Chúng ta thấy rằng, trong quá trình đầu tư để tạo sự tăng trưởng và phát triển thì
vốn là yếu tố có tính tiền đề và không thề thiếu được. Chính sự phát triển của thế
giới ngày nay đã minh chứng thật thuyết phục: vốn là một nhân tố đặc biệt quan
trọng cho pàht triển kinh tế. Song thị trường vốn thế giới đang ở trạng thái quốc tế
hoá mạnh mẽ, do đó gây không ít trở ngại cho Việt nam nhất là về khả năng cạnh
tranh. Trong khi đó thị trường chứng khoán và các chính sách thu hút, qủan lý vốn
của Việt nam vẫn còn nhiều khiếm khuyết và bất cập. Thực trạng của vấn đề này
tuy chỉ mới đ ược thể hiện rất sơ lược trong đề tài nhưng đã cho thấy sự yếu kém
của Việt nam trong việc “kéo” các nguồn vốn nước ngoài vào đầu tư trong nước
thông qua th ị trường chứng khoán .
Tuy nhiên, Việt nam không thể đứng ngoài vòng hội nhập – hội nhập để tận dụng
những ưu thế của thế giới, tận dụng nguồn vốn, tránh xa tụt hậu, chứ không thể
xuôi theo kiểu lý luận “người yếu thì không nên ra gío”. Nhưng để có thể ra gió mà
không ngã bệnh và vẫn hoạt động tốt thì Việt nam phải nhanh chóng có những điều
chỉnh hợp lý và các chính sách cụ thể cho thị trường chứng khoán . Nhận thức được
vấn đề này, đế tài đã tập trung nghiên cứu và phát triển hệ thống lý luận về vốn
đầu tư nước ngoài, thị trường chứng khoán và kinh nghiệm của các nước để đề ra
những giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán , nâng cao hiệu
quả thu hút và quản lý vốn nước ngoài, phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế
nước nhà.
36 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4141 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đầu tư quốc tế gián tiếp. Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uỹ đầu tư nước
ngoài được thành lập để đón bắt các cơ hội đầu tư vào Việt Nam. Yếu tố hấp dẫn
các nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào TTCK Việt Nam là khoản lợi nhuận kếch xù
có được từ thị trường này từ năm ngoái đến nay. Tính trung bình, một quỹ đầu tư
đầu tư vào Việt Nam trong vòng 1 năm trở lại đây đều có thể mang về cho các cổ
đông mức lợi nhuận cao gấp khoảng 2 lần vốn đầu tư.
Ngoài các quỹ đầu tư nước ngoài, hiện tại, các công ty quản lý quỹ đầu tư trong
nước có quy mô lớn như VietFund Management, Công ty Quản lý Quỹ Prudential
Vietnam, các công ty quản lý quỹ thuộc các ngân hàng thương mại lớn như
Vietcombank, BIDV… đều đang có chiến lược mở rộng hoạt động nhằm đón bắt
những cơ hội lớn trên thị trường trong thời gian tới. Đây cũng chính là những yếu
tố góp phần tạo nên "sức bật" lớn cho TTCK Việt Nam thời gian tới.
iii. Họat động của các nhà đầu tư lẻ
Số lượng các nhà đầu tư chứng khóan tham gia thị trường tăng theo cấp số nhân
trong thời gian qua. Đến hết năm 2006, số tài khỏan giao dịch đã đạt hơn 100.000,
gấp 3 lần so với cuối năm 2005 và gấp 30 lần so với khi mới thành lập thị trường.
Trong đó có 1.700 tài khoản của các nhà đầu tư nước ngòai, gồm cả những nhà đầu
tư tầm cỡ quốc tế như Merrill Lynch, Citygroup…, hiện các nhà đầu tư nước ngòai
đang nắm giữ 30% lượng cổ phiếu của các công ty niêm yết.
Hơn 90% số nhà đầu tư chứng khóan là các cá nhân, chiếm hơm 70% lượng cổ
phiếu giao dịch. Số đông các nhà đầu tư này còn thiếu kiến thức căn bản và hệ
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 19
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
thống về đầu tư chứng khóan, chưa nhiều kinh nghiệm kinh doanh. Họ thường
phạm vào 5 sai lầm trong việc kinh doanh chứng khóan (mua bán quá nhiều – trả
phí giao dịch nhiều, đầu tư dựa vào danh tiếng – không dựa vào phân tích tài chính,
đầu tư theo đám đông – đẩy giá cố phiếu lên cao hơn giá trị thực, không đa dạng
hóa – rủi ro cao khi công ty làm ăn thua lỗ, cứ nghĩ mình luôn luôn đúng – giá cổ
phiếu giảm nhưng không chịu bán để chặn lỗ, bán sớm khi thấy cổ phiếu lên giá)
Hành vi mang tính tự phát cao, thiếu kinh nghiệm, thiếu phân tích của các nhà đầu
tư lẻ dễ làm cho thị trường biến động khó lường, đặt thị trường trườc nguy cơ rủi ro
cao.
Theo ước tính của IMF hệ số giá/lợi nhuận (P/E) trung bình của 20 công ty lớn nhất
(chiếm 99% vốn hóa của thị trường) niêm yết trên TTGDCK TP.HCM là khỏang
73 (tháng 1/2007), hệ số này là rất cao so với chuẩn mực hầu hết các chuẩn mực
của thị trường khác (thường dưới 20).
Mặc dù đã đạt được sự tăng trưởng vượt bậc của thị trường chứng khóan nhưng tỷ
trọng vốn trong tổng số vốn đầu tư tư nhân nước ngòai vào Việt Nam vẫn ở mức
rất thấp (3,7% năm 2004, 5,2% năm 2005, 10% năm 2006), tỷ lệ này còn kém xa
các nước trong khu vực như Thailand, Trung Quốc là 30-40%.
2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP QUỐC TẾ ĐỐI VỚI VIỆT
NAM:
2.1 Nhân tố ảnh hưởng tới vốn đầu tư gián tiếp quốc tế:
Cũng như FDI, vốn đầu tư gián tiếp quốc tế chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ
của các nhân tố như bối cảnh quốc tế (hoà bình, ổn định vì mô, các quan hệ ngoại
giao và môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi); nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà
đầu tư nước ngoài; mức độ tự do hoá và sức cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính
và sự thân thiện, thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi
trường đầu tư trong nước; sự phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh nói riêng, của các thể chế thị trường nói chung của nước tiếp nhận đầu
tư v.v... Nhưng khác với FDI, vốn đầu tư gián tiếp quốc tế chịu ảnh hưởng trực tiếp
mạnh hơn từ phía các nhân tố, như sự phát triển và độ mở cửa của thị trường chứng
khoán, chất lượng của các cổ phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp và nhà nước phát
hành, cũng như các chứng khoán có giá khác lưu thông trên thị trường tài chính; sự
đa dạng và vận hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung gian (trước hết là
các quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư tài chính các loại, các quỹ đầu tư đại
chúng, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thành viên); sự phát triển và chất lượng của hệ
thống thông tin và dịch vụ chứng khoán, trong đó có các tổ chức cung cấp dịch vụ
tư vấn và dịch vụ định mức hệ số tín nhiệm doanh nghiệp và chứng khoán; Đặc
biệt, vốn đầu tư gián tiếp quốc tế sẽ chảy mạnh vào trong nước theo mức tỷ lệ
thuận và cấp số nhân cùng với sự gia tăng quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang
hoạt động hiệu quả ở trong nước, cũng như cùng với việc nới rộng tỉ lệ nắm giữ cổ
phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp đó.
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 20
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
2.2 Tác động của đầu tư gián tiếp quốc tế nói chung:
2.2.1. Tác động tích cực
i. Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- Đây là kênh huy động vốn quan trọng từ nước ngoài, tiếp thu vốn dưới nhiều
quy mô
- Vốn đầu tư tiếp nhận bằng tiền nên để sử dụng theo mục đích của mình
- Nhà đầu tư không can thiệp vào quá trình hoạt động của dự án.
ii. Đối với chủ đầu tư:
- Dễ bán, dễ chuyển nhượng để thay đổi mục đích đầu tư
- Dễ thực hiện đầu tư
+ Thực hiện nhanh
+ Chi phí thấp
+ Không bị giới hạn bởi tuổi, sức khoẻ của nhà đầu tư
2.2.2. Tác động tiêu cực
Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- Hạn chế khả năng thu hút công nghệ, kinh nghiệm quản lý
- Tính bất ổn cao cho đổi mv hệ thống tài chính và chứng khoán (vì dễ chuyển
vốn từ dạng này qua dạng khác.
- Không trực tiếp quản lý dự án mình bỏ vốn
- Không có điều kiện nắm thông tin chính xác nhất về dự án đầu tư.
2.3 Tác động của đầu tư gián tiếp quốc tế đối với Việt Nam
2.3.1. Tác động tích cực
i. Trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm
tăng tổng vốn đầu tư trực tiếp của xã hội
Khi vốn đầu tư gián tiếp quốc tế đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng vốn
đầu tư gián tiếp trên thị trường vốn trong nước. Hơn nữa, vốn đầu tư gián tiếp quốc
tế gia tăng sẽ gia tăng dây chuyền tới dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. Hay
nhà đầu tư trong nước sẽ nhìn gương các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng
động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả là tổng đầu tư gián tiếp xã hội
sẽ tăng lên.
Hơn nữa, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp quốc tế gia tăng, thì đó sẽ là một sự bảo
đảm và tạo động lực mới hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác mạnh dạn thông qua
các quyết định đầu tư trực tiếp mới của mình, kết quả là gián tiếp góp phần làm
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 21
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
tăng đầu tư trực tiếp xã hội từ phía các nhà đầu tư cả nước ngoài, cũng như trong
nước.
ii. Góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói
riêng, hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung
Việc gia tăng và phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp quốc tế sẽ làm cho thị
trường tài chính (đặc biệt là thị trường chứng khóan) Việt Nam trở nên đồng bộ,
cân đối và sôi động hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng,
thậm chí đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài của thị trường này trong thời gian qua.
Hơn nữa, đi kèm với sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp quốc tế này là sự phát
triển các định chế và dịch vụ tài chính - chứng khoán, đó là các loại quỹ đầu tư,
công ty tài chính, và các thể chế tài chính trung gian khác, cũng như các dịch vụ tư
vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh…bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và thông
tin thị trường, đồng thời còn kéo theo sự gia tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các
nguyên tắc cạnh tranh thị trường, trước hết trên thị trường chứng khóan... Tất cả
những điều này trực tiếp và gián tiếp góp phần phát triển mạnh mẽ hơn các bộ phận
và tổng thể thị trường tài chính nói riêng, các thể chế và cơ chế thị trường nói
chung trong nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam.
iii. Góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu
tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông
đảo người dân.
Việc phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả bề rộng lẫn bề sâu sẽ mang lại
những cơ hội mới và sự đa dạng hoá trong lựa chọn các phương thức đầu tư cho các
nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài và trong nước. Đông đảo các nhà đầu tư nước
ngoài và cả trong nước sẽ có thêm điều kiện lựa chọn sử dụng vốn của mình để đầu
tư dưới các hình thức trực tiếp tự mình hay thông qua các định chế tài chính trung
gian để mua - bán các cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán có giá khác của Việt
Nam trên thị trường tài chính trong nước và nước ngoài. Việc đầu tư này sẽ cho
phép họ thu nhận được lợi nhuận từ sự chênh lệch giá cả khi mua - bán chứng
khoán, cũng như từ lãi suất và cổ tức các chứng khoán mà họ sở hữu theo thoả
thuận hoặc thực tế kết quả kinh doanh của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phát
hành chứng khoán đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc cải thiện thu nhập, mức
sống của đông đảo các nhà đầu tư là người dân, tuỳ theo lượng vốn và kỹ năng đầu
tư chứng khoán mà họ có. Hơn nữa, thông qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp
này, các nhà đầu tư trong nước sẽ được dịp "cọ xát", rèn luyện và bồi dưỡng kiến
thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói riêng,
chất lượng nguồn nhân lực nói chung, phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị
trường, hiện đại
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 22
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
iv. Góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước
theo các nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế.
Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh nghiệp và minh
bạch hoá, cập nhật hoá thông tin liên quan đến các chứng khoán mà doanh nghiệp
đã và sẽ phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà đầu tư chỉ ưa lựa chọn đầu tư
vào chứng khoán của các doanh nghiệp đáng tin cậy, đang và sẽ có triển vọng phát
triển tốt trong tương lai. Chính điều này sẽ cho phép quá trình "chọn lọc nhân tạo",
"bỏ phiếu" cho sự hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp này trở nên khách quan và
phù hợp cơ chế thị trường hơn (còn những doanh nghiệp khác mà chứng khoán của
họ không hấp dẫn sẽ phải điều chỉnh lại định hướng và chất lượng quản trị kinh
doanh, sáp nhập hoặc giải thể). Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận
và cá nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất
là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao
năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng như theo
các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị trường tài
chính, nhà nước sẽ đa dạng hoá các công cụ và thực hiện hiệu quả việc quản lý của
mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó, năng lực và hiệu quả
quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính nói riêng sẽ
được cải thiện hơn
2.3.2. Tác động tiêu cực
i. Làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố
nước ngoài
Khác với FDI là nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất (nhà máy,
mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất), khó chuyển đối
hoặc thanh khoản, vốn đầu tư gián tiếp quốc tế được thực hiện dưới dạng đầu tư tài
chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản
cao trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và
nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về
nước, hay chuyển sang đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tuý theo kế
hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình. Đặc trưng nổi bật này cũng chính là
nguyên nhân hàng đầu gây nên nguy cơ tạo và khuếch đại độ nhạy cảm và chấn
động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn đầu tư gián tiếp quốc tế đối với nền kinh tế
của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư gián tiếp
nói trên diễn ra theo kiểu "tháo chạy" đồng loạt trên phạm vị rộng và số lượng. Sự
nhạy cảm và bất ổn kinh tế có thể bắt nguồn từ các nguyên nhân bên trong, cũng có
thể hoàn toàn do các nguyên nhân bên ngoài nước tiếp nhận đầu tư do phản ứng
dây chuyền, làn sóng đô-mi-nô của các nhà đầu tư quốc tế như đã từng diễn ra
trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á những năm cuối thập kỷ 90 của
thế kỷ trước. Trong tình huống như vậy, cuộc khủng hoảng đầu tư - tài chính - tiền
tệ hay khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu không
có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả.
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 23
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
ii. Làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và
lũng đoạn tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát
hành chứng khoán
Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập,
được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một mức "vượt
ngưỡng" nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết
định các hoạt động sản xuất - kinh doanh và các chủ quyền khác của doanh nghiệp,
tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo phương
hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt động mua lại, sáp nhập
doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, tính chất gián tiếp của vốn đầu tư nước ngoài đã
chuyển hoá thành tính trực tiếp. Nhà đầu tư gián tiếp sẽ chuyển hoá thành nhà đầu
tư trực tiếp.
iii. Làm tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình
trạng tội phạm kinh tế quốc tế
Đầu tư gián tiếp quốc tế không chỉ làm gia tăng các nguy cơ và tác hại của các hoạt
động đầu cơ, lũng đoạn kinh tế vi phạm các quy định pháp lý của nước tiếp nhận
đầu tư, mà còn là mảnh đất mầu mỡ sinh sôi và phát triển các loại tội phạm kinh tế
có yếu tố nước ngoài, thậm chí xuyên quốc gia, như hoạt động lừa đảo, hoạt động
rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các vụ kinh doanh phi pháp và hoạt động khủng
bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh phi truyền thống khác.
Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của dòng vốn Đầu
tư gián tiếp quốc tế nói trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách "có tổ chức" của
giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián
tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng
tính dễ tổn thương của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu
hoá hiện nay; Thậm chí trong một số trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà
nước và gây sụp đổ một nội các chính phủ...
Ngoài ra, sự gia tăng dòng vốn Đầu tư gián tiếp quốc tế vào Việt Nam còn đặt ra
yêu cầu Chính phủ và các cơ quan TW phải chủ động đổi mới và sử dụng hiệu quả
các công cụ quản lý kinh tế của mình theo nguyên tắc thị trường hơn, trong đó có
việc sử dụng bảo lãnh nhà nước, quy định tỷ lệ và sử dụng các công cụ dự phòng,
dư nợ cũng như các công cụ khác của các định chế tài chính - tiền tệ quốc gia và
địa phương... những điều cần thiết để đảm bảo sự thu hút và khai thác có hiệu quả
các tác động tích cực của dòng vốn Đầu tư gián tiếp quốc tế.
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 24
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ QUẢN LÝ
VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG
MỐI QUAN HỆ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA TTCK VIỆT NAM.
1. NHỮNG HẠN CHẾ CHỦ YẾU CẦN KHẮC PHỤC ĐỂ HẤP DẪN
DÒNG VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP QUỐC TẾ ĐỔ VÀO VIỆT NAM:
Nếu thu hút FDI có đóng góp cho ngành công nghiệp sản xuất, tăng kim ngạch
xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho người Việt nam nhưng lại không tác động
được tới các doanh nghiệp Việt nam thì thu hút FII có thể giúp vốn cho doanh
nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh
tranh. Do vậy, FII rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nước đang thiếu
vốn.
Dòng vốn FII vào Việt nam tuy đã tăng trở lại sau cuộc khủng hoảng tài chính khu
vực nhưng vẫn đứng ở mức thấp so với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Cụ thể, năm 2002 chiếm 1,2%, năm 2003 lên 2,3% và đạt 3,7% vào năm 2004.
Trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan, Malaysia và Trung quốc vào khảong 30-40%.
Và so với FDI, tỷ lệ FII này khá khiêm tốn, chỉ bằng 2-3%.
Trước hết, để hiểu rõ vì sao trong thời gian qua, dòng vốn đầu tư FII đổ vào Việt
nam lại quá khiêm tốn như vậy, chúng ta cần tìmhiểu bản chất của nguồn FII là gì.
Như nhiều người đã biết, dòng vốn FII được các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp sử
dụng để lập nên doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nứớc ngoài,
còn nguồn vốn FDI lại được nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt nam thông qua
cáac quỹ đầu tư hay qua thị trường chứng khoán mua cổ phần của doanh nghiệp
Việt nam. Mặc dù hiện nay chính phủ đã nâng mức sở hữu cho các nhà đầu tư nước
ngoài lên đến 49% đối với cổ phiếu niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường
chứng khoán , nhưng một pháp nhân nước ngoài khi đầu tư vào một doanh nghiệp
thường không mua quá 30% vốn, nên doanh nghiệp được đầu tư vẫn là doanh
nghiệp Việt nam. Sự đầu tư này chủ yếu mang tính hỗ trợ về tài chính và quản trị
hơn là can thiệp vào công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện có nhiều nhược điểm cản trở dòng vốn FII đổ vào Việt nam. Điều quan trọng
nhất đối với nhà đầu tư là muốn hiểu được hoạt động của doanh nghiệp một cách
chân thực và chính xác qua bản báo cáo tài chính, nhưng phần lớn doanh nghiệp ở
Việt nam đều coi việc báo cáo tài chính chỉ để đối phó với cơ quan thuế chứ không
phải dành cho cổ đông cũng như các nhà đầu tư tiềm năng. Doanh nghiệp Việt
nam hiện nay thường lập 2 loại sổ sách kế toán, một dành cho mình và một dành
cho việc báo cáo thuế. Trong khi đó hệ thống kiểm toán còn nhiều bất cập, có
những qui định không theo chuẩn mực quốc tế. Phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa chủ yếu là tính theo giá trị sổ sách chứ không sử
dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền, nên để đánh giá giá trị thực của một doanh
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 25
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
nghiệp là rất khó. Hệ thống thông tin của doanh nghiệp còn yếu, không cung cấp
đầy đủ cho nhà đầu tư về tình hình hoạt động cũng như những dự báo trong tương
lai. Hoạt động thâu tóm giữa các doanh nghiệp gần đây mới được công bố công
khai. Hầu hết doanh nghiệp Việt nam đều ngại công khai tình hình hoạt động kinh
doanh. Hội đồng quản trị chưa phải là tổ chức qui tụ những cổ đông lớn và không
hoạt động độc lập bởi tại nhiều doanh nghiệp Giám đốc lại kiêm luôn chức chủ tịch
Hội đồng quản trị.
Vì tính chất nguồn vốn FII là đầu tư vào doanh nghiệp cổ phần nên để thu hút được
nguồn vốn này, ngoài hệ thống pháp lý cần cải thiện, thay đổi phù hợp với các qui
tắc chung thì Việt nam còn phải tăng cường cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp và thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển
bằng việc đưa nhiều doanh nghiệp mạnh lên niêm yết. Trước đây, vào những năm
90, dòng vốn FII đã được đổ nhiều vào Việt nam. Sự xuất hiện của hơn 10 quỹ đầu
tư nước ngoài đã thể hiện nhà đầu tư nước ngoài coi thị trường Việt nam là một thị
trường nhấp dẫn, có thể mang lại lợi nhuận cao. Nhưng vào thời điểm đó, ở Việt
nam khu vực kinh tế tư nhân còn rất yếu, khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm vai
trò chủ đạo và thị trường chứng khoán Việt nam chưa ra đời. Vì lý do đó mà chúng
ta lỡ mất cơ hội duy trì và nhân rộng dòng vốn đầu tư vô cùng quí giá này.
Qua thực tế cho thấy vốn FII vào Việt nam còn rất thấp, nguyên nhân từ cả hai phía
nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước chưa có một hệ thống chính sách rõ ràng,
minh bạch đối với FII. Các qui định về công ty cổ phần, cổ phần hóa DNNN hiện
hành vẫn chủ yếu nhằm vào giao dịch giữa các công ty, tổ chức và người Việt nam
chăm lo bảo vệ lợi ích nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp hơn là quan
tâm đến lợi ích và quyền của nhà đầu tư chuyên nghiệp/chiến lược. Còn doanh
nghiệp thì không có động lực thu hút vốn FII và sợ tuột mất quyền quản lý, sở hữu
doanh nghiệp và tài sản của mình. Nhà nước vẫn còn dè dặt trong việc phát triển thị
trường vốn và các dịch vụ tài chính ở Việt nam…. Do vậy, nhà nước cần ban hành
chính sách chính sách rõ ràng về thu hút FII như một chiến lược trong phát triển
kinh tế thị trường ở Việt nam, đưa FII vào thành một bộ phận của Luật đầu tư
mới, được coi trọng, hoan nghênh. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kế
toán, kiểm toán, thuế (và hành thu thuế), thanh tra kiểm tra doanh nghiệp theo
hướng công khai, minh bạch…. Thúc đẩy cải cách hệ thống ngân hàng và các tổ
chức tín dụng, phát triển thị trường chứng khoán …. Chúng ta cần thực hiện
nghiêm túc các cam kết quốc tế trong các lĩnh vực phát triển thị trường vốn và các
dịch vụ liên quan.
2. PHÁT HUY NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI ĐỂ THU HÚT NGUỒN
VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP TỪ NƯỚC NGOÀI:
Từ năm 1995 đến 2005, nền kinh tế của Việt nam đã tăng trưởng ổn định và cao
hơn những nền kinh tế khác trong khu vực bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính-
tiền tệ tại châu Á xảy ra trong các năm 1997-1998. Việt nam đã không bị tác động
tiêu cực của cuộc khủng hoảng này vì chưa hội nhập đủ để bị ảnh hưởng. Bên cạnh
đó, Chính phủ Việt nam đã có những giải pháp kịp thời và đúng đắn.
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 26
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
Một trong những chính sách quan trọng trong quá trình đổi mới của Việt nam là
thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo sự tính toán sẵn nên đã giữ được ổn định, nhưng sự
thay đổi này vẫn còn chậm. Tuy nhiện, so với các nước Đông Âu thì Việt nam
thành công hơn. Và một trong các thế mạnh của Việt nam là xuất khẩu. Đây chính
là động lực để tăng trưởng kinh tế. Các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt
nam là châu Âu, Mỹ, Nhật bản, Asean và Trung quốc. Ngoài ra còn một số thị
trường khác. Sự đa dạng hóa thị trường xuất khẩu sẽ giúp Việt nam phát triển mạnh
hơn trong thời gian tới.
Hiện nay cũng như trong tương lai, Việt nam vẫn giữ được vị thế tốt để thu hút các
nguồn vốn đầu tư. Sư thuận lợi của môi trường đầu tư được chứng minh bằng con
số thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng cao trong năm 2005. Nếu Trung
quốc đựơc xem là thị trường nóng thu hút nhiều FDI thì hiện nay Việt nam được
xếp hạng cao hơn cả Trung quốc trong việc thu hút đầu tư. Và một trong những dấu
hiệu quan trọng đánh dấu sự tăng trưởng thành công của nền kinh tế là trái phiếu
của Việt nam đã nhận được sự quan tâm và đánh giá cao trên thị trường trái phiếu
quốc tế.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư sẽ được đảm bảo bằng sự ổn định chính trị, sự công
bằng trong cạnh tranh và sự minh bạch trong các thể chế. Mặt khác, một trong
những lý do để các nhà đầu tư hướng về Việt nam là Chính phủ Việt nam rất coi
trọng khu vực kinh tế tư nhân và luôn khẳng định tầm quan trọng của khu vực kinh
tế này.
Kết quả của sự chuyển đổi là thu nhập của người dân Việt nam đã tăng gấp đôi.
Tăng trưởng GDP của Việt nam có thể duy trì 8%/năm trong 5 năm tới, thậm chí
còn có thể nhanh hơn nếu có chính sách cởi mở, thông thoáng hơn. Tuy nhiên,
những thách thức còn lại đối với nền kinh tế Việt nam là cơ sở hạ tầng đang có nhu
cầu đầu tư rất lớn, sự phân bố nguồn lực về đất đai và tài chính cho khu vực kinh tế
nhà nước.
Theo kinh nghiệm của các nước trong khu vực, đến giai đoạn nào đó của nền kinh
tế, nền kinh tế đó vừa tạo điều kiện vừa có nhu cầu đối với việc thu hút đầu tư gián
tiếp nước ngoài (FII). Và Việt nam chúng ta đang bước vào giai đoạn này, gia đoạn
cần và có để thu hút FII.
Tuy nhiên để làm được điều này, chúng ta phải nỗ lực rất nhiều, trước tiên là phải
tạo ra khung pháp lý cần thiết vì hiện nay chúng ta chưa có luật qui định cụ thể cho
việc thu hút FII. Về mặt cơ chế mà nói, chúng ta cũng chưa có cơ chế sẵn sàng. Thị
trường chứng khoán Việt nam còn nhỏ bé so với các nước xung quanh và ngay cả
chính với nhu cầu của cúng ta. Một thị trường chứng khoán phát triển ổn định và
lành mạnh là điều chúng ta phải quan tâm khi có khung pháp lý cần thiết.
Chúng ta cũng phải nghĩ đến vấn đề tranh chấp và xử lý tranh chấp. Đây cũng là
một vấn đề mà luật chúng ta đã có nhưng vẫn còn thiếu cơ chế cụ thể. Do luật còn
thiếu cụ thể nên cơ chế xử lý tranh chấp còn chưa rõ ràng. Trong Luật doanh
nghiệp và Luật đầu tư chung vừa được Quốc hội thông qua đã có những tiến bộ rõ
nét về xử lý tranh chấp nhưng cần được cụ thể càng sớm càng tốt bởi các nhà đầu
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 27
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
tư gián tiếp rất nhạy cảm và nhạy cảm hơn các nhà đầu tư FDI đối với mọi sự cố có
thể xảy ra vì nó đe dọa đến hiệu quả đầu tư của họ.
Trong Luật đầu tư chung có qui định “không hạn chế tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư
nước ngoài ở những lĩnh vực mà không có điều kiện”, đây là một bước tiến nhảy
vọt và những tiến bộ này đang được các nhà đầu tư FII theo dõi rất chặt chẽ, góp
phần mạnh mẽ thu hút FII. Tuy nhiên, việc các nhà đầu tư gián tiếp băn khoăn khi
bỏ vốn vào Việt nam là việc mang vốn ra có dễ không? Và khi mang vốn ra thì phải
tuân thủ những qui định gì, theo những qui chế như thế nào? Sự băn khoăn của các
nhà đầu tư cũng chính là những việc chúng ta cần phải làm để đón tiếp các nguồn
đầu tư gián tiếp.
Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt nam , các nhà đầu tư nước ngoài được phép
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong khi đang hoạt động cũng như khi chấm dứt
dự án đầu tư. Sau những thủ tục thanh lý theo luật định thì nhà đầu tư nước ngoài
có quyền mang cả vốn lẫn lãi của mình ra.
Tuy nhiên , đối với các nhà đầu tư gián tiếp thì hơi phức tạp hơn bởi vì một lý do
nào đó các đầu tư gián tiếp phải chấm dứt và muốn thu hồi vốn thì họ phải tìm kiếm
đối tác để chuyển nhượng hoặc bán lại dự án doanh nghiệp mình đã và đang đầu tư.
Để làm được điều này, ngoài những nghị định hướng dẫn cụ thể về qui định đặc thù
đối với đầu tư gián tiếp (hiện luật của chúng ta chưa có nghị định hướng dẫn cụ thể
cho qui chế này) thì thị trường vốn chúng ta phải phát triển mạnh đủ để có người
mua- người bán và cần có nhiều công cụ chuyển nhượng vốn tinh vi hơn.
Tp. Hồ chí Minh là thành phố trọng điểm kinh tế của cả nước, đã đạt được mức
tăng trưởng 11,8% trong năm qua so với mức tăng trưởng chung của cả nước là
7,4%. Để thu hút FII, về phần mình trước mắt Tp.HCM phải giới thiệu những lĩnh
vực mà các nhà đầu tư quan tâm và có thể bỏ tiền vào; tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho các quỹ đầu tư đang hoạt động ở Việt nam ; mở cửa những lĩnh vực mà hiện
nay họ đang quan tâm như bất động sản,… Mặt khác, thành phố đang và sẽ kiến
nghị với chính phủ mở cửa thêm một số lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm đồng
thời tạo điều kiện tối đa cho thị trường vốn phát triển.
3. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ:
Để thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển đáp ứng được các yêu cầu cần thiết để thu
hút được vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, cần có sự phối hợp chặt chẽ của các
ngành, các cấp đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
3.1 Chuẩn hóa các giao dịch trên thị trường tiền tệ:
Để thị trường thứ cấp phát triển thì một mặt, phải tạo nên nhiều hàng hóa đồng thời
phải chuẩn hóa các công cụ tài chính trên thị trường. Trong thời kỳ đầu, cần phải
tăng cường việc ban hành các giấy tờ có giá dưới dạng chứng chỉ để công chúng
nắm giữ (sau này khi thị trường đã phát triển thì có thể phát hành thông qua ghi sổ
tại ngân hàng). Các giấy tờ có giá này phải bảo đảm lưu thông một cách dễ dàng có
nghĩa là các giấy tờ có giá này phải không ghi danh và có thể chuyển nhượng, chiết
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 28
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
khấu, thanh toán một cách dễ dàng (như vậy các giấy tờ có giá này sẽ phải đưộc
thiết kế an toàn giống như tiền). Ngoài ra, thời hạn của các giấy tờ có giá này phải
đa dạng để đáp ứng nhu cầu của thị trường (nhất là tín phiếu kho bạc và các tín chỉ
tiền giửi của ngân hàng).
3.2 Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền
tệ:
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ cần tập trung
vào các nội dung sau:
- Rà soát và hoàn thiện các qui định hiện hành về phát hành các công cụ trên
thị trường sơ cấp như phát hành thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi của các ngân
hàng thương mại,…
- Xây dựng và hoàn thiện các qui định liên quan tới các nghiệp vụ của thị
trường tiền tệ, xây dựng các định chế chuyên nghiệp cho thị trường như các văn
bản hướng dẫn liên quan đến nghiệp vụ chiết khấu, REPO, nghiệp vụ hoán đổi,…
để các ngân hàng thương mại thực hiện; qui trình thành lập các định chế tài chính
trung gian trên thị trường (Broker, Dealer,…).
- Khuyến khích các ngân hàng xây dựng các thoả thuận khung (có thể trong
khuôn khổ của Hiệp hội ngân hàng) để làm cơ sở thực hiện các giao dịch trên thị
trường tiền tệ như qui định về hợp đồng mẫu REPO, các thỏa thuận về thanh toán
bù trừ các giấy tờ có giá do các ngân hàng phát hành; thỏa thuận chia sẽ thông tin
và liên kết mạng…
3.3 Nâng cao vai trò của các ngân hàng thương mại trên thị trường
tiền tệ, như những người tạo lập thị trường.
Trên cơ sở các công cụ tài chính được qui chuẩn giao dịch trên thị trường, các ngân
hàng thương mại (đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhà nước, các ngân hàng
TMCP qui mô lớn) phải đóng vai trò là các tổ chức tạo lập thị trường, cụ thể là:
- Phải quan tâm và dành một nguồn vốn nhất định để tam gia trên thị trường
tiền tệ và đưa ra nhiều “sản phẩm“ để đáp ứng nhu cầu về vốn, đầu tư, phòng ngừa
rủi ro của thị trường như chiết khấu giấy tờ có giá, các hợp đồng REPO, các hợp
đồng SWAPS, Option,…).
- Phải niêm yết giá chào 2 chiều (cả cho vay và đi vay) trên thị trường liên
ngân hàng và sẵn sàng thực hiện các giao dịch theo mức lãi suất đã niêm yết.
- Phải niêm yết lãi suất chiết khấu; giá mua, giá bán các giấy tờ có giá công
khai tại các hội sở và chi nhánh của ngân hàng và thực hiện các giao dịch theo các
mức giá đã niêm yết đó. Đối với các trái phiếu do ngân hàng phát hành, phải cam
kết sẽ chiết khấu (mua lại) trước hạn theo mức lãi suất chiết khấu của ngân hàng tại
thời điểm chiết khấu.
- Thực hiện việc liên kết giữa các ngân hàng trong việc sẵn sàng chiết khấu
các giấy tờ có giá do các ngân hàng phát hành hoặc tổ chức thanh toán bù trừ về
nghiệp vụ này.
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 29
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
- Nâng cao vai trò người cho vay cuối cùng của Ngân hàng nhà nước thông
qua nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ cho vay qua đêm đối với các ngân hàng.
3.4 Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để phục vụ cho các giao dịch
trên thị trường tiền tệ và thu thập xử lý thông tin của thị trường.
Các giao dịch trên thị trường tiền tệ đòi hỏi phải thực hiện nhanh và trên phạm vi
rộng (toàn cầu) vì vậy đòi hỏi việc chào giá, thỏa thuận và thực hiện giao dịch phải
thông qua hệ thống mạng có độ an toàn cao. Hiện nay, gần 30 ngân hàng thương
mại đã thực hiện việc giao dịch vốn (gửi tiền/cho vay và nhận tiền gửi/đi vay) liên
ngân hàng thông qua hệ thống giao dịch của hãng Reuters.
Tuy nhiên, do thông tin (lãi suất, thời hạn,…) trên thị trường liên ngân hàng rất
quan trọng đối với Ngân hàng trung ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia cho nên ở các nước có thị trường phát triển thì Ngân hàng trung ương
thường xây dựng các mạng riêng của mình (như Fed Wire của Mỹ, BOK Wire của
hàn quốc,…) và cho phép ngân hàng thực hiện các giao dịch vốn ngắn hạn liên
ngân hàng thông qua mạng này. Việc hình thành mạng này có vai trò tích cực đối
với hoạt động của thị trường vì thông qua việc cho phép các ngân hàng giao dịch
qua mạng này Ngân hàng trung ương có thể nắm bắt được đầy đủ thông tin về thị
trường và thực hiện vai trò kiểm soát thị trường của mình. Đối với các ngân hàng
thì giao dịch qua mạng của Ngân hàng trung ương sẽ tiết kiệm được chi phí (nhiều
nước Ngân hàng trung ương còn miễn phí giao dịch thông qua mạng này) so với
thuê của các tổ chức khác. Vì vậy, Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu để đầu tư
một thiết bị mạng tương tự.
Ngoài ra, cần phải thu thập, phân tích và công bố các chỉ số cơ bản của thị trường
để công chúng và các định chế tài chính tham khảo. Trong các thông số đó thì lãi
suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng là một thông số quan trọng
để đánh giá sự biến động của thị trường. Hiện nay, hãng Reuters đã xây dựng được
trang lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng ở Việt nam
(VNIBOR) trên cơ sở chào giá hàng ngày của một số ngân hàng . Tuy nhiên, trong
thực tế lãi suất này ít được tham chiếu vì nó chưa phản ảnh chính xác lãi suất của
thị trường vì vậy cần phải tổ chức lại cho phù hợp hơn.
3.5 Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, đào tạo cán bộ phục
vụ cho hoạt động của thị trường tiền tệ.
Các nghiệp vụ của thị trường tiền tệ là các nghiệp vụ rất mới mẽ đối với
công chúng và cả các ngân hàng . Vì vậy, các ngân hàng cần phgải tăng cường
công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo để các khách hàng biết được những tiện
ích mang lại khi họ tham gia các dịch vụ này. Đối với các ngân hàng thì việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ có trình độ về chuyên môn, ngoại ngữ để thực hiện kinh
doanh trên thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế là hết sức quan trọng, đảm bảo
hoạt động hiệu quả và thành công của ngân hàng trên thị trường tiền tệ.
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 30
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
4. PHÁT TRIỂN MẠNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
4.1 Các giải pháp trước mắt:
Để tăng cường thu hút luồng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán Việt
nam thì trước mắt cần áp dụng các giải pháp sau:
Cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng tính cạnh tranh của thị trường chứng khoán
Việt nam so với các nước trong khu vực. Giữa đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián
tiếp (FII) có mối liên hệ với nhau. Nếu đầu tư trực tiếp được tăng cường thì góp
phần nâng cao lượng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán . Sở dĩ như
vậy là vì các nhà đầu tư nước ngoài cần đầu tư nguồn vốn tạm thời rỗi của họ mà
một trong những biện pháp tốt nhất là đầu tư trên thị trường chứng khoán . Do đó
nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa cải cách và hoàn thiện môi trường đầu tư thông
qua thiết lập hệ thống quản lý hành chính rõ ràng, minh bạch và chi phí thấp nhằm
khuyến khích đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, chính phủ cần xây dựng hệ thống cung
cấp thông tin kịp thời và đáng tin cậy cho các nhà đầu tư, hoàn thiện các qui chế
kiểm soát thu nhập và ngoại tệ theo hướng rõ ràng, hợp lý nhằm đảm bảo bình đẳng
cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Sớm hình thành dịch vụ chuẩn hóa về cung cấp thông tin cho người đầu tư chỉ khi
nào hệ thống thông tin của thị trường chứng khoán được hiện đại hóa theo chuẩn
mực thì thị trường chứng khoán mới có cơ sở vận hành công bằng và hiệu quả, thu
hút nhiều nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán . Hiện tại những nỗ lực cung cấp
thông tin của Trung tâm giao dịch chứng khoán và công ty chứng khoán chưa đáp
ứng yêu cầu thông tin của nhà đầu tư do việc cung cấp thông tin còn đơn điệu, sơ
lược, chưa đầy đủ. Những qui định cụ thể về trách nhiệm cung cấp thông tin của
các tổ chức niêm yết cũng chưa rõ ràng, hiện tượng cung cấp thông tin sai lệch
chưa được xử lý thích đáng. Có thể nói sớm hình thành dịch vụ chuẩn hoá về cung
cấp thông tin cho nhà đầu tư có một ý nghĩa đặc biệt. Một mặt dịch vụ chuẩn hoá
này tạo sức ép buộc các tổ chức phát hành phải làm ăn đàng hoàng, giúp khắc phục
tình trạng lộn xộn trong điều hành ở nhiều công ty hiện nay. Mặt khác dịch vụ
thông tin có chất lượng giúp cổ đông kiểm soát được giới doanh nghiệp. Đây là
mục tiêu rất quan trọng ở Việt nam hiện nay khi yêu cầu công khai thông tin trở
thành trở ngại đối với công ty cổ phần muốn ra niêm yết.
Nới lỏng và tiến tới xóa bỏ tỷ lệ sở hữu tối đa của nhà đầu tư nước ngoài. Việc qui
định các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được góp vốn, mua cổ phiếu của các doanh
nghiệp Việt nam với mức tối đa là 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp đang là một
trong những lực cản lớn nhất trong việc thu hút luồng vốn đầu tư gián tiếp trên thị
trường chứng khoán Việt nam. Mục tiêu của việc khống chế trên là nhằm giảm
thiểu nguy cơ thất thoát dự trữ trên cán cân thanh toán quốc tế do các nhà đầu tư
nước ngoài có thể chuyển vốn ra khỏi Việt nam . Chính vì vậy, trong thời gian tới
nhà nước cần nới lỏng và tiến tới xóa bỏ tỷ lệ sở hữu tối đa của nhà đầu tư nước
ngoài đối với những ngành mà nhà nước không cần phải có sở hữu chi phối. Điều
này vừa giúp các doanh nghiệp Việt nam nâng cao năng lực quản trị, thúc đẩy các
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 31
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán mà còn góp phần đáng kể vào
sự phát triển cỉua thị trường chứng khoán nước ta trong thời gian tới.
Khi các doanh nghiệp cổ phần hóa lên niêm yết trên thị trường chứng khoán sẽ
mang nhiều giá trị cho các nhà đầu tư bởi vì trước khi niêm yết hầu hết các khoản
đầu tư giàn tiếp được đánh giá ở vốn, khi lên niêm yết thể hiện được giá trị thực khi
có giao dịch phát sinh cụ thể trên thị trường . Đây là kênh thu hút vốn FII hiệu quả
nhất.
Khuyến khích công ty có cổ phần đưa cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán . Thực trạng hiện nay của thị trường chứng khoán nước ta có đặc điểm
không bình thường ở chỗ công ty cổ phần đủ điều kiện niêm yết khá hơn nhưng đều
trù trừ chưa nhập cuộc ngay. Lý doanh nghiệp họ đưa ra rất nhiều trong đó có
nguyên nhân thị trường chứng khoán chưa đủ sức khuyến khích các doanh nghiệp
tham gia. Do đó để khuyến khích các công ty cổ phần đủ điều kiện ra niêm yết,
trước mắt nhà nước nên hỗ trợ có thời hạn cho doanh nghiệp trên các mặt:
+ Đối với công ty cổ phần hình thành từ cổ phần hóa thì nhà nước cần có
chính sách ưu đãi về thuế, ưu tiên chuyển giao quyền sử dụng đất theo cơ chế thị
trường, định hướng tín dụng ưu đãi khuyến khích đầu tư,… nhằm khuyến khích các
doanh nghiệp này niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán .
+ Cải tiến chế độ kế toán tài chính các công ty cổ phần, đồng thời tăng
cường giám sát để các công ty này cung cấp thông tin chính xác cho thị trường.
Bên cạnh đó cần giáo dục, tuyên truyền cho cổ đông ở những công ty có đủ điều
kiện niêm yết ý thức được quyền lợi của họ khi công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán .
+ Cải tiến thủ tục xét duyệt cho phép niêm yết để rút ngắn thời gian và tạo
điều kiện dễ dàng cho công ty cổ phần muốn niêm yết từ đó tăng sức hấp dẫn của
thị trường chứng khoán đối với công ty cổ phần.
Tăng cường hàng hóa có chất lượng trên thị trường chứng khoán bằng cách cổ
phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khuyến khích các doanh
nghiệp này niêm yết trên thị trường chứng khoán . Cổ phần hóa các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài là một biện pháp trước mắt nhằm cung cấp hàng hóa chất
lượng cao cho thị trường chứng khoán. Ở Việt nam thời gian qua các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tương đối hiệu quả do các doanh nghiệp này có
mô hình quản trị hiện đại, được hưởng những ưu đãi của nhà nước trong khuyến
khích xuất khẩu….Những giải pháp cần thực thi để cổ phần hóa các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài là:
+ Nhà nước cần định hướng rõ ràng trong việc xử lý các vấn đề như ưu đãi
mua cổ phiếu của người lao động trong doanh nghiệp , cơ chế chuyển đổi từ công
ty TNHH sang công ty cổ phần, cơ chế chi phối vốn của đối tác nước ngoài trong
các doanh nghiệp sau cổ phần hóa….
+ Xây dựng cơ chế quản lý thích hợp với các doanh nghiệp có vốn nước
ngoài: vấn đề niêm yết của công ty có vốn đầu tư nước ngoài, vấn đề chuyển vốn
và lợi nhuận từ chuyển nhượng cổ phiếu ra nước ngoài….
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 32
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
+ Ban hành văn bản về lưu hành cổ phiếu của các doanh nghiệp nước ngoài
ở thị trường chứng khoán Việt nam , bổ sung văn bản về sự chuyển đổi của công ty
TNHH sang công ty cổ phần để các doanh nghiệp có nhu cầu chuyển đổi tiến hành
thủ tục dễ dàng.
4.2 Các giải pháp lâu dài:
Về lâu dài chính phủ cần xem xét áp dụng hệ thống các giải pháp sau trong việc
tăng cường thu hút luồng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán :
4.2.1. Hoàn thiện từng bước môi trường pháp lý cho thị trường
chứng khoán .
Về lâu dài để tăng cường thu hút luồng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng
khoán thì chính phủ cần tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển hơn
nữa. Một biện pháp không thể thiếu là tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho thị
trường chứng khoán phát triển tốt. Để thực hiện mục tiêu này có thể nghiên cứu áp
dụng các biện pháp sau:
+ Rà soát lại các văn bản luật và dưới luật liên quan đến thị trường chứng
khoán như luật dân sự, luật thương mại, luật doanh nghiệp, luật các tổ chức tín
dụng…. Để loại bỏ các qui định đã lỗi thời, điều chỉnh lại các điểm còn mâu thuẫn
nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý để hướng dẫn hành vi của các chủ thể kinh tế
tham gia vào thị trường chứng khoán.
+ Nâng cao chất lượng công tác điều hành, hướng dẫn và giám sát các giao
dịch chứng khoán. Sự can thiệp của Uy ban chứng khoán phải tương xứng với thị
trường nghĩa là phải nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho người phát hành, bảo vệ nhà
đầu tư, chú ý đến lợi ích của giới kinh doanh chứng khoán. Quản lý của Uy ban
chứng khoán nhà nước nên thiên về môi trường minh bạch, áp dụng các kỹ thuật
giám sát hiện đại…. Nhưng không can thiệp vào quyết định của các chủ thể trên thị
trường chứng khoán .
+ Phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý của nhà nước nhằm tạo điều
kiện hành chính và pháp lý thuận lợi cho thị trường chứng khoán tồn tại và phát
triển. Nhà nứơc cần tập trung chỉ đạo các cơ quan chức năng trong thanh tra, giám
sát các hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán .
4.2.2. Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có tác dụng hai mặt đối với thị trường chứng
khoán : thứ nhất, về lâu dài các doanh nghiệp sau cổ phần hóa là những tổ chúc
phát hành tiềm năng mạnh nhất trên thị trường chứng khoán . Bởi lẽ cho đến nay hệ
thống doanh nghiệp nhà nước vẫn là xương sống bao trùm lên mọi lãnh vực của
nền kinh tế, đặc biệt là những lĩnh vực có khả năng cung cấp nhiều chứng khoán
nhất như công nghiệp, xây dựng, vận tải, dịch vụ tài chính ngân hàng…. Thứ hai,
quá trình cổ phần hóa nếu đươc tổ chức tốt sẽ cung cấp một lượng cổ phiếu phát
hành lần đầu khá lớn cho thị trường chứng khoán nhằm nhanh chóng mở rộng qui
mô thứ cấp.
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 33
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
Để thực hiện nhanh cổ phần hóa, cung cấp cổ phiếu cho thị trường chứng khoán ,
cần áp dụng các giải pháp sau:
+ Mở rộng đối tượng cổ phần hóa đến tất cả các doanh nghiệp nhà nước trên
cơ sở qui hoạch tổng thể gắn kinh tế trung ương với kinh tế địa phương. Nếu làm
triệt để, số doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa sẽ chiếm khoảng 2/3 số doanh
nghiệp nhà nước hiện có và bao gồm nhiều lĩnh vực hấp dẫn nhà đầu tư.
+ Sửa đổi phương pháp xác định giá t rị doanh nghiệp theo nguyên tắc thị
trường và có sự tham gia của các định chế tài chính trung gian trong việc xác định
giá trị doanh nghiệp . Cổ phần hóa theo phương thức này sẽ làm cho giá của doanh
nghiệp nhà nước được xác định đúng đắn hơn, sát giá thị trường hơn, tránh được sự
lũng đoạn vì lợi ích của những người quản lý cũ, khuyến khích các doanh nghiệp
đủ điều kiện ra niêm yết, làm tăng độ hấp dẫn của cổ phiếu đối với các nhà đầu tư
nước ngoài.
+ Nhà nước cần tăng cường quyền lực cho bộ máy thực thi cổ phần hóa
nhằm hoàn thành chương trình đã vạch ra. Điều này sẽ giúp khắc phục tình trạng trì
trệ trong việc tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Ngoài ra,
nhà nước cũng cần xem xét kỷ lưỡng , cần phải cổ phần hóa các doanh nghiệp nào
trước để tạo ra lượng cổ phiếu chất lượng cao cho thị trường chứng khoán , tỷ lệ sở
hữu của nhà nước là bao nhiêu, các cổ đông bên ngoài nắm giữ bao nhiêu….. Mục
tiêu cuối cùng của cổ phần hóa là tạo ra một mô hình tổ chức kinh doanh mới cho
phép doanh nghiệp huy động vốn từ xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống doanh nghiệp nhà nước .
4.2.3. Củng cố và phát triển công ty chứng khoán.
Số lượng công ty chứng khoán phụ thuộc vào qui mô và tính lưu động của thị
trường. Trong tương lai khi số lượng cổ phiếu niêm yết ngày càng nhiều thì nhu
cầu thành lập thêm công ty chứng khoán là cần thiết. So với các nước công ty
chứng khoán Việt nam còn rất nhỏ bé và thiếu kinh nghiệm. Về lâu dài, hệ thống
các công ty chứng khoán Việt nam phải chú trọng chất lượng hoạt động theo các
hướng sau:
- Xây dựng Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM phát triển thành Sở
giao dịch chứng khoán, có khả năng liên kết với thị trường chứng khoán khu vực và
quốc tế.
- Xây dựng Trung tâm lưu ký chứng khoán độc lập duy nhất để cung cấp
dịch vụ lưu ký và thanh toán cho cả 2 Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM
và Hà Nội.
- Hoàn thành khung pháp lý về thị trường chứng khoán . ban hành luật
chứng khoán càng sớm càng tốt. Chấm dứt việc áp dụng các biện pháp hành chính
một cách tùy tiện để xây dựng niềm tin trong công chúng. Tạo dựng môi trường
đầu tư thuận lợi, an toàn, công bằng và khoa học cho toàn xã hội.
- Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính của các công ty cổ phần đảm bảo
công bằng trong việc đón nhận thông tin cho tất cả ác chủ thể tham gia thị trường.
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 34
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
Để thực hiện việc này cần phải phát triển các hệ thống kỹ thuật và qui trình công bố
thông tin một cách khoa học, tận dụng các tiện ích của mạng internet trong việc
công bố thông tin và quảng bá thị trường cho tất cả các nhà đầu tư trong nước cũng
như các nhà đầu tư nước ngoài.
- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có phẩm chất và chuyên môn, có chính
sách ưu đãi tốt cho các nhân viên trong bộ máy điều hành thị trường chứng khoán .
- Tăng cường hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn xây dựng chính sách,
khuôn khổ pháp luật, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ, từng bước mở cửa và hội nhập
với các thị trường chứng khoán khu vực và thế giới theo lộ trình đã cam kết.
4.2.4. Nghiên cứu và sử dụng các giải pháp kỹ thuật theo thông lệ
quốc tế.
Là một nước còn nghèo và đang phát triển chúng ta không nên tự xây dựng riêng
cho mình một sân chơi mà nên theo thông lệ quốc tế để nhanh chóng hoà nhập.
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 35
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
PHẦN KẾT LUẬN
Chúng ta thấy rằng, trong quá trình đầu tư để tạo sự tăng trưởng và phát triển thì
vốn là yếu tố có tính tiền đề và không thề thiếu được. Chính sự phát triển của thế
giới ngày nay đã minh chứng thật thuếyt phục: vốn là một nhân tố đặc biệt quan
trọng cho pàht triển kinh tế. Song thị trường vốn thế giới đang ở trạng thái quốc tế
hoá mạnh mẽ, do đó gây không ít trở ngại cho Việt nam nhất là về khả năng cạnh
tranh. Trong khi đó thị trường chứng khoán và các chính sách thu hút, qủan lý vốn
của Việt nam vẫn còn nhiều khiếm khuyết và bất cập. Thực trạng của vấn đề này
tuy chỉ mới được thể hiện rất sơ lược trong đề tài nhưng đã cho thấy sự yếu kém
của Việt nam trong việc “kéo” các nguồn vốn nước ngoài vào đầu tư trong nước
thông qua thị trường chứng khoán .
Tuy nhiên, Việt nam không thể đứng ngoài vòng hội nhập – hội nhập để tận dụng
những ưu thế của thế giới, tận dụng nguồn vốn, tránh xa tụt hậu, chứ không thể
xuôi theo kiểu lý luận “người yếu thì không nên ra gío”. Nhưng để có thể ra gió mà
không ngã bệnh và vẫn hoạt động tốt thì Việt nam phải nhanh chóng có những điều
chỉnh hợp lý và các chính sách cụ thể cho thị trường chứng khoán . Nhận thức được
vấn đề này, đế tài đã tập trung nghiên cứu và phát triển hệ thống lý luận về vốn
đầu tư nước ngoài, thị trường chứng khoán và kinh nghiệm của các nước để đề ra
những giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán , nâng cao hiệu
quả thu hút và quản lý vốn nước ngoài, phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế
nước nhà.
Nhìn chung, những giải pháp đó bao hàm việc đổi mới và hoàn thiện một cách cơ
bản nội dung của từng bộ phận theo hướng phát huy đồng bộ của cả hệ thống. Hoàn
thiện một thị trường là quá trình hkông có điểm dừng. Tuy vậy, nó phải nằm trong
khuôn khổ chung của tổng thể kinh tế, một sự duy ý chí hay chủ quan đều gây ra
kém hiệu quả của các bộ phận trong việc thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài.
Đầu tư quốc tế gián tiếp: Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam
Nhóm1 – Cao học Thương Mại K15 Trang 36
GV hướng dẫn: GS-TS.Võ Thanh Thu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dau_tu_quoc_te_6242.pdf