Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ tháng 11/2003 
với việc ra đời quĩ đầu tư tư nhân Vietnam Opportunity Fund (VOF). VOF là quĩ do một 
số tổ chức tài chính lớn thành lập để đầu tư vào Việt Nam, trong đó ông Robert Knapp, 
Giá m đốc quĩ Millennium Partners (là quĩ đầu tư lớn tại Mỹ với số vốn 4 tỷ USD), có tỉ 
lệ góp vốn lớn nhất.
Từ giữa năm 2006, Công ty Quản lý quỹ VinaCapital khai trương Quỹ bất động sản 
VinaLand, nhưng số tiền mà các nhà đầu tư nước ngoài góp vào quỹ đã lên tới 65 triệu đô 
la Mỹ, vượt mức dự kiến 15 triệu đô la Mỹ. Ngoài VinaLand, VinaCapital đang nỗ lực 
giải ngân nốt số tiền còn lại chừng 50 triệu đô la Mỹ trong tổng số 171 triệu đô la Mỹ của 
Quỹ Vietnam Opportunities Fund (VOF) với hướng đầu tư chính của VOF t iếp tục là cổ 
phiếu OTC và địa ốc.
Ngay từ đầu năm 2007, VinaCapital đã lên kế hoạch thành lập mới một quỹ đầu tư 
bất động sản với tổng vốn đầu tư lên tới 200 triệu USD. Ngày 5/7/2007, Vina Captial đã 
chính thức đưa Quỹ Cơ sở hạ tầng Việt Nam (Vietnam Infrastructure Limited – VIL) lên 
niêm yết trên sàn chứng khoán thứ cấp London (Alternative Investment Market – AIM). 
Đây là quỹ đầu tiên giao dịch trên thị trường AIM tập trung vào các lĩnh vực hạ tầng cơ 
sở then chốt của Việt Nam, bao gồm năng lượng, vận tải, nước và viễn thông. Sự kiện 
này đã nâng số quỹ đầu tư mà Vina Capital mở tại Việt Nam lên thành bốn quỹ với tổng 
số vốn đầu tư gián tiếp đã thu hút vào Việt Na m lên tới 1,8 tỷ USD.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 103 trang
103 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2770 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đầu tư quốc tế gián tiếp, thực trạng và giải pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 công nghệ cao tại Việt Nam. 
 Với quy mô 100 triệu USD, IDGVV đầu tư vào những doanh nghiệp có tiềm năng 
phát triển cao thuộc các ngành công nghệ thông tin, viễn thông, internet, truyền thông và 
công nghệ sinh học. Đến nay, IDGVV đã đầu tư 5 triệu USD vào 4 doanh nghiệp 
PeaceSoft, Isphere, VinaGame và VietnamWorks.com. 
 Trong thời gian 7 năm (2003-2010), IDG dự kiến dành khoảng 100 triệu USD đầu 
tư CNTT tại Việt Nam, riêng đầu tư mạo hiểm chiếm tới 80 triệu USD. Cho đến nay, 
IDG có 16 dự án đầu tư vào các công ty của Việt Nam với tổng số vốn trên 25 triệu USD. 
Theo kế hoạch, từ nay tới cuối năm, IDG sẽ đầu tư vào hai công ty nữa với số vốn từ 10 
đến 12 triệu USD. 
 Theo IDG Ventures, yếu tố chính để họ quyết định đầu tư vào các công ty được lựa 
chọn là yếu tố con người, lãnh đạo. Trung bình 1 tháng IDG nhận được hơn 100 dự án 
mời gọi đầu tư của các công ty Việt Nam. Lĩnh vực mà IDG quan tâm nhất vẫn là công 
nghệ cao và media. 
2.4.5 Những tác động tích cực của các quỹ đầu tư nước ngoài. 
Sự xuất hiện của các quỹ ĐTNN đã đóng góp không nhỏ vào tiến trình phát triển nền 
kinh tế Việt Nam: 
- Đối với TTCK Việt Nam: Các quỹ ĐTNN đã đóng góp rất lớn trong việc giúp ổn 
định thị trường, định hướng đầu tư và thúc đẩy sự hình thành các quỹ ĐTTN. Mặt khác, 
các quỹ ĐTNN đã góp phần hình thành nên một đội ngũ các nhà quản lý quỹ chuyên 
nghiệp, phong cách đầu tư CK chuyên nghiệp. Đây là những nền tảng hết sức quý báu 
cho sự phát triển loại hình quỹ đầu tư tại Việt Nam, cũng như sự phát triển TTCK Việt 
Nam trong thời gian tới. 
- Đối với Nhà nước: Sự xuất hiện của các quỹ ĐTNN tại Việt Nam đã giúp cho các 
nhà làm luật Việt Nam có sự tiếp cận thực tế để từ đó sửa đổi, bổ sung nhiều quy định 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 79 
liên quan đến quỹ đầu tư theo hướng tạo môi trường thuận lợi cho sự ra đời và phát triển 
của các quỹ. 
- Đối với DN: là những nhà đầu tư tài chính dài hạn, các quỹ đã tham gia vào hoạt 
động quản trị các công ty như: trường hợp VFF tham gia vào hội đồng quản trị Bibica, 
quỹ VEIL tham gia hội đồng quản trị của các Công ty Ree, Halong, CanFoco, Lafooco, 
Thủy sản 4, Sacombank, Viti Bank…, giúp các công ty này nâng cao năng lực quản trị, 
tăng cường tính công khai minh bạch trong hoạt động kinh doanh và tăng cường tính hiệu 
quả của các CTNY. 
2.5 Hoạt động của các nhà đầu tư lẻ. 
 Nhà đầu tư nhỏ là các nhà đầu tư cá nhân, những người mua một lượng nhỏ các cổ 
phần, trái phiếu thường là các lượng không tròn lô, còn được gọi là nhà đầu tư lẻ. 
 Việt Nam đã bắt được mạch của thị trường chứng khoán trong vài năm qua, với hàng 
chục nghìn nhà đầu tư tham gia giao dịch thị trường chứng khoán và có lẽ hơn hàng trăm 
nghìn giao dịch qua Internet. Những giao dịch kiểu cá nhân như vậy gần giống cách 
người ta bán hàng trên mạng eBay hoặc Craigs list tại Mỹ. Mặc dù gọi là chợ đen nhưng 
thị trường OTC cũng tương đối nhiều màu sắc, với việc cổ phần giao dịch bằng tiền mặt 
tại các hàng trà nhắc lại hình ảnh về các quán cà phê sản sinh ra thị trường chứng khoán 
châu Âu. 
 Tuy nhiên, có một đặc điểm của các nhà đầu tư nhỏ lẻ trong nước là phụ thuộc 
nhiều vào tâm lý đám đông hơn là tính toán khi ra quyết định giao dịch. 
2.5.1 Thực trạng hoạt động của nhà đầu tư nhỏ lẻ nước ngoài trong thời gian qua. 
 FPI là việc người không cư trú mua bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác và góp 
vốn, mua cổ phần dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật Việt Nam mà không 
trực tiếp tham gia quản lý. Và FPI được thực hiện chủ yếu thông qua các định chế tài 
chính trung gian. Từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, Việt Nam đã tiếp nhận 
rất nhiều nguồn vốn FDI lẫn FPI từ các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đối với nguồn 
vốn FPI của các nhà đầu tư nhỏ nước ngoài, thì đa phần được thực hiện thông qua TTCK. 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 80 
Chính vì vậy, trong phần này,chúng tôi sẽ chủ yếu đề cập đến họat động đầu tư FPI của 
các nhà đầu tư nhỏ nước ngoài thông qua TTCK. 
2.5.1.1 Khối lượng và giá trị giao dịch: 
 Như đã nói ở trên, TTCK Việt Nam chính thức được đưa vào hoạt động từ 2000. Và 
theo số liệu từ Sở Giao Dịch Chứng Khoán Tp. HCM HOSE thì khối lượng và giá trị giao 
dịch của các nhà ĐTNN những năm qua có sự biến động rõ rệt, thể hiện: 
Bảng 1: Khối lượng giao dịch từ năm 2000 đến nay 
Năm 
Khối lượng giao dịch (1 CK) Lượng giao dịch 
NĐT so với toàn thị 
trường 
Toàn thị 
trường 
ĐTNN (mua) ĐTNN (bán) 
2000 3,662,790 - - 0.00% 
2001 19,721,930 161,600 45,000 1.05% 
2002 37,008,649 3,699,979 867,979 12.34% 
2003 53,155,990 3,176,020 331,910 6.60% 
2004 248,072,240 17,590,250 3,466,495 8.49% 
2005 353,070,622 26,799,963 15,220,492 11.90% 
2006 1,120,781,689 121,979,031 41,366,218 14.57% 
2007 2,389,522,805 385,934,052 223,883,240 25.52% 
2008 3,404,797,430 481,439,423 433,684,395 26.88% 
2009 11,089,431,493 738,715,925 704,416,301 13.01% 
2010 11,849,098,768 1,035,823,701 765,593,065 15.20% 
2011 
(4/12/2011) 
7,477,724,673 839,833,713 840,766,480 22.47% 
(Nguồn: Sở Giao Dịch Chứng Khoán Tp Hồ Chí Minh) 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 81 
Bảng 2: Giá trị giao dịch từ năm 2000 đến nay 
Năm 
Giá trị giao dịch (1000 đồng) GTGD 
của 
NĐTNN 
so với 
toàn TT 
Toàn thị trường ĐTNN (mua) ĐTNN (bán) Mua-Bán 
2000 92,357,484 - - - 0.00% 
2001 1,034,721,064 12,069,650 2,364,900 9,704,750 1.40% 
2002 1,080,891,076 107,238,433 25,228,283 82,010,150 12.26% 
2003 2,998,321,487 79,705,888 6,023,904 73,681,984 2.86% 
2004 19,887,150,295 766,982,679 175,323,622 591,659,057 4.74% 
2005 26,877,958,797 1,457,604,068 1,131,914,557 325,689,511 9.63% 
2006 86,829,272,287 9,783,109,783 3,243,421,845 6,539,687,938 15.00% 
2007 263,054,025,582 52,955,315,672 29,981,381,831 22,973,933,841 31.53% 
2008 152,615,908,978 26,554,641,578 21,454,850,284 5,099,791,294 31.46% 
2009 432,651,016,562 34,409,558,791 31,699,805,615 2,709,753,176 15.28% 
2010 380,684,485,626 44,883,420,366 29,515,133,383 15,368,286,983 19.54% 
(4/12/2011) 
147,612,620,537 27,625,288,744 25,488,618,737 2,136,670,007 35.98% 
(Nguồn: Sở Giao Dịch Chứng Khoán Tp Hồ Chí Minh) 
Từ bảng số liệu, có thể dễ dàng thấy qua các năm, khối lượng lẫn giá trị giao dịch của 
nhà ĐTNN qua các năm có xu hướng ngày càng tăng nhưng với tốc độ không đều, đặc 
biệt là giai đoạn năm 2000-2003 khối lượng và giá trị giao dịch hết sức biến động. Năm 
2000 là năm TTCK Việt Nam mới bắt đầu nên chưa thấy bóng dáng của các nhà ĐTNN. 
Sang năm 2001, thì các nhà đầu tư đã bắt đầu thâm nhập vào TTCK Việt Nam mặc dù 
với mức độ khiêm tốn chỉ chiếm khoảng 1.4% tổng giao dịch thị trường. Nhưng sang 
năm 2002 thì có sự tăng vọt với tổng giá trị giao dịch là khoảng 132 tỷ VNĐ chiếm 12% 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 82 
tổng giao dịch toàn thị trường. Tuy nhiên, sang năm 2003 lại có sự sụt giảm đáng kể, 
tổng giá trị giao dịch của các nhà ĐTNN chỉ chiếm 2.86% tổng giá trị giao dịch của toàn 
thị trường. Nguyên nhân cho sự sụt giảm này là do sau khi TTCK phát triển quá nóng 
trong giai đoạn đầu, để ổn định, chính phủ đã đưa ra rất nhiều biện pháp hành chính để 
kiềm chế sự tăng trưởng nóng đó. Cụ thể là giảm biên độ giao dịch từ 7% xuống 2%, 
giảm lô giao dịch từ 100 xuống 10 cổ phiếu/lô, không cho mua quá 2000 cổ phiếu/phiên 
v.v. Bên cạnh đó, TTCK Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt động, còn rất mới mẻ nên 
số lượng công ty niêm yết lẫn nhà đầu tư không nhiều, và đa số chỉ giao dịch dưới dạng 
thăm dò thị trường, do đó, cả khối lượng lẫn giá trị giao dịch đều rất thấp nên chỉ cần 1 sự 
thay đổi nhỏ trong giai đoạn này cũng đủ làm tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu biến 
động mạnh. 
 Năm 2004 đánh dấu sự tăng trưởng trở lại về đầu tư của các nhà ĐTNN, giá trị giao 
dịch mặc dù chỉ chiếm 4.74% g iá trị giao dịch của toàn thị trường nhưng đã giúp mang 
lại nguồn vốn khoảng 592 tỷ VNĐ gấp 8 lần so với năm 2003. Tuy nhiên, trong năm 
2004 nguồn vốn FPI này bên cạnh cổ phiếu còn có một lượng lớn trái phiếu đã được các 
nhà ĐTNN mua vào (chiếm khoảng 33% tổng nguồn vốn FPI trong năm). Có thể nói giai 
đoạn 2005-2007 là giai đoạn phát triển tương đối ổn định và mạnh mẽ về đầu tư của các 
nhà ĐTNN, đặc biệt là đạt đỉnh điểm vào năm 2007 cả về mặt khối lượng giao dịch, giá 
trị giao dịch cũng như lượng vốn nhận được (22,973 tỷ VNĐ). Điều này cho thấy các nhà 
ĐTNN tin tưởng vào tương lai kinh tế khi Việt Nam gia nhập WTO, tin tưởng vào đường 
lối chính sách lãnh đạo đất nước. Ngoài ra, sự phát triển “nóng” của TTCK những tháng 
đầu năm 2007 đã thu hút một khối lượng khá lớn vốn FPI vào Việt Nam, đưa tổng vốn 
FPI đổ vào VN năm 2007 lên khoảng 5-6 tỷ USD, tăng hơn rất nhiều so với những năm 
trước đó. 
Nhìn chung trong giai đoạn 2000-2007, vai trò của các nhà ĐTNN đầu tư trong việc 
cung cấp vốn FPI cho đầu tư trong nước ngày càng tăng. Điều này sẽ đem đến rất nhiều 
tác động tích cực cho phát triển kinh tế, cụ thể: 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 83 
- Đối với các quốc gia đang phát triển, FPI luôn được xem là một nguồn lực quan 
trọng bổ sung cho sự thiếu hụt vốn khi mà tỷ lệ tiết kiệm trong nước thấp trong khi áp lực 
mục tiêu tăng trưởng cao. Nhờ vào tính linh hoạt và thanh khoản cao, các nguồn vốn FPI 
có khả năng lấp đầy lỗ hổng vốn này một cách nhanh chóng mà không cần phải trải qua 
các bước thẩm tra và phê duyệt thường thấy trong các dự án FDI. 
- Vốn FPI sẽ giúp nâng cao sự minh bạch thị trường tài chính thông qua hàng loạt 
các tiêu chuẩn về phổ biến thông tin, từ đó giảm thiểu sự bất cân xứng về thông tin và tạo 
nền tảng đầu tư tốt hơn cho cả nhà đầu tư trong và ngoài nước 
Tuy nhiên, vốn FPI của các nhà đầu tư nhỏ cũng có nhiều hạn chế. Trong đó, hạn chế 
lớn nhất là nó rất dễ đảo chiều. Nếu trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, nhà đầu tư nhỏ 
có thể ồ ạt rút vốn bằng cách bán tháo cổ phiếu và trái phiếu, để lại rất nhiều hậu quả 
nặng nề cho nền kinh tế (nếu không có các biện pháp quản lý thích hợp) như sự phá giá 
đồng tiền, lạm phát, v.v... Điều này rất dễ nhận thấy trong cuộc khủng hoảng tài chính 
Đông Á 1997, khủng hoảng Argentina 2001, v.v. 
 Và TTCK Việt Nam cũng không ngoại lệ, khi cuộc khủng hoảng năm 2008 xãy ra 
tình trạng hàng loạt nhà ĐTNN đã rút một lượng lớn vốn ra khỏi thi trường Việt Nam, cụ 
thể là lượng vốn FPI thu hút được vào năm 2008 chỉ đạt 5,000 tỷ VNĐ, giảm 18,000 tỷ 
VNĐ so với năm 2007. Sang năm 2009, mặc dù tổng giá trị giao dịch có tăng so với năm 
2008 nhưng lượng giao dịch bán phát sinh nhiều hơn lượng giao dịch mua dẫn đến lượng 
vốn thu hút được lại tiếp tục giảm chỉ đạt được 2,700 tỷ VNĐ vào năm 2009. Sang năm 
2010 khi nền kinh tế thế giới tương đối ổn định trở lại, các nhà ĐTNN đã quay trở lại và 
kết quả là nguồn vốn vào đã tăng trở lại đạt mức 15,300 tỷ VNĐ. Nhưng sang năm 2011, 
cùng với tình hình kinh tế thế giới ảm đạm, tình trạng nợ công quá mức đe dọa nền kinh 
tế của nhiều nước trên thế giới kể cả những nền kinh tế lớn, bên cạnh đó cùng với những 
khó khăn của nền kinh tế trong nước mà việc thu hút vốn FII trong năm 2011 đã sụt giảm 
nghiêm trọng, đến ngày 04/12/2011 lượng vốn vào chỉ đạt được khoảng 2,200 tỷ VNĐ. 
2.5.1.2 Tác động của nhà đầu tư nước ngoài. 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 84 
 Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã hoạt động được hơn 10 năm, nhưng 
cho đến nay, sự chi phối và những tác động cụ thể của nhà đầu tư nước ngoài đối với thị 
trường vẫn còn là những ẩn số. Từ năm 2005 trở về trước, vai trò của nhà đầu tư nước 
ngoài không nổi bật trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Điều này có thể giải thích do 
hoạt động chưa đạt mức độ tăng trưởng mạnh của thị trường chứng khoán, cũng như giai 
đoạn nằm ngang kéo dài quá lâu của chỉ số chứng khoán đã khiến cho không chỉ rất nhiều 
nhà đầu tư trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài cũng không đánh giá cao về tiềm 
năng hồi phục và phát triển của giá cả cổ phiếu. 
 Tuy nhiên, năm 2006 lại thực sự là một năm “bản lề” đối với nhà đầu tư nước ngoài. 
Riêng trong năm nay, tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường chứng 
khoán Việt Nam đã tăng vọt gấp gần ba lần, từ 6% lên 17%. Đến đầu tháng 3/2007, tỷ lệ 
này lên đến 19% và cho đến tháng 5/2007, có tính toán cho biết tỷ lệ này đã lên đến 20-
25%. Như vậy, so sánh hai mốc thời điểm đầu năm 2006 với những tháng đầu năm 2007, 
tỷ lệ sở hữu giá trị cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài đã tăng gấp gần 4 lần. Tình hình 
đó cũng có tính tương ứng với thông tin của Ngân hàng thế giới ước tính các nhà đầu tư 
nước ngoài đã đầu tư khoảng 4 tỷ USD vào thị trường chứng khoán Việt Nam. 
Tính đến tháng 4/2007, nhà đầu tư nước ngoài vẫn mạnh nhất trên thị trường niêm yết, 
trong đó giá trị đầu tư vào cổ phiếu của các công ty niêm yết chiếm đến 68% trong tổng 
giá trị đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài; đầu tư vào trái phiếu niêm yết chiếm 25%; đầu 
tư vào trái phiếu không niêm yết chỉ chiếm 6% và đầu tư vào cổ phiếu không niêm yết 
chỉ vỏn vẹn có 1%. 
 Tại thị trường niêm yết, nhà đầu tư nước ngoài đã nhanh chóng sở hữu đến 49% hoặc 
đang có xu hướng đạt đến 49% (tỷ lệ cao nhất cho phép đối với nhà đầu tư nước ngoài) 
đối với một số mã cổ phiếu như AGF, CII, BT6, GIL, GMD, IFS, SAM, TDH, TMS, 
TYA, VNM, chứng chỉ quỹ VFMVF1. 
 Trong diễn biến tại thị trường chứng khoán Việt Nam, có một động thái rất đặc biệt: 
trong đa số trường hợp biến động về giá cổ phiếu, dường như nhà đầu tư nước ngoài luôn 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 85 
giữ một tư thế độc lập và tách rời hẳn tâm lý đám đông của các nhà đầu tư Việt Nam. 
Trong đợt điều chỉnh đầu tiên của VN-Index xuống dưới ngưỡng 1.000 điểm, việc mua 
vào của nhà đầu tư nước ngoài khi thị trường đảo chiều vẫn hầu như không có gì đột 
biến. Vào những thời điểm thị trường sụt giảm mạnh, khi không khí ảm đạm lộ rõ ở các 
nhà đầu tư trong nước, thì nhà đầu tư nước ngoài vẫn chiếm khoảng 20% giá trị giao dịch 
toàn thị trường. 
 Trong thời gian qua, đặc biệt từ đầu năm 2007, đã xuất hiện ngày càng nhiều đánh 
giá mang tính nhận định, phân tích về vai trò và hoạt động của các nhà đầu tư nước 
ngoài. Tuy nhiên, đáng chú ý là diễn biến hoạt động của họ vẫn còn là một ẩn số lớn. 
Những bài phân tích tuy có đề cập đến xu hướng vận động chung của nhà đầu tư nước 
ngoài nhưng rất ít thông tin cụ thể về hoạt động của một nhà đầu tư nước ngoài cụ thể 
nào. 
 Nói tóm lại, toàn bộ các hoạt động mua bán của nhà đầu tư nước ngoài, mối quan 
hệ giữa khối lượng mua và khối lượng bán, thời điểm mua vào và thời điểm bán ra, và tất 
nhiên phải kể đến những tính toán phương án chiến thuật “lướt sóng” của nhà đầu tư 
nước ngoài, đã hầu như chưa được nghiên cứu và phân tích, dù chỉ mang tính tổng lược. 
Cũng bởi thế, trong nhiều trường hợp, từ hoạt động đấu giá cổ phần cho đến những tác 
động vào sự lên hoặc xuống của thị trường chứng khoán, mặc dù nhiều người đoán chắc 
là có bàn tay của nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí tác động rất sâu, nhưng cũng không có 
một minh chứng nào được dẫn ra. 
 Vậy thì những câu hỏi cần được đặt ra là trong tương lai không quá xa là vai trò của 
nhà đầu tư nước ngoài sẽ ra sao tại thị trường chứng khoán Việt Nam? Và cùng với vai 
trò có thể mang tính thượng phong ấy, nhà đầu tư nước ngoài sẽ “nắm giữ” thị trường 
thông qua những động thái nào?. Và đương nhiên, yếu tố đầu cơ của nhà đầu tư nước 
ngoài sẽ lộ diện đến mức nào và tạo được ảnh hưởng ra sao đối với sự lên xuống của thị 
trường chứng khoán? Hoặc một khía cạnh tiêu cực khác không thể không dự liệu: trong 
những trường hợp nào và kèm theo những điều kiện gì, nhà đầu tư nước ngoài có thể rút 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 86 
một phần vốn hoặc toàn bộ vốn ra khỏi thị trường chứng khoán Việt Nam, dẫn đến nguy 
cơ đổ vỡ của thị trường này? Đây quả không phải là một câu hỏi dể giải đáp mà cần có 
giải pháp toàn diện từ nhiều phía để kênh thu hút đầu tư này diển ra sôi động hơn nhưng 
cũng phải hiệu quả hơn. 
2.6 Tác động của nguồn vốn đầu tư gián tiếp. 
2.6.1 Những tác động tích cực: 
- Trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư trực 
tiếp của xã hội. Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài khi đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp 
làm tăng lượng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường vốn trong nước như một phép cộng 
đương nhiên vào tổng số dòng vốn này. Hơn nữa, khi vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài gia 
tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp 
trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư trong nước sẽ “nhìn gương” các nhà đầu tư 
gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả tổng đầu 
tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên. 
- Góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn thiện các thể chế 
và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia tăng và phát triển bộ phận thị trường vốn đầu tư 
gián tiếp nước ngoài sẽ làm cho thị trường tài chính (đặc biệt là thị trường chứng khoán) 
Việt Nam trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống 
vắng và trầm lắng, thậm chí đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài của thị trường này trong thời 
gian qua. Hơn nữa, điều kiện và như là kết quả đi kèm với sự gia tăng dòng vốn này là sự 
phát triển nở rộ các định chế và dịch vụ tài chính – chứng khoán, trước hết là các loại quỹ 
đầu tư, công ty tài chính, và các thể chế tài chính trung gian khác, cũng như các dịch vụ 
tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh, xác định hệ số tín nhiệm, bảo hiểm, kế toán, 
kiểm toán và thông tin thị trường; Đồng thời còn kéo theo sự gia tăng yêu cầu và hiệu quả 
áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh thị trường, trước hết trên thị trường chứng khoán… 
- Tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân 
lực và thu nhập của đông đảo người dân. Đông đảo các nhà đầu tư nước ngoài và cả trong 
nước, từ người dân, các doanh nhân đến các tổ chức và pháp nhân đầu tư chuyên nghiệp 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 87 
và không chuyên nghiệp sẽ có thêm điều kiện lựa chọn sử dụng vốn của mình để đầu tư 
dưới các hình thức trực tiếp tự mình hay thông qua các định chế tài chính trung gian để 
mua – bán các cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán có giá khác của Việt Nam trên thị 
trường tài chính Việt Nam và nước ngoài. Thông qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp 
này, các nhà đầu tư trong nước và người dân sẽ được dịp “cọ xát”, rèn luyện và bồi 
dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói 
riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung, phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị 
trường, hiện đại. 
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các nguyên tắc và yêu cầu kinh tế 
thị trường, hội nhập quốc tế. Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá 
nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến đầu 
tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt 
động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng như theo các cam kết hội nhập 
quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị trường tài chính, nhà nước sẽ đa dạng hoá 
các công cụ và thực hiện hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích 
hợp. Trên cơ sở đó, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, 
thị trường tài chính nói riêng sẽ được cải thiện hơn. 
2.6.2 Tác động tiêu cực. 
 Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng có thể gây ra một số tác động tiêu cực sau: 
- Tăng mức độ nhạy cảm và khả năng bất ổn về kinh tế liên quan đến các nhân tố nước 
ngoài. Khác với FDI, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới dạng đầu tư 
tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao 
trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng 
mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay chuyển 
sang đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tuỳ theo kế hoạch và mục tiêu kinh doanh 
của mình. Đặc trưng nổi bật đó cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây nên nguy cơ tạo 
và khuyếch đại độ nhạy cảm và chấn động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn này đối với 
nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư gián 
tiếp nói trên diễn ra theo kiểu “tháo chạy” đồng loạt trên phạm vi rộng và số lượng lớn… 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 88 
Trong tình huống như vậy, một sự đổ vỡ, một cuộc khủng hoảng đầu tư – tài chính – tiền 
tệ, lạm phát cao, thậm chí là khủng hoảng kinh tế hết sức tệ hại và bất khả kháng là hoàn 
toàn có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu không có và triển khai tốt các 
phương án phòng ngừa hiệu quả. 
- Gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính đối với các 
doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán.Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, 
nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước 
ngoài đến một mức “vượt ngưỡng” nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp 
vào chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất – kinh doanh và các chủ quyền khác 
của doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo 
phương hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt động mua lại, sáp nhập 
doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, tính chất gián tiếp của vốn đầu tư nước ngoài đã 
chuyển hoá thành tính trực tiếp. Nhà đầu tư gián tiếp sẽ chuyển hoá thành nhà đầu tư trực 
tiếp. Thậm chí, về lô-gích, quá trình “diễn biến hoà bình” này đạt tới quy mô và mức độ 
nào đó còn có thể làm chuyển đổi về chất quyền sở hữu và tính chất kinh tế ban đầu của 
doanh nghiệp và quốc gia. 
- Tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm kinh tế quốc tế 
như: Hoạt động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các kinh doanh phi 
pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh phi truyền 
thống khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của các dòng 
vốn kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách “có tổ chức” của giới đầu cơ hay lực 
lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài 
gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ tổn thương và có thể gây 
ra lạm phát cao của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện 
nay; Thậm chí trong một số trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà nước và gây sụp 
đổ một nội các chính phủ… 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 89 
CHƯƠNG 3 
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU 
QUẢ THU HÚT 
VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC 
NGOÀI 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 90 
Nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm thiểu tác động tiêu cực của các dòng vốn FPI, 
nhóm xin đưa ra 3 nhóm giải pháp: 
Nhóm 1: Nhóm giải pháp về luật lệ chính sách, 
Nhóm 2: Nhóm giải pháp về phát triển thị trường 
Nhóm 3: Các nhóm giải pháp về yếu tố đảm bảo khác. 
3.1. Nhóm giải pháp về luật lệ chính sách. 
3.1.1. Tái cấu trúc thị trường chứng khoán một cách sâu rộng. 
 Năm 2011 doanh nghiệp huy động vốn qua thị trường chứng khoán quá khó khăn, 
hàng loạt cổ phiếu trở nên rẻ rúng, mệnh giá chỉ dưới 10.000 đồng. Khoảng 67% doanh 
nghiệp niêm yết có thị giá thấp hơn giá trị sổ sách, 38% công ty niêm yết trên HOSE 
(Thành phố Hồ Chí Minh) có thị giá dưới mệnh giá và trên HNX (Hà Nội) là 55%. Điều 
này khiến thị trường chứng khoán suy giảm mạnh và khó hồi phục nếu như không có 
chính sách, giải pháp hợp lý thì khả năng thâu tóm giữa các doanh nghiệp cũng như thâu 
tóm từ phía bên ngoài rất lớn. 
 Trong 105 công ty chứng khoán và 47 định chế hoạt động trong ngành chứng khoán, 
đến 68% công ty thua lỗ; một số bị âm vốn chủ sở hữu, đặc biệt yếu tố mất thanh khoản 
rất nghiêm trọng. Hiện Ủy ban chứng khoán đã tạm thời đình chỉ tư cách thành viên của 
một số trung tâm lưu ký, thành viên giao dịch và sẽ tiến tới yêu cầu bắt buộc phải rút 
nghiệp vụ môi giới. Hiện tại đã có một số công ty tự nguyện rút nghiệp vụ này. 
Trong bối cảnh nhiều công ty chứng khoán đang đứng trước bờ vực phá sản, không thể 
đứng nhìn thị trường chứng khoán “chìm dần,” các chuyên gia cho rằng, cấu trúc lại thị 
trường chứng khoán là việc làm cần kíp trong năm 2012. Thách thức trong năm 2012 vẫn 
khá lớn, lạm phát tuy giảm nhưng vẫn còn cao, tăng trưởng kinh tế chậm lại, thị trường 
chứng khoán quốc tế biến động mạnh. Tuy nhiên vẫn có thể tận dụng những điểm sáng 
và chính sách hợp lý để tìm “cửa” làm ăn trong bóng tối. Trong năm 2012, trọng tâm sẽ 
đi sâu vào tái cấu trúc thị trường chứng khoán, trong đó xoay quanh 4 vấn đề gồm tái cấu 
trúc các trung gian tài chính, thị trường hàng hóa, cầu đầu tư và các công ty chứng khoán. 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 91 
Ủy ban Chứng khoán đã chuẩn bị xong đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán. Theo 
đó, đề án này có 4 nội dung trọng tâm để tái cấu trúc kênh chứng khoán, bao gồm tái cấu 
trúc công ty chứng khoán, tái cấu trúc các trung gian tài chính (hợp nhất 2 sở giao dịch 
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội), tái cấu trúc hàng hóa và tái cấu trúc cơ sở các nhà 
đầu tư 
 Việt Nam cần có một sở giao dịch chứng khoán thống nhất nhưng cần có thời gian 
và công nghệ kéo dài từ 2-3 năm vì còn phải phát triển mảng thị trường phái s inh. Hiện 
tại, sở giao dịch Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội hoạt động không có gì khác, cũng 
niêm yết cổ phiếu và doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong 2 sàn. Do đó, trong đề án 
tái cấu trúc thị trường cho phép cơ cấu lại còn một sở giao dịch chứng khoán thống nhất 
bao gồm một thị trường cổ phiếu, một thị trường trái phiếu và một thị trường công cụ 
phái sinh. Thị trường cổ phiếu sẽ đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh và 2 thị trường còn lại 
đặt tại Hà Nội. 
 Về việc cấu trúc lại thị trường hàng hóa, trước kia thị trường chứng khoán Việt Nam 
theo chiều rộng, các công ty vào sàn càng nhiều càng tốt nhưng bây giờ khi doanh nghiệp 
vào sàn cần được nâng cấp tiêu chuẩn niêm yết để tạo ra dòng hàng hóa tốt cho thị 
trường. Hoàn thiện các khung pháp lý, thể chế… để tạo minh bạch cho thị trường. Vì cứ 
như điều kiện hiện nay doanh nghiệp rất khó huy động các nguồn vốn trong nước nên 
nhiều doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn và niêm yết trên sàn quốc tế. 
3.1.2. Hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý nhằm khuyến khích tổ chức và cá nhân 
tham gia vào TTCK Việt Nam 
 TTCK Việt Nam đi vào hoạt động được 10 năm, Luật CK đã được ban hành và áp 
dụng. Tuy nhiên, Luật CK ra đời chưa lâu còn trong giai đoạn hoàn thiện nên việc xuất 
hiện nhiều bất cập trong thực tiễn là khó tránh khỏi. Bên cạnh Luật CK, nhiều văn bản 
liên quan đến CK và TTCK cũng được ban hành song vẫn chưa thể hiện rõ vai trò của 
mình trong việc bảo vệ nhà đầu tư và thúc đẩy thị trường phát triển. Chúng ta cần phải 
thúc đẩy hơn nữa việc hoàn thiện Luật CK, điều chỉnh hoạt động của TTCK theo hướng 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 92 
bao quát, toàn diện và phù hợp với thực tiễn thị trường. Một khi Luật CK được hoàn 
thiện sẽ giúp cho TTCK phát triển mạnh và ổn định, phù hợp với nguyện vọng của các 
nhà đầu tư trong và ngoài nước. 
 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý, khuôn khổ quản lý thị trường theo hướng thống 
nhất, đồng bộ, minh bạch nhằm hướng đến mục tiêu tự do hóa dòng vốn đầu tư đồng thời 
bảo vệ cho quyền lợi của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư nói chung rất e ngại khi đầu tư vào 
những nước có hệ thống luật pháp còn yếu, có nền tài chính không minh bạch và đồng 
bộ. Họ đặc biệt quan tâm đến những chính sách quản lý của Nhà nước, hệ thống luật pháp 
và tính ổn định của nó bao gồm chính sách về thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế 
suất áp dụng cho các quỹ đầu tư), quản lý ngoại hối, luật điều chỉnh đầu tư gián tiếp nước 
ngoài, luật về thị trường chứng khoán…. 
- Từng bước nâng cao tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt 
Nam thông qua việc tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, đối với ngành ngề 
không trọng yếu, liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia thì không cần phải giới hạn tỷ 
lệ này; thu hẹp đối tượng ngành nghề Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn hoặc nắm giữ cổ 
phần chi phối. 
- Xây dựng, triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản lý và điều hành doanh 
nghiệp và quản lý Nhà nước. Nâng cao nhận thức và xây dựng cơ chế bắt buộc các doanh 
nghiệp phải áp dụng các chuẩn mục quản trị và điều hành, các bộ đạo đức nghề nghiệp 
theo thông lệ quốc tế. Cũng cần phải có những cơ chế để đảm bảo sự thực thi của các quy 
định này. Bản thân các quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ cũng phải tuân thủ các quy định 
này. Chính phủ đang có những biện pháp để khuyến khích các doanh nghiệp chuẩn bị và 
tiến hành công bố thông tin theo các tiêu chuẩn chất lượng cao về kế toán cũng như công 
bố các thông tin tài chính và phi tài chính. Đây cũng là một tín hiệu đáng mừng nhằm 
tăng cường tính minh bạch trong các hoạt động kinh doanh, đầu tư của các doanh nghiệp 
Việt Nam, tăng tính hấp dẫn của các doanh nghiệp này trong con mắt nhà đầu tư nước 
ngoài. 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 93 
- Tiếp tục thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vãng lai để tạo điều kiện thu hút 
nguồn từ nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển các nguồn thu nhập hợp 
pháp của các nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài. Ở đây hệ thống ngân hàng đóng vai 
trò rất quan trọng trong việc kiểm soát các giao dịch của tài khoản vốn. 
- Tăng cường an ninh của hệ thống tài chính, thực hiện kiểm soát các dòng vốn khi cần 
thiết. Tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và chính sách thu 
hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài; đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngân 
hàng - tài chính - chứng khoán trong việc quản lý các dòng vốn nhằm đảm bảo sự an 
toàn, vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính. 
3.1.3. Xây dựng và áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong quản trị và điều hành 
doanh nghiệp 
Chuẩn mực kế toán quốc tế là điều kiện để đảm bảo các doanh nghiệp, tổ chức 
trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán thống nhất trong công tác báo cáo tài 
chính (BCTC). 
Khi mới ban hành, các chuẩn mực tập trung vào mục đích đáp ứng yêu cầu của các 
tổ chức hoạt động động trong những nền kinh tế đang phát triển, song từ năm 2000 đến 
nay lại chú trọng hơn đến việc hỗ trợ cho cổ đông và các đối tượng khác tham gia vào thị 
trường vốn thế giới trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Do đó, Ủy ban các Chuẩn 
mực Kế toán Quốc tế đã chuyển trọng tâm sang xây dựng các chuẩn mực phức tạp hơn, 
có thể bắt buộc các thị trường vốn trên toàn thế giới phải tôn trọng. Tuy nhiên, việc làm 
này đã tạo ra một khoảng cách lớn giữa chi phí để soạn lập các báo cáo tài chính tuân thủ 
với các Chuẩn mực Báo cáo tài chính Quốc tế (IFRS) và những lợi ích gia tăng đối với 
người sử dụng về phương diện tính phù hợp và độ tin cậy của thông tin tại những nền 
kinh tế đang phát triển. 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 94 
3.1.4. Thiết lập chính sách bình đẳng về ưu đãi đầu tư, chính sách thuế, phí, lệ phí 
giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước 
 Rõ ràng, khả năng thẩm thấu vốn đầu tư gián tiếp của khối các doanh nghiệp nhà 
nước được cổ phần hoá còn rất mỏng trong khi đây lại là khu vực có tiềm năng nhất. Vì 
thế, muốn tăng khả năng hấp thụ nguồn vốn FPI phục vụ phát triển kinh tế, không có 
cách nào khác là phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn. Đối với các 
doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, phải mạnh dạn bán cổ phần 
rộng rãi kể cả cho các NĐTNN để vừa thu hút vốn từ bên ngoài, vừa là tiền đề để cải 
thiện tình trạng lãng phí, trì trệ, kém hiệu quả của khối doanh nghiệp này. Song song với 
việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, cần phải có biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp 
cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch và phát triển hoạt động giao dịch thứ cấp trên TTCK 
Việt Nam. Đây sẽ là kênh thu hút vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài chủ chốt trong 
tương lai khi TTCK của Việt Nam phát triển hơn. Bởi, ưu tiên hàng đầu của các nhà đầu 
tư gián tiếp nước ngoài là cổ phiếu của các công ty niêm yết, đặc biệt là các loại cổ phiếu 
có tính thanh khoản cao. TTCK phát triển, sự đa dạng về chủng loại hàng hóa, quy mô 
lớn về giá trị thị trường và tính thanh khoản cao của các loại chứng khoán hàng hóa chắc 
chắn sẽ hấp dẫn các NĐTNN. Đó được xem là cầu nối hết sức quan trọng giúp các 
NĐTNN có thể nhanh chóng tiếp cận được vốn trên thị trường đầu tư tiềm năng của Việt 
Nam. 
 Đối với khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước, để có thể tăng khả năng hấp thụ 
vốn FPI trong dài hạn, cần thiết phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân phát 
triển không những cả về số lượng, quy mô mà còn cả về trình độ quản lý, kỹ năng giao 
thương và các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đây cũng đồng thời là xu hướng tất yếu khi 
gia nhập WTO. 
3.2. Nhóm giải pháp phát triển thị trường. 
3.2.1. Khuyến khích các nhà đầu tư quốc tế tham gia vào TTCK 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 95 
 "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 đặt ra mục tiêu tổng sản phẩm 
quốc nội năm 2010 tăng gấp đôi so với năm 2000, giai đoạn 2006-2010 còn phải đạt tốc 
độ tăng trưởng kinh tế từ 7,5% - 8% năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm. Tỷ lệ huy động 
vốn cho đầu tư là 40% GDP. Tỷ lệ huy động vốn trong nước là 65 - 67%, nước ngoài là 
33 - 35%. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần ổn định và cải thiện môi trường kinh tế 
vĩ mô; thực thi chính sách mở cửa thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. 
Cụ thể là, mở rộng tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam 
trên nguyên tắc đảm bảo mặt bằng chung về tỷ lệ tham gia giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư 
gián tiếp; thu hẹp đối tượng ngành nghề Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn hoặc nắm giữ 
cổ phần chi phối. Phát triển các công ty quản lý quỹ, khuyến khích thành lập các công ty 
liên doanh quản lý quỹ, lập văn phòng đại diện và cho phép lập chi nhánh công ty quản lý 
quỹ nước ngoài tại Việt Nam. Khuyến khích lập các quỹ đầu tư nước ngoài để huy động 
vốn đầu tư vào thị trường Việt Nam. Đa dạng hoá các loại hình quỹ đầu tư như quỹ đóng, 
quỹ mở, quỹ dạng hợp đồng, quỹ đầu tư là pháp nhân...Thiết lập các chính sách bình 
đẳng về ưu đãi đầu tư, chính sách thuế, phí, lệ phí giữa các nhà đầu tư trong và ngoài 
nước. Chính phủ tiếp tục thực hiện bảo hộ tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt 
Nam dưới mọi hình thức. Tiếp tục thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vãng lai để 
tạo điều kiện thu hút nguồn từ nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển các 
nguồn thu nhập hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài. Ở đây hệ thống 
ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát các giao dịch của tài khoản 
vốn. 
 Bên cạnh đó, chúng ta cần tăng cường an ninh của hệ thống tài chính, thực hiện 
kiểm soát các dòng vốn khi cần thiết. Tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ, chính 
sách tài khoá và chính sách thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài; đảm bảo sự phối hợp 
chặt chẽ giữa các cơ quan ngân hàng - tài chính - chứng khoán trong việc quản lý các 
dòng vốn nhằm đảm bảo sự an toàn, vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính. 
Vì dòng vốn đầu tư gián tiếp di chuyển giữa các quốc gia, các khu vực và mang tính toàn 
cầu nên sự hợp tác, phối hợp trên không chỉ giới hạn trong nước mà phải mang tính quốc 
tế liên quốc gia, liên thị trường thì mới có hiệu quả. 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 96 
3.2.2. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm tài chính 
 Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm tài chính nhằm thu hút hơn nữa sự 
quan tâm của các nhà đầu tư 
3.2.3. Tăng cường hợp tác Quốc tế 
 Tăng cường các hội nghị quốc tế về lĩnh vực tài chính, các chuyến thăm, hợp tác 
song phương, đa phương, trong ngoài khu vực của Chính phủ có sự tháp tùng của các 
doanh nghiệp Việt Nam. Tổ chức các sự kiện, diễn đàn, các cuộc gặp cấp cao, các dự án 
tài trợ, hợp tác liên doanh liên kết. Tạo mối quan hệ tốt giữa doanh nghiệp trong nước và 
Lãnh sự quán của Việt Nam ở các nước để tiếp thị thu hút đầu tư. 
3.2.4. Xây dựng được trung tâm tài chính lớn mang tầm cỡ khu vực 
 Xây dựng được trung tâm tài chính lớn mang tầm cỡ khu vực. Hiện tại, Hà Nội đã 
có đề án xây dựng "Trung tâm Tài chính - Ngân hàng Hà Nội" nhằm mục tiêu đến năm 
2010, Hà Nội sẽ có một trung tâm tài chính - ngân hàng thuộc loại hàng đầu khu vực. Đó 
sẽ là nơi hội tụ các tổ chức tài chính ngân hàng và phi ngân hàng lớn, có tầm cỡ quốc gia 
và quốc tế, nhằm phát triển một mạng lưới hạ tầng tài chính toàn diện, hiện đại trên quy 
mô lớn để nâng cao năng lực cạnh tranh và tầm vóc thị trường tài chính Việt Nam trong 
phạm vi khu vực và quốc tế; phục vụ hiệu quả nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
đất nước trong thời kỳ đổi mới và từng bước hội nhập quốc tế 
3.2.5. Đầu tư cho việc tiếp thị, quảng bá hình ảnh đất nước và môi trường đầu tư 
của Việt Nam 
 Một đất nước mà tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc 
và được thế giới công nhận là ổn định về chính trị lại tồn tại trong suy nghĩ là một đất 
nước chiến tranh, lạc hậu… Chúng ta cần tăng cường hơn nữa trong việc quảng bá chính 
chúng ta. Không thể ngồi một chỗ để đợi mọi người biết chúng ta, phải chủ động cho mọi 
người thấy rằng chúng ta là một đất nước tươi đẹp. Trên bình diện nền kinh tế nói chung, 
Việt Nam đã từng bước cử các chuyên gia đi tiếp thị và mời gọi đầu tư. Tuy nhiên, phần 
lớn các nhà ĐTNN đều không hài lòng đối với các cuộc gặp gỡ, xúc tiến thương mại. 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 97 
Hạn chế lớn nhất là phong cách làm việc, ngôn ngữ trao đổi… trong các cuộc tiếp xúc, 
những câu hỏi của các nhà đầu tư được trả lời không thoả đáng bởi rào cản ngôn ngữ, bởi 
các nhà Lãnh đạo với tính cách bảo thủ không chịu nhường cho những người có năng lực 
đi tiếp thị. Cần phải học cách tiếp thị chuyên nghiệp của những nước xung quanh. Quảng 
cáo trên báo, tạp chí, qua các Tham tán Đại sứ… đã không được chú trọng. Cần phải cho 
mọi người biết hình ảnh Việt Nam là một đất nước luôn dang rộng cánh tay đón chào các 
nhà đầu tư trên thế giới. 
Trên bình diện riêng của TTCK, mặc dù UBCKNN vẫn tiếp tục kế hoạch phối hợp 
hoạt động cùng với UBND TP.HCM để đẩy mạnh phát triển thị trường hơn nữa, nhưng 
kế hoạch này chỉ nhằm quảng bá hình ảnh TTCK Việt Nam cho các công ty cổ phần là 
nhà ĐTTN, chưa tiếp thị một cách đúng mức với nhà ĐTNN, đặc biệt là các tổ chức đầu 
tư lớn trên thế giới. 
Hầu hết các CTCK khi tổ chức đại hội cổ đông đều không chuẩn bị tài liệu bằng tiếng 
Anh, ngay cả khi công ty có cổ đông là người nước ngoài và ngay cả các CTCK đều như 
vậy. Cho đến nay, hầu hết các CTCK không xây dựng trang thông tin bằng tiếng Anh 
trên Website của mình, hoặc nếu có cũng chưa được đầy đủ thông tin cần thiết cho các 
nhà ĐTNN. Ngoài ra các văn bản pháp luật cũng cần nhanh chóng có bảng tiếng Anh để 
nhà ĐTNN tham khảo. 
Điều đơn giản và dễ thực hiện là phát hành bản tin TTCK của TTGDCK TP.HCM 
bằng tiếng Anh cũng chưa được thực hiện. Đây là một kênh thông tin chính thức của 
TTCK, nhưng hiện chỉ tập trung phát hành trong nước. Do đó cần phải có những quảng 
bá trên Website mới có thể thu hút nhà ĐTNN. Nhà ĐTNN cần biết về tính an toàn khi 
đổ tiền đầu tư vào TTCK Việt Nam, đặc biệt là chính sách thuế và quản lý ngoại hối 
3.2.6. Khuyến khích phát triển các quỹ đầu tư trong nước 
 Quỹ ĐTNN có vai trò rất lớn trong việc thu hút dòng vốn FPI. Hiện nay, ở nước ta có 
nhiều quỹ ĐTNN đang hoạt động như những vệ tinh để nghiên cứu thị trường Việt Nam. 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 98 
Chính điều đó, cần tạo điều kiện nhiều hơn nữa để khuyến khích các nhà ĐTNN tham gia 
vào TTCK Việt Nam. 
- Chính phủ cần có những chính sách ưu đãi đối với hoạt động của các quỹ ĐTNN. 
- DN cần chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các quỹ ĐTNN thông qua 
các đối tác kinh doanh. Cần mạnh dạn chia sẻ ý tưởng kinh doanh, đừng sợ chia sẻ quyền 
lực kiểm soát với người nước ngoài. Chính sự tham gia của các quỹ đầu tư này sẽ giúp 
doanh nghiệp học hỏi những phương thức quản lý tiến bộ, áp dụng những công nghệ tiên 
tiến của người nước ngoài, … 
3.3. Nhóm giải pháp về các yếu tố đảm bảo khác. 
3.3.1. Tăng cường hoạt động đào tạo nguồn nhân lực tài chính trong nước 
 Hiện nay Việt Nam chúng ta đang thiếu trầm trọng những chuyên gia trong lĩnh vực 
tài chính, phần lớn các chuyên gia tại Việt Nam là chuyên gia nước ngoài. Hệ thống tài 
chính của chung ta đang còn non yếu so với hệ thống tài chính của các nước trên thế giới 
có cả vài trăm năm. Chỉ cần thế giới “hắt hơi” thì hệ thống tài chính của nước ta “phát 
bệnh”. Do đó vấn đề con người luôn được đặt lên hàng đầu. Phải đào tạo nguồn lực nhân 
sự cho ngành tài chính, đặc biệt là các chuyên gia trong lĩnh vực này để xây dựng và vận 
hành hệ thống tài chính trước những tác động của tình hình biến động phức tạp của thị 
trường. 
3.3.2. Cải thiện xếp hạng tín nhiệm để thu hút đầu tư 
 Việt Nam cần phải coi định mức t ín nhiệm như một công cụ hỗ trợ đầu tư, góp phần 
tăng cường tính minh bạch, chất lượng của các công ty trong nước cũng như mức độ tín 
nhiệm quốc gia của Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế. Do đó, cần có biện 
pháp thúc đẩy sự ra đời và hoạt động của các tổ chức phân hạng tín nhiệm của Việt Nam. 
Nhà nước với vai trò “bà đỡ” cần đứng ra thành lập các tổ chức phân hạng tín nhiệm. Sau 
một thời gian có thể chuyển đổi hình thức sở hữu thành các công ty cổ phần hoạt động 
độc lập kết hợp với việc kêu gọi đầu tư với mô hình 100% vốn nước ngoài hoặc kết hợp 
hỗn hợp các hình thức nêu trên 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 99 
Trong điều kiện thị trường vốn Việt Nam còn nhỏ bé và định mức tín nhiệm còn là một 
khái niệm hết sức mới mẻ thì các tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam chỉ nên triển 
khai một số nghiệp vụ cơ bản, cần thiết cho sự phát triển của thị trường vốn trong 
nước.Trước mắt, có 4 đối tượng cần được ưu tiên triển khai việc định mức tín nhiệm: 
 Một là, xếp hạng các công cụ nợ dài hạn, bao gồm việc xếp hạng tổ chức phát hành nợ 
dài hạn và xếp hạng đợt phát hành nợ dài hạn. Xếp hạng tổ chức phát hành nợ liên quan 
tới việc đưa ra đánh giá chung về năng lực của tổ chức phát hành nợ, của tổ chức bảo 
lãnh hoặc cung cấp các hỗ trợ tín dụng nhằm đáp ứng các cam kết tài chính liên quan đến 
các nhà phát hành nợ hoạt động trên thị trường tài chính Việt Nam. Còn xếp hạng đợt 
phát hành nợ dài hạn là việc đánh giá khả năng của công ty hoàn trả vốn gốc và lãi vay. 
Hai là, xếp hạng tiền gửi và khả năng tài chính của các ngân hàng thương mại quốc 
doanh và thương mại cổ phần Việt Nam. Điều này liên quan tới khả năng của một ngân 
hàng có thể đáp ứng đúng hạn các nghĩa vụ nợ của mình đối với các tổ chức hoặc cá nhân 
gửi tiền trong và ngoài nước. Còn xếp hạng khả năng tài chính của ngân hàng liên quan 
tới đặc tính an toàn và chất lượng hoạt động của một ngân hàng, thường tính tới các yếu 
tố như các chỉ số tài chính cơ bản, giá trị mạng lưới hoạt động, sự đa dạng hóa tài sản đầu 
tư và cả các yếu tố liên quan tới môi trường hoạt động của ngân hàng, triển vọng của nền 
kinh tế... 
Ba là, xếp hạng các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn đã và đang tiến hành cổ phần 
hóa, các doanh nghiệp đang niêm yết trên TTCK Việt Nam. Việc tiến hành định mức tín 
nhiệm đối với các đối tượng này cần được coi là một điều kiện bắt buộc nhằm bảo vệ 
công chúng đầu tư nói chung, vì đại bộ phận trong số họ còn chưa có đầy đủ kiến thức và 
kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán. 
Bốn là, xếp hạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) của Việt Nam. Hiện SMEs chiếm 
tới 95% tổng số doanh nghiệp Việt Nam và được coi là khu vực có nhiều tiềm năng phát 
triển xen lẫn rủi ro cao. Một trong những vấn đề nghiêm trọng cản trở việc vay vốn ngân 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 100 
hàng cho đầu tư phát triển của khu vực SMEs chính là sự thiếu minh bạch thông tin và 
thiếu những nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy về tình hình tài chính của các SMEs. 
Vì thế, việc xếp hạng các SMEs được coi là một bước đi quan trọng trong việc đem lại 
những lợi ích cho chính các SMEs cũng như cho các tổ chức cho vay và sự phát triển nói 
chung của kinh tế Việt Nam. 
3.3.3. Thường xuyên có các hoạt động đối thoại giữa chính phủ và doanh nghiệp để 
lắng nghe doanh nghiệp. 
 Mục đích của hoạt động đối thoại là trao đổi về các hoạt động của chính phủ và 
doanh nghiệp, các thủ tục pháp lý, về thuế và hải quan, nhằm tăng cường công tác thông 
tin, tìm hiểu và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Doanh nghiệp và chính phủ tham gia sẽ 
cùng nhau tìm ra các giải pháp cụ thể thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tạo môi 
trường thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp các thành phần kinh tế đang hoạt động 
kinh doanh tại Việt Nam. 
3.3.4. Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quản lý 
 Cần phải ứng dụng công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại vào trong tất cả các khâu 
của các quá trình hoạt động để giúp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, tiết kiệm thời 
gian, chi phi phí ẩn, giảm thiểu rủi ro. Ứng dụng công nghệ thông tin để chuyên nghiệp 
hóa, xử lý nhanh, dự báo được tình hình biến động của thị trường kiểm soát mọi hoạt 
động của thị trường. 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 101 
KẾT LUẬN 
 Nhìn lại những kết quả trên, chúng ta có thể nói rằng việc thu hút đầu tư gián tiếp 
nước ngoài của nước ta trong những năm qua đã đạt được những thành tựu nhất định. Sự 
thành tựu này một phần đã khẳng định được những bước đi quan trọng trong định hướng 
xây dựng nền kinh tế thị trường, tạo được kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. 
 Tuy nhiên, phía sau những thành tựu đó, yêu cầu số một hiện nay là phải xây dựng 
được thể chế pháp luật phù hợp tạo điều kiện cho việc thu hút FPI hiệu quả hơn. Bằng 
việc vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, người viết đã thực hiện được các 
mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra đó là: Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về đầu tư gián tiếp 
nước ngoài. Đồng thời trên cơ sở thực trạng hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài vào 
Việt Nam trong thời gian vừa qua, đề tài đã đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường thu 
hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới. 
 Các giải pháp trong đề tài xuất phát từ những đánh giá và nhận định chủ quan của tập 
thể nhóm. Tuy nhiên cũng hy vọng rằng các ý kiến đề xuất này sẽ góp phần tích cực vào 
việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới. 
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 102 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Luật Đầu Tư năm 2005 
2. Luật Chứng Khoán năm 2006 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Chứng 
khoán năm 2010. 
3. Giáo trình: Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - TS. Đào 
Lê Minh (chủ biên)- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2002 
4. Luận văn thạc sĩ kinh tế - Những giải pháp để thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt 
Nam phát triển bền vững - Nguyễn Thị Lệ Hoa - 2008 
5. Vietnam Economic Review- No3 (151), 2007- Inducing Foreign Indirect Investment– 
Facts, Prospects, and Solutions – Nguyen Van Hieu 
6. Thanh niên online - “Quỹ đầu tư nước ngoài hướng về Việt Nam”– Trung Trực, 
29/10/2009 
7. Báo tin tức 247 - “Quỹ đầu tư nước ngoài rót vốn vào Việt Nam”– Bạch Hường, 
03/04/2010 
8. Các Trang thông tin điện tử của: 
 Cổng thông tin Chính phủ: www.chinhphu.vn 
 Bộ Tài chính: www.mof.gov.vn 
Bộ Kế hoạch và đầu tư:  
Ngân hàng Thế giới (trang Tiếng Việt): www.worldbank.org.vn 
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn 
 Ủy ban chứng khoán nhà nước : www.ssc.gov.vn 
 Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM : www.hnx.vn 
 Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội : www.has tc.org.vn 
 Báo Đầu tư chứng khoán:  
Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh Tiểu luận Đầu tư quốc tế 
Nhóm 1 – Lớp Thương mại Cao học K20 Trang 103 
 Thời báo kinh tế Việt Nam:  
 Thị trường tài chính online:  
 Kênh thông tin đối ngoại –Phòng thương mại và công nghiệp VN: 
Bách khoa toàn thư mở tiếng Việt:  
Thư viện pháp luật điện tử:  
Công ty Cổ phần Quản lý Quỹ đầu tư Việt Nam (VFM): www.vinafund.com 
Doanh nhân 3600 :  
Diễn đàn Ngân hàng:  
Báo Công thương-cơ quan ngôn luận của bộ Công Thương:  
Vietnam Investment Review:  
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 fhb_1_3508.pdf fhb_1_3508.pdf