Đánh gía việc thích ứng của gạo Việt Nam với thị trường, phương hướng
kiểm tra sự chấp nhận của sản phẩm trên thị trường.
Với việc phân tích ở trên qua các bảng kiểm tra và thăm dò ý kiến của khách
hàng thì dần dần gạo Việt Nam có chất lượng không thua kém gạo Thái Lan,
nhưng thị trường thế giới vẫn chưa tín nhiệm gạo Việt Nam, nên để cho thị trường
có thể chấp nhận rễ ràng trong một vài trường hợp chúng ta đã chấp nhận xuất
khẩu với giá thấp hơn giá gạo của Thái Lan, mặc dù gạo của ta cùng chất lượng
gạo của Thái Lan.
Ví dụ: Iran, Irắc, Indonesia, Nam Triều Tiên, Philippines, Cuba nhập khẩu
gạo của Việt Nam thay vì Thái Lan.
31 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2213 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số giải pháp nhăm góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu gạo trong năm 2001 và một vài năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản xuất
lúa gạo không chỉ để thoả mãn cho nhu cầu tăng dân số mà còn mang lại nguồn
ngoại tệ đáng kể. Vì vậy, xu thế sẽ xuất hiện thêm nhiều nước xuất khẩu lúa gạo,
dẫn đến xu hướng cạnh tranh ác liệt trên thị trường lúa gạo thế giới. Trong những
năm gần đây, Pakistan, Myanma, ấn Độ và Trung Quốc mỗi nước xuất khoảng
trên 2,0 triệu tấn/năm,riêng Việt Nam năm 1999 đã xuất được trên 4,5 triệu tấn, và
dự kiến trong năm 2000 sẽ xuất khoảng 4,3 triệu tấn, được xem là một trong các
nước xuất khẩu mới có thể cạnh tranh với hai nước xuất khẩu gạo truyền thống là
Thái Lan (xuất khoảng 5-6 triệu tấn/năm), Mỹ xuất khoảng 2,5-3,0 triệu tấn/năm,
đặc biệt là ấn Độ năm 1996 đã xuất khẩu gần 4 triệu tấn gạo và năm 1998 đã xuất
khẩu gần 4,5 triệu tấn.
Tình hình xuất khẩu gạo ở một số nơi trên thế giới qua các năm.
ĐVT:1000 tấn
Nước 1999 2000
Argentina 525 500
Australia 700 700
Burma 200 225
China 2.000 2.100
Guyana 300 310
India 2.750 2.200
Pakistan 2.000 2.000
Thailand 5.700 5.700
Uruguay 725 700
Vietnam 4.000 3,64.000
EU 350 350
Others 1.325 1.460
Subtotal 20.575 20.191
United States 2.750 3.000
WORLD TOTAL 23.325 23.191
Trong khi đó, tình hình nhập khẩu của các nước trên thế giới biến động thất
thường và giao động ở mức 20,4- 23,0 triệu tấn/năm và một số nước có nhu cầu
nhập khẩu gạo thì gặp phải khó khăn về khả năng thanh toán như Châu Phi,
Irăc…
Tình hình nhập khẩu gạo ở một số nơi trên thế giới qua các năm.
ĐVT: 1000 tấn
Khu vực 1998 1999 2000
Malaysia 593 650 675
Mexico 295 325 365
Nigeria 800 800 800
Peru 230 200 200
Philippines 2.187 1.200 900
Russia 200 300 300
Saudi rabia 775 750 800
Senegal 600 600 600
Singapore 267 350 350
SSouth Africa 525 550 575
Eastem Europe 250 215 222
United State 294 300 310
Subtotal 22.983 18.640 18.452
OtherCountries 2.799 2.877 2.766
Unaccounted 1.646 1.808 1.973
WORLD TOTAL 27.428 23.325 23.191
Để tăng mức độ cạnh tranh, những nước xuất khẩu truyền thống có nguồn tài
chính dồi dào đã trợ giá cho nông dân và xuất khẩu dưới hình thức tín dụng
thương mại nên có ưu thế hơn.
Chẳng hạn, mùa thu năm 1990 Thái Lan đã bán cho gạo Liên Xô (cũ) với
giá 235USD/ tấn (giá FOB) nếu trả ngay. Chính phủ Thái Lan cũng đã tổ chức
nâng đỡ thị trường nội địa,và cuối năm 1990 Nhà nước đã mua được khoảng
200.000 tấn lúa của nông dân với giá nâng đỡ. Đầu năm 1999, Chính phủ Thái Lan
đã thực hiện bán gạo số lượng rất lớn cho Iran với hình thức tín dụng thương mại
2 năm.
Đầu quý 1/2000 Chính phủ Thái Lan tiếp tục can thiệp để hỗ trợ thị trường
gạo trong nước bằng cách Chính phủ mua thêm 100.000 tấn gạo của các nhà máy
mua thóc có độ ẩm 25% của nông dân với giá 4450 bah/tấn (37.983 Bah/ USD)
đối với hạt gạo dài và 4.300 Bah/tấn đối với hạt gạo ngắn. Chính phủ Thái Lan dự
kiến phải mua 500.000 tấn gạo niên vụ 99-2000 trong chương trình can thiệp của
mình.
Mục tiêu của chính sách ngũ cốc mới đươc Chính phủ Trung quốc công bố
vào năm 1999 là nhằm khuyến khích nông dân trồng các giống lúa chất lượng cao
hơn và giảm sản xuất các loại chất lượng kém. Kể từ đầu năm 2000,một số loại
gạo Indian chất lượng kém vụ đầu sẽ không còn được Chính phủ mua theo giá bảo
hộ.
2. Đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo.
2.1. Triển vọng của việc xuất khẩu gạo.
Kinh tế tế thế giới ổn định trong tương lai sẽ làm sản lượng gạo ổn định và
tăng cao đồng thời làm tăng nhu cầu về gạo.
Cho đến nay, nhiều dự báo của IMF, WB, OECD, Viện nghiên cứu Nhận
Bản (JRI) và Viện kinh tế Đức (DIW) đã đưa ra kết luận khả quan rằng, 5 năm đầu
của thế kỷ 21, kinh tế thế giới sẽ phát triển ổn định. Tốc độ tăng GDP bình quân
của thế giới giai đoạn 2001- 2005 sẽ đạt 3,4%/năm. Trong đó, GDP của các nước
công nghiệp phát triển sẽ tăng 5,4%/ năm. Châu á sẽ vẫn là khu vực kinh tế năng
động nhất thế giới với dự báo GDP giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân
6,2%/năm. Theo dự báo của Asia Week, trong những năm 2001- 2005 Việt Nam
sẽ là nước có nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, tăng 7,4%/năm, kế đó là
Trung Quốc, tăng 7,2%/năm. Các nước thuộc ASEAN sẽ duy trì tốc độ tăng
trưởng cao 6,4%/năm, còn GDP của các nước công nghiệp mới Châu á (NICS) dự
đoán sẽ đạt tốc độ tăng trưởng 5,5%/năm.
Theo đánh gía của IMF, WB, OECD, trong những năm đầu của thế kỷ 21,
kinh tế thế giới phát triển ổn định chủ yếu nhờ vào ba động lực chính. Đó là ứng
dụng khoa học- công nghệ mới, thúc đẩy nhanh hơn tiến trình tự do hoá thương
mại thế giới và gia tăng các liên kết kinh tế quốc tế.
Thế giới thiếu hụt lương thực sẽ làm tăng cầu về gạo và làm tăng kim ngạch
xuất khẩu.
Tổ chức lương thực và nông nghiệp liên hợp quốc (FAO) vừa công bố dự
báo sản lượng lương thực toàn cầu năm 2000-2001 đạt 1.881 triệu tấn, thấp hơn dự
báo FAO đưa ra tháng 6 năm qua là 15 triệu tấn và mức tiêu thụ lương thực được
dự kiến là 1.990 triệu tấn.
Theo FAO, sản lượng lương thực niên vụ 1996-1997 đạt 1.892 triệu tấn, niên
vụ 1997-1998 đạt 1.906 triệu tấn, niên vụ 1998-1999 đạt 1.898 triệu tấn và niên vụ
1999-2000 đạt 1.876 triệu tấn.
Giá gạo sẽ tăng những năm tới:
Về xuất khẩu gạo và tiêu thụ gạo, Đơn vị tình báo kinh tế (EIU) dự báo mức
sản xuất gạo niên vụ 2000-2001 là 369 trệu tấn và nhu cầu tiêu thụ là 404 triệu tấn.
Trong niên vụ 2000-2001 sản xuất là 407 triệu tấn trong khi mức tiêu thụ cần tới
414 triệu tấn. Niên vụ 2002-2003, sản lượng ước tính đạt 417 triệu tấn, nhu cầu
tiêu thụ là 421 triệu tấn. Lượng gạo dự trữ trên toàn cầu vào thời điểm cuối niên
vụ 1999-2000 là 62 triệu tấn, đạt mức dự trữ kỷ lục. Cuối vụ 2001-2002 số gạo dự
trữ trên thế giới sẽ đạt khoảng 47 triệu tấn. Giá gạo dựa trên cơ sở gạo trằng của
Thái Lan, tằng đều trong hai năm 2001-2002, sẽ ở mức 240 USD/ tấn vào cuối
năm 2001, tăng lên 280 USD/tấn vào năm 2002 là 290 USD/tấn và tăng đều trong
hai năm 2001-2002, sẽ ở mức 240 USD/tấn vào cuối năm 2001, tăng lên 280
USD/ tấn vào năm 2002 và 290 USD/tấn vào quý I/2003. Dự báo giá gạo trắng của
Thái Lan trong quý I/2001 là 205 USD/tấn; quý II là 215 USD/tấn; quý III là 230
USD/tấn và quý IV là 240 USD/tấn. Mức giá trung bình của cả năm là 223
USD/tấn.
Theo phó Thủ tướng Kiêm Bộ trưởng thương mại Thái Lan Supachía
Panitchpakdi xuất khẩu gạo của Thái Lan trong năm qua đã vượt quá mức tiêu thụ
do Chính phủ đặt ra về số lựợng và giá trị. Ông cho biết số gạo xuất khẩu của Thái
Lan năm 2000 đạt 6,61 triệu tấn, trị giá 68 tỷ Baht (1,74 tỷ USD), vượt 10% so với
mục tiêu về số lượng đề ra là 6 triệu tấn và tăng 13% so với mức tiêu thụ đề ra
1.55 tỷ USD. Đó là nhờ sự tăng trưởng về xuất khẩu gạo của nước này sang các thị
trường chính như Nigeria, Iran, Senegal, Nam Phi.
Theo ông Supachai, mặc dù kim ngạch xuất khẩu gạo của Thái Lan trong
năm qua thấp hơn so với năm 1999, đạt 6,71 triệu tấn, doanh thu 72,33 tỷ Baht,
nhưng vẫn được coi là một kết quả khả quan bởi vì xuất khẩu gạo trên thế giới
trong năm 2000 đã tăng chậm và giá cả bị giảm. Ông cho hay, trong năm 2001,
Chính phủ Thái Lan cũng đặt ra mức tiêu thụ về xuất khẩu gạo bằng năm
2000.Trước đó, Bộ thương mại Thái Lan đã dự báo mức xuất khẩu gạo của nước
này năm nay sẽ giảm xuống do nhu cầu về gạo ở các thị trường chính, trong đó có
thị trường Mỹ tăng chậm.
Cái đói đang đe doạ tại nhiều nước:
FAO và Chương trình lương thực thế giới (WFP) cảnh báo hiện có khoảng
28 triệu người dân sinh sống ở khu vực Phía nam sa mạc Sahara đang bị đoí chầm
trọng kéo dài và nguyên nhân do hạn hán và nội chiến liên miên từ nhiều năm nay.
Báo cáo lưu ý rằng tình trạng thiếu lương thực sẽ còn tiếp tục kéo dài trong năm
tới, nhất là tại Eritria, Etiopia, Kenia và Sudan. Riêng ở Eritria, hiện có 1,5 triệu
người di tản cùng với 340.000 nông dân sống trong các vùng hạn hán đang bị đói
nghiêm trọng.
Tại Etiopia, có khoảng 10,2 triệu người sống phụ thuộc vào các khoản viện
trợ lương thực từ bên ngoài. Tại Kenia, gần 3,3 triệu người thiếu ăn và trong vụ
thu hoạch 2000-2001 nước này cần nhập thêm khoảng 1,4 triệu tấn lương thực.
Tanzania cũng cần nhập khoảng 690.000 tấn lương thực. ậ vùng Hồ lớn cũng có
khoảng 2 triệu người di tản cần sự giúp đỡ về lương thực. Tại Sudan có hơn 3 triệu
người miền Nam nước này đang bị thiếu lương thực trầm trọng do xung đột dân sự
và hạn hán. Hiện tại các kho lương thực của Sudan đang bị vơi đi nhanh chóng,
trong khi giá cả tăng vọt, gấp 3 lần so với năm ngoái. Trong số 3 triệu người nói
trên có 600.000 người cần viện trợ lương thực khẩn cấp và 2,4 triệu người cần
được viện trợ lương thực vào cuối năm. FAO và EFP ước tính Sudan cần phải
nhập khoảng 1,2 triệu tấn ngũ cốc, trong đó 1 triệu tấn phải mua và 200.000 tấn
viện trợ từ các nước.
Các tổ chức viện trợ quốc tế cho biết tình hình lương thực ở CHDCND Triều
Tiên đang trở nên nghiêm trọng, nhất là ở những khu vực nông thôn miền Bắc. Cơ
quan phát triển nông thôn Hàn Quốc ngày 10/1 cho biết sản lượng ngũ cốc của
CHDCND Triều Tiên đạt 3,59 triệu tấn trong năm 2000, giảm 15% so vơí năm
1999. Theo ước tính của cơ quan này, nhu cầu lương thực hàng năm của
CHDCNH Triều Tiên giảm 12,9% năm 2000, đạt 1,42 triệu tấn năm 2000, sản
lượng ngũ cốc đạt 1,44 triệu tấn, giảm 25%. Tuy nhiên, sản lượng khoai tây và
khoai lang tăng 390.000 tấn, tăng 25,8% nhờ tăng diện tích trồng các loại câu
lương thực phụ.
Cơ chế mới đã tạo ra nhiều thông thoáng tạo đà tăng kim ngạch xuất khẩu.
Việc cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu gạo, xoá bỏ hạn
ngạch, độc quyền liên quan đến việc giữ vững an toàn lương thực, vì vậy nhất định
phải quản lý xuất khẩu gạo bằng thuế xuất khẩu. Mức thuế này hiện nay là 0%.
Việc phân vùng lúa phẩm cấp chất lượng cao, cùng với việc hỗ trợ về vốn, kỹ
thfuật…cho người dân đã có những kết quả đáng khả quan.
Năm 2001, tổng sản lượng lúa cả nước dự kiến cũng sẽ đạt hơn 32 triệu tấn.
Vụ đông- xuân sớm đã bắt đầu thu hoạch, các tỉnh ĐBSCL dự kiến được mùa lớn,
ước đạt khoảng 16,5 triệu tấn. Cân đối lương thực ngoài nhu cầu 1,2 triệu tấn lúa
làm giống và một phần nhỏ phẩm cấp thấp để chế biến làm thức ăn gia súc, lượng
lương thực còn lại dành cho xuất khẩu khá lớn. Trong thống kê kết quả xuất khẩu
gạo năm 2000, tổng công ty lương thực miền Nam xuất khẩu đạt 1.662.113 tấn,
Tổng công ty lương thực miền Bắc xuất khẩu trực tiếp 434.500 tấn, uỷ thác
275.000 tấn. Trong số 44 đầu mối xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp xuất khẩu đạt
180.000-200.000 tấn, gồm có công ty lương thực Vính Long, Tiền Giang, Long
An. Các doanh nghiệp đạt mức 100.000-200.000 tấn gồm các công ty lương thực
Đồng Tháp, An Giang, Sóc Trăng, An Giang, Công ty Afiex, An Giang, nông
trường Sông Hậu. Đạt mức 70.000-80.000 tấn gồm có công ty lương thực Cần Thơ
và CTTNHH nông sản Vĩnh phát. Các công ty liên doanh có vốn ĐTNN xuất
khẩu được 120.000 tấn. Các doanh nghiệp xuất khẩu theo chuyến nhỏ lẻ mới được
13.900 tấn.
2.2. Những tồn tại và những nguyên nhân nó về xuất khẩu gao.
Nhìn lại xuất khẩu gạo năm 2000.
Theo số liệu mới nhất mà Hiệp hội lương thực Việt Nam (gọi tắt là Hiệp hội)
vừa công bố, trong năm 2000 cả nước ta đã xuất khẩu được 3.393.800 tấn gạo (
không kể lượng xuất tiểu ngạch qua biên giới), đạt tổng kim ngạch
615.820.670USD (trên cơ sở giá FOB), các hội viên trong Hiệp hội vẫn chiếm tỷ
trọng cao nhất với 96,15% tổng lượng gạo xuất khẩu, kế đến là các công ty liên
doanh chiếm 3,54%, còn lại chỉ có 0,31% do các doanh nghiệp xuất khẩu khác
thực hiện.
So với năm 1999, lượng gạo xuất khẩu này giảm đến 26% (năm 1999 Việt
Nam xuất 4,56 triệu tấn), và giá bình quân cũng giảm tới 40USD/tấn. Rõ ràng đây
là một kết quả không như mong đợi đối với cả những người sản xuất và cả các
doanh nghiệp xuất khẩu. Trong khi đó, tổng sản lượng lương thực cả nước vẫn
tăng và đạt 35,6 triệu tấn, riêng lúa đạt 32,55 triệu tấn; lũ sớm ở ĐBSCL cũng chỉ
gây tổn thất khoảng 700.000 tấn lúa.
Nhiều giải thích đã được đưa ra, như: hầu hết các nước sản xuất lúa đều được
mùa sản lượng vụ mùa 1999-2000 đạt tới mức kỷ lục tăng hơn vụ trước 16,4 triệu
tấn; tồn kho năm 2000 cũng tăng gần 4,5 triệu tấn so với năm trước, lượng gạo
buôn bán trên thế giới lại giảm trên 1,8 triệu tấn… Bên cạnh đó là do đồng tiền
mất giá và thuế nhập khẩu tăng, nên lượng nhập khẩu gạo của các nước giảm. Các
nước xuất khẩu gạo lớn khác như: Thái Lan, ấn Độ cũng bị giảm sút như Việt
Nam, Tuy mức độ có khác nhau (Thái Lan giảm 2% còn ấn Độ giảm 46%).
Tuy nhiên, ngoài những nguyên nhân khách quan nêu trên, theo các chuyên
gia việc xuất khẩu gạo giảm sút trong năm qua còn bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân chủ quan khác.
Đầu tiên là tỷ trọng các loại gạo xuất khẩu của Việt Nam trong năm qua vẫn
chủ yếu là gạo trắng các loại (5,10,15,25% tấm) chiếm tới 98,5%, còn các loại gạo
100% B, gạo thơm, gạo đồ… chỉ chiếm dưới 0,5%. Trong lúc đó, Thái Lan xuất
chủ yếu là các loại gạo 100%B và gạo thơm (35,7%), gạo đồ (28%), gạo trắng các
loại chỉ 19,3%. Thứ hai là trên thị trường, tuy gạo Việt Nam đã xuất sang khắp
các lục địa,nhưng tập trung nhất vẫn chỉ là Châu á (47,44%), Châu Phi (22,90%),
Trung Đông (19,95%)… Thực tế, những thị trường này cũng chưa hoàn toán ổn
định,vững chắc.
Mặc dù vậy, nhiều quan chức khẳng định rằng trong bối cảnh cực kỳ khó
khăn gạo đạt được trong năm 2000 là một thắng lợi lớn. Đáng kể nhất là ngay khi
việc tiêu thụ lúa gạo vụ đông xuân gặp khó khăn, Nhà nước đã có quyết định cho
mua tạm trữ một triệu tấn quy gạo, hỗ trợ 100% lãi xuất vay vốn từ 1/4/2000 đến
31/7/2000 sau gia hạn đến 31/10/2000 để đảm bảo tiêu thụ kịp thời lượng lúa hàng
hoá của nông dân, góp phần ổn định giá lương thực ngăn chặn kịp thời giá lúa
giảm, đảm bảo có lợi cho người sản xuất và giảm khó khăn cho doanh nghiệp xuất
khẩu.
Các doanh nghiệp cũng đã chứng tỏ được sự trưởng thành của mình trong
việc tìm kiếm thị trường, nhanh chóng nắm bắt được diễn biến của thị trường và
đẩy nhanh xuất khẩu. Số lượng gạo xuất trong các quý II và III trong năm để tăng
hơn các quý trước, và tốc độ so với Thái Lan là không xa. Chỉ trong quý IV/2000,
do lũ ĐBSCL về sớm, nhiều nhà máy chế biến phải ngừng hoạt động, chi phí bảo
quản, vận chuyển gạo xuất khẩu tăng làm giá thành gạo xuất khẩu tăng, trong khi
Thái Lan giảm giá bán, nên tốc độ xuất khẩu gạo của Việt Nam có giảm sút.
Về giá cả, những số liệu ghi nhận được cũng chứng tỏ giá gạo xuất khẩu của
Việt Nam ngày càng được cải thiện hơn, được giá hơn và khoảng cách giữa lúa
gạo xuất của Thái Lan được thu ngắn. Nếu như sáu tháng đầu năm khoảng cách
này là 20-25 USD/tấn, thì đến sáu tháng cuối năm chỉ còn chênh nhau 10-15
USD/ tấn. Có thời điểm giá gạo xuất khẩu cùng loại của Việt Nam đã ngang giá
gạo xuất khẩu của Thái Lan; mặt khác tốc độ giảm giá gạo Việt Nam chậm hơn
tốc độ giảm giá gạo của Thái Lan. Cụ thể với loại gạo 5% tấm của Việt Nam
chênh lệch giá giữa tháng 1 và tháng 12/2000 là 46 USD/ tấn (219-173 USD),
trong khi của Thái Lan là 54 USD (237-183 USD); tương tự với loại 25% tấm là
38 USD (189-151 USD) và 47 USD (201-155 USD).
Do liên tục áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp và liên tục mở rộng
diện tích canh tác lúa. Do vậy, mà sản lượng lúa hàng năm từ 1995 –1999 liên tục
tăng.
Sản xuất lương thực từ 1995 – 1999.
1995 1996 1997 1998 1999 1999 tăng
giảm so
với 1998
(%)
Tổng sản lượng
lương thực quy thóc
(1.000 tấn)
27.570,7 29.217,9 30.618,1 31.853,9 34.253,9 7,5
1. Lúa cả năm
Diện tích (nghìn ha) 6.765,6 7.003,8 7.099,7 7.337,4 7.648,1 4,0
Năng suất (tạ/ha) 36,9 37,7 38,8 39,7 41,0 3,7
Sản lượng (nghìn
tấn)
24,936,7 26.396,7 27.523,9 29.141,7 31.393,8 7,7
a. Lúa đông xuân
Diện tích (nghìn ha) 2.421,3 2.541,1 2.682,7 2.783,3 2.889,7 3,8
Năng suất (tạ/ha) 44,3 48,0 49,6 48,7 48,8 0,2
Sản lượng (nghìn
tấn)
10.736,6 12.209,5 13.310,3 13.559,5 14.104,2 4,0
b. Lúa hè thu
Diện tích (nghìn ha) 1.742,4 1.984,2 1.885,6 2.115,6 2.335,4 10,5
Năng suất (tạ/ha) 37,3 34,7 35,2 35,6 37,5 5,3
Sản lượng (nghìn
tấn)
6.500,8 6.878,5 6.637,8 7.524,4 8.756,9 16,4
c. Lúa mùa
Diện tích (nghìn ha) 2.601,9 2.473,0 2.531,8 2.438,5 2.423,0 -1,3
Năng suất (tạ/ha) 29,7 29,5 29,9 33,0 35,2 7,4
Sản lượng (nghìn
tấn)
7.726,3 7.308,7 7.575,8 8.057,8 8.532,7 5,9
2. Mầu quy thóc
nghìn tấn
2.607,2 2.821,2 3.084,2 2.712,2 2.860,1 5,5
Do vậy, với xu thế này, năm 2001 và những năm tới dự đoán sản lượng lúa
của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng.
Năm 2001 sản lượng gạo thế giới tăng và giá cả hạ.
Vụ lúa đông xuân năm 1998-1999, giá lúa 2.200 đ/kg, nông dân ĐBSCL xây
nhà, mua xe máy, sắm tiện nghi gia đình… Nhưng, niềm vui đó chỉ thoảng qua,
chẳng kéo dài được bao lâu. Ngay đầu tháng 2/2001, thị trường lúa gạo miền Tây
được xem là thời kỳ khan hiếm, nhưng thật trớ trêu, dấu hiệu rớt giá lại xuất hiện
đúng vào lúc này. Cụ thể ở Trà Vinh, giá lúa chỉ dao động từ 1.000-1.050 đ/kg;
Tại An Giang, thương lái chỉ mua với giá 1.100-1.150 đ/kg (giảm 200-250 đ/kg
so vụ đông xuân năm 1999-2000). Tại chợ lúa gạo lớn nhất miền Tây An Cư- Bà
Đắc (Tiền Giang), gía lúa khô, sạch dao động từ 1.300-1.450 đ/kg tuỳ theo thời
tiết thị trường. Ghe thuyền hàng xáo vào mua tận nhà chỉ có 1.100-1.150 đ/kg.
Ông Sáu Thành Giám Đốc NHNo-PTNT Vĩnh Long cho biết: giữa tháng 2 này giá
lúa ở đây dao động từ 1.100-1.300 đ/kg.
Dự tính, vụ đông xuân 2000-2001, nếu năng xuất bình quân đạt 5 tấn/ha,
ĐBSCL sẽ có sản lượng khoảng 7,5 triệu tấn lúa, trong đó 80% là lúa hàng hoá.
Theo tính toán của bà con nông dân ở Châu Thành, Châu Phú (An Giang), Lai
Vung, Cao Lãnh (Đồng Tháp), Tân Thành, Mộc Hoá (Long An), do ảnh hưởng
của lũ lớn, sâu bệnh phát triển vào dịp cuối vụ, giá phân bón tăng nên vụ đông
xuân năm nay chi phí sản xuất lên tới 1.000-1.050 đ/kg thóc, tăng khoảng 100-150
đ/kg so với các vụo đông xuân trước. Nhiều người dự đoán giữa tháng 3 tới, thu
hoạch rộ, giá lúa có thể “rớt” xuống bằng giá thành sản xuất. Bởi vì, theo dự báo,
nhu cầu nhập khẩu gạo của thế giới năm nay không tăng, xấp xỉ bằng năm trước
(khoảng 23,5 triệu tấn). Trong khi đó lượng tồn kho năm 2000 của các nước xuất
khẩu gạo như Thái Lan, ấn Độ, Pakistan còn lớn… Mặt khác, theo đánh giá của
Bộ nông nghiệp Mỹ, năm nay các nước xuất khẩu cũng như nhập khẩu đều được
mùa. Do vậy, lượng gạo thừa cũng lớn, giá gạo dự kiến không tăng và sẽ cạnh
tranh gay gắt.
III. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo
trong năm 2001.
1. Các giải pháp nâng cao chất lượng và số lượng gạo Việt Nam.
1.1. Hoàn thiện công tác vùng quy hoạch, xây dựng vùng lúa phẩm chất
gạo cao.
Hiện nay, theo Bộ NN và PTNT thì chúng ta nên triển khai đầu tư xây dựng
vùng lúa phẩm chất gạo cao có tổng diện tích 1,3 triệu ha, trong đó ở ĐBSCL 1
triệu ha, có khả năng cung cấp 3,5- 4,0 triệu tấn gạo phẩm chất cao cho xuất khẩu.
Diện tích canh tác lúa phẩm chất gạo cao dự kiến phân theo tỉnh: Long An 68.000
ha, Tiền Giang 55.000 ha, Bến Tre 20.000 ha, Trà Vinh 50.000 ha, An Giang
157.000 ha, Kiên Giang 100.000 ha, Cần Thơ 140.000 ha, Sóc Trăng 120.000 ha,
Bạc Liêu 60.000 ha và Cà Mau 50.000 ha.
Để các vùng dự kiến thực sự phát huy hiệu quả khi đi vào sản xuất theo quy
hoach, ngay từ bây giờ, chúng ta cần có ngay phương án rà soát, bổ sung quy
hoạch nông- lâm nghiệp của các tỉnh, cũng như cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) theo
nghị định của quốc hội và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. ở những vùng này
cần ưu tiên đầu tư đồng bộ hệ thống thuỷ lợi, giao thông nhằm tạo điều kiện thuận
lợi việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, ổn định sản xuất, người trồng lúa yên tâm đầu
tư thâm canh. Đồng thời, chú trọng phát triển mạng lưới nhà máy chế biến lúa gạo
kết hợp với kho chứa nằm ngay trong vùng để có thể thu mua hết và chế biến kịp
thời. Và giữa vùng sản xuất với các đơn vị xuất khẩu gạo các Viện khoa học NN,
các trung tâm khuyến nông các tỉnh, huyện phải có sự phối hợp chặt chẽ giúp
người sản xuất lúa có đủ vốn, giống tốt, vật tư đầu vào, kỹ thuật canh tác và tiêu
thụ sản phẩm. Với các hộ nông dân, cần khuyến khích và tạo điều kiện cho họ
hình thành các HTX dịch vụ, bảo đảm cung ứng kịp thời, nhanh chóng các dịch vụ
nông nghiệp cũng như tiêu thụ lúa với khối lượng lớn.
1.2. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, sản xuất, cung ứng và ứng dụng các
giống lúa có chất lượng gạo cao.
Giống là yếu tố hàng đầu góp phần cải thiện phẩm chất gạo và làm tăng năng
suất lúa. ở ĐBSCL, nông dân hiện đang sử dụng khoảng 50 giống lúa cao sản ngắn
ngày, trong đó có khoảng 10 giống có phẩm chất gạo đáp ứng yêu cầu xuất khẩu:
loại gạo hạt dài, trong,không bạc bụng, cơm mềm. Các giống này hiện chiếm
khoảng 30- 40 % diện tích gieo trồng các giống ngắn ngày ở ĐBSCL. Mục tiêu từ
nay đến năm 2005 của ĐBSCL là phấn đấu sử dụng các giống lúa có phẩm chất
gạo cao đạt trên 50% diện tích gieo trồng lúa toàn ĐBSCL,và 70% diện tích gieo
trồng lúa trong vùng lúa phẩm chất gạo cao đang được nông dân sử dụng như: IR
64, OM 997, Tép, Hành, Tài Nguyên, Năng Hương… ngoài ra sẽ tập trung nghiên
cứu tạo ra các giống lúa thơm đặc thù Việt Nam, có khả năng cạnh tranh với gạo
thơm Thái Lan trên thị trường thế giới.
Với hệ thống sản xuất và cung ứng hạt giống lúa, riêng với các địa phương
(các tỉnh và huyện ở ĐBSCL) phần lớn là rất mỏng, không đáp ứng được nhu cầu
sản xuất. Cần phải tổ chức lại hệ thống sản xuất và cung ứng hạt giống lúa cho phù
hợp với đặc điểm thị trường hiện nay, trong đó cần coi trọng vai trò của các hộ tư
nhân (các hộ nhân giống và các cửa hàng bán lẻ vật tư nông nghiệp…) Họ sẽ là
người tự đầu tư sản xuất, tiếp cận trực tiếp với nông dân, hiểu rõ được yêu cầu về
chủng loại giống, thời điểm cần giống của nông dân. Do đó, Nhà nước một mặt có
chính sách khuyến khích tư nhân tham gia vào hệ thống sản xuất, chế biến khuyến
thị và cung ứng hạt giống lúa, mặt khác có sự phân công rành mạch vai trò của các
cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân này trong từng khâu
của hệ thống nhằm bảo đảm cung cấp đủ giống có chất lượng tốt cho nông dân.Đối
với cấp huyện và cấp xã: Đơn vị quản lý nông nghiệp và trạm khuyến nông xúc
tiến hình thành mạng lưới các hộ hoặc tổ nhân giống vừa để trình diễn các giống
mới,vừa sản xuất đủ giống để cung ứng cho nông dân. Nhà nước cần có những
biện pháp hỗ trợ thiết thực về kỹ thuật,tài chính,khuyến nông để thị trường, sản
xuất được hạt giống đạt tiêu chuẩn chất lượng với giá thành không quá cao,giá bán
vừa phải và lợi nhuận thu được của người sản xuất giống thoả đáng.
Với các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp nông nghiệp của các tỉnh có
nhiệm vụ cung cấp hạt giống gốc đạt chất lượng cho các hộ và tổ nhân giống. Hạt
giống gốc có giá thành sản xuất cao nên cần được trợ giá để bán cho các hộ và tổ
nhân giống với giá không quá cao.
Các đơn vị nghiên cứu và công ty giống cây trồng trung ương chịu trách
nhiệm sản xuất hạt giống lúa nguyên chủng để cung cấp cho các tỉnh theo kế
hoạch và đơn đặt hàng của các tỉnh. Hạt giống lúa nguyên chủng cũng cần được
trợ giá để giảm nhẹ chi phí cho các khâu nhân giống kế tiếp về sau.
Với hộ nông dân khuyến khích đổi và sử dụng giống mới. Hiện có khoảng
90% lượng hạt giống do dân tự để có chất lượng thấp, nhiều hộ sử dụng cùng một
loại giống cho trên 5-6 vụ, đã là nguyên nhân chính làm giảm năng suất và chất
lượng lúa, đồng thời giống bị thoái hoá nhanh.
1.3. Nâng cao phẩm chất lúa sau thu hoạch.
Phơi sấy và tồn trữ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng gạo, mà
còn tạo điều kiện chủ động cho hộ nông dân có thể lựa chọn được thời điểm bán
lúa thích hợp để tăng thu nhập. ở ĐBSCL, có khoảng 67-70% hộ có phương tiện
phơi sấy lúa, số hộ còn lại phơi lúa trực tiếp trên đường hoặc trên nền đất bờ kênh
rạch,… Trong tổng số hộ có phương tiện phơi sấy, 25% hộ có sân phơi là gạch,
29% hộ có sân phơi là xi măng, còn lại là những phương tiện khác như tấm đệm,
lưới.nylon… với diện tích bình quân hộ 70m2. Do thiếu phương tiện phơi sấy nên
tổn thất lúa từ 1,9-2,2%, tỷ lệ tạp chất từ 1,8-2,5%, đây là tỷ lệ quá cao, đặc biệt
trong vụ hè thu lúa phơi không kịp nên bị lên men, biến vàng nhanh, nhiều lô lúa
bị mọc mầm, giảm chất lượng nghiêm trọng, tỷ lệ hạt lúa gãy cao tới 28%.
Về tồn trữ bảo quản: Hiện có khoảng 55-60% hộ nông dân trữ lúa bằng bồ,
vựa. Khối lượng dự trữ trung bình hộ 1,99 tấn, thời gian dự trữ trung bình là 103
ngày. Do hầu hết phương tiện dự trữ của nông hộ không có nắp đậy, bục kẽ đơn
giản và thấp, lúa đưa vào dự trữ độ ẩm cao nên chỉ sau một thời gian ngắn chất
lượng lúa giảm rõ rệt.
Để khắc phục tình trạng phơi, trữ trên, ở ĐBSCL cần đầu tư nâng cao năng
lực sấy và tồn trữ cho các đơn vị quốc doanh, bảo đảm tăng khả năng thu mua lúa
trong dân kể cả trường hợp mua lúa ướt, Nhà nước cần có chính sách mở rộng tín
dụng dài hạn để dân có vốn đầu tư cho việc tu bổ , sửa chữa và xây dựng mới hệ
thống sân phơi,kho chứa. Hiện nay, đã có nhiều máy sấy loại nhỏ ,giá tiền phù hợp
với quy mô nông hộ hoặc các kiểu máy lớn đi liền với các nhà máy xay, nhưng
chi phí cho sấy lúa vẫn còn cao. Vì vây, cần tiếp tục nghiên cứu, thiết kế, chế tạo
và phổ biến các loại máy sấy phù hợp với đặc điểm từng vùng, sử dụng nhiên liệu
tại trỗ như rơm, dạ,trấu , than, củi… để giảm giá thành sấy mà vẫn bảo đảm chất
lượng gạo. Cùng với cải tiến máy sấy, các nhà khoa học cần nghiên cứu cải tiến,
thiết kế các nguyên liệu sẵn có ở nông thôn,tiện sử dụng và di chuyển. Và trong
khâu bảo quản cũng cần phổ biến kỹ thuật sử dụng các loại thuốc trong bảo quản
lúa giúp người dân nâng cao được hiệu quả tồn trữ gạo, góp phần nâng cao chất
lượng gạo xuất khẩu và nâng cao thu nhập cho nông dân.
1.4. cần có những chính sách ưu đãi về vốn, thuế sử dụng đất nông nghiệp
cho người dân.
Để người nông đân an tâm đầu tư, làm ăn theo hướng phân vùng chuyên
canh lúa phẩm cấp chất lượng cao ngoài những biện pháp trên, nhà nước cần phải
giúp đỡ nông dân được vay vốn phục vụ cho các dự án nông nghiệp của mình,
thực chất việc đi vay vốn của người nông dân là rất khó khăn bởi họ không có tài
sản thế chấp đáng giá.
Ngoài những chính sách ưu đãi về vốn, về việc hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân,
nhà nước cần tạo điều kiện để người dân có đất để canh tác, đánh thuế thấp để thu
hút nông dân cùng tham gia canh tác.
2. Nghiên cứu thị trường chọn lựa thị trường mục tiêu cho xuất khẩu
gạo Việt Nam.
2.1. Đặc điểm tổng quát của thị trường khu vực.
Số lượng mậu dịch hàng năm trong giai đoạn trước 1995 khoảng 13,7 triệu
tấn (1990) đến 15,4 triệu tấn (1994) và đạt mức từ 20,9 đến 27,224 triệu tấn trong
giai đoạn từ 1995-1999, hầu hết các khu vực trên thế giới đều nhập gạo, chủ yếu
là các nước đang phát triển, nhập trên 50% sản lượng gạo giao dịch trên thị trường
thế giới , các nước phát triển nhập 2,6 triệu tấn (1995). Dựa vào đặc điểm địa lý,
văn hoá kinh tế thị trường gạo thế giới có thể chia tương đối thành những khu vực
sau: Bắc Mỹ (North America), Nam Mỹ (South Amer- ica), Châu Âu (Europe),
Cộng đồng các quốc gia độc lập và Đông âu (CIS và Eastem Europe), Trung Đông
(Middle East), Nam á, á Châu (Asia), Bắc phi (North Africa), Phi Châu đen (Other
Africa) và Châu Đại Dương (Oceancia).
Bắc Mỹ (North America): Gạo không chỉ là thực phẩm chủ yếu (Staple food)
cho công nghiệp chế biến thực phẩm. Gạo được tiêu dùng ở cộng đồng Châu á tại
Bắc Mỹ, nhưng chủng loại rất đa dạng: gạo hạt dài, tròn, trong… hạt lức, gạo
trắng, gạo đồ, gạo Pastima, gạo thơm…
Khu vực Bắc Mỹ sản xuất khoảng 8,0- 10 triệu tấn lúa (chủ yếu là Hoa Kỳ),
xuất khẩu khoảng 3,1-4,3 triệu tấn, nhập khẩu khoảng 0,7-0,9 triệu tấn, chiếm
3,0%-4,4% thị trường thế giới. Đây là thị trường có sức mua cao (purchasing
power), đòi hỏi chất lượng cao. Gạo bán lẻ được đóng gói bao nhỏ (1kg, 2kg, 5kg
và 25kg), mẫu mã đẹp. Quy chế kiểm dịch thực vật khắt khe, gạo Việt Nam vẫn có
thể vào được thị trường này.
Bắc Mỹ còn là thị trường nhập khẩu tái suất thông qua các chương trình viện
trợ thực phẩm cho các nước khác.
Mức tiêu thụ gạo tính theo đầu người (rice per capita) vào khoảng 6,54kg
(năm 1994). Khu vực này có hiệp định mậu dịch chung là NAFTA.
Châu Mỹ la tinh (Latin America): Được hình thành bởi các đảo lớn vùng
biển Caribe và những lãnh thổ thuộc Anh, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha ở phía Nam.
Châu Mỹ mang đậm nét văn hoá Latin Châu Âu. Các nước vùng núi thì nghèo
hơn, đa số là dân da đỏ và người lai. Khu vực này sản xuất được 20,9- 22,00 triệu
tấn lúa, xuất khẩu 1,2-1,5 triệu tấn, nhập khẩu khoảng 2,3-3,1 triệu tấn gạo chiếm
khoảng 11-13% thị trường gạo thế giới. Gạo được xem là một trong những lương
thực chính của các nước như Brãil, Peru, Cuba, Mexico…
Sức mua không cao như bắc Mỹ, Phẩm lượng trùng bình (10% tấm) gạo hạt
dài. Các tiêu chuẩn về mẫu mã và bao bì thông thường theo yêu cầu hàng chuyến,
do các nhà phân phối trong nước định đoạt.
Quy chế kiểm dịch không khắt khe, nhưng đôi khi bất hợp lý (Mexico tuyên
bố cấm nhập gạo của Việt Nam, Thái Lan năm 1993 viện cớ phát hiện côn trùng
độc hại, thực tế là những nhân nhượng về thị trường dành cho Hoa Kỳ trong
NAFTA).
Mức tiêu thụ gạo tính đến đầu người (Rice per capita): 70,96kg (năm 1994).
Khu vực này có khối thị trường chung MERCOSUR.
Châu Âu (EU và Tây Âu ngoài Châu Âu (EU& OW.EU): Những biến cố
chính trị mới thập niên 80 đã thay đổi hoàn toàn cơ cấu kinh tế của các nước này.
Sức mua của người tiêu thụ bị sụt giảm thảm hại, mặc dù nhu cầu về lương thực
rất cao. Năm 1995, các nước này sản xuất được 1,8-2,0 triệu tấn lúa, nhập khẩu
0,75-0,95 triệu tấn, chiếm từ 2,3- 4,78% thị trường thế giới. Đây là khu vực có
tiềm năng tiêu thụ gạo, khó khăn về ngoại tệ nhưng giới kinh doanh tinh rằng đây
là những nước không thể thanh toán bằng tiền mặt (non- cash payment), nên
phương thức đổi hàng (barter) hoặc đối lưu hai chiều (two way trade) luôn được
xem là thích hợp nếu không có những hình thức tài trợ khác. Vì sức mua của
người tiêu thụ thấp nên chất lượng đòi hỏi không cao, loại gạo 25% tấm thường
được ưa chuộng. Mức tiêu thụ gạo tính trên đầu người (rice por capita): 5,31kg
(năm 1994). Các nước này trước đây có khối SEV. Nhưng sau khi Liên Xô cũ hình
thành nên khối CIS trong khi một số nước Đông Âu đã gia nhập EU.
Phi Châu đen (Other Africa): Châu phi đen nằm cách biệt với Bắc Phi bởi
Sahara. Nơi đây được mô tả là một lục địa buồn thảm. Chi phí quân sự cao hơn
thực phẩm, nó còn phải đương đầu với nạn nhân mãn và đất đai bạc mầu, sa mạc
hoá (0,5 ha/ ngày) nạn đói thường xuyên sảy ra. Gạo là thức ăn chính của dân
chúng. Dân đông nhu cầu lớn nhưng việc mua gạo khó khăn đôi khi có thể vì cán
cân thanh toán nên chủ yêú dựa vào chương trình viện trợ của Liên hiệp quốc.Nếu
kinh doanh thì phải đổi hàng hoặc qua tài trợ. Khu vực này sản xuất được 10,5-
11,0 triệu tấn gạo/năm, nhập khẩu 3,2- 4,2 triệu tấn/ năm chiếm khoảng 15 – 20 %
thị trường thế giới. Gạo phẩm cấp thấp (30 – 35% tấm) được ưa chuộng vì giá rẻ,
số lượng mua được nhiều. Đây cũng là thị trường có nhiều rủi ro vào loại bậc nhất
trên thế giới. Mức tiêu thụ tính trên đầu người (rice per capi ta): 14,44kg (năm
1994).
á Châu (Asia): Đặc điểm nổi bật là nông dân (theo uỷ ban kế hoạch hoá và
Dân số Thế giới dự kiến vào năm 2000 sẽ có khoảng 1,2 tỷ người Trung Hoa, 1 tỷ
người ấn Độ, 220 triệu người indonesia, 150 triệu người Banglades) là một thị
trường lý tưởng cho gạo, vì gạo là loại thực phẩm chính của dân á châu. Sự năng
động của một quốc gia là một nhân tố quan trọng cho tương lai của lục địa này,
sức mạnh công nghiệp tài chính của nhật bản, sự tăng trưởng kinh tế cao của Hàn
Quốc, Đài Loan, Hồng kông, Sìngapore…
Châu á là khu vực sản xuất và tiêu thụ gạo lớn nhất thế giới, tập trung những
nước xuất khẩu gạo lớn như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam , Pakistan, ấn Độ,
Bangladesh. Mọi sự tăng hay giảm khối lượng xuất khẩu của các nước này đều có
ảnh hưởng quyết định đến giá cả thế giới. Về thị trường có sức mua khác nhau:
Phẩm chất cao 100% Grade B hoặc 5% tấm ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Malaysia:
Phẩm cấp thấp 25%-35% tấm như Philippine và indonesia. Các nước Châu á rất
coi trọng mặt hàng gạo vì mọi sự thâm hụt đều có thể gây ra đột biến cho quốc gia,
gây bất ổn định về chính trị, xã hội nên việc mua bán, xuất nhập khẩu gạo thường
được Chính Phủ quản lý thông qua một công ty kinh doanh của Nhà nước. Thị
trường khó điều tiết, dự đoán vì nó gần như không phải là thị trường tự do, Chính
phủ can thiệp thường xuyên, đôi khi giá cả biến động mạnh khi một quốc gia tiêu
thụ bị mất mùa, tham gia vào thị trường thế giới với một nhu cầu quá lớn trong
một thời gian ngắn, gây nên sự xáo trộn cung- cầu. Hàng năm, toàn Châu á (trừ
Trung Đông) sản xuất được 336,4 – 350 triệu tấn gạo, xuất khẩu được trên
15,5triệu tấn gạo, nhập khẩu từ 4,6 triệu tấn (1997)- 13,3 triệu tấn (1998), chiếm
24- 48,6% thị trường thế giới. Mức tiêu thụ gạo tính theo đầu người khu vực này
(rice per capita): 110kg (năm 1994).
Những nỗ lực thành lập Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương
(OPEC) và ASEAN.
Trung Đông (Middle East): Thế giới ả Rập là một trong những khu vực nhạy
cảm của thế giới , tinh thần Hồi giáo xuất hiện khắp nơi. Nguồn lợi chính từ vàng
đen, nó thừa hưởng 2/3 trữ lượng vàng đen của thế giới nhưng đồng thời cũng là
khu vực có nhiều xung đột thuộc loại bậc nhất, chi phí quân sự cao hơn thực
phẩm, vì vậy một số nước như Iran, Irắc vẫn gặp khó khăn về ngoại tệ, ví dụ như
trong việc hoán đổi giữa đồng Riel (iran) và US Dollar vì vậy việc thanh toán tiền
hàng rất khó khăn, bị trì hoãn, đôi khi rắc rối. Gạo là một trong những thực phẩm
chủ yếu hàng ngay. Chất lượng yêu cầu cao, thường là gạo 5% tấm do thu mua
trong nước mạnh. Hàng năm, khu vực này sản xuất được khoảng 2,9-3,2 triệu tấn
gạo chủ yếu của Iran và Thổ Nhĩ Kỳ, nhập khẩu 2,8 – 3,6 triệu tấn gạo chiếm 10,3
– 19 % thị trường thế giới.
Mức tiêu thụ gạo tính trên đầu người (rice per capita): 19,82kg (năm 1994).
Trước đây có liên đoàn các nước ả Rập nhưng là một khối chính trị hơn là kinh tế.
Bắc Phi (North Africa): Còn gọi là Bắc Phi maghreb có nghĩa là “mặt trời
lặng” những khó khăn nghiêm trọng ở đây chủ yếu xuất phát từ những dị biệt
Algeria và sự chống đối mạnh mẽ của người Hồi giáo. Gạo được xem là một trong
những thức ăn thông dụng của dân chúng.Hàng năm, khu vực này sản xuất được
4,4- 15,4 triệu tấn (chủ yếu của ai Cập và Marôc), xuất khẩu được 0,2 triệu tấn gạo
( Ai Cập) nhập khẩu khoảng trên 0,1 triệu tấn gạo chiếm 0,48 thị trường thế giới.
Chất lượng trung bình khá (10 – 15% tấm). Thị trường tiêu thụ nhỏ, tuy buôn
bán đổi hàng (barter) cũng được coi là phương thức ưa chuộng. Mức tiêu thụ gạo
tính theo đầu người (rice per capita): 210,01kg (năm 1994). Vào năm 1989 hiệp
ước Maghreb (AMA) ra đời.
Châu Đại Dương (Oceania): Châu Đại Dương được hình thành bở úc Châu
và các quần đảo Melanésie, Menonése, Polynésie hầu hết thuộc Anh, Pháp, Hoa
Kỳ. Các quần đảo thuộc Anh đều độc lập, đây là thị trường gạo nhỏ bé. Gạo không
phải là thực phẩm chủ yếu nhưng lại là phần phụ gia đáng kể cho công nghiệp thức
ăn. Hàng năm, khu vực này sản xuất được trên 1,0 – 1,38 triệu tấn ( chủ yếu là úc),
xuất khẩu được 0,6 triệu tấn gạo, lượng nhập khẩu 0,19 – 0,2 triệu tấn gạo/
năm.Mức tiêu thụ đầu người rất nhỏ.
Trước đây úc Châu tụ coi mình thuộc châu Âu nhưng gần đây nó đang tìm
cách đạt những thoả thuận ngoại giao và kinh tế vơí các nước Châu á và trong
vùng Thái Bình Dương.
2.2. Các đối thủ cạnh tranh chủ yếu.
Hoa Kỳ: Lượng gạo xuất khẩu chiếm khoảng 11,5% - 13,3% tổng lượng mua
bán quốc tế, đứng hàng thứ ba thế giới cho đến năm 1995 trở lại đây. Hoa kỳ trồng
lúa không phải để ăn mà để bán (cash crop), nên sản lượng tăng giảm thất thừơng
do chi phí sản xuất bên tăng cao nếu giá cả thế giới không bù đắp nổi chi phí, nông
dân sẽ chuyển sang trồng các loại hoa mầu khác có giá trị kinh tế cao hơn. Thị
trường truyền thống EU, Nam Mỹ, Caribe, ả Rập, Trung Đông, thị trường mới
năm 1993 là Nhật Bản (nhập do thâm hụt và theo UR quy định sẽ mở cửa thị
trường bắt đầu từ năm 1996) loại gạo chủ lực là 2,4%. Các loại gạo phẩm chất cao
và thấp của Hoa Kỳ luôn gặp các đối thủ cạnh tranh mạnh từ Châu Âu do giá
thành của Hoa Kỳ luôn luôn cao (farm price) ở mức là 8,25 – 8, 45 USD/CWT
(1CWT= 50,8kg) đối với phẩm chất cao. Thông thường mức giá chênh lệch giữa
gạo Mỹ và Thái Lan khoảng 92 USD/ tấn riêng gạo Mỹ cạnh tranh tốt ở mức
chênh lệch 15 – 30 USD/T.
Để tăng cường tình cạnh tranh do các loại gạo phẩm chất thấp, Mỹ dùng các
chương trình hỗ trợ xuất khẩu EEP (Export Enhancement Phogram) chương trình
GMS (Commodity Credit Corporations Genral Sales Manager) cung cấp tín dụng
và cùng với chương trình bán nhượng (Concessional Sales, PL 480 and Food Aid).
Thái Lan: Tổng sản lượng xuất khẩu của Thái Lan chiếm khoảng 24,4 – 28%
tổng lượng mua bán của thế giới, dẫn đầu các nước xuất khẩu gạo. Thị trường ở
khắp thế giới,mạnh nhất vẫn là á Châu, Trung Đông,EU và Nam Mỹ. Loại gạo
chủ lực là 100 GradeB. Ngoài ra còn có những giống gạo đặc sản như jasmine,
Khao- dakmali… Gạo Thái Lan có nhiều lợi thế cạnh tranh do có mặt khá lâu trên
thị trường thế giới, chất lượng đã được thử thách và được tin cậy bởi người tiêu
dùng khắp nơi, có thị trường ổn định, điều kiện hậu cần tốt do xuất khẩu vững
chắc. Thái Lan cạnh tranh hữu hiệu với Hoa Kỳ ở thị trường phẩm chất cao và với
ấn Độ, Mianma, Pakistan, Việt Nam,Trung Quốc ở thị trường phẩm chất trung
bình và thấp. Thái Lan chịu sức ép cạnh tranh này làm cho cơ cấu giá của Thái
Lan không tăng vọt, điều này góp phần quay trở lại, ảnh hưởng đến giá gạo của
Thái Lan duy trì tính cạnh tranh của nó đối với giá gạo của Hoa Kỳ ở thị trường
phẩm chất cao. Mức độ chếnh lệch (price prenium) thông thường 25 – 30
USD/tấn so với thị trường Việt Nam do giá thành sản xuất trong nước cao hơn,
giá lúa trung bình 5% tấm là 3759 Baht/CWT (khoảng 150,4 USD/CWT), giá lúa
trung bình 15% tấm Chính phủ mua của các nhà máy đầu năm 2000 là 5.067
Baht/tấn (khoảng133,4 USD/tấn).
Pakistan/ ấn Độ: Vị trí xuất khẩu hạng tư, thường xuyên bị Trung Quốc đe
doạ nhưng pakistan cũng xuất hơn 1,67- 2,0 triệu tấn/ năm, chiếm 8,5% tổng
lượng mua bán của thế giới. Năm 1995, ấn Độ bất ngờ tham gia vào thị trường
với số lượng lớn khoảng 3,55 triệu tấn và năm 1998 ấn Độ đưa lượng xuất khẩu
lên gần 4,49 triệu tấn, nhanh chóng chiếm vị trí thứ hai sau Thái Lan, chất lượng
gạo chủ yếu là phẩm chất thấp loại 25% tấm. Sự xuất hiện gạo của ấn Độ bất ngờ
giống như thời tiết,chính thời tiết đã đem lại cho ân Độ một năm mùa màng bội
thu, vì vậy các cơ sở hậu cần chưa được chuẩn bị tương thích số lượng xuất khẩu
lớn, cho nên đã phát sinh những vấn đề căn bản làm cho xuất khẩu của ấn Độ các
năm gần đây sẽ không được như năm 1998.
Pakistan có loại gạo Pastima không có đối thủ cạnh tranh vi tính đặc thù của
nó. Tuy vậy, gạo chủ lực của Pakistan là 15% tấm, thị trường chủ yếu ở Bắc Mỹ
và Trung Đông, á Châu.
2.3. Chiến lược toàn cầu cho hạt gạo Việt Nam .
Định hình và định lượng thị trường gạo thế giới .
Thị trường quốc gia và khu vực rất đa dạng, nhiều đặc tính, nhưng hai đặc
tính có ý nghĩa nhất đối với nhà xuất khẩu là sức mua và dung lượng của thị
trường (lượng tiêu dùng nội địa- lượng nhập khẩu). Dùng sơ đồ BCG (Boston
Consulting Group- Tập đoàn tư vấn Boston) để nghiên cứu khả năng xâm nhập và
mức độ vi mô từng doanh nghiệp, ở đây do tính chất vĩ mô của vấn để áp dụng
dừng lại ở mức độ nghiên cứu định tính, định lượng của thị trường dựa trên hai
đặc tính trên.
Sơ đồ BCG có bốn ô và hai mức: Ô Ngôi Sao (STAR): Ô chấm hỏi (?-
Question Mark); Ô con chó (Dog) và Ô con bò sữa (Cash cơ). Còn trục ngang chỉ
số lượng nhập khẩu, được chia thành hai phần cao, thấp. Để tiện nghiên cứu, sử
dụng mức chuẩn là 0,5 triệu tấn theo số liệu nhập khẩu qua các năm và lấy năm
1999 làm cơ sở (FAO- Triple Enterse 1995). Trục đứng chỉ giá định tính của thị
trường như giá cả, mẫu mã… cũng được chia thành hai phần thấp, cao. Giả sử thị
trường gạo thế giới là một thống nhất, vậy thị trường thế giới có bốn phần khúc cơ
bản (Segment) tương đương với bốn ô của sơ đồ BCG.
Đặc điểm:các thị trường quốc gia hoặc khu vực được xếp các ô tuỳ thuộc vào
số lượng nhập khẩu như vậy vị trí của các thị trường trong các ô luôn thay đổi
hàng năm trong khi đó có các tính chất của các phân đoạn không bao giờ thay đổi.
Điều này cho phép ta nghiên cứu các yếu tố thị trường động trong một cơ chế tĩnh.
Bảng 1: Sơ đồ BCG
Seqment01 STAR Seqment02 ?
Bắc Mỹ 0.865- 0,915 Tây Âu ngoài Eu 0,050
EU 0,700 – 0,75 Nhật Bản 0,725- 0,75
Nhật Bản 0,752- 0,75
Seqment03 CASH COW Seqment04 DOG
Mỹ La tinh 2,354-2,517 C.I.S 0,380- 0,385
Châu Phi đen 4,185- 4,220 Đông Âu 0,215- 0,222
á Châu 7,132- 6,933 Bắc Phi 0,226- 0,171
Trung Đông 3,205- 3,625 Tây Nam Phi 2,000- 1,225
úc Châu 0,025-0,026
Điểm từng phân khúc (Segment):
Segment 01: Bắc mỹ, EU: trị giá cao, số lượng cao.
Segment 02: Tây Âu ngoài EU và Nhật Bản: Trị giá cao số lượng thấp.
Segment 03: Nam Mỹ, Trung Đông, Châu Phi đen, á Châu: Trị giá thấp, số
lượng cao.
Segment 04: CIS, Đông Âu, Bắc Phi, Tây Nam á, úc Châu: Trị gía thấp, số
lượng thấp.
Thị trường gạo mục tiêu (Tanget Markets):
Thị trường mục tiêu xác định tương ứng với bốn phân khúc Segment:
+ Mục tiêu chiếm đoạt: Giành cho phân khúc số một (Segment 01- Star), đây
là một thị trường cần phải chiếm đoạt ngay, càng nhiều càng tốt, giữ vững để thu
lợi lớn và lâu dài.
+ Mục tiêu duy trì: Mục tiêu này tương ứng với phân khúc số 3 (Segemnt
03- Cash cow) cần phải được duy trì để tạo lợi nhuận lâu dài, tuy không cao nhưng
thường xuyên và liên tục.
+ Mục tiêu gặt hái ngay: Nhằm vào những lợi ích nhanh chóng có tính chất
ngắn hạn, mục tiêu này có thể thực hiện ở phân khúc số 2 (Segemnt 02- Question
Mark) vì số lượng ở những thị trường này thấp nhưng vẫn có lợi nhuận.
+ Mục tiêu loại bỏ: Nhằm gạt bỏ những thị trường kém sinh lực, kém sản
lượng để công ty có điều kiện tập trung vào những thị trường có giá trị cao. Mục
tiêu này có thể thực hiện tại các thị trường ở phân khúc số 04 (Segement 04- Dog).
2.4. Sự thích ứng sản phẩm gạo với thị trường mục tiêu.
Việc định ra chính sách sản phẩm nói chung và tích sản phẩm với sự thích
ứng của nó nói riêng là một vấn đề hết sức khó khăn đối với những người xuất
khẩu ở những nước đang phát triển, vì những lý do tài chính, trình độ chuyên môn
và kinh nghiệm.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng thực hiện việc nghiên cứu theo hướng tiếp cận lý
thuyết của môn học Marketing Xuất Nhập khẩu, vì việc phân tích khả năng thích
ứng trên trường của một sản phẩm là rất cần thiết và quan trọng khi nhà kinh
doanh đưa một sản phẩm ra thị trường, mục đích phân tích của phần này là nhằm
tránh những chi phí không cần thiết có thể sảy ra do thiếu hiểu biết về thông tin thị
trường.
+ Khả năng và mức độ thành công của sản phẩm gạo Việt Nam trên thị
trường.
Trong thị trường xuất khẩu gạo, chúng tôi chọn gạo của Thái Lan làm chuẩn
để tiến hành so sánh và đánh giá.
- Về bản thân sản phẩm hạt gạo:
Công nghệ chế biến của Việt Nam đã được đầu tư, nâng cấp lên trong những
năm gần đây, đã đưa ra được những sản phẩm phù hợp với thị trường, nhưng
điều kiện bảo quản vẫn còn chưa tốt nên chất lượng gạo xuất khẩu tuy đã được
nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng.
Đặc biệt, ta có loại gạo phẩm cấp cao (gạo Super 100% gạo), gạo thơm năm
1996 ta mới xuất được 918 tấn, để có thể mở rộng thị trường tới các khách sang
như ả Rập Xê út, Iran , Nhật Bản… việc xuất khẩu gạo của ta trong những năm
vừa qua về chất lượng chưa có khyếu nại nào, đây là điểm quan trọng để giữ được
thị trường ổn định.
Về bao bì của gạo xuất khẩu, không thua kém Thái Lan và hơn hẳn nhiều
nước xuất khẩu gạo khác.
Tuy nhiên về cơ cấu giá để có thể giữ được thị trường và có lời, với sản
phẩm gạo và chất lượng gạo của ta còn kém so với Thái Lan, nên giá thường thấp
hơn so với giá xuất khẩu cùng loại của Thái Lan từ 8-12%, và có chênh lệch cách
nhau rất xa (trên 100 USD/tấn). Tuỳ từng thời điểm, mức độ chênh lệch giá cả còn
một phần phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ gạo của Việt Nam.
So với các nước xuất khẩu gạo khác, tuy nước ta gặp phải khó khăn về tài
chính (thiếu vốn để dự trữ cũng như thực hiện phương thức tín dụng thương mại
trong xuất khẩu) như các nước khác nên gạo Việt Nam xuất khẩu vẫn còn bị ép giá
nên giá xuất thấp hơn giá Thái Lan theo chúng tôi cũng là điều hợp quy luật của
kinh tế thị trường vì:
Nước ta có thiên nhiên ưu đãi, có thuận lợi là giá nhân công rẻ, giá thành sản
xuất và chế biến lúa gạo thấp hơn các nước khác (so sánh với loại gạo cùng chất
lượng). Đây chính là lợi thế tương đối của việc xuất khẩu gạo của nước ta.
Chi phí vận chuyển của Việt Nam đến các nước khác thường cao hơn của
Thái Lan.
Qua việc xuất khẩu gạo của các năm qua phải chăng yếu tố trên đã góp phần
tạo nên sự thành công cho sản phẩm gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
+ Những khiếm khuyết cần thay đổi, cải tiến.
Để gạo Việt Nam đứng vững trên thị trường quốc tế, vấn đề quan trọng hàng
đầu là chất lượng. Muốn có gạo xuất khẩu với chất lựợng cao không có con đường
nào khác là đầu tư đưa nhanh tiến bộ về giống và kỹ thuật về phân bón, về chế
biến, bảo quản, vận chuyển… qua kinh nghiệm thực tế, xuất khẩu gạo 10 năm qua,
sản phẩm gạo của ta còn kém ở các mặt như: Sản phẩm gạo không đồng nhất về
chủng loại, chất lượng hạt gạo chưa đều và tốt, tỷ lệ bạc bụng vẫn còn đặc biệt
trong năm 1996 tỷ lệ này cao hẳn lên, chiếm 65% sản lượng lúa gạo hàng hoá của
Việt Nam tuy việc đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu gạo cấp cao của Việt Nam đã
ngày càng nâng cao nhưng thị trường vẫn chưa tín nhiệm gạo của Việt Nam bằng
gạo của Thái Lan vì việc đảm bảo thực hiện hợp đồng xuất khẩu của ta chưa cao,
đặc biệt là khi có biến động giá trong nước cũng như giá xuất khẩu trên thị trường
thế giới.
+ Đánh gía việc thích ứng của gạo Việt Nam với thị trường, phương hướng
kiểm tra sự chấp nhận của sản phẩm trên thị trường.
Với việc phân tích ở trên qua các bảng kiểm tra và thăm dò ý kiến của khách
hàng thì dần dần gạo Việt Nam có chất lượng không thua kém gạo Thái Lan,
nhưng thị trường thế giới vẫn chưa tín nhiệm gạo Việt Nam, nên để cho thị trường
có thể chấp nhận rễ ràng trong một vài trường hợp chúng ta đã chấp nhận xuất
khẩu với giá thấp hơn giá gạo của Thái Lan, mặc dù gạo của ta cùng chất lượng
gạo của Thái Lan.
Ví dụ: Iran, Irắc, Indonesia, Nam Triều Tiên, Philippines, Cuba… nhập khẩu
gạo của Việt Nam thay vì Thái Lan.
+ Những cơ hội xuất khẩu và tận dụng những cơ hội ấy.
Ngoài những thị trường mà ta đã chọn ở mục lựa chọn thị trường mục tiêu,
chúng ta biết rằng việc buôn bán của Việt Nam và Nhật Bản mỗi ngày càng mở
rộng thêm. Ngoài cơ hội có thể xâm nhập vào thị trường gạo Trung Quốc với phí
tổn vận chuyển là thấp so với các nước khác, Việt Nam còn có một cơ hội là xâm
nhập thị trường gạo của Nhật, Châu Phi, các nước Trung cận Đông, Châu Mỹ…
Vấn đề được các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới quan tâm hiện nay,
phải chăng chúng ta sẽ chọn con đường trao đổi gạo với Nhật Bản để nhập về các
thiết bị công nghệ, trang thiết bị cho ngành công nghiệp của chúng ta.
Kết luận
để tăng kim ngạch xuất khẩu gạo trong năm 2001 tôi có 4 kiến nghị: Cơ chế
XK, công tác thị trường nước ngoài, cải cách các thủ tục hành chính và hải quan,
sự hỗ trợ của Chính phủ và các chính sách thuế, tín dụng liên quan đến hoạt động
XK.
Về cơ chế xuất khẩu, Bộ thương mại nên xây dựng và ban hành cơ chế điều
hành xuất khẩu gạo ổn định và lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu gạo theo hướng mở rộng quyền kinh doanh xuất
khẩugạo của các doanh nghiệp; bãi bỏ các quy định về đầu mối xuất khẩu gạo; xây
dựng lộ trình giảm thiểu các biện pháp hạn chế định lượng trong thời kỳ 2001 –
2005, giảm danh mục xuất khẩu gạo theo giấy phép.
Về cơ chế thị trường, cần thiết tạo khung pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi
cho xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường nước ngoài thông qua việc ký mới,
sửa đổi bổ xung các hiệp định thương mại, ký cam kết, phối hợp quốc tế trong
xuất khẩu gạo với các mặt hàng xuất khẩu khác như: càphê, cao su…, tăng cường
các biện pháp thâm nhập thị trường bằng các biện pháp tổng hợp chính trị, ngoại
giao, kinh tế, kỹ thuật và nghiệp vụ ngoại thương. Cụ thể là tổ chức tốt nghiên cứu
khảo sát thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp mở đại lý, kho ngoại quan,
trung tâm trưng bày ở nước ngoài, đẩy mạnh tham gia hội chợ triển lãm … Nâng
cao trách nhiệm và năng lực của các cơ quan và tổ chức làm công tác thị trường
ngoài nước; hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại;
tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại cho các doanh
nghiệp; sớm xây dựng và ban hành cơ chế về công tác thị trường ngoài nước.
Về các thủ tục hành chính và hải quan. Nhà nước quan tâm làm sao đơn giản
hoá, hiện đại hoá các thủ tục hải quan theo hướng tiếp tục áp dụng các biện pháp
mới như phân luồng hàng hoá, quy định xác nhận thực xuất, quy chế khai báo một
lần; đăng ký tờ khai trên máy vi tính, phân cấp rộng hơn quyền ký tờ khai hải
quan…
Chính phủ nên hỗ trợ trong việc đầu tư chế biến hàng xuất khẩu, đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất, hạ tầng và công tác thị trường ngoài nước, xúc tiến thương
mại; đẩy mạnh cải cách thuế bước 2, ưu đãi cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu như
hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ khó khăn về tài chính thông qua quỹ hỗ trợ xuất khẩu, tiếp
tục làm tốt chính sách thưởng xuất khẩu để khuyến khích xuất nhập, tăng nhanh
kim ngạch xuất khẩu, tìm kiếm thêm thị trường, bạn hàng mới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61000_3183.pdf