Tiểu luận Đánh giá về chính sách thuế thu nhạp doanh nghiệp về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008

LỜI NÓI ĐẦU Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, đối với đời sống kinh tế xã hội, thuế đóng vai trò là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết sản xuất kinh doanh cũng như phân phối tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế phát triển. Có được một hệ thống chính sách thuế phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận động phát triển của thực tiễn là điều kiện cần thiết và cấp bách. Theo tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình vận hành, đổi mới nền kinh tế đất nước đã luôn luôn chú trọng đến cải cách để đi tới hoàn thiện hệ thống thuế. Có thể định nghĩa, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật. Hệ thống thuế, căn cứ vào mục đích điều tiết, được phân chia thành hai loại thuế, đó là: thuế trực thu và thuế gián thu. Tùy vào điều kiện phát triển, phương thức sản xuất và kết cấu xã hội . của mỗi nước mà cơ cấu các khoản thu này có sự khác nhau. Hiện nay, tại các nước phát triển có xu hướng coi trọng thuế gián thu; trong khi đó, các nước đang phát triển lại có xu hướng ngược lại là coi trọng thuế trực thu, trong đó có Thuế TNDN. Trước năm 1990, ở Việt Nam có một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh gọi là thuế lợi tức, loại thuế này chỉ áp dụng cho kinh tế ngoài quốc doanh. Sau năm 1990, thực hiện công cuộc cải cách căn bản hệ thống chính sách thuế, Luật thuế lợi tức được ban hành và được áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có thu nhập từ hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Đến ngày 10/5/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế TNDN thay thế cho Luật thuế lợi tức, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Tiếp đó, ngày 17/6/2003, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật thuế TNDN sửa đổi để thay thế cho Luật thuế TNDN năm 1997, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2004. Qua các lần sửa đổi, Luật thuế TNDN ngày càng trở nên có hiệu quả và thu được nhiều thành tựu khả quan, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm còn tồn tại. Để khắc phục những nhược điểm này, ngày /2008, Quốc hội nước ta một lần nữa thông qua Luật thuế TNDN năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Luật thuế TNDN mới ban hành năm 2008 có nhiều thay đổi trong đó tiêu biểu là những thay đổi quan trọng về đối tượng nộp thuế, cụ thể là đảm bảo thống nhất việc áp dụng thuế TNDN đối với mọi thành phần kinh tế, không phân biệt các thành phần kinh tế với nhau . Đây là một chủ trương rất quan trọng của Nhà nước, tạo ra bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một luật thuế TNDN thống nhất và hoàn chỉnh. Tìm hiểu về vấn đề này, nội dung bài viết chủ yếu đi sâu vào việc xem xét, đánh giá các quy định pháp luật về đối tượng nộp thuế theo quy định của Luật thuế TNDN năm 2008; điểm tiến bộ của chúng so với Luật thuế TNDN năm 2003, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản để hoàn chỉnh hơn nữa chính sách thuế TNDN ở Việt Nam nói chung và các quy định về đối tượng nộp thuế TNDN nói riêng, nhằm mục đích phát huy hơn nữa vai trò to lớn của thuế TNDN trong điều kiện nước ta hiện nay, đồng thời góp phần vào công cuộc cải cách thuế của Việt Nam trong thời gian tới. NỘI DUNG CHÍNH I/ Lý luận chung về thuế TNDN: 1/ Khái niệm và đặc điểm của thuế TNDN: Căn cứ vào đối tượng nộp thuế thu nhập, hệ thống luật thực định về thuế ở các nước phân chia thuế thu nhập ra làm hai loại: thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập cá nhân. Ở Việt Nam, thuế thu nhập

doc21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4207 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá về chính sách thuế thu nhạp doanh nghiệp về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, đối với đời sống kinh tế xã hội, thuế đóng vai trò là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết sản xuất kinh doanh cũng như phân phối tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế phát triển. Có được một hệ thống chính sách thuế phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận động phát triển của thực tiễn là điều kiện cần thiết và cấp bách. Theo tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình vận hành, đổi mới nền kinh tế đất nước đã luôn luôn chú trọng đến cải cách để đi tới hoàn thiện hệ thống thuế. Có thể định nghĩa, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật. Hệ thống thuế, căn cứ vào mục đích điều tiết, được phân chia thành hai loại thuế, đó là: thuế trực thu và thuế gián thu. Tùy vào điều kiện phát triển, phương thức sản xuất và kết cấu xã hội... của mỗi nước mà cơ cấu các khoản thu này có sự khác nhau. Hiện nay, tại các nước phát triển có xu hướng coi trọng thuế gián thu; trong khi đó, các nước đang phát triển lại có xu hướng ngược lại là coi trọng thuế trực thu, trong đó có Thuế TNDN. Trước năm 1990, ở Việt Nam có một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh gọi là thuế lợi tức, loại thuế này chỉ áp dụng cho kinh tế ngoài quốc doanh. Sau năm 1990, thực hiện công cuộc cải cách căn bản hệ thống chính sách thuế, Luật thuế lợi tức được ban hành và được áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có thu nhập từ hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Đến ngày 10/5/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế TNDN thay thế cho Luật thuế lợi tức, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Tiếp đó, ngày 17/6/2003, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật thuế TNDN sửa đổi để thay thế cho Luật thuế TNDN năm 1997, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2004. Qua các lần sửa đổi, Luật thuế TNDN ngày càng trở nên có hiệu quả và thu được nhiều thành tựu khả quan, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm còn tồn tại. Để khắc phục những nhược điểm này, ngày........../2008, Quốc hội nước ta một lần nữa thông qua Luật thuế TNDN năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Luật thuế TNDN mới ban hành năm 2008 có nhiều thay đổi trong đó tiêu biểu là những thay đổi quan trọng về đối tượng nộp thuế, cụ thể là đảm bảo thống nhất việc áp dụng thuế TNDN đối với mọi thành phần kinh tế, không phân biệt các thành phần kinh tế với nhau... Đây là một chủ trương rất quan trọng của Nhà nước, tạo ra bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một luật thuế TNDN thống nhất và hoàn chỉnh. Tìm hiểu về vấn đề này, nội dung bài viết chủ yếu đi sâu vào việc xem xét, đánh giá các quy định pháp luật về đối tượng nộp thuế theo quy định của Luật thuế TNDN năm 2008; điểm tiến bộ của chúng so với Luật thuế TNDN năm 2003, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản để hoàn chỉnh hơn nữa chính sách thuế TNDN ở Việt Nam nói chung và các quy định về đối tượng nộp thuế TNDN nói riêng, nhằm mục đích phát huy hơn nữa vai trò to lớn của thuế TNDN trong điều kiện nước ta hiện nay, đồng thời góp phần vào công cuộc cải cách thuế của Việt Nam trong thời gian tới. NỘI DUNG CHÍNH I/ Lý luận chung về thuế TNDN: 1/ Khái niệm và đặc điểm của thuế TNDN: Căn cứ vào đối tượng nộp thuế thu nhập, hệ thống luật thực định về thuế ở các nước phân chia thuế thu nhập ra làm hai loại: thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập cá nhân. Ở Việt Nam, thuế thu nhập cũng được phân chia thành hai loại là thuế TNDN và thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Cách phân chia này của Việt Nam có điểm khác biệt so với các nước khác ở chỗ, việc phân chia thuế thu nhập dựa vào cả tiêu chí đối tượng nộp thuế thu nhập và nguồn gốc làm phát sinh thu nhập để phân chia (thu nhập đó có nguồn gốc từ kinh doanh hoặc từ không kinh doanh của cá nhân). Có thể đưa ra một khái niệm được pháp luật Việt Nam và nhiều nước khác thừa nhận: Thuế TNDN là loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập của cơ sở kinh doanh trong kỳ tính thuế sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến thu nhập đó. Ngoài những đặc điểm chung của thuế là có tính cưỡng chế và tính pháp lý cao, là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thuế TNDN còn có một số đặc điểm riêng, cụ thể là: Do là loại thuế trực thu nên đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế TNDN là một, không có sự chuyển giao gánh nặng thuế từ người nộp thuế sang người chịu thuế. Là loại thuế đánh vào lợi nhuận của các cơ sở sản xuất kinh doanh nên mức động viên của NSNN đối với loại thuế này phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả kinh doanh cũng như quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế cao sẽ phải nộp thuế nhiều, ngược lại những doanh nghiệp có thu nhập thấp hoặc gặp khó khăn sẽ được nộp thuế ít, thậm chí được giảm thuế, miễn thuế. Thuế TNDN chỉ đánh vào phần thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan để tạo ra thu nhập đó. Về nguyên tắc, thuế có tính chất lũy tiến. Tuy nhiên, do những điều kiện cụ thể mà một số nước trong đó có Việt Nam áp dụng thuế suất thống nhất đối với thuế TNDN. 2/ Vai trò của thuế TNDN: Trong nền kinh tế thị trường, ở nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam ta thì sự tồn tại của thuế TNDN là tất yếu khách quan bởi những vai trò sau đây của nó: - Thứ nhất, thuế TNDN là nguồn thu quan trọng của NSNN. Điều này được thể hiện bởi phạm vi áp dụng thuế TNDN là rất rộng. Nó khai thác nguồn thu từ các đối tượng nộp thuế có tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại thu nhập ở mọi lĩnh vực, trên mọi địa bàn. Mặt khác, cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế, quy mô của các hoạt động kinh doanh này ngày càng được mở rộng, hiệu quả kinh doanh ngày càng cao, tích lũy từ nội bộ doanh nghiệp ngày càng nhiều sẽ tạo nguồn thu về thuế TNDN cho ngân sách quốc gia ngày càng lớn. - Thứ hai, thuế TNDN là công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua hệ thống thuế suất ưu đãi và các chế độ miễn, giảm góp phần định hướng cho các nhà đầu tư trong nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần khuyến khích đầu tư nhằm đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lý theo ngành và theo địa bàn. Thuế TNDN còn góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển thông qua các hình thức hỗ trợ về thuế đối với các cơ sở mới thành lập hoặc các cơ sở khó khăn trong kinh doanh. II/ Thực trạng áp dụng chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế trong thời gian qua: 1/ Nội dung cơ bản của chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế trong những năm qua: Theo quy định tại điều 1 và điều 2 Luật thuế TNDN năm 2003: Chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế TNDN là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (gọi chung là cơ sở kinh doanh) có thu nhập, trừ đối tượng là hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Riêng các hộ gia đình, cá nhân nông dân sản xuất hàng hóa lớn có thu nhập cao theo quy định của Chính phủ thì thực hiện chế độ nộp thuế TNDN theo quy định riêng. Để chỉ rõ đối tượng nộp thuế TNDN, pháp luật thuế TNDN của Việt Nam có liệt kê các loại đối tượng nộp thuế TNDN tại điều 1 Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 quy định chi tiết thi hành Luật thuế TNDN năm 2003. Cụ thể là: - Tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty hợp danh; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; các công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; doanh nghiệp tư nhân; hợp tác xã; tổ hợp tác; tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp có tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. - Cá nhân trong nước sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bao gồm: cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh; hộ kinh doanh cá thể; cá nhân hành nghề độc lập có hoặc không có văn phòng, địa điểm hành nghề cố định thuộc đối tượng kinh doanh (trừ người làm công ăn lương) phải đăng ký nộp thuế TNDN với cơ quan thuế như: bác sỹ, luật sư, kế toán, kiểm toán, họa sỹ, kiến trúc sư, nhạc sỹ và những người hành nghề độc lập khác; cá nhân cho thuê tài sản như nhà, đất, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị và các loại tài sản khác. - Cá nhân nước ngoài kinh doanh có thu nhập phát sinh tại Việt Nam, không phân biệt là hoạt động kinh doanh được thực hiện tại Việt Nam hay ở nước ngoài như: cho thuê tài sản, cho vay vốn, chuyển giao công nghệ, hoạt động tư vấn, tiếp thị, quảng cáo... - Công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở thường trú tại Việt Nam. Cơ sở thường trú là cơ sở kinh doanh mà thông qua cơ sở này công ty ở nước ngoài thực hiện một phần hay toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam mang lại thu nhập. Cơ sở thường trú của công ty ở nước ngoài chủ yếu bao gồm các hình thức sau: chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, xưởng sản xuất, kho giao nhận hàng hóa, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu hoặc khí đốt, địa điểm thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên hay các thiết bị phương tiện phục vụ cho việc thăm dò tài nguyên thiên nhiên; địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; các hoạt động giám sát xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; cơ sở cung cấp các dịch vụ bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công cho mình hay một đối tượng khác; đại lý cho công ty ở nước ngoài; đại diện ở Việt Nam trong các trường hợp như: có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên công ty ở nước ngoài hoặc không có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên công ty nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam. 2/ Kết quả áp dụng chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế trong thời gian qua: Từ khi thực hiện chính sách đổi mới năm 1986, nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và bắt đầu tiến hành cải cách hệ thống thuế từ trước đó. Từ năm 1986 đến nay, chúng ta đã tiến hành cải cách hệ thống thuế TNDN qua ba lần sửa đổi. Việc triển khai thực hiện luật thuế TNDN từ trước đến nay tuy còn gặp khó khăn nhưng đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu của cải cách thuế là ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, đảm bảo nguồn thu cho NSNN, ổn định thị trường trong nước... Chính sách thuế TNDN đã có tác động tới nhiều mặt và đạt kết quả to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, góp phần khuyến khích đầu tư và thay đổi cơ cấu kinh tế, giúp Nhà nước nắm được tình hình của doanh nghiệp để có chính sách đúng đắn trong quản lý vĩ mô, sắp xếp lại doanh nghiệp, thúc đẩy cơ sở kinh doanh tăng cường hạch toán kinh doanh, củng cố công tác hóa đơn chứng từ, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao ý thức chấp hành nghĩa vụ thuế TNDN. Kết quả của việc thực hiện chính sách thuế TNDN trong thời gian qua được thể hiện cụ thể: - Khu vực kinh tế Quốc doanh là đối tượng nộp thuế chiếm tỉ lệ nguồn thu cao nhất cho NSNN. Đây là kết quả phản ánh việc đẩy mạnh sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước đã giúp các doanh nghiệp này làm ăn có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do việc sắp xếp và cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện cổ phần hóa nên số lượng các doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm đi, dẫn đến số thu từ khu này có xu hướng chậm lại. - Đối tượng nộp thuế là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được mở rộng, do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều vì Việt Nam có nhiều chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có ưu đãi về thuế suất và thời gian miễn giảm thuế TNDN; đồng thời Việt Nam là thị trường tiềm năng, chi phí nhân công rẻ, nguồn nhân lực dồi dào... Tuy nhiên, vấn đề còn tồn tại là nước ta chưa có hệ thống pháp luật rõ ràng, cơ sở hạ tầng yếu kém, thông tin cho các nhà đầu tư nước ngoài còn thiếu. Điều này dẫn đến các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài còn e ngại khi đầu tư vào Việt Nam. - Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là đối tượng nộp thuế tiềm năng trong những năm trở lại đây, trong khi đó số thuế TNDN từ hộ kinh doanh cá thể thì tăng giảm không ổn định. Điều này chứng tỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và thể hiện được hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình với sự tăng lên không ngừng về quy mô, số lượng và cả chất lượng. Cùng với việc gia tăng vốn đầu tư thì đối tượng nộp thuế là các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh cũng ngày càng được mở rộng. Đẻ có được sự tăng trưởng như vậy tất nhiên không chỉ do việc ưu đãi thuế TNDN mang lại mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như ý chí kinh doanh của các nhà đầu tư, sự hỗ trợ của Nhà nước, nhu cầu của nền kinh tế... Tuy vậy chúng ta vẫn phải khẳng định sự ảnh hưởng lớn của luật thuế TNDN vì nó được sử dụng như một công cụ của Nhà nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh những thay đổi đáng kể mang tính tích cực, Luật thuế TNDN nói chung và các quy phạm pháp luật quy định về đối tượng nộp thuế TNDN nói riêng vẫn còn thể hiện nhiều bất cập cần khắc phục. Cụ thể như: Xét trên thực tế trong những năm qua mức ưu đãi thuế của Việt Nam là tương đối cao và đã góp phần tạo sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài nhưng phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng chỉ tập trung tại các tỉnh, vùng kinh tế đã phát triển, có nhiều thuận lợi như Hà Nội, Hải Phòng... Một số địa phương thì sự ưu đãi chỉ mang tính chất danh nghĩa vì chưa thể thu hút được đầu tư, như các vùng núi cao, hải đảo. Nguyên nhân những nhược điểm này là do trình độ, hiệu quả của nền kinh tế và của doanh nghiệp Việt Nam hiện này còn nhỏ, công nghệ còn lạc hậu. Để mở rộng đối tượng nộp thuế TNDN của thành phần kinh tế này, Nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho các địa bàn trên cả nước để hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài. III/ Đánh giá về chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế TNDN năm 2008: 1/ Nội dung cơ bản của chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế TNDN năm 2008: * Tại điều 2 Luật thuế TNDN của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 14/2008/QH12 ngày 03/06/2008 quy định về đối tượng nộp thuế TNDN bao gồm các đối tượng sau: - Người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật này (sau đây gọi là doanh nghiệp), bao gồm: doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài (sau đây gọi là doanh nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã; đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập. - Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật thuế TNDN phải nộp thuế như sau: doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam; doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó; doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà khoản thu nhập này không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú; doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam. - Cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh doanh mà thông qua cơ sở này, doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập, bao gồm: chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác tại Việt Nam; địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công hay một tổ chức, cá nhân khác; đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài; đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam. * Ngoài ra, pháp luật thuế mới theo Luật thuế TNDN năm 2008 còn quy định về đối tượng nộp thuế đối với các khoản tiền tài trợ từ nước ngoài, cụ thể là: Trước thời điểm 01/01/2004, khoản tiền tài trợ Công ty mẹ ở nước ngoài tài trợ cho Công ty con tại Việt Nam nhằm gánh chịu một phần chi phí (không phải chi thưởng cho nhân viên) tại Việt Nam thì khoản tiền này không thuộc đối tượng phải chịu thuế GTGT và không tính thuế TNDN. Công ty con tại Việt Nam phải loại ra khỏi chi phí khoản chi phí do công ty mẹ ở nước ngoài đã gánh chịu khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN. Nếu khoản tiền này được dùng để chi thưởng cho nhân viên thì Công ty sẽ không được hạch toán vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN. Kể từ ngày 01/01/2004, trường hợp Công ty mẹ ở nước ngoài chuyển tiền cho Công Ty TNHH giao nhận hàng hoá I.E. tại Việt Nam để khen thưởng cho các cá nhân của công ty TNHH giao nhận hàng hóa I.E. thì số tiền nêu trên là khoản thu nhập của công ty TNHH giao nhận hàng hoá I.E. và phải nộp thuế TNDN theo quy định tại Điểm 18, mục V, phần B Thông tư số 128/2004/TT-BTC ngày 22/12/2003 của Bộ tài chính hướng dẫn Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành thuế TNDN. Khoản tiền này không thuộc đối tượng phải chịu thuế GTGT. Các khoản chi cho người lao động phù hợp với hợp đồng lao động, quy chế công ty có tính chất tiền lương, tiền công được hạch toán vào chi phí hợp lý. Các khoản tiền chi thưởng cho nhân viên không được hạch toán vào chi phí hợp lý của công ty khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN. * Để khuyến khích tổng thể nền kinh tế, tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp có điều kiện tăng tích lũy, thêm nguồn lực để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và cũng là tăng khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, luật thuế TNDN năm 2008 mới còn có những quy định về về ưu đãi thuế TNDN , cụ thể như: - Mở rộng diện ưu đãi. - Hạ thuế chung từ 28% xuống 25%. - Lập Quỹ phát triển khoa học & công nghệ: Trích tối đa 10% thu nhập trước thuế. - Ưu đãi nhằm thu hút đầu tư. - Thuế suất ưu đãi có thời hạn 10% & 20% (bỏ mức thuế 15%). - Miễn giảm thuế có thời hạn. - Thuế suất 10% trong 15 năm, miễn tối đa 4 năm, giảm thuế 50% tối đa 9 năm tiếp theo đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Khu kinh tế, Khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản phẩm phần mềm. Trường hợp đặc biệt thu hút đầu tư có quy mô lớn và công nghệ cao thì thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi có thể kéo dài thêm (tối đa không quá 15 năm). - Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường được áp dụng thuế suất 10% trong suốt thời hạn hoạt động. Nếu là doanh nghiệp  mới thành lập thì được miễn thuế tối đa 4 năm, giảm 50% thuế tối đa 9 năm tiếp theo. - Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được áp dụng thuế suất 20% trong thời gian 10 năm, được miễn thuế tối đa 2 năm và giảm 50% tối đa 4 năm tiếp theo. - Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân được áp dụng thuế suất 20% suốt thời gian hoạt động. - Bỏ ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp. Để được hưởng các ưu đãi kể trên, pháp luật còn đưa ra một số vấn đề doanh nghiệp cần lưu ý, đó là: - Thuế suất ưu đãi tính từ khi doanh nghiệp bắt đầu hoạt động kinh doanh có doanh thu. - Miễn thuế tính từ năm có thu nhập chịu thuế. Trường hợp chưa có thu nhập trong 3 năm đầu thì thời gian miễn thuế tính từ năm thứ 4. - Ưu đãi thuế không áp dụng đối với: Thu nhập khác; thu nhập từ tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí và tài nguyên quý hiếm khác; thu nhập từ kinh doanh trò chơi có thưởng, cá cược theo quy định của pháp luật. * Về việc chuyển đổi sang chính sách mới, Luật thuế TNDN mới năm 2008 còn lưu ý: Doanh nghiệp đang hưởng ưu đãi thuế TNDN theo Luật thuế TNDN ngày 17/6/2003 tiếp tục được ưu đãi trong thời gian còn lại theo quy định của Luật TNDN ngày 17/6/2003; Trường hợp mức ưu đãi về thuế TNDN (bao gồm cả thuế suất ưu đãi và thời gian miễn thuế, giảm thuế) thấp hơn mức ưu đãi theo quy định của Luật này thì được áp dụng ưu đãi thuế theo quy định của Luật này cho thời gian còn lại. Doanh nghiệp thuộc diện hưởng thời gian miễn thuế, giảm thuế theo quy định của Luật thuế TNDN ngày 17/6/2003 mà chưa có thu nhập chịu thuế, thời điểm bắt đầu tính thời gian miễn thuế, giảm thuế được tính theo quy định của Luật này và kể từ ngày Luật này có hiệu lực. 2/ Đánh giá chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế theo Luật TNDN năm 2008: Kể từ ngày 01/01/2009, hai đạo luật về thuế: Luật Thuế GTGT và Luật Thuế TNDN có hiệu lực thi hành. So với Luật hiện hành, Luật mới sửa đổi, bổ sung đã có những thay đổi quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chủ yếu các quy định về đối tượng nộp thuế trong Luật thuế TNDN năm 2008 đã có những tác động tích cực hơn so với Luật thuế TNDN năm 2003. Cụ thể là: - Ưu điểm nổi trội, dễ thấy nhất của Luật Thuế TNDN năm 2008 so với Luật cũ là không quy định đối tượng nộp thuế là cá nhân. Vì trước đó, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế thu nhập cá nhân, trong đó các cá nhân, hộ kinh doanh đang nộp thuế TNDN được chuyển sang nộp thuế theo Luật Thuế thu nhập cá nhân. Do đó, đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật Thuế TNDN năm 2008 chỉ bao gồm các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Quy định này đã khắc phục được các hạn chế của Luật thuế TNDN năm 2003 về đối tượng nộp thuế, đó là: + Tên gọi của Luật mới đã phù hợp với nội dung của Luật. Trước đây, tên gọi “Luật thuế TNDN năm 2003” không bao hàm được các cá nhân, hộ cá thể kinh doanh. Đến nay, khi cá nhân, hộ gia đình đã chuyển sang là đối tượng nộp thuế của thuế thu nhập cá nhân, thì tên gọi “Luật thuế TNDN” đã hoàn toàn phù hợp với nội dung của Luật. + Việc loại trừ cá nhân hành nghề độc lập và hộ cá thể kinh doanh ra khỏi đối tượng nộp thuế TNDN là phù hợp với thông lệ quốc tế, vì những đối tượng này theo tính chất thì phải là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân ở nước ta hay là thuế đối với người có thu nhập cao. + Quy định này đã đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế với nhau và giữa các thành viên trong xã hội, khuyến khích lao động sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, phù hợp với nguyên tắc đối xử bình đẳng của các tổ chức quốc tế. + Ngoài ra, quy định này còn tránh trường hợp một cá nhân vừa có thu nhập từ kinh doanh và vừa có thu nhập từ tiền lương và các khoản thu nhập khác mà bị điều chỉnh bởi hai luật thuế khác nhau, khắc phục được sự phức tạp và không phù hợp với thông lệ quốc tế. + Mặt khác, đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế TNDN năm 2008 không bao gồm các cá nhân có tài sản cho thuê, tài sản chuyển nhượng. Điều này là hợp lý hơn. - Điểm tích cực tiếp theo là chính sách thuế TNDN đã thống nhất trong cơ chế ưu đãi thuế đáp ứng được yêu cầu không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một chủ trương lớn khi ban hành luật TNDN năm 2008 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2009); thể hiện sự rõ ràng, minh bạch trong chính sách, tạo tiền đề thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. Sự không phân biệt đối xử thể hiện: đảm bảo tính thống nhất về thuế suất; đảm bảo tính thống nhất về lĩnh vực ngành nghề, địa bàn khuyến khích đầu tư… Luật thuế TNDN năm 2008 áp dụng cho mọi thành phần kinh tế (trừ đối tượng là cá nhân) nên góp phần xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế trong và ngoài nước, từng bước đảm bảo sự bình đẳng, công bằng xã hội, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. - Luật thuế TNDN năm 2008 sắp có hiệu lực còn tạo môi trường đầu tư và kinh doanh về tổng thể là hấp dẫn, thuận lợi hơn góp phần khuyến khích đầu tư. Đối với các nhà đầu tư trong nước, ưu đãi về thuế suất là hấp dẫn hơn nhiều. - Trên cơ sở Luật thuế TNDN năm 2008 sắp có hiệu lực thi hành, các cơ quan Nhà nước, tổ chức có liên quan đã ban hành một số hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các đối tượng nộp thuế trong thời gian tới trong việc nộp thuế. Ví dụ như, trong năm 2008 này Bộ Tài chính vừa hướng dẫn việc gia hạn nộp thuế TNDN đối với doanh nghiệp có hoạt động sản xuất thuộc công nghiệp chế biến gồm: sản xuất linh kiện điện tử, chế biến nông, lâm, thủy sản, dệt may và da giày. Theo đó, nếu doanh nghiệp đáp ứng điều kiện thực hiện chế độ kế toán hóa đơn, chứng từ đã đăng ký nộp thuế theo kê khai thì được gia hạn nộp thuế TNDN quý III và quý IV năm 2008 tạm tính trên thu nhập từ các hoạt động sản xuất chế nói trên. Nếu doanh nghiệp không hạch toán kê khai riêng số thuế TNDN tạm tính của các hoạt động sản xuất chế biến được gia hạn nộp thuế với số thuế TNDN tạm tính của các hoạt động khác thì số thuế TNDN tạm tính của các hoạt động sản xuất chế biến được gia hạn xác định theo tỷ lệ giữa tổng doanh thu của các hoạt động sản xuất chế biến được gia hạn với tổng doanh thu của doanh nghiệp năm 2007. Thời gian gia hạn nộp số thuế tạm tính của quý III năm 2008 không quá ngày 29/4/2009 và số thuế tạm tính của quý IV năm 2008 không quá ngày 30/7/2009. - Luật thuế TNDN năm 2008 ra đời được đánh giá là phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Thể hiện: Các quy định trong Luật này đã nâng cao hơn nữa quyền tự quyết, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài chủ động hơn trong việc sử dụng thu nhập từ hoạt động kinh doanh do đầu tư vào Việt Nam mang lại; đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế và các nước trong khu vực, đặc biệt là phù hợp với cam kết của Việt Nam với IFM; bên cạnh đó các quy định trong Luật này còn có tác động tích cực đến chính sách khuyến khích đầu tư và đơn giản hóa công tác quản lý, hành thu đối với cán bộ thuế. Vì trong điều kiện năng lực quản lý của cán bộ thuế Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và quản lý thuế nói riêng còn rất hạn chế thì vấn đề kiểm soát việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các nhà đầu tư nước ngoài là rất khó khăn. - Các quy định mới về đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế TNDN năm 2008 đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới và áp dụng công nghệ tiên tiến và hiện đại trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, hoạt động có lãi được thực hiện khấu hao nhanh. Phải nói rằng đây là điểm tiến bộ, hợp lý và đáp ứng được nguyện vọng của các doanh nghiệp. Thật vậy, trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, máy móc, thiết bị rất nhanh chóng bị lạc hậu, việc cho phép các doanh nghiệp kê khai thuế theo phương pháp khấu hao nhanh có tác động làm tăng tốc độ tái đầu tư vào công nghệ từ đó phát triển khả năng cạnh tranh và khả năng tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Đây là một biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp tăng đầu tư vào kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tạo điều kiện tăng lợi nhuận và nuôi dưỡng nguồn thu. - Luật thuế TNDN năm 2008 còn trao quyền tụ chủ trong việc xác định điều kiện và khả năng đáp ứng các điều kiện để hưởng ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư. Quy định này đã tạo một bước tiến lớn trong cải cách quản lý hành chính về đầu tư và thuế theo hướng phân biệt rõ ràng, minh bạch giữa quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư với trách nhiệm của Nhà nước; tạo được nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc giảm bớt thủ tục xin miễn giảm thuế. * Bên cạnh những điểm tác động tích cực của các quy định pháp luật về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế TNDN năm 2008, Luật thuế mới này nói chung và các quy định về đối tượng nộp thuế TNDN nói riêng vẫn còn thể hiện một số điểm hạn chế cần khắc phục như: những ưu đãi về miễn, giảm thuế vẫn còn kém hấp dẫn, chưa rõ ràng và thiếu tính đồng bộ; danh mục ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư vẫn còn hạn hẹp; luật thuế mới chưa tính đến đặc thù trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài… KẾT LUẬN Như ta đã biết, thuế TNDN là một sắc thuế đóng vai trò vô cùng quan trọng trong chính sách thuế trực thu nói riêng và hệ thống thuế nói chung. Trải qua quá trình phát triển, hệ thống thuế của nước ta trong đó có thuế TNDN không ngừng được sửa đổi, bổ sung, cải cách và đổi mới để thích nghi với sự vận động không ngừng của nền kinh tế. Đặc biệt, việc sửa đổi, bổ sung về đối tượng nộp thuế là một trong những vấn đề quan trọng hơn cả. Luật thuế TNDN năm 2008 mới ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của đông đảo các doanh nghiệp là tạo ra một mặt bằng pháp lý chung về thuế TNDN cho mọi thành phần kinh tế (trừ cá nhân, hộ kinh doanh cá thể), không phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; thực sự tạo ra sự canh tranh bình đẳng; đáp ứng nguyên tắc không phân biệt đối xử tạo điều kiện cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, xứng đáng là thành viên của tổ chức WTO. Nhưng bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước vẫn cần quan tâm hơn nữa về các vấn đề như cải cách hệ thống hành thu; đào tạo đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách thuế giỏi về chuyên môn, am hiểu về lĩnh vực thuế; xây dựng mối quan hệ vững chắc giữa cơ quan hoạch định chính sách thuế TNDN với doanh nghiệp và các cơ quan chức năng có liên quan; đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, định hướng cải cách thuế; tăng cường công tác tư vấn thuế nói chung và thuế TNDN nói riêng cho các đối tượng nộp thuế TNDN… Thuế là một lĩnh vực lớn nên việc tìm hiểu một cách toàn diện và sâu sắc đòi hỏi phải có nhiều thời gian. Do trình độ còn hạn chế và thời gian hạn hẹp nên đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu, phân tích và bình luận về đối tượng nộp thuế TNDN theo luật TNDN năm 2008, sắp có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009, bởi vì đây là một vấn đề quan trọng trong một sắc thuế tiêu biểu ở nước ta. Khi nghiên cứu đề tài này, em cũng đã tiếp cận được có hệ thống về phương diện lý luận và thực tiễn của chính sách thuế TNDN nói riêng và hệ thống pháp luật thuế nói chung. Qua đó, em cũng mong đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc tuyên truyền về chính sách thuế TNDN mới. Đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót đáng tiếc, rất mong sự đóng góp của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo: 1. Giáo trình Luật thuế Việt Nam – NXB Công an nhân dân năm 2008. 2. Thuế và cải cách thuế ở nước ta – NXB Tài chinh năm 2002. 3. Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001-2010 – Tổng cục thuế. 4. Tạp chí Thuế Nhà nước: Các số 1,4,7,8,10,11/2008. 5. Tạp chí tài chính: Các số 3,5,7,8/2007; 1,4/2008. 6. Thông tin tài chính, thời báo tài chính và một số báo, tạp chí khác. 7. Luật thuế TNDN năm 2003 (ngày 17/6/2003). 8. Luật thuế TNDN năm 2008 (ngày 3/6/2008). 9. Các văn bản pháp luật về luật thuế TNDN, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài và các văn bản pháp luật khác có liên quan… MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 NỘI DUNG CHÍNH 3 I. Lý luận chung về thuế TNDN 3 1. Khái niệm và đặc điểm của thuế TNDN 3 2. Vai trò của thuế TNDN 4 II. Thực trạng áp dụng chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế trong thời gian qua 5 1. Nội dung cơ bản của chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế trong những năm qua 5 2. Kết quả áp dụng chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế trong thời gian qua 7 III. Đánh giá về chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế TNDN năm 2008 9 1. Nội dung cơ bản của chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế TNDN năm 2008 9 2. Đánh giá chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế theo Luật TNDN năm 2008 13 KẾT LUẬN 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 19 KÝ HIỆU VIẾT TẮT: TNDN: Thu nhập doanh nghiệp NSNN: Ngân sách nhà nước GTGT: Giá trị gia tăng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận- Đánh giá về chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế TNDN năm 2008.doc
Luận văn liên quan