến
khích tiết kiệm trong nước (Mac Kinnon (1973) và Edwards (1995)). Gourinchas và
Jeanne (2009) xác định mô hình một nền kinh tế mở trong đó cả quyết định đầu tư và
tiết kiệm bị sai lệch bởi “sự chia rẽ” ảnh hưởng lợi nhuận trên vốn. Mô hình của họ cho
rằng tự do hóa tài chính có thể có ảnh hưởng không tốt đến vị trí bên ngoài của một
nước đang phát triển: một sự sụt giảm sai lệch tiết kiệm có khuynh hướng làm giảm
dòng vốn vào bằng cách tăng tiết kiệm trong nước, nhưng một sự sụt giảm sai lệch đầu
tư lại có khuynh hướng làm tăng dòng vốn vào bằng cách tăng sự khan hiếm vốn. Phân
tích thực nghiệm luôn dựa trên phương pháp đo lường sự phát triển tài chính như là
một sự đại diện cho mức độ tự do hóa tài chính và tìm ra những ảnh hưởng xấu nhất
vào tài khoản vãng lai (Gurber và Kamin (2007) và Chinn và Ito (2007)).
Tự do hóa tài khoản vốn. Lý thuyết tân cổ điển cho thấy rằng qua quá trình phát
triển kinh tế, việc tự do hóa tài khoản vốn đi kèm với v iệc bóp méo tài khoản vãng lai
(dòng vốn vào) và định g iá cao tỷ giá thực ở những nước đang phát triển, và với 1 sự
cải thiện tài khoản vãng lai (dòng vốn ra) và việc định giá thấp tỷ giá thực ở những
nước phát triển (lucas (1988) và Edwards (1989)). Hơn thế nữa, việc mở tài khoản vốn
cho phép những nước vay mượn để sử dụng cho khoản thu nhập tương lai và vì thế sẽ
có cán cân tài khoản vãng lai thấp khi chạm phải sự tổn thương thu nhập âm tạm thời.
(Vegh (2008)). Tuy nhiên, Kraay và Ventura (2000) chỉ ra rằng, nếu đơn vị của cải
10
biên được đầu tư cùng phương thức như đơn vị của cải trung bình thì những tổn
thương thu nhập âm tạm thời sẽ dẫn đến sự thâm hụt (thặng dư) tài khoản vãng lai ở
những nước có tài sản ròng nước ngoài âm (dương).
Thể chế. Đặc tính về mặt thể chế như hiệu quả của quyền tài sản và thực hiện
hợp đồng có những ảnh hưởng cơ bản đầu tiên vào cán cân tài khoản vãng lai và dòng
vốn đầu tư. Những quốc gia có thể chế tốt hơn có thể thu hút dòng vốn đầu tư nước
ngoài ổn định do rủi ro thấp hơn, và vì vậy có thể duy trì cán cân tài khoản vãng lai và
vị trí tài sản ròng nước ngoài thấp hơn. (Alfaro et al. (2007) và Gruber và Kamin
(2007)). Tuy nhiên, ở những nước có thể chế tốt hơn, hệ thống chính trị có thể đưa ra
những chính sách tỷ giá hối đoái ít thiên về v iệc nâng cao tỷ giá hối đoái thực, vì thế
gây nên tài khoản vãng lai và vị trí tài sản ròng nước ngoài cao hơn. Các kết quả tương
tự có thể được tạo ra từ những thể chế tốt tạo ra môi trường thuận lợi hơn để tiết kiệm.
Cải cách thương mại. Ảnh hưởng của cải cách thương mại vào tài khoản vãng
lai và tỷ giá hối đoái thực là mơ hồ về mặt lý thuyết (Edwards (1990)). Cải cách
thương mại tạm thời (hay được nhận thức là tạm thời) có thể làm xấu đi tài khoản vãng
lai bằng cách giảm giá những hàng hóa nhập khẩu liên quan đến những hàng hóa được
sản xuất trong nước (ảnh hưởng thay thế tạm thời). Ảnh hưởng tạm thời là không rõ
ràng: tài khoản vãng lai nên cải thiện như là một kết quả của ảnh hưởng thu nhập,
nhưng một mức giá thấp hơn cho tiêu dùng hôm nay liên quan đến t iêu dùng tương lai
sẽ ảnh hưởng không tốt đến cán cân tài khoản vãng lai (Ostry,1990). Ảnh hưởng của tự
do hóa thương mại vào tỷ g iá hối đoái thực tùy thuộc vào ảnh hưởng đó là ảnh hưởng
thu nhập hay ảnh hưởng thay thế. Bởi vì thương mại được tự do hóa nên việc gia tăng
thu nhập thực do giá nhập khẩu thấp sẽ dẫn đến việc định giá cao tỷ giá hối đoái thực.
Tuy nhiên, tự do hóa thương mại cũng có thể thay đổi nhu cầu từ những hàng hóa phi
mậu dịch đến những hàng hóa mậu dịch, dẫn đến 1 sự giảm giá. Một hậu quả tương tự
phát sinh từ ảnh hưởng trực tiếp của tự do hóa (việc giảm thuế quan) vào việc giảm giá
những hàng hóa mua bán nội địa. Bằng chứng đó là những ảnh hưởng sau này (xem
Ricci et al. (2008) và Goldfajn và Valdes (1999)).
11
Kiểm soát giá cả và chênh lệch giá thị trường chợ đen. Giá được quản lý là giữ
mức giá dưới mức thị trường và vì thế dẫn đến tỷ giá hối đoái thực bị định giá thấp
(xem Ricci et al. (2008)). Tuy nhiên, kiểm soát giá sẽ đẩy giá lên cao, làm cho tỷ g iá
hối đoái thực được định giá cao hơn. Cuối cùng, tỷ giá thị trường chợ đen được định
giá thấp hơn tỷ giá hối đoái chính thức (chẳng hạn chênh lệch dương giá thị trường chợ
đen cho thấy kỳ vọng của việc phá giá tỷ giá chính thức) sẽ đi kèm với một tỷ giá hối
đoái thực được định giá cao hơn (dựa trên tỷ giá chính thức, là cơ sở hiện hành cho
việc đo lường tỷ giá hối đoái thực)
Những cú sốc
Tỷ lệ trao đổi Ảnh hưởng của 1 sự cải thiện trong tỷ lệ trao đổi là không chắc
chắn và chủ yếu dựa vào ảnh hưởng thu nhập hay ảnh hưởng thay thế chiếm ưu thế. Sự
cải thiện trong tỷ lệ trao đổi tạo ra sự gia tăng trong giá hàng xuất khẩu, cải thiện tài
khoản vãng lai, bởi vì phần thu nhập dương được tiết kiệm nhằm giải quyết vấn đề tiêu
dùng và nâng cao tỷ giá thực dựa trên chỉ số CPI bởi vì sự gia tăng cầu nội địa (đi kèm
với ảnh hưởng thu nhập) làm tăng giá hàng hóa phi mậu dịch (Ostry (1988) và
Edwards và Ostry (1992)). Tuy nhiên, 1 sự cải thiện trong tỷ lệ trao đổi làm phát s inh
sự sụt giảm giá hàng hóa nhập khẩu cũng có thể gây nên tình trạng tài khoản vãng lai
xấu và giảm giá thực nếu người tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu bằng hàng sản xuất
trong nước hoặc hàng nhập khẩu trong tương lai (Obstfeld và Rogoff (1999) và Vegh
(2009)). Nếu hàng hóa nhập khẩu được sử dụng cho đầu vào của sản xuất thì ảnh
hưởng cuối cùng vào tỷ giá thực sẽ là ảnh hưởng phức tạp, bởi vì hàng hóa nội địa
được sản xuất với những hàng hóa nhập khẩu đó thường gây nên sự sụt giảm trong giá.
Nhìn chung, bằng chứng cho thấy ảnh hưởng tích cực của sự cải thiện tỷ lệ trao đổi vào
tỷ giá hối đoái thực (xem Ricci et al. (2008), Cashin, Cespedes, và Sahay (2004), Chen
và Rogoff (2003), và Ostry và Reinhart (1992); đối với v iệc phân tích ảnh hưởng riêng
biệt của giá hàng nhập khẩu và xuất khẩu, xem Christiansen và Tokarick (2009)).
12
Thiên tai. Một cú sốc thu nhập âm ảnh hưởng tích cực đến cán cân tài khoản
vãng lai nếu t iết kiệm quốc gia tăng, hay nếu đầu tư giảm tương đối so với tiết kiệm,
do hậu quả của cú sốc. Tuy nhiên, tài khoản vãng lai có thể xấu đi nếu nước này giải
quyết vấn đề tiêu dùng bằng cách vay mượn trên thị trường tài chính quốc tế (Obstfeld
và Rogoff, 1999). Thế thì, chúng tôi hy vọng ảnh hưởng của thiên tai tùy thuộc vào
mức độ mở của tài khoản vốn. Khi xem xét mối quan hệ giữa tỷ g iá hối đoái thực và
những nguyên tắc cơ bản của nó, chúng tôi hy vọng những cú sốc không có vai trò gì
bởi vì nó dường như chỉ có ảnh hưởng tạm thời.
Tài trợ bên ngoài
Viện trợ chính thức
Trong ngắn hạn, một sự tăng đột biến trong viện trợ có thể đẩy giá trong nước
lên và gây ra việc tăng tỷ giá hối đoái thực bởi vì cung thì có giới hạn trong việc đáp
ứng sự gia tăng tổng cầu được tài trợ bởi viện trợ. Tuy nhiên, trong dài hạn, ảnh hưởng
của viện trợ vào tỷ giá hối đoái thực là không rõ ràng về mặt lý thuyết bởi vì dòng vốn
viện trợ gây nên sự gia tăng (sụt giảm) trong năng suất sản xuất hàng hóa phi mậu dịch
so với năng suất trong lĩnh vực mậu dịch, dẫn đến sự sụt giảm tỷ giá hối đoái thực (sự
tăng giá).
Để tính toán về mặt thực nghiệm ảnh hưởng của viện trợ vào tài khoản vãng lai,
viện trợ phải được phân chia thành 2 thành phần chính (tài trợ và các khoản vay ưu
đãi), miễn là chúng chiếm một phần trong cán cân thanh toán (đầu tiên là tài khoản
vãng lai và sau đó là tài khoản tài chính). Bên cạnh đó, trong một mức độ nhất định thì
dòng vốn viện trợ thường được tái phân phối cho các cá nhân thông qua chi tiêu của
chính phủ và không phải là trung gian trong hệ thống tài chính trong nước, ảnh hưởng
của chúng vào vị trí bên ngoài là độc lập với ảnh hưởng của tự do hóa tài chính trong
nước. Về mặt khái niệm, dòng vốn viện trợ được cho là sự chuyển nhượng ngoại sinh.
Trợ cấp. Những nước nhận được nguồn tiền trợ cấp ổn định có thể duy trì cán
cân thương mại thấp hơn trong trung hạn. Giả định trợ cấp được tính trong tài khoản
13
vãng lai của cán cân thanh toán thì tài khoản vãng lai sẽ giữ nguyên không đổi nếu trợ
cấp tài trợ hoàn toàn cho sự biến dạng của cán cân thương mại. Ngược lại, nếu phần trợ
cấp được tiết kiệm dưới dạng dự trữ quốc gia thì tài khoản vãng lai sẽ được cải thiện.
Những khoản vay ưu đãi. Những khoản vay ưu đãi sẽ giúp cho tài khoản vãng
lai thấp hơn trong trung hạn. Hơn thế nữa, các khoản nợ với những điều khoản ưu đãi
đặt ra những vấn đề đáng quan tâm bởi vì nó tạo ra khoảng trống giữa giá trị thị trường
thực tế và danh nghĩa của tài sản ròng nước ngoài. Bài này xem xét ảnh hưởng của tài
sản ròng nước ngoài khi tính giá trị thực của các khoản nợ được bảo đảm công khai
rộng rãi. Dĩ nhiên, sự hiệu chính đáng kể này cũng có những giới hạn bởi vì với những
số liệu được đưa ra thì ảnh hưởng thêm vào từ việc xóa nợ trong tương lai dự kiến
không thể không được tính đến.
Lý thuyết về tài sản ròng nước ngoài có hạn chế 1 phần bởi vì việc phân tích
thực nghiệm thiếu những dữ liệu gần đây (xem Lane và Milesi-Ferretti (2006) lần xuất
bản thứ 2 về hệ thống dữ liệu). Lane và Milesi-Ferretti (2001) đưa ra thảo luận về mặt
lý thuyết và thực nghiệm những yếu tố quyết định chính đối với những nền kinh tế phát
triển và đang phát triển. Đầu tiên, khoản nợ công làm giảm tài sản ròng nước ngoài,
tương tự như ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách đến tài khoản vãng lai. Thứ hai, phần
dân số phụ thuộc nhiều hơn hàm ý cần phải g iảm t iết kiệm (và giảm tài sản ròng nước
ngoài) để tiêu dùng nhiều hơn. Thứ ba, mối quan hệ giữa thu nhập và tài sản ròng nước
ngoài là không chắc chắn. Mối quan hệ chắc chắn được được gợi ý bởi mô hình phát
triển chuẩn trong đó những nước nghèo đi vay và những nước giàu cho vay, nhưng
cũng có thể bắt nguồn từ những mô hình hình thành theo thói quen hay tính phi tuyến
tính trong hàm hữu dụng. Tuy nhiên, một mối quan hệ tiêu cực với thu nhập có thể
phát sinh do kết quả của việc tiếp cận hạn chế thị trường quốc tế hay mong muốn tiết
kiệm dự phòng nhiều ở những nước đang phát triển. Cuối cùng, những nước giàu hơn
thường đầu tư nhiều vào cổ phần (xem Faria et al. (2007)) tạo ra doanh thu dài hạn cao
và kết quả là tài sản ròng nước ngoài cao hơn.
14
III. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH THỰC TIỄN
A. DỮ LIỆU
Chúng tôi xây dựng một tập dữ liệu lớn gồm 134 quốc g ia trong suốt giai đoạn
từ 1980-2006, với nhiều chỉ t iêu khác nhau, trong đó các quốc gia được phân loại theo
nhóm thu nhập. Mẫu LICs ( xem phụ lục bảng A1) gồm các quốc gia có “ thu nhập
thấp” hay “ thu nhập trung bình thấp” theo sự phân loại của Ngân hàng thế giới, và loại
trừ các thị trường mới nổi sao cho mẫu càng đồng nhất càng tốt (Trung Quốc,
Colombia, Ấn Độ, Indonesia, Pakistan và Thái Lan). Các quốc gia “thu nhập cao” và
“thu nhập trung bình cao” (theo sự phân loại của Ngân hàng thế giới), kể cả 6 quốc gia
ở trên, gom vào nhóm các quốc gia có thu nhập cao (HICs) và được dùng để so sánh.
Bảng thống kê tóm tắt các dữ liệu chính được cung cấp trong Bảng phụ lục A2. Tất cả
các biến này được thuyết minh trong phụ lục.
B. PHÂN TÍCH TÀI KHOẢN VÃNG LAI TRONG TRUNG HẠN:
Phần này phân tích mối quan hệ giữa tài khoản vãng lai và các yếu tố cơ bản
trong trung hạn. Mô hình ước lượng gồm bảng dữ liệu không cân bằng trong suốt giai
đoạn 1981-2005 với 6 quan sát cho hầu hết các quốc gia.
Mô hình hồi quy tài khoản vãng lai chuẩn cho các quốc gia thu nhập thấp
Bảng 1 trình bày kết quả hồi qui tài khoản vãng lai của mẫu các quốc gia có thu
nhập thấp. Ngoài tác động cố định quốc gia, mô hình hồi qui bao gồm các biến số
truyền thống ( xem ví dụ Chinn và Prasad (2003), Chinn và Ito (2007), và Lee et al
(2008)) như cân đối tài chính, biến nhân khẩu học ( tỷ lệ phụ thuộc của tuổi già, tăng
trưởng dân số), vị thế tài sản nước ngoài ròng ban đầu, cán cân thương mại về dầu, và
các biến số có liên quan đến sự phát triển (GDP bình quân đầu người so với Mỹ, và
tăng trưởng GDP bình quân đầu người thực tế). Đáng chú ý nhất là tỷ lệ cán cân tài
chính trên GDP và tăng trưởng dân số vẫn có ý nghĩa mạnh trong mẫu LICs như dự
đoán.
15
Tập hợp các biến kiểm soát cũng gồm cả sự đo lường tỷ lệ mậu dịch vốn không
được sử dụng trong mô hình hồi qui tài khoản vãng lai từ trước tới nay. Khám phá của
chúng tôi cũng phù hợp với cách giải thích: hiệu ứng thu nhập gây ra do thay đổi tỷ lệ
mậu dịch có tác động mạnh lên tài khoản vãng lai : một sự cải thiện tạm thời tỷ lệ mậu
dịch có khuynh hướng cải thiện tài khoản vãng lai khi phần tăng lên trong thu nhập
được tiết kiệm cho tiêu dùng trong tương lai.
Cột 1 đến 7 là kết quả hồi qui khi chúng tôi đưa ra các yếu tố mới quyết định tài
khoản vãng lai trong trung hạn ngoài tập hợp các yếu tố quyết định trước kia. Cột 8 và
9 tóm tắt các kết quả được ưa thích ngay cả khi duy trì những yếu tố quyết định tiêu
chuẩn hay khi sử dụng những tiêu chuẩn thống kê khắt khe chỉ với những biến số có ý
nghĩa đáng kể.
Về tài trợ chính thức, tổng viện trợ nước ngoài có mối tương quan ngược với tài
khoản vãng lai. Hệ số ước lượng chỉ ra rằng với 1$ v iện trợ bất kỳ, tài khoản vãng lai
sụt giảm khoảng 0.1$ trong cùng thời kỳ. Phù hợp với những dự báo lý thuyết của mô
hình chuẩn tắc (xem ví dụ Torvik và Matsen (2004)), một phần lớn viện trợ không
được dùng ngay lập tức vào nhập khẩu ròng mà được giữ lại một cách gián tiếp như
khoản dự trữ ngoại hối ( Berg et al (2007) và Prati and Tressel (2006) cung cấp bằng
chứng chắc chắn rằng sự phản ứng lại của nền kinh tế vĩ mô với làn sóng v iện trợ có
thể hạn chế khả năng thu hút viện trợ của các nước có thu nhập thấp trong ngắn hạn).
Bởi vì 2 thành phần của viện trợ nước ngoài (trợ cấp và những khoản vay ưu
đãi) được tính toán trong từng phần r iêng biệt của cán cân thanh toán (tài khoản vãng
lai và tài khoản vốn), do đó chúng tôi trình bày riêng 2 thành phần này trong cột 2, 6, 8
và 9. Hệ số ước lượng ngụ ý rằng, trung bình khoảng 80% trợ cấp được hấp thụ hoàn
toàn thông qua sự gia tăng trong nhập khẩu ròng mỗi 4 năm, trong khi chỉ 30 đến 50%
khoản vay ưu đãi được hấp thụ thông qua nhập khẩu ròng trong cùng thời kỳ (xem
Prati và Tressel (2006) cho mô hình phản ứng của chính sách vĩ mô với dòng viện trợ)
Những cải cách tài chính trong nước mà đẩy mạnh tiết kiệm tư nhân trong nước
hơn là đầu tư thì gắn với tài khoản vãng lai tốt hơn. Sự giải thích này phù hợp với g iả
16
thuyết của Mc Kinnon (được nêu lên đầu tiên bởi Mc Kinnon (1973)), theo đó sự tự do
hóa hệ thống ngân hàng trong nước ở những quốc gia đang phát triển dẫn đến tỉ lệ tiết
kiệm cao hơn bởi sự gia tăng lợi nhuận trên tiết kiệm tài chính. Kết quả ước lượng ngụ
ý rằng khi chuyển từ hồi quy mẫu tự do hóa tài chính hoàn toàn sang mẫu có mức tự do
hóa tài chính trung bình thì tài khoản vãng lai tăng lên khoảng 1.5% GDP. Điều này
được chứng minh trong Bảng phụ lục A3, giả thuyết là mức tiền gửi thực tế tăng khi
quốc gia tự do hóa hệ thống tài chính trong nước.
Tác động trái ngược của khoản vay ưu đãi và sự tự do hóa tài chính trong nước
lên tài khoản vãng lai có thể được giải thích bởi thực tế là dòng vốn viện trợ không
phải là trung gian tiêu biểu trong hệ thống tài chính trong nước, như được thảo luận
trong phần lý thuyết (dòng vốn viện trợ tài trợ cho chi tiêu thông thường và đầu tư của
chính phủ). Ngoài ra, một phần của dòng vốn viện trợ, do được tái phân phối thông qua
chuyển giao, tạm thời gia tăng thu nhập khả dụng của khu vực tư nhân, do đó nâng
mức tiết kiệm và tiêu dùng tư nhân lên.
Những cú sốc thu nhập âm ngoại sinh (như thảm họa tự nhiên) có tác động
ngược lên tài khoản vãng lai nhưng chỉ ở những quốc gia với tài khoản vốn mở hoàn
toàn. Ở những quốc gia này, một cú sốc thu nhập âm tạm thời gắn liền với tài khoản
vãng lai xấu đi và giảm dòng vốn vào, điều này phù hợp với v iệc giải quyết tổng tiêu
dùng bằng cách vay nợ quốc tế. Vì chúng ta đang bàn đến dòng vốn chính thức nên
vai trò của dòng vốn tư nhân được bỏ qua.
Trái lại, thảm họa tự nhiên gắn với sự cải thiện tài khoản vãng lai ở những quốc
gia có tài khoản vốn đóng. Có thể giải thích điều này như sau : những cú sốc âm này
gây ra sự gia tăng tiết kiệm trong cùng thời kỳ ( tương ứng với đầu tư) khi không có
đường vào thị trường vốn quốc tế. Một cách giải thích khác được đề xuất trong tác
phẩm của Kraay and Ventura (2000) chỉ ra rằng trong điều kiện nhất định, một đơn vị
biên của t iết kiệm sau cú sốc thu nhập tạm thời thì được dùng đầu tư, giả sử rằng tiết
kiệm tăng sẽ dẫn đến thặng dư tài khoản vãng lai ở những quốc gia mà lợi nhuận thực
trên tài sản nước ngoài cao hơn lợi nhuận trên tài sản trong nước, nhưng sẽ dẫn đến
17
thâm hụt ở những quốc g ia có lợi nhuận thấp hơn. Điều này ngụ ý rằng những cú sốc
thu nhập âm sẽ dẫn đến thặng dư (thâm hụt) tài khoản vãng lai ở những quốc g ia vay
nợ ( hoặc là chủ nợ) bởi vì đầu tư trong nước giảm nhiều hơn (ít hơn) tiết kiệm sau
những cú sốc như vậy. Khi tương tác biến số thảm họa tự nhiên với v ị thế tài sản nước
ngoài ròng ban đầu, chúng ta có được hệ số âm có ý nghĩa trên số hạng tương tác, thực
sự hỗ trợ cho những dự báo của mô hình Kraay and Ventura, và một hệ số không có ý
nghĩa trên chính biến cú sốc.
Một sự giải thích khác là tác động của sự tự do hóa tài khoản vốn lên tài khoản
vãng lai phụ thuộc vào sự thay đổi thu nhập : như đã thảo luận, khi các quốc gia đối
mặt với cú sốc thu nhập âm, một tài khoản vốn mở cửa hơn sẽ cho phép quốc gia vay
mượn trên thị trường vốn quốc tế. Tuy nhiên, sự tự do hóa tài khoản vốn dường như có
liên quan với dòng vốn ra ở những quốc gia có thu nhập thấp, điều này phù hợp với kết
quả hồi quy mẫu ( phụ lục bảng A3 chỉ ra 6 trong số 11 nước đang phát triển đã khống
chế lãi suất tiền gửi thực tế dưới lãi suất tiền gửi của Mĩ trong những năm 1980)
Quay lại những nhân tố chính trị, chúng tôi nhận ra rằng những sự kiện bạo lực
chính trị có khuynh hướng cải thiện tài khoản vãng lai, giả sử tình trạng không yên ổn
về chính trị có thể gây ra việc đào thoát vốn đáng kể.
Độ mạnh của mô hình
Kết quả chính nhìn chung là đủ mạnh để bao gồm cả các biến giải thích khác
nhau được thêm vào (bảng 2). Cột 1 tính đến hiệu ứng động của tài khoản vãng lai
bằng cách kiểm soát độ trễ của nó. Cột 2 cho thấy rằng cải cách thương mại ( được đo
bằng chỉ số về thuế xuất nhập khẩu bình quân) không có tính giải thích. Trong cột 3,
chúng tôi chia chỉ số tỷ lệ mậu dịch thành 2 thành phần, và thấy rằng giá xuất khẩu có
mối tương quan thuận và mạnh với tài khoản vãng lai, trong khi giá nhập khẩu thì
tương quan nghịch và yếu với tài khoản vãng lai: mối tương quan của cái sau yếu hơn
phù hợp với việc hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng thay thế của sự thay đổi giá nhập khẩu
có tác động ngược nhau lên tài khoản vãng lai. Kế tiếp, ở cột 4, kết quả đủ mạnh để
bao gồm cả các thị trường mới nổi, được phân loại như là quốc gia có thu nhập trung
18
bình thấp, vào mẫu ( những quốc gia này là Trung Quốc, Colombia, Ấn Độ, Indonesia,
Pakistan và Thái Lan). Hơn nữa, kết quả của chúng tôi cũng đủ mạnh để đưa ra cách
dùng công cụ đo lường khái quát hơn sự tự do hóa tài khoản vốn, như được báo cáo
trong cột 5. Trong cột 6,7 và 8, chúng tôi xem xét các số hạng tương tác khác với chỉ
số độ mở của tài khoản vốn. Trong cột 6, chúng tôi kiểm soát sự tương tác giữa cân đối
tài chính với chỉ số tài khoản vốn nhằm kiểm tra liệu tác động của chính sách tài khóa
có phụ thuộc vào năng lực của các đại lý tư nhân trong việc bù đắp chính sách tài khóa
bằng cách vay hoặc cho vay trên thị trường quốc tế hay không. Chúng tôi nhận ra rằng,
trong mẫu LICs, sự tác động của chính sách tài khóa lên tổng cầu và lên tài khoản vãng
lai thì không bị ảnh hưởng đáng kể bởi độ mở của tài khoản vốn. Tuy nhiên, dấu âm thì
phù hợp với các lý thuyết thông thường, ngụ ý rằng ở quốc gia có độ mở tài khoản vốn
càng cao thì tác động của cân đối tài chính lên tài khoản vãng lai càng thấp. Trong cột
7, chúng tôi xem xét sự tương tác với tốc độ tăng trưởng dân số, nhưng vẫn không tìm
thấy bất cứ tác động nào có ý nghĩa. Dù vậy, dấu âm trên số hạng tương tác thì phù hợp
với lý thuyết tân cổ điển, theo đó các quốc gia có dân số không hoạt động trẻ hơn sẽ có
khả năng vay mượn dựa vào thu nhập tương lai nhiều hơn khi tài khoản vốn mở cửa.
Cột cuối cùng xem xét số hạng tương tác với tăng trưởng GDP bình quân đầu người
thực tế; dấu dương của số hạng tương tác, mặc dù không có ý nghĩa, vẫn gợi ý rằng các
quốc gia có độ mở tài khoản vốn lớn hơn có khuynh hướng đạt được mức cân đối tài
khoản vãng lai tốt hơn khi sự tăng trưởng tạm thời ở trên xu hướng của nó.
Những quốc gia có thu nhập thấp có khác biệt không?
Chúng tôi hy vọng các quốc gia có thu nhập thấp khác biệt với các quốc gia có
thu nhập cao bởi vì rủi ro tổn thương cao hơn, sự bóp méo lớn hơn, nguồn vốn từ bên
ngoài khác nhau. Bảng 3a và 3b khám phá sự tác động của các yếu tố quyết định tài
khoản vãng lai trong trung hạn liệu có khác nhau đáng kể giữa các nước có thu nhập
thấp với các nước có thu nhập cao hay không.
Trong số các yếu tố quyết định tài khoản vãng lai thông thường, chúng tôi nhận
thấy tác động của (i) cân đối tài chính; (ii) tỷ lệ phụ thuộc tuổi già và (iii) tài sản nước
19
ngoài ròng ban đầu lên tài khoản vãng lai ở những quốc gia có thu nhập thấp khác đáng
kể so với ở các quốc gia khác. Đặc biệt, chúng tôi không tìm thấy mối liên quan đáng
kể giữa tài khoản vãng lai với cân đối tài chính ở những quốc gia có thu nhập cao, một
khám phá phù hợp với Chinn and Prasad (2003) và Isard and Faruqee (1999), họ cũng
không tìm ra bất cứ mối liên quan đáng kể nào ở những nước công nghiệp. Kết quả này
phù hợp với giả thuyết là sự tương đương Ricardian có khả năng trở thành thứ tự hợp
lý đầu t iên trong quyết định tiêu dùng và tiết kiệm ở các quốc gia tiến bộ hơn là ở các
quốc gia khác. Dấu âm của hệ số vị thế tài sản nước ngoài ròng ban đầu ở những quốc
gia t iến bộ thì phù hợp dự báo rằng những quốc gia giàu hơn có thể duy trì cán cân tài
khoản vãng lai thấp hơn trong trung hạn.
Thật đáng ngạc nhiên, chúng tôi dường như tìm ra mối quan hệ ngược giữa tài
khoản vãng lai với độ mở của tài khoản vốn ở các quốc gia phát triển hơn khi các nước
này không có kinh nghiệm về thảm họa tự nhiên (cột 1) – 1 phát hiện dường như
không phù hợp với dự báo thông thường của lý thuyết tân cổ điển, bởi vì các quốc gia
giàu hơn đáng lẽ sẽ trải qua sự thoát vốn khi mở cửa tài khoản vốn. Hơn nữa, đối với
nhóm quốc gia này, chúng tôi có được hệ số dương trên số hạng tương tác giữa biến độ
mở của tài khoản vốn với biến thảm họa tự nhiên. Rất có thể kết quả này là do thực tế :
đặc điểm trong cột 1 chỉ dành cho LICs, nhưng không dành cho các quốc gia có thu
nhập cao; cả 2 cách giải thích có liên quan đến cách mà sự tự do hóa tài khoản vốn và
thu nhập ảnh hưởng lẫn nhau, và vai trò của các cú sốc. Trong cột 2, chúng tôi đưa ra
số hạng tương tác giữa biến số độ mở tài khoản vốn với GDP bình quân đầu người như
cách để kiểm tra trực tiếp hơn dự đoán của lý thuyết tân cổ điển là vốn sẽ chảy từ quốc
gia phát triển đến những quốc gia ít phát triển hơn. Hệ số dương của số hạng tương tác
phù hợp với dự đoán của lý thuyết này, và ở các quốc gia giàu hơn, tổng tác động của
sự tự do hóa tài khoản vốn lên tài khoản vãng lai quả thực là dương. Cũng có thể là ở
các quốc gia có thu nhập cao, triển vọng kinh tế vĩ mô không có liên quan với thảm
họa tự nhiên. Trong hồi qui 3, chúng tôi cắt bỏ biến thảm họa tự nhiên và số hạng
20
tương tác, và thấy rằng sự tương tác của chỉ số tự do hóa tài khoản vốn với GDP bình
quân đầu người là phù hợp với dự đoán của lý thuyết phát triển thông thường.
C. PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM YẾU TỐ TỶ GIÁ THỰC
Phần này tìm hiểu về mối quan hệ giữa tỷ giá thực và các nguyên tắc cơ bản
trong dài hạn. Nghiên cứu này tiến hành ước lượng bảng số liệu không cân bằng hàng
năm, dữ liệu thu thập từ năm 1980 – 2006.
Bảng thực nghiệm kiểm định cho thấy bản chất của các biến được nghiên cứu,
ngoại trừ các cú shocks tự nhiên (xem bảng 4). Bảng kiểm định hồi quy đã cho chạy
mô hình tiêu chuẩn của lãi suất (cột 3 trong Bảng 5 và 6) và bác bỏ quan điểm cho rằng
phép kiểm định hồi quy không có giá trị. Các giả thiết đối với các biến hồi quy: cho
một tham số thay đổi và cố định các tham số còn lại (Dynamic ordinary least squares
DOLS), tiến hành ước lượng bằng phương pháp hồi quy mối quan hệ giữa tỷ giá thực
với các biến cơ bản. Với các mức biến khác nhau, cho các biến ở vế phải thay đổi,
đồng thời cũng tiến hành kiểm định trên các mẫu có độ lớn khác nhau theo hướng giảm
dần.
Mô hình kiểm định tiêu chuẩn cho các nước có thu nhập thấp
Bảng 5 và bảng 6 đưa ra các thông số kỹ thuật của các nước có thu nhập thấp
được tiến hành nghiên cứu với hai mức tỷ giá thực khác nhau. Đầu tiên là dựa trên một
trong những chỉ số CPI được cung cấp bởi IMF-INS. Thứ hai là xây dựng từ mức giá
tương đối với Hoa Kỳ như trong báo cáo của Penn World Table, sau đó thay hai mức tỷ
giá trên bằng tỷ giá được tính toán bởi IMF-INS thì kết quả thu được là giống nhau.
Với một vài trường hợp ngoại lệ được thảo luận dưới đây. Các biến kỹ thuật hồi qui
bao gồm các biến cơ bản như nguồn vốn ngoại ròng, năng suất, tiêu dùng của chính
phủ, tỷ giá, và hạn chế thương mại, ở các nước nghèo còn xét đến các biến như nguồn
viện trợ và nguồn vốn đầu tư. Hơn nữa, kiểm soát dân số và giá cả cũng là các vấn đề
cần thiết ở các nước có thu nhập thấp. Những yếu tố này cũng đã được nghiên cứu bởi
những người khác ( xem bài nghiên cứu của Rose (2008) và Ricci (2008)). Cột đầu tiên
21
của cả hai bảng bao gồm một biến g iả xác định cho trước thay đổi, cho thấy các nước
nghèo đang bị ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố tự nhiên ( khách quan).
Kết quả nghiên cứu chỉ ra những dấu hiệu ảnh hưởng tiêu cực của các biến động
lên tỷ giá thực. Tuy nhiên, các giả thiết về kinh tế đều không chắc chắn (một bảng sử
dụng phép kiểm định đơn vị đã bác bỏ những giả thuyết cổ điển (gốc)), trong cột 2 (và
trong việc kiểm định bằng hồi quy tiếp theo), chúng tôi loại trừ những chỉ báo này.
Ở cột 3 sự sụt giảm của các biến không đáng kể và kết quả thu được từ một hồi
qui chuẩn. Phù hợp với những tài liệu trước đó, cho rằng sự tiêu dùng của chính phủ có
mối quan hệ chặt chẽ với tỷ giá hối đoái thực, điều đó được xem xét với giả định rằng
chi tiêu của Chính Phủ là chi t iêu phi thương mại và với tỷ lệ chi t iêu cao hơn chi tiêu
khu vực tư nhân. Một sự cải tiến trong giá cả thương mại làm tăng tỷ giá hối đoái thực
và tác động này lên các quốc gia được nghiên cứu là giống nhau (xem Ricci et al
(2008.)). Tất cả các yếu tố đều được xem xét trong việc định giá tỷ giá thực, như trong
nghiên cứa của Rose (2008). Tác động của nguồn vốn ròng từ nước ngoài không đáng
kể, cũng như những khoản trợ cấp dưới hình thức nợ có thể làm mờ đi tác động của
biến này lên những quốc gia có thu nhập thấp được lấy làm mẫu nghiên cứu. Năng suất
chung ảnh hưởng không đáng kể đến tỷ giá thực của IMF-INS và vô hiệu với g iả thiết
thứ nhất của the Penn World Table ( lưu ý rằng để thống nhất số liệu, các chỉ số năng
suất được dựa trên GDP bình quân trên đầu người từ dữ liệu của the Penn World Table
trong giả thiết thứ 2). Một giả thiết cho là, ở các nước có thu nhập thấp, chỉ tiêu năng
suất chung phản ánh cho cả khu vực sản xuất thương mại và phi thương mại, thậm chí
năng suất của lĩnh vực sản xuất phi thương mại còn nhiều hơn cả lĩnh vực sản xuất
thương mại. (các giả định ngược lại sau giả định t iêu chuẩn, sử dụng yếu tố năng suất
chung như một sự thay thế cho tác dụng của lý thuyết của Balassa-Samuelson ). Đáng
tiếc, nó đã không thể xây dựng một lý thuyết tốt hơn, có thể thay thế cho lý thuyết của
Balassa-Samuelson bất chấp các nỗ lực lâu dài.
Quay lại các biến đặc trưng của các nước có thu nhập thấp, các nguồn vốn viện
trợ từ nước ngoài (từ Roodman (2006)) trong dài hạn sẽ làm giảm giá tỷ giá hối đoái,
22
có thể chỉ ra những tác động tích cực tới năng suất trong khu vực phi thương mại có
liên quan tới khu vực thương mại. Viện trợ nói chung được xem là bàn đạp để đẩy giá
cả trong nước (đặc biệt là của khu vực phi thương mại), do đó dẫn đến việc làm tăng tỷ
giá hối đoái trong ngắn hạn, nghĩa là khi đó chính sách hạ mức thuế để khuyến khích
sản xuất và đầu tư không có cơ hội phát huy tác dụng. Về lâu dài, dù thế nào, việc tăng
viện trợ sẽ tương ứng làm giảm giá tỷ giá hối đoái nếu nó làm tăng năng suất của khu
vực phi thương mại liên quan tới năng suất của khu vực thương mại (Torvik, 2001)
.40
Tự do hóa tài khoản vốn có tác động làm tăng giá tỷ giá hối đoái, có giả thiết
cho rằng, về lâu dài, nên mở rộng tự do hoá để khuyến khích dòng nguồn vốn ròng
chảy vào trong nước. Tình trạng giá ảo cũng ảnh hưởng đáng kể. Đặc biệt, với sự hiện
diện của các tổ chức marketing hầu như có khả năng luôn giữ được giá cao và làm tăng
tỷ giá thực.
Cột cuối cùng của Bảng 5 và 6 bao gồm khoản chênh lệch giữa giá chính thức và
giá trên thị trường chợ đen. Tỷ giá thực thường dùng tỷ giá chính thức. Hệ số quan
trọng và có tính xác thực là hệ số phù hợp với việc giải thích sự tồn tại của khoản
chênh lệch giữa giá chính thức và giá trên thị trường chợ đen, là tín hiệu của việc đánh
giá quá cao tỷ giá chính thức. Nói chung, trong tình hình đó, hầu hết các giao dịch
công đều được thực hiện theo tỷ giá chính thức, trong khi giao dịch tư nhân có xu
hướng thực hiện ở mức giá thị trường chợ đen, do đó, tỷ giá trung bình thực tế gần như
là tỷ g iá trung bình giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường chợ đen. Điều này
tương ứng với hệ số nằm giữa 0 và 1. Đó chính là kết quả mà chúng tôi tìm thấy. Tuy
nhiên, kích thước mẫu giảm đáng kể, đó là điểm giới hạn của phương pháp hồi quy.
Xác định chính xác tỷ giá hối đoái là một vấn đề quan trọng cần được chú ý nhiều
trong phân tích tỷ giá hối đoái thực. Đặc biệt là tập trung vào các nước có thu nhập
thấp mà có lịch sử bị sụp đổ hệ thống tỷ giá và có các vấn đề về đo lường mức giá.
Điều này đòi hỏi phải nổ lực hơn nữa trong việc thu thập dữ liệu.
Các nước có thu nhập thấp có khác biệt gì?
23
Nước có thu nhập thấp khác với các nước có thu nhập cao chủ yếu là do các yếu
tố: (thông tin không minh bạch, tài chính, và những biến động), nhưng yếu tố truyền
thống không thể hiện sự khác biệt lớn khi các yếu tố cụ thể này được xem xét theo
phương pháp hồi quy. Tuy nhiên, bỏ qua sự hiện diện của các yếu tố cụ thể sẽ dẫn đến
các yếu tố mang tính hệ thống, và ngay cả các hệ số đầu vào của các yếu tố truyền
thống cũng xuất hiện sự khác nhau. Cột 1 và 2 ở bảng 7a đưa ra chi t iết kỹ thuật đặc
trưng thường được sử dụng cho các nước có thu nhập cao và các nước có thu nhập trên
trung bình (xem ví dụ của Ricci 2008.), ngoài ra, hệ số để ước lượng cho nhóm các
nước có thu nhập trên trung bình và thu nhập cao (HICs) khác biệt với hệ số để ước
lượng cho các nước có thu nhập thấp và thu nhập dưới trung bình (LICs). Tất cả các hệ
số đều khác nhau đáng kể (xem Bảng 7b cột 1). Kế đến, các cột trong bảng 7a tiến
hành hồi quy ( tương tự như cột số 2 trong bảng 5) thể hiện sự tương quan giữa các
biến số khi được tiến hành thực nghiệm trên một mẫu lớn hơn của nền kinh tế phát
triển.
Phương pháp hồi quy này sử dụng để kiểm định bao gồm các chỉ số có liên quan
cho cả hai nhóm quốc gia, nó có thể được xem là phương pháp tốt nhất để đánh giá các
vai trò khác nhau của những chỉ số này trên mẫu của các nước.
Sự khác biệt trong các hệ số của các biến truyền thống bây giờ là không đáng kể
trong hầu hết các chỉ số (Bảng 7b cột_2). Nguồn vốn nước ngoài ròng có vai trò khác
nhau trong hai nhóm nước, điều đó không gây ngạc nhiên vì những nguồn viện trợ có
thể làm giảm sự phù hợp của biến này ở những nước có thu nhập thấp. Các nhân tố chủ
chốt của các nước có thu nhập thấp hoạt động khác nhau và có vai trò khác nhau trong
hai mẫu nghiên cứu. Và cũng không có gì ngạc nhiên khi những chỉ số này hầu như ít
có sự ảnh hưởng đến các nước có thu nhập cao. Cột cuối cùng của Bảng 7a cho thấy sự
phân hoá thu nhập bằng phương pháp hồi quy (tương đương cột 3 trong Bảng 5), và
bảng 7c thể hiện kết quả kiểm tra sự bằng nhau của các hệ số, kết quả thu được hơi
khác nhau, nhưng có thể, trong thực tế phương pháp hồi quy hoàn toàn phù hợp cho
nhóm các nước có thu nhập thấp nhưng lại chỉ là hệ thống lý thuyết cho nhóm khác.
24
Độ tin cậy của mô hình
Các mô hình tiêu chuẩn cho các nước có thu nhập thấp nhìn chung tương đối
mạnh, có thể dùng để thay thế các phương pháp kỹ thuật khác. Cột thứ 1 trong bảng 8
và 9 ghi lại những chỉ số được dẫn xuất từ cột 3 trong bảng 5 và 6 và sau đó tiến hành
khảo sát sự vững mạnh của các chỉ số khác. Đặc biệt, các cột 2 và 3 chú ý đến giá cả
mậu dịch (chỉ xét đến tỷ giá trao đổi hàng hoá hoặc hàng hoá và dịch vụ) và sẽ tách ra
thành 2 phần (giá xuất khẩu và giá nhập khẩu), từ đó cho thấy, tác động chủ yếu là do
giá xuất khẩu.
Đây là những gì chúng tôi mong đợi, sự nhất quán với kết quả kiểm định cho tài
khoản vãng lãi ( bảng 2): một sự cải tiến trong giá mậu dịch, cụ thể từ sự giảm giá nhập
khẩu thì không chỉ tạo ra hiệu ứng tích cực là tăng thu nhập (nhu cầu ngày càng tăng
đối với hàng hóa trong nước ), mà còn tạo ra hiệu ứng hàng nhập khẩu thay thế hàng
hoá nội địa, như vậy đã tác động lên tỷ giá hối đoái thực (xem Christiansen và
Tokarick (2008) “Lý thuyết chung và kinh nghiệm phân tích tác động của các thành
phần của giá thương mại”). Kết quả của các biến khác hoàn toàn phù hợp với kết quả
kiểm định trước đây.
Tốc độ điều chỉnh
Để đánh giá tốc độ điều chỉnh của tỷ giá trong dài hạn, chúng tôi sử dụng
phương pháp ước lượng bằng cách hiệu chỉnh các sai số kỹ thuật theo thời gian. Chúng
ta xây dựng một biên độ hiệu chỉnh các sai số thông qua sự khác biệt trong tỷ giá thực,
đưa tất cả các số liệu cơ bản vào mô hình hồi quy với các hệ số tương ứng trong cột
thứ 3 của bảng 5, tiến hành cho chạy mô hình bằng cách thay đối tỷ giá thực với xu
hướng giảm dần mức độ sai số, tương tự như vậy tiến hành thay đổi các biến khác ở vế
phải của mô hình. Trong 4 kết quả thu được từ việc cho các biến thay đổi 4 lần với
mức độ sai số trong khoảng 0.2, cho thấy chu kỳ xảy ra biến động là 2 lần trong 3 năm.
Chúng tôi mở rộng việc áp dụng các phương pháp khác để đo lường tỷ giá thực (sau
đây dùng cột 3 trong bảng 6) và kết quả thu được là tốc độ điều chỉnh có cao hơn phần
25
nào, chu kỳ xảy ra biến động là 2 lần trong 2 năm. Các kết quả này là phù hợp với các
tài liệu trước đó (xem Rogoff (1996) cho ví dụ).
D. PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM YẾU TỐ TÀI SẢN RÒNG CỦA NƯỚC
NGOÀI
Phần này tiến hành nghiên cứu thực nghiệm yếu tố tài sản ròng của nước ngoài ở
các nước có thu nhập thấp. Ước lượng dựa trên bảng dữ liệu không cân bằng hàng
năm, số liệu thu thập từ năm 1980 – 2006. Một lần nữa, phép kiểm định kiểm tra lại
bản chất của các biến liên quan đến sự ước lượng (xem Bảng 4); và bảng hồi quy tiến
hành chạy mô hình tiêu chuẩn (Bảng 10 cột 1) và bác bỏ quan điểm cho rằng lý thuyết
kiểm định hồi quy không có giá trị (xem thảo luận của các thực nghiệm này trong phần
trước).
Tương tự, sử dụng mô hình hồi quy để ước lượng theo nguyên tắc: cho một tham
số thay đổi và cố định các tham số còn lại. Ngoài các yếu tố chủ yếu được xác định
trong tài liệu ( nợ công, dân số học, và thu nhập trên đầu người), chúng tôi phân tích
vai trò của chính sách điều hành (tài khoản vốn và tự do hóa tài chính trong nước) và
những nét đặc trưng của các thể chế.
Mô hình hồi quy tiêu chuẩn của nguồn vốn nước ngoài ròng cho các nước
có thu nhập thấp
Bảng 10 báo cáo hồi qui về nguồn vốn nước ngoài ròng liên quan đến tỷ giá mậu
dịch (cột 1). Kết quả nhìn chung là phù hợp với những kết quả thu được trong phân
tích về tài khoản vãng lai.
Bắt đầu với những chỉ số ít phổ b iến, đầu tiên hãy chú ý rằng, sự tự do hoá tài
chính trong nước làm ảnh hưởng đến nguồn vồn ngoại ròng nhiều hơn, (như được thảo
luận trong phần II và III.B), một lần nữa cho thấy rằng, những cải cách tài chính trong
nước có những tác động tích cực lên tổng tiết kiệm quốc gia hơn là lên tổng đầu tư.
Thứ hai, tự do hoá đầu tư có tác động tiêu cực lên các nuớc có thu nhập thấp (Bảng 10)
và tác động tích cực lên các nước có thu nhập cao (Bảng 11), kết quả phù hợp với kết
26
quả kiểm định hồi quy đối với tài khoản vãng lai và các lý thuyết cổ điển chuẩn mà các
nước phát triển đã sử dụng khi tiến hành mở cửa đối với dòng vốn ngoại. Cuối cùng,
với các quốc gia t iêu biểu có dòng vốn ngoại cao hơn có thể được giải thích bởi lý do
họ có các cơ chế tốt hơn, có điều kiện tích luỹ tiết kiệm tốt, kết quả là họ có nguồn vốn
ngoại cao hơn (41).
Đối với các biến chuẩn, cho thấy có sự liên kết chặt chẽ giữa dòng vốn ngoại
ròng với các khoản nợ công, yếu tố dân số và thu nhập. Trong dài hạn, một nửa sự gia
tăng trong nợ công là do sự giảm nguồn vốn ngoại ròng. Tác động gần giống với sự
ước lượng của Lane và Milesi-Ferretti (2001) cho các nước đang phát triển trong
khoảng 0,5-0,8. Tác động của nợ công đối với nguồn vốn ngoại ròng ảnh hưởng lên
nguồn ngân sách có phần lớn hơn đối với tài khoản vãng lai, điều này đã được trình
bày trong Phần III.B (43). Đồng thời, Dân số cao cũng góp phần làm ảnh hưởng đến
việc tiết kiệm và nguồn vốn ngoại ròng thấp. kết luận này phù hợp với những suy luận
và bằng chứng thực tiễn trong quá khứ. Sự ảnh hưởng tích cực của thu nhập bình quân
đầu người đối với nguồn vốn ngoại ròng ở các nước có thu nhập thấp khi kiểm định
mối quan hệ này bằng mô hình tiêu chuẩn ở các nước phát triển lại cho ra kết quả
ngược lại.
Độ tin cậy của mô hình.
Thực nghiệm kiểm tra độ mạnh của mô hình được trình bày trong cột tiếp theo
của Bảng 10. Kết quả là dùng các chỉ số thay thế khác của nguồn vốn ngoại ròng với
kết hợp thay thế chỉ số nợ khác (vốn ngoại ròng và nợ công trong GDP ở cột 2, hoặc
vốn ngoại ròng và nợ nước ngoài đều có tác động điều chỉnh giá tr ị h iện tại ròng của
khoản nợ nước ngoài trong cột 3), và còn thay thế các chỉ số về dân số, tự do hoá tài
khoản vốn, thu nhập tương đối hay năng suất (cột 3-7). Những biến động về tỷ giá hay
những biến động về chính sách khác như sự hạn chế thương mại và kiểm soát giá cả
trong lĩnh vực nông nghiệp thì không quan trọng sau khi kiểm soát đối với các yếu tố
quyết định khác (cột 8-10).
Các nước có thu nhập thấp có khác biệt gì?
27
Bảng 11 trình bày hồi qui chuẩn nguồn vốn ngoại ròng (Bảng 10 cột 1) cho thu
nhập cao và thu nhập thấp ở cột 1 và 2, cũng như kiểm tra sự bằng nhau của các hệ số
trong cột 3. Nhóm có thu nhập cao xem ra hoàn toàn khác nhau cho khoảng một nửa
các chỉ số và không quá khác biệt ở nửa còn lại. Như đã đề cập, kết quả đáng được
quan tâm nhất là các chỉ số đối nghịch của tự do hoá tài khoản vốn, theo thực tế, các
nuớc giàu thì cho vay và các nước nghèo thì vay nợ. Nợ xem ra không quan trọng đối
với mẫu có thu nhập cao, với phạm vi 0 – 0.2, điều này được tìm ra bởi Lane và
Milesi-Ferretti (2001) cho nhóm nước này. Một g iả thiết hợp lý là nợ công dưới hình
thức là nguồn tài trợ của nước ngoài ở các nước có thu nhập cao hầu như là ít hơn ở
các nuớc có thu thấp. có thể vì có nhiều thị trường tài chính phát triển sâu rộng hơn ở
các nước phát triển hơn. Vai trò yếu tố dân số, tự do hoá tài chính trong nước, các thể
chế dường như gây ra những biến động kinh tế giống nhau ( to follow the same
economic patter ) cho cả hai nhóm quốc gia, tuy nhiên mức độ có khác nhau.
Tốc độ điều chỉnh
Như trong phân tích tỷ giá thực, chúng tôi thực hiện hiệu chỉnh các sai số kỹ
thuật để đo lường tốc độ điều chỉnh vị trí của nguồn vốn ngoại ròng. Giới hạn sai số
được đưa ra thông qua sự thay đổi của các nguồn vốn ngoại ròng theo thời gian, đưa tất
cả các số liệu vào mô hình hồi quy với các hệ số tương ứng trong cột 1 của bảng 10.
tiến hành hiệu chỉnh sai số trong hồi quy tương tự như các phương pháp kỹ thuật đã
được thảo luận ở trên, kiểm định độ nhạy của các biến theo xu hướng giảm dần mức độ
sai số trong khoảng 0.25, cho thấy chu kỳ xảy ra biến động đối với nguồn vốn ngoại
ròng là khoảng 2 lần trong 2 năm rưỡi.
28
IV. KẾT LUẬN
Bài báo này đưa ra những ước lượng về mối quan hệ giữa tỷ giá thực, tài khoản
vãng lai, nguồn vốn ngoại ròng của các nước có thu nhập thấp với tập hợp các nguyên
tắc cơ bản từ trung bình đến dài hạn. Cho thấy rằng, cùng một nhóm lý thuyết kinh t ế
cơ bản đại cương đã giải thích rõ ràng cả ba chỉ số. Việc tập trung nghiên cứu đối với
các nước có thu nhập thấp được thúc đẩy bởi trong các tài liệu chỉ giới hạn sự quan
tâm đối với nhóm các quốc gia này và việc nghiên cứu chủ yếu dựa vào các nhân tố
gần với các đặc điểm của các quốc gia này hơn, chẳng hạn như các chính sách và biến
động trong lĩnh vực tài chính, việc tiếp cận nguồn tài chính chính thức của bên ngoài,
và độ nhạy cao hơn đối với các biến động từ bên ngoài. Việc thiếu quan tâm dành cho
những nước này đã được chứng minh một cách thường xuyên bởi sự hạn chế nguồn
dữ liệu, điều đó đã dẫn dắt chúng tôi xây dựng một cơ sở dữ liệu lớn, r iêng biệt dưới
dạng một tập hợp các chỉ số và các quốc gia được bảo hộ.
Chúng tôi thấy rằng các yếu tố quyết định sự cân bằng đối ngoại trung hạn của
các nước có thu nhập thấp có sự khác biệt với các yếu tố tiêu chuẩn trong lý thuyết.
Ngoài các yếu tố quyết định tiêu chuẩn, nguồn viện trợ (tài trợ và các khoản vay ưu
đãi), tự do hóa tài chính trong nước, loại bỏ các kiểm soát đối với tài khoản vốn, chất
lượng của các chính sách, biến động (tỷ giá, thiên tai), và giảm dân số có tác động đáng
kể lên các chỉ số cân bằng đối ngoại của các quốc gia có thu nhập thấp. Các kết quả nói
chung là chặt chẽ qua các phương pháp, và các chỉ số kinh tế chuẩn – và quan trọng là
phù hợp với các lý thuyết hiện đại.
Về phần sự biến động chính trị, cải cách tài chính trong nước gắn với sự cải
thiện tài khoản vãng lai và tài sản nước ngoài ròng, giả sử rằng cải cách tài chính trong
nước có tác động dương lên t iết kiệm lớn hơn lên đầu tư. Sự tự do hóa tài khoản vốn
cho phép các quốc gia vay nợ để đối phó với thảm họa ( tài khoản vãng lai xấu hơn),
và nói chung là cho phép các quốc gia có thu nhập thấp hơn vay nợ từ các quốc gia có
thu nhập cao hơn. Phù hợp với kết quả này, sự tự do hóa tài khoản vốn gắn với tỷ g iá
thực được đánh giá chính xác hơn trong dài hạn, nhờ vào tác động thu hút dòng vốn
29
vào. Hơn nữa, chất lượng của các chính sách nói chung gắn với sự giàu có ở nước
ngoài lớn hơn trong dài hạn.
Về phần các cú sốc, một cú sốc tỷ lệ mậu dịch dương có khuynh hướng cải thiện
tài khoản vãng lai và đánh giá đúng tỷ g iá thực, nhưng chỉ khi nó nảy s inh từ sự thay
đổi trong giá xuất khẩu (vì giá nhập khẩu gắn với việc hiệu ứng thay thế tác động
ngược hướng với hiệu ứng thu nhập trên cả giá xuất khẩu và nhập khẩu). Các thảm họa
tự nhiên có khuynh hướng gắn với sự cải thiện tài khoản vãng lai, trừ khi quốc g ia có
tài khoản vốn mở. Hơn nữa, một vài chứng cứ sơ bộ gợi ý rằng tác động của cú sốc thu
nhập lên tài khoản vãng lai có lẽ phụ thuộc vào vị thế tài sản nước ngoài ròng ban đầu.
Về phần nguồn vốn bên ngoài, một sự gia tăng trong viện trợ nảy sinh từ các
khoản vay ưu đãi hoặc trợ cấp dẫn đến nhập khẩu cao lên dần dần, nhưng một phần của
dòng vốn viện trợ được tiết kiệm trong ngắn hạn. Trong dài hạn, một sự gia tăng trong
viện trợ gắn với sự sụt giảm tỷ giá thực. Trong khi viện trợ có lẽ là nguyên nhân của
việc đánh giá cao tỷ giá thực trong ngắn hạn (bởi vì chi tiêu phi mậu dịch tăng lên
tương ứng với nguồn cung) thì nó cũng gắn với sự đánh giá thấp trong dài hạn nếu nó
hướng vào việc cải thiện năng suất trong khu vực phi mậu dịch cũng như khu vực mậu
dịch.
Trong khi chúng tôi hi vọng đã cung cấp một sự phân tích toàn diện và chặt chẽ
về tài khoản vãng lai, tỷ giá thực, và vị thế tài sản nước ngoài ròng ở những quốc gia
có thu nhập thấp, thì chắc chắn vẫn còn cơ hội cho những nghiên cứu xa hơn. Ưu tiên
hàng đầu là việc cải thiên chất lượng và quy mô của tập dữ liệu. Nhiều chỉ số chính nói
chung đã bỏ qua phần lớn các quốc gia, điều này có thể làm yếu đi khả năng đánh giá
đúng cân bằng bên ngoài của nền kinh tế. Một sự am hiểu sâu hơn về tính chất không
đường nằm dưới mối quan hệ bên dưới vấn đề nghiên cứu thì chắc chắn quan trọng. Ví
dụ, phân tích sự tương tác giữa sự tự do hóa tài khoản vốn với thu nhập, và giữa hai
nhân tố này với các yếu tố quyết định khác, tụt lại đằng sau sự dồi dào về những giả
thuyết mang tính lý thuyết đã được nêu lên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- baidichtiengviet_962.pdf