Trước mắt bạn đọc là cuốn sách bao gồm tập hợp các bài viết mà phần lớn là các báo
cáo khoa học của các học giả trong và ngoài nước đã tham gia hội thảo quốc tế
“Nhận thức lại vai trò của triết học trong kỷ nguyên toàn cầu” do Viện Triết học
phối hợp với Liên đoàn quốc tế các hội triết học (FISP) tổ chức tại Hà Nội vào tháng
6 năm 2006. Hội thảo đã thu hút được hơn 30 nhà triết học đại diện cho các hội triết
học trên thế giới và gần 60 người đại diện cho các nhà nghiên cứu và giảng dạy ở
Việt Nam, được tổ chức dưới sự tài trợ về kinh phí của Xã hội mở Đài Bắc, Trường
Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh (Trung Quốc) và Hội đồng nghiên cứu Triết học và
Giá trị thuộc Trường Đại học Công giáo Hoa Kỳ. Đồng thời hội thảo cũng nhận được
sự hỗ trợ hết sức đắc lực về cơ sở vật chất và phương tiện của Viện Khoa học xã hội
Việt Nam.
102 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2362 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dựng khối đoàn kết và
liên minh chiến đấu với giai cấp vô sản thế giới, trong đó có giai cấp công nhân và
nhân dân lao động chính quốc. Người cho rằng, “…dù màu da có khác nhau, trên đời
này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng
chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”(5).
Một vấn đề nữa có ảnh hưởng quan trọng đối với Nguyễn Ái Quốc lúc này là cuộc
đấu tranh trong Đảng Xã hội Pháp về vấn đề ở lại Quốc tế II hay gia nhập Quốc tế
Cộng sản III. Người hỏi: “cái Quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa?”
và nhận được câu trả lời rằng, đó là Quốc tế III. Đúng là chỉ có Quốc tế III mới “chú
ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa” và đoàn kết, giúp đỡ các dân tộc theo nguyên tắc
của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chính vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã “bỏ phiếu tán thành
gia nhập Quốc tế III” và “hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III”. Người từ
chối Quốc tế II vì nó “ủng hộ chính sách đế quốc chủ nghĩa mà bọn tư bản thực hiện
ở các nước thuộc địa, hoặc nếu có nói quyền tự quyết thì chỉ đáp ứng cho các dân tộc
da trắng, lờ đi các dân tộc da đen hoặc chỉ nói quyền tự trị văn hoá”(6). Nguyễn Ái
Quốc đứng về phía Quốc tế III vì nó giải quyết hợp lý vấn đề giai cấp và dân tộc,
không chỉ quan tâm giải phóng nhân dân lao động và vô sản chính quốc, mà còn giải
phóng các dân tộc bị áp bức, trong đó có Việt Nam. Giải thích một cách ngắn gọn lý
do ủng hộ Quốc tế III, Người nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi,
đấy là tất cả những gì tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi hiểu”(7).
Dưới ánh sáng Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy rằng, tinh thần
yêu nước, tinh thần dân tộc cần phải gắn bó chặt chẽ với tinh thần quốc tế vô sản và
vấn đề độc lập dân tộc của Việt Nam cần phải gắn bó khăng khít với phong trào cách
mạng thế giới. Muốn giành thắng lợi hoàn toàn, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc
phải thực hiện cuộc cách mạng không ngừng, phải giữ vững tính độc lập của phong
trào vô sản, thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai
cấp vô sản - có thể liên minh tạm thời với giai cấp tư sản dân tộc và các giai cấp,
tầng lớp khác, nhưng không được xa rời mục tiêu của mình là thủ tiêu giai cấp - ở
các thuộc địa vẫn còn tồn tại những quan hệ tiền tư bản có khả năng thực hiện bước
quá độ dần dần lên chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin đã đưa ra bài học kinh nghiệm của việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nước
Nga Xô viết trong luận điểm thứ 7 và thứ 12; đồng thời, Người còn lưu ý là phải đặc
biệt thận trọng đối với những tình cảm dân tộc trong quá trình giáo dục tinh thần
đoàn kết quốc tế vô sản trong nhân dân các nước thuộc địa lạc hậu. Người cũng chỉ
rõ trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận
của cách mạng vô sản và những người cộng sản có nhiệm vụ phải giúp đỡ phong trào
giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo luận
điểm này của Lênin. Trong Lời phát biểu tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội
Pháp, năm 1920, Nguyễn Ái Quốc kiên quyết đấu tranh cho tư tưởng này của Lênin
được thực hiện trong thực tế, đề nghị “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong
tất cả các nước thuộc địa”(8). Trên cơ sở phân tích những điều kiện lịch sử - xã hội
của phương Đông, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng, chế độ cộng sản hoàn toàn có
thể thực hiện được ở châu Á và điều đó còn dễ hơn ở châu Âu.
Trong lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc luôn nhấn mạnh
mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng ở chính quốc.
Người viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa, có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản
ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người
ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”(9); đồng thời, kêu gọi
giai cấp công nhân ở các nước phương Tây phải đẩy mạnh việc ủng hộ cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Trong những bài phát biểu tại Đại
hội V Quốc tế Cộng sản, Người nói: “Tất cả các đồng chí đều biết rằng, hiện nay nọc
độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn
là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa
cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền
tảng của lực lượng phản cách mạng”(10). Vì vậy, muốn đánh thắng chủ nghĩa đế
quốc, trước hết cần xoá bỏ hệ thống thuộc địa của nó. Từ đó, Người đề xuất một luận
điểm: cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động và có thể giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc và bằng thắng lợi đó, tác động mạnh mẽ đối với cách
mạng ở chính quốc. Luận điểm này được coi là một sáng tạo lớn của Nguyễn Ái
Quốc về cách mạng giải phóng dân tộc, là sự bổ sung quan trọng vào kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Kể từ khi tiếp thu Luận cương của V.I.Lênin, đứng vững trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu thực hiện các hoạt động tuyên truyền
và tổ chức trong giai cấp công nhân và những người yêu nước ở một nước thuộc địa
với nhịp độ khẩn trương chưa từng thấy. Người kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng
hữu khuynh, mơ hồ về chủ nghĩa thực dân ngay trong Đảng Cộng sản Pháp; thường
xuyên tố cáo mạnh mẽ những tội ác dã man của chủ nghĩa thực dân nói chung, chủ
nghĩa thực dân Pháp nói riêng, làm cho các tầng lớp nhân dân Pháp hiểu rõ tình cảnh
của nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa khác; làm cho giai cấp vô
sản Pháp hiểu rõ thực chất của chế độ thực dân, hiểu rõ các dân tộc thuộc địa và quan
tâm hơn nữa đến vấn đề thuộc địa. Trong bài phát biểu tại phiên họp lần thứ 22, Đại
hội V Quốc tế Cộng sản, ngày 01 - 7 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra những nhận
định sắc bén: “Giai cấp tư sản các nước thực dân đã làm gì để kìm giữ trong vòng áp
bức biết bao quần chúng của các dân tộc bị chúng nô dịch? Chúng làm tất cả. Ngoài
việc dùng những phương tiện do bộ máy chính quyền Nhà nước đem lại cho nó, nó
đồng thời còn tiến hành tuyên truyền hết sức ráo riết. Bằng những bài nói chuyện,
bằng điện ảnh, báo chí, triển lãm và mọi phương pháp khác nữa, nó nhồi cho nhân
dân các chính quốc cái đầu óc thực dân, nêu lên trước mắt họ cảnh sống dễ dàng,
vinh quang và giàu có đang chờ đợi họ ở các nước thuộc địa.
Còn các đảng cộng sản của chúng ta như Đảng Cộng sản Anh, Hà Lan, Bỉ và các
đảng cộng sản các nước khác mà giai cấp tư sản ở đấy chiếm giữ thuộc địa, thì đã
làm những gì? Các đảng này, từ khi chấp nhận bản luận cương của Lênin, đã làm
được những gì để giáo dục cho giai cấp công nhân nước mình tinh thần quốc tế chủ
nghĩa chân chính, tinh thần gần gũi với quần chúng lao động các nước thuộc địa? Tất
cả những việc mà các đảng của chúng ta đã làm về mặt này, thật hầu như chưa có gì
cả. Còn về tôi, là một người sinh trưởng ở một nước hiện nay là thuộc địa của Pháp
và là một đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, tôi lấy làm tiếc phải nói rằng Đảng Cộng
sản Pháp chúng tôi làm rất và rất ít cho các nước thuộc địa”(11). Người đề nghị thực
hiện những biện pháp cụ thể về tuyên truyền cho vấn đề thuộc địa, về việc gửi một số
đồng chí ở các nước thuộc địa sang học ở trường Đại học phương Đông và đặt nhiệm
vụ cho các đảng viên phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề thuộc địa.
Chúng ta biết rằng, lúc đó đã từng có những ý kiến hoặc là coi nhẹ vị trí, tầm quan
trọng của phong trào giải phóng dân tộc, hoặc ngược lại đề cao quá mức như “không
có thắng lợi của phong trào cộng sản ở các nước phương Đông thì ở phương Tây
không có gì hết”, và hạ thấp vai trò của giai cấp vô sản quốc tế. Những ý kiến sai trái
với tư tưởng Lênin lại là của những đại biểu đã từng có quá trình hoạt động chính trị,
có vị trí cao trong các Đảng Cộng sản và tham dự nhiều đại hội của Quốc tế Cộng
sản nên việc phê phán, đấu tranh chống những quan điểm sai trái đó thật không đơn
giản. Thực tế cho thấy, sau này, trừ một số người được thuyết phục và đã đi theo
Lênin, số còn lại vẫn tiếp tục chống đối, trượt dài trên những sai lầm và cuối cùng,
họ đã phản bội Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, nhờ sự phê phán của Nguyễn Ái Quốc,
từ sau Đại hội V của Quốc tế Cộng sản, tình trạng “ít hiểu biết”, “thờ ơ” của giai cấp
công nhân dần dần được khắc phục, tình trạng thiếu quan tâm hay quan tâm không
đúng mức của các Đảng Cộng sản chính quốc đối với vấn đề thuộc địa không còn
nữa. Những đề nghị của Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội đã trở thành hành động thực tế
của các Đảng Cộng sản ở châu Âu.
Không chỉ tố cáo những tội ác dã man của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân đối
với nhân dân các nước thuộc địa để thức tỉnh hàng trăm triệu quần chúng lao động ở
những nước này vùng lên đấu tranh đánh đổ bọn đế quốc, thực dân giải phóng cho
mình, cũng như kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước chính
quốc, các Đảng Cộng sản và công nhân trên toàn thế giới tích cực ủng hộ phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc còn
tiến tới tổ chức, xây dựng khối đoàn kết của nhân dân các nước thuộc địa. Tháng 6 -
1921, Người cùng với một số nhà yêu nước của các nước thuộc địa khác thành
lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria) vào
năm 1922, viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (xuất bản lần đầu tiên tại
Pháp năm 1925); đọc nhiều tham luận tại các hội nghị quốc tế, trong đó nhấn mạnh
phải hoạt động tích cực cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa theo
đường lối của Lênin.
Có thể khẳng định, Luận cương của Lênin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái Quốc
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Do nhu cầu của cách mạng, Người càng ra sức tìm
hiểu và thấu suốt được tinh túy của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam nhằm giải quyết những vấn đề mà thực tiễn cách
mạng Việt Nam đặt ra. Như vậy, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng, chính Luận
cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển nhận thức,
tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở
thành người cộng sản. Qua Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở đó
con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc: con đường cách
mạng vô sản. Chính Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, 40 năm sau nhìn lại sự kiện
này, đã viết: “… cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách mạng
oanh liệt và rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của Đảng
Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý chủ nghĩa Mác - Lênin, đã từ một người
yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa”(12).r
(*) Thạc sĩ, Giảng viên triết học, Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao TP. Hồ
Chí Minh.
(1) V.I.Lênin. Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.206.
(2) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 471.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.314.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.2, tr.280.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.266.
(6) Trần Văn Giàu. Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách
mạng tháng Tám, t.3, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993, tr.42.
(7) Dẫn theo: Mai Chí Thọ. Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Nxb Tp. Hồ Chí
Minh, 1985, tr.65.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.23.
(9) Hồ Chí Minh. Sđd, t. 1, tr. 298.
(10 Hồ Chí Minh. Sđd., t. 1, tr. 274.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.278.
(12) Hồ Chí Minh, Sđd., t.10, tr.241.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TRI THỨC
NGUYỄN VĂN SƠN (*)
Bài viết trình bày một cách khái quát vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát
triển bền vững. Trên cơ sở phân tích một số nét tích cực và hạn chế của nguồn nhân
lực nước ta hiện nay cả về mặt số lượng lẫn chất lượng, tác giả đã đề xuất và luận
chứng một số giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế
tri thức. Cụ thể là: 1/ Đẩy mạnh giáo dục và đào tạo; 2/ Nâng cao thể lực cho con
người; 3/ Khai thác và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực; 4/ Tăng cường công tác dự
báo nguồn nhân lực; 5/ Xây dựng chính sách tiền lương hợp lý.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng trong những năm qua đã thu được nhiều thành tựu to lớn, từng bước đưa
đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn
định, đời sống của nhân dân cũng từng bước được cải thiện, bộ mặt của xã hội đã có
những thay đổi đáng kể. Một trong những tiền đề để tạo ra sự thành công đó là Đảng
ta đã đánh giá đúng vị trí và vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng bước xây dựng và phát triển
kinh tế tri thức đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Ngày nay, sự ứng dụng ngày càng rộng rãi những thành tựu của khoa học và công
nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất đã làm năng suất lao động tăng nhanh. Tuy
nhiên, khoa học và công nghệ dù có sức mạnh thế nào cũng không thể thay thế hoàn
toàn vai trò của con người. Nguồn nhân lực vẫn đóng một vai trò quan trọng, quyết
định quá trình sản xuất, tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội. Thế giới đang có
xu hướng chuyển từ nền kinh tế dựa vào sự giàu có của các nguồn tài nguyên sang
kinh tế tri thức. Trong bối cảnh như vậy, nguồn lực con người càng trở thành động
lực chủ yếu của sự phát triển nhanh và bền vững. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng đã chỉ rõ: con
người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự
hưng thịnh của đất nước. Tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định sự cần thiết
phải thực hiện một cách có hiệu quả chiến lược phát triển con người. Tiếp tục thực
hiện đường lối đúng đắn và khoa học đó, Đại hội lần thứ X của Đảng xác định một
trong những nhiệm vụ chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội từ nay đến
năm 2010 là “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và phát triển kinh tế tri thức”(1).
1. Vai trò quyết định của chất lượng nguồn nhân lực đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
Hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức chỉ
giành được những thắng lợi khi chúng ta biết khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả
tất cả các nguồn lực. Song, yếu tố giữ vai trò quyết định nhất, đảm bảo cho sự thắng
lợi của quá trình đó chính là nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất
lượng cao. Điều này được khẳng định dựa trên những cơ sở sau:
Thứ nhất, các nguồn lực khác (ngoại trừ nguồn nhân lực), xét về mặt số lượng và trữ
lượng, có thể là rất phong phú, dồi dào, nhưng nếu khai thác và sử dụng không hợp
lý thì đến một lúc nào đó, chúng sẽ trở nên cạn kiệt. Khi ấy, nền kinh tế vốn cơ bản
dựa vào nguồn lực này sẽ gặp khó khăn, nếu không nói là bị đe doạ. Trái lại, nguồn
lực con người với tiềm năng trí tuệ, chất xám thì luôn sinh sôi và phát triển không
ngừng. Xét trên bình diện xã hội, có thể khẳng định nguồn lực con người là vô tận và
do vậy, là nguồn lực cơ bản của sự phát triển bền vững. Đây là một ưu điểm nổi trội
của nguồn nhân lực so với các nguồn lực khác trong hệ thống nguồn lực phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, nếu trước đây, một trong những nguyên nhân chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế của các nước là do tình trạng nghèo nàn về cơ sở vật
chất, sự thiếu hụt về nguồn vốn… thì ngày nay, trở ngại chủ yếu nhất được xác định
chính là sự hạn chế về trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người.
Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo sự phát triển mạnh mẽ và
nhanh chóng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; cùng với đó là quá trình
toàn cầu hoá đã tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho các nước đang phát triển có thể
khắc phục sự yếu kém về trình độ khoa học – kỹ thuật của mình thông qua con
đường hợp tác, có thể giải quyết các vấn đề khó khăn như thiếu hụt nguồn vốn dựa
trên quan hệ đầu tư, vay vốn và bằng nhiều hình thức khác. Nhưng, có một vấn đề
đặc biệt quan trọng mà để đảm bảo sự phát triển bền vững, các nước phải nhanh
chóng giải quyết một cách có hiệu quả, đó là xây dựng nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực có chất lượng cao. Có thể nói, việc xây dựng và bồi dưỡng nguồn
nhân lực nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ và sức sáng tạo của con người, trước hết và
chủ yếu là nỗ lực tự thân thông qua nhiều biện pháp khác nhau của từng quốc gia.
2. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay.
Nghiên cứu về nguồn nhân lực, thực chất là đề cập đến mặt số lượng và chất lượng
của nguồn nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực của bất kỳ quốc gia nào cũng đều
được hình thành dựa trên quy mô dân số, mà trước hết là từ lực lượng lao động của
quốc gia đó, cụ thể là số lượng người đang trong độ tuổi lao động và có khả năng
tham gia lao động sản xuất.
Chất lượng nguồn nhân lực là một sự tổng hợp, kết tinh của rất nhiều yếu tố và giá trị
cùng tham gia tạo nên. Trong đó, gồm ba yếu tố cơ bản: thể lực, trí lực và tâm lực.
Thể lực là tình trạng sức khoẻ của con người, biểu hiện ở sự phát triển bình thường,
có khả năng lao động. Đây là cơ sở quan trọng cho hoạt động thực tiễn của con
người, có thể đáp ứng được những đòi hỏi về hao phí sức lao động trong quá trình
sản xuất với những công việc cụ thể khác nhau và đảm bảo cho con người có khả
năng học tập và lao động lâu dài.
Trí lực là năng lực trí tuệ, khả năng nhận thức và tư duy mang tính sáng tạo thích
ứng với xã hội của con người. Nói đến trí lực là nói đến yếu tố tinh thần, trình độ văn
hoá và học vấn của con người, biểu hiện ở khả năng vận dụng những điều kiện vật
chất, tinh thần vào hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao, đồng thời là khả năng
định hướng giá trị hoạt động của bản thân để đạt được mục tiêu. Trí lực là yếu tố
chiếm vị trí trung tâm chỉ đạo hành vi của con người trong mọi hoạt động, kể cả
trong việc lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm phát huy tác dụng của các yếu tố
khác trong cấu trúc chất lượng nguồn nhân lực. Trí lực là yếu tố quyết định phần lớn
khả năng sáng tạo của con người, là yếu tố ngày càng đóng vai trò quan trọng và
quyết định trong chất lượng nguồn nhân lực nói riêng và sự phát triển của nguồn lực
con người nói chung.
Tâm lực là những giá trị chuẩn mực đạo đức, phẩm chất tốt đẹp và sự hoàn thiện
nhân cách của con người, được biểu hiện trong thực tiễn lao động sản xuất và sáng
tạo cá nhân. Những giá trị đó gắn liền với năng lực tư duy và hành động cụ thể của
con người, tạo nên chất lượng của nguồn nhân lực. Tâm lực tạo ra động cơ bên trong
của chủ thể, thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của con người. Nói cách khác, tâm lực
góp phần vào việc phát huy vai trò của các yếu tố thể lực và trí lực của con người với
tư cách nguồn nhân lực của xã hội.
Nguồn nhân lực của nước ta trong thời gian qua đã tăng một cách đáng kể về mặt
lượng do sự gia tăng dân số ở mức cao và liên tục trong nhiều năm. Theo Niên giám
thống kê 1995 – 1997 của Tổng cục thống kê, dân số nước ta từ 59.872.000 người
(năm 1986) lên 76.709.000 người (năm 1997); trong đó, lực lượng lao động từ
27.389.000 người (năm 1986) lên 36.994.000 người (năm 1997)(2). Quy mô dân số
đông và lực lượng lao động dồi dào vốn được coi là một thế mạnh của nước ta, là
yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Tất nhiên, để khai thác được lợi thế
này, đòi hỏi phải có rất nhiều điều kiện tương ứng.
Người Việt Nam được đánh giá là có nhiều tư chất thông minh và sáng tạo, nhạy bén
trong tiếp thu và tiếp cận tri thức. Đây là điểm nổi trội của nguồn nhân lực nước ta.
Theo Báo cáo phát triển con người của Liên Hiệp Quốc, chỉ số phát triển con người
(HDI) của Việt Nam có sự tăng nhanh và liên tục. “Năm 1995 Việt Nam mới chỉ
đứng thứ 7/10 trong khu vực Đông Nam Á, 35/50 ở châu Á và 122/175 nước trên thế
giới được xếp hạng theo chỉ số HDI, thì đến năm 2001, đã vượt lên thứ 6/7 ở khu vực
Đông Nam Á, 28/36 ở châu Á và 109/130 trên thế giới”(3).
Tuy vậy, xét về mặt chất lượng, nguồn nhân lực nước ta còn khá nhiều hạn chế. Điều
này biểu hiện ở chỗ, thể lực, mức dinh dưỡng cho người Việt Nam còn ở mức thấp,
đặc biệt là trẻ em – nguồn cung cấp nhân lực chính cho xã hội. Sự hạn chế về thể lực
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu tri thức và trí thông minh của trẻ. Xu
hướng này có chiều hướng ngày càng tăng lên. Trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước đã có sự quan tâm, đầu tư thích đáng để cải thiện và nâng cao thể chất của
người Việt Nam nói chung, của trẻ em nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề này không thể
khắc phục ngay được trong “một sớm một chiều”, mà cần phải có thời gian. Bên
cạnh đó, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn ở mức thấp so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới (640 USD/người) và điều này ảnh hưởng đáng kể
đến khả năng tái sản xuất của người lao động.
Tất nhiên, thể lực không phải là yếu tố chính quyết định chất lượng nguồn nhân lực;
song, cũng không thể phủ nhận một thực tế là, nếu con người không được nâng cao
thể lực thì cũng khó có thể phát triển được trí tuệ, khả năng sáng tạo trong học tập và
lao động. Mặt trí lực của người lao động được biểu hiện ở nhiều phương diện khác
nhau. Tiêu chí đầu tiên để đánh giá trí lực là trình độ học vấn, kiến thức khoa học,
khả năng vận dụng kiến thức khoa học kỹ thuật và những kinh nghiệm trong sản xuất
mà họ tích luỹ, học tập được. Trí lực của nguồn nhân lực nước ta còn nhiều điểm hạn
chế. Biểu hiện ở những khía cạnh, như phần lớn lực lượng lao động là lao động phổ
thông, số lao động được đào tạo chuyên môn còn thấp, thợ lành nghề ít… Do vậy,
năng lực thực hành và làm việc độc lập của người lao động chưa cao. Trong những
năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương đúng đắn nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo, như tích cực xoá bỏ tình trạng mù chữ và tái mù chữ,
phổ cập giáo dục tiểu học, trung học, đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục…
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục và đào tạo hiện vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tập
trung đào tạo chuyên sâu và năng lực thực hành.
Xét về tổng thể, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn thấp so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới. Đánh giá chất lượng và so sánh các tiêu chí cơ bản
tính theo thang điểm 10 của Việt Nam và một số nước châu Á như sau(4):
Nước
Tiêu chí
Hàn
Quốc
Trung
Quốc
Indonesia Philippin Malaisia
Thái
Lan
Việt
Nam
Hệ thống GD 8.0 5.12 0.5 3.8 4.5 2.64 3.25
Lao động chất
lượng cao
7.0 7.12 2.0 5.8 4.5 4.0 3.25
Tiếng Anh 4.0 3.62 3.0 5.4 4.0 2.82 2.62
Sự thành thạo
công nghệ cao
7.0 4.37 2.5 5.0 5.5 3.27 2.5
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức đặt ra những
đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực. Điều đó buộc chúng ta phải áp
dụng những biện pháp tích cực, đồng bộ nhằm nhanh chóng xây dựng và bồi dưỡng
nguồn nhân lực có chất lượng cao.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Để thực hiện được nhiệm vụ “… nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức” mà Đại hội Đảng
lần thứ X đề ra, cần phải sử dụng một hệ thống giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung
vào những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào
tạo được coi là khâu then chốt, quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Đảng ta xác định
“Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(5).
Xuất phát từ vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo đối với tiến trình bồi dưỡng nguồn
nhân lực, cần thiết phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở tất cả các bậc học.
Trong đó, bước quan trọng đầu tiên là phải có sự đổi mới cả về mục tiêu, chương trình
và phương pháp dạy học từ bậc phổ thông đến đại học nhằm đảm bảo cung cấp cho
người học những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho hoạt động thực tiễn sau này của
họ. Phương pháp dạy học phải xuất phát từ mục tiêu đào tạo, gắn với nội dung và phù
hợp với điều kiện của học sinh; rèn luyện và tạo điều kiện cho học sinh biểu đạt vấn đề
theo quan điểm và cách nhìn của mình, tạo thói quen suy nghĩ độc lập cho người học.
Có chính sách đầu tư hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và đào
tạo, đặc biệt là về đội ngũ giáo viên; đồng thời, hoàn thiện mạng lưới giáo dục trên toàn
quốc, chú trọng đầu tư phát triển vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ điều kiện đáp ứng được yêu cầu giảng dạy,
phân công lại lực lượng giáo viên theo các vùng miền cho phù hợp, có chính sách ưu
đãi đối với giáo viên hiện đang công tác ở những vùng khó khăn.
Chuẩn hoá đội ngũ giảng viên, đảm bảo sự kết hợp giữa kiến thức chuyên môn với
phương pháp sư phạm hiện đại, có tư cách đạo đức tốt, phương pháp tư duy khoa học…
Các cơ quan quản lý giáo dục, trước hết là Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần xây dựng lộ
trình triển khai chuẩn hoá giảng viên cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, cần tăng
cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo với các nước có nền giáo
dục phát triển. Đồng thời, Nhà nước cần có sự đầu tư thoả đáng nhằm hoàn thiện cơ sở
vật chất phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở các trường cao đẳng và
đại học, như hệ thống phòng thí nghiệm, thư viện, giảng đường.
Bên cạnh đó, cần chuẩn hoá chương trình và giáo trình đào tạo đảm bảo phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn xã hội, xác định ngành nghề mũi nhọn nhằm đào tạo đội ngũ
chuyên gia có trình độ cao. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên và
sinh viên. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với chương trình đại học và cao đẳng. Các
đề tài nghiên cứu phải có tính thực tiễn cao. Khắc phục tình trạng phiến diện, chỉ giỏi
về lý thuyết nhưng lại kém về thực hành – một thực tế khá phổ biến mà sinh viên nước
ta đang mắc phải. Đổi mới công tác quản lý giáo dục một cách cơ bản và toàn diện cả
về tư duy lẫn phương thức quản lý theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
giáo dục và đào tạo. Tập trung vào quản lý nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo,
tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Nhà nước
cần giao quyền tự chủ hơn nữa cho các trường đại học và cao đẳng để các trường có
điều kiện chủ động trong việc hợp tác quốc tế và nghiên cứu khoa học.
Thứ hai, cải thiện và nâng cao thể lực cho con người nói chung và lực lượng lao động
nói riêng.
Bên cạnh việc nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn thì nâng cao thể lực cho người
lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng cho việc phát triển trí lực, tâm
lực của nguồn nhân lực. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và lâu dài. Vì vậy, cần
phải đảm bảo mức dinh dưỡng cần thiết cho con người ở mọi lứa tuổi, khuyến khích
đẩy mạnh phong trào rèn luyện thể dục thể thao trong nhân dân… Chú trọng phát triển
công nghiệp dược đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Đẩy mạnh nghiên
cứu dự báo về y tế, các chương trình khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em, phòng
chống dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh có khả năng lây lan nhanh. Thực hiện có hiệu quả
công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, nâng cao tuổi thọ… góp phần phát
triển nguồn nhân lực có chiều sâu.
Thứ ba, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực.
Nhà nước cần nghiên cứu và đánh giá đầy đủ, chính xác về thực trạng cơ cấu nhân lực
ở từng giai đoạn, làm rõ các nguồn nhân lực thừa và nhân lực thiếu, xác định nguyên
nhân của tình trạng trên; từ đó, áp dụng các chính sách và công cụ đòn bẩy phù hợp
nhằm khai thác, sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn nhân lực. Đẩy mạnh việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phân luồng trong đào tạo, hướng nghiệp cho học sinh, qua đó tạo ra
sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, phù hợp với nhu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, cần có các chính sách ưu
đãi, hỗ trợ nhằm thu hút nguồn nhân lực từ nơi thừa sang nơi thiếu; từ thành phố, đồng
bằng lên vùng sâu, vùng xa. Trước mắt, cần có kế hoạch sử dụng triệt để và hiệu quả
lực lượng lao động đã qua đào tạo, tránh tình trạng lãng phí như hiện nay (không bố trí
được công ăn việc làm, sử dụng trái ngành nghề đào tạo,…).
Thứ tư, tăng cường công tác dự báo nguồn nhân lực.
Cần nghiên cứu đánh giá thực trạng cơ cấu nhân lực hiện có cũng như dự báo về nhu
cầu nhân lực ở các ngành, lĩnh vực khác nhau nhằm chủ động tránh tình trạng thừa và
thiếu nhân lực. Tăng cường công tác dự báo phát triển nguồn nhân lực trên phạm vi
vùng, ngành và quốc gia đảm bảo sự phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội trong từng giai đoạn nhất định. Nhiệm vụ này cần được tiến hành thường xuyên
để có sự điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi của thực tiễn cuộc sống.
Thứ năm, xây dựng chính sách tiền lương hợp lý.
Chính sách tiền lương hợp lý là một trong những động lực quan trọng kích thích người
lao động nâng cao trình độ của mình để đáp ứng được nhu cầu của công việc, đảm bảo
tăng thu nhập và ổn định đời sống. Lợi ích là khâu nhạy cảm nhất vì mọi hoạt động của
con người đều nhằm đạt mục tiêu là lợi ích. Nó là yếu tố quan trọng đối với việc thúc
đẩy tính tích cực, sáng tạo của con người. Có nhiều loại lợi ích khác nhau, trong đó lợi
ích kinh tế là lợi ích cơ bản, hàng đầu. Vì vậy, chính sách tiền lương, tiền công phải
đảm bảo nguyên tắc công bằng xã hội, tránh tình trạng giải quyết lợi ích theo kiểu bình
quân chủ nghĩa.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức như Đại hội X Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra, chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ và đồng bộ các giải pháp. Giữa các
giải pháp có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau, coi nhẹ hoặc bỏ qua một giải
pháp nào đó sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả của các giải pháp khác.r
(*) Phó trưởng khoa Khoa học cơ bản, Trường Cao đẳng Phát thanh Truyền hình I.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.187.
(2) TS. Nguyễn Thanh. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.86.
(3) Vũ Minh Mão – Hoàng Xuân Hoà. Dân số và chất lượng nguồn nhân lực ở Việt
Nam trong quá trình phát triển kinh tế. Tạp chí Cộng sản, số 709, 2004, tr.65.
(4) Trần Khánh Đức. Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực theo ISO &
TQM. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.26.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.94-95.
TRIẾT HỌC TRONG KỶ NGUYÊN TOÀN CẦU (Philosophy in the global age)
PGS., TS. Phạm Văn Đức,
PGS., TS. Đặng Hữu Toàn
(Đồng chủ biên)
Triết học, như chúng ta đều biết, trong suốt chiều dài lịch sử
hơn 2.500 năm của mình, luôn gắn liền với vận mệnh lịch
sử của nhân loại. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử
nhân loại, tuỳ thuộc vào sự đóng góp cho tiến bộ xã hội và cho chính tiến trình phát
triển của mình, triết học luôn nắm giữ một vị trí nhất định trong đời sống tinh thần xã
hội và có vai trò khác nhau khi tham gia vào việc giải quyết những vấn đề có ảnh
hưởng đến sự phát triển của đời sống xã hội. Có thể nói, do luôn gắn liền với quá
trình vận động, biến đổi và phát triển của đời sống xã hội, với thực tiễn xã hội, cộng
với đặc trưng tư duy phản tư vốn có của mình, với tư cách thế giới quan và phương
pháp luận cho hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới, triết học chưa bao giờ từ bỏ vị
trí và vai trò của mình trong đời sống xã hội cũng như trong việc giải quyết những
vấn đề do lịch sử đặt ra đối với tiến trình phát triển của xã hội loài người. Do vậy,
mỗi khi lịch sử nhân loại bước sang một giai đoạn phát triển mới, mỗi khi đời sống
xã hội có sự thay đổi mang tính bước ngoặt, triết học luôn nhìn nhận lại bản thân
mình, đánh giá lại vị trí và vai trò của mình trong thời đại lịch sử mới để không chỉ
có sự thay đổi và phát triển phù hợp với sự thay đổi và phát triển của thời đại, của
đời sống xã hội, mà còn có thể đưa ra những tiên đoán, dự báo về xu hướng vận
động, biến đổi và phát triển tiếp theo của thời đại, của đời sống xã hội.
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, toàn cầu hoá đã trở thành một xu thế phát
triển tất yếu, khách quan, đưa nhân loại thực sự bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ
Giá: 68.000 VND
nguyên toàn cầu. Xu thế toàn cầu hoá đã lan toả và có ảnh hưởng ngày càng sâu rộng
đến mọi quốc gia, mọi vùng lãnh thổ, mọi nền văn hoá dân tộc, bất kể đó là quốc gia,
vùng lãnh thổ, nền văn hoá phát triển hay đang phát triển. Toàn cầu hoá đã, đang và
sẽ còn mang lại cho các quốc gia, vùng lãnh thổ, nền văn hoá dân tộc những cơ hội
và ưu thế nhất định, song nó cũng đã, đang và sẽ còn đặt ra cho tất cả các quốc gia,
vùng lãnh thổ và nền văn hoá dân tộc những thách thức không nhỏ, mà để phát triển
thì nhất thiết phải vượt qua. Những thách thức này không chỉ đến từ phương diện
phát triển kinh tế, mà còn từ tất cả các phương diện khác của đời sống chính trị - xã
hội, như vấn đề chiến tranh và hoà bình, độc lập dân tộc, định hướng phát triển, dân
chủ hóa và nhân văn hoá đời sống xã hội, phát triển con người, ổn định xã hội, cải
thiện môi trường sống, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá
dân tộc, … Chính vì thế mà trong kỷ nguyên toàn cầu này, triết học không thể đứng
ngoài các vấn đề của toàn cầu hoá, đặc biệt là các vấn đề về bản chất, nội dung, đặc
điểm, nguyên nhân của toàn cầu hoá; tác động của toàn cầu hoá, cả theo hướng tích
cực lẫn tiêu cực, đến cuộc sống con người, trong đó không thể thiếu đời sống tinh
thần.
Cùng với xu thế toàn cầu hoá, những vấn đề toàn cầu của thời đại ngày nay đã xuất
hiện vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX và giờ đây, khi nhân loại đã thực sự bước
vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên toàn cầu, nhiều vấn đề trong số đó vẫn tiếp tục phát
triển với mức độ ngày càng gay gắt hơn. Những vấn đề toàn cầu được xác định là
tổng thể những vấn đề có liên quan trực tiếp đến sự sống còn của cả cộng đồng nhân
loại mà sự tiến bộ xã hội tiếp theo của nó, trong thời đại ngày nay, phụ thuộc rất
nhiều vào việc giải quyết chúng. Những vấn đề toàn cầu đó cũng chính là những vấn
đề mang tính nhân loại chung và động chạm đến lợi ích không những của cả cộng
đồng nhân loại, của mọi quốc gia, mọi dân tộc, mà còn của mỗi người, mỗi cá nhân
riêng biệt ở bất cứ nơi nào trên hành tinh này. Chúng thể hiện ra như là những nhân
tố khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên toàn cầu này và có
ảnh hưởng quan trọng, thậm chí là quyết định đến sự phát triển bền vững của tất cả
các quốc gia, vùng lãnh thổ, các khu vực trên phạm vi toàn thế giới. Với tính chất và
ý nghĩa đó, việc giải quyết những vấn đề toàn cầu trong kỷ nguyên toàn cầu này luôn
đòi hỏi phải có sự hợp nhất nỗ lực, sự hợp tác, sự liên kết sức mạnh của tất cả mọi
người, mọi quốc gia, khu vực, của tất cả các tổ chức ở cấp độ quốc tế và khu vực,
của tất cả các ngành khoa học, trong đó không thể thiếu vai trò của triết học.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, với tư cách thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt
động nhận thức và cải tạo thế giới, triết học đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu
không chỉ đối với việc xem xét tác động của toàn cầu hoá, của những vấn đề toàn cầu
đến các mặt đời sống xã hội và con người hiện đại, mà còn đối với cả việc nhận thức,
xác định bản chất sâu xa của chúng, nhất là trong việc xây dựng những giải pháp
mang tính định hướng cho việc giải quyết chúng theo hướng vì sự phát triển bền
vững của cả cộng đồng nhân loại, vì sự sống còn của cả cộng đồng nhân loại cũng
như của mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi con người. Triết học với các chức năng vốn có -
chuẩn mực, phê phán, định hướng, tiên đoán khoa học, tổng hợp tri thức,… không
chỉ đem lại cách tiếp cận phức hợp, liên ngành trong việc nhận thức bản chất, xu
hướng vận động và phát triển của toàn cầu hoá, của những vấn đề toàn cầu, mà còn
phản ánh chúng một cách đúng đắn, khoa học theo quan điểm phát triển toàn diện và
lịch sử - cụ thể để từ đó, góp phần xây dựng và luận chứng về mặt lý luận cho những
phương thức giải quyết chúng một cách hợp lý, có hiệu quả nhất. Để thực hiện được
vai trò lớn lao này, triết học không chỉ cần phải tự đổi mới, mang lại cho mình một
diện mạo mới, một sắc thái mới, một sự phát triển mới, mà còn phải tuân theo một
triết lý mới về sự phát triển bền vững, hướng tới bản chất nhân văn, tính nhân đạo,
khát vọng dân chủ, tự do và bình đẳng với tư cách thuộc tính vốn có của cả cộng
đồng nhân loại và của mỗi con người, thuộc tính được thực hiện trong cả cộng đồng
nhân loại và ở mỗi con người. Không chỉ thế, triết học còn phải trở thành trung tâm
cho quá trình thống hợp văn hoá trên cơ sở thay đổi lối triết lý một chiều truyền
thống của mình.
Trước những nguy cơ và thách thức của toàn cầu hoá, trước sự nan giải của những
vấn đề toàn cầu, khi nhận thức lại vị trí và vai trò của triết học trong kỷ nguyên toàn
cầu này, một số người cho rằng, do việc nghiên cứu và giải quyết những vấn đề quá
chung, nên kết quả nghiên cứu của triết học không có tác dụng thiết thực gì trong
việc giải quyết những vấn đề toàn cầu. Do không có phương pháp và thiết bị nghiên
cứu riêng của mình như các khoa học tự nhiên, nên tính chân lý trong các kết quả
nghiên cứu triết học không được đảm bảo và vì vậy, không thể dựa vào đó để xây
dựng các giải pháp cho việc giải quyết những vấn đề toàn cầu. Trái ngược với quan
điểm này, một số người lại tuyệt đối hoá vai trò của triết học khi khẳng định rằng, chỉ
cần nắm được triết học thì sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của cuộc sống,
kể cả những vấn đề mang tính toàn cầu nan giải nhất. Song, đa số mọi người đều coi
cả hai thái cực đó là sai lầm, bởi để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ
thể của cuộc sống, nhất là những vấn đề hết sức phức tạp, đầy sự nan giải như những
vấn đề toàn cầu, thì cần phải kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức: tri thức chung
(trong đó có tri thức triết học), tri thức khoa học chuyên ngành và tri thức thực tiễn
(trong đó có sự hiểu biết tình hình thực tiễn và kỹ năng nghề nghiệp được biểu hiện
qua sự hiểu biết thực tiễn). Trong kỷ nguyên toàn cầu và giai đoạn toàn cầu hoá hiện
nay, cái giúp cho cả cộng đồng nhân loại và mỗi con người vượt qua những khó
khăn, thử thách, giải thoát nhân loại và mỗi con người khỏi những thách đố và vướng
mắc của cuộc sống, đáp ứng nhu cầu thường nhật và lâu dài của nhân loại, của mỗi
con người không chỉ là kinh tế, kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao, mà còn là triết
học. Triết học giúp cho cả cộng đồng nhân loại, cho con người tìm ra lời giải không
chỉ cho những thách đố muôn thuở, mà còn cho những vấn đề hoàn toàn mới do quá
trình toàn cầu hoá đặt ra. Triết học không chỉ giúp cho con người, cho cả cộng đồng
nhân loại nhận thức rõ địa vị của mình, lối sống xứng đáng với con người, mà còn
giúp cho họ, cho nhân loại có được sự định hướng đúng đắn trong hành động và củng
cố quyết tâm hành động, đánh giá đúng những biến động đang diễn ra, gợi mở cách
đi, hướng giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra.
Cùng với quan điểm này, khi chỉ ra bản chất của những mâu thuẫn giữa các nền văn
hoá, văn minh, sự khác nhau giữa các tôn giáo, nguyên nhân của sự xung đột tôn
giáo, sắc tộc, của những mâu thuẫn và sự xung đột giữa các cộng đồng dân tộc, một
số người đã khẳng định rằng, sự phát triển của văn hoá, văn minh không những
không làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các cộng đồng xã hội, giữa các nền văn hoá
dân tộc, mà trái lại, còn là điều kiện để các dân tộc xích lại gần nhau, để các dân tộc
giữ gìn và phát huy bản sắc riêng có của mình và để cho các giá trị văn hoá có sự tiếp
biến lẫn nhau. Giải quyết mối quan hệ giữa các nền văn hoá, văn minh trong kỷ
nguyên toàn cầu này, trong giai đoạn toàn cầu hoá đã trở thành xu thế khách quan, tất
yếu luôn cần đến cách tiếp cận triết học. Bởi lẽ, cách tiếp cận triết học cho chúng ta
thấy được cả mặt tích cực lẫn tiêu cực của một quá trình - tiếp thu những thành tựu
văn hoá, văn minh nhân loại, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong kỷ nguyên toàn cầu này, thế giới đang bộc lộ rõ khuynh hướng đa dạng hoá
các nền văn hoá, văn minh và sự phát triển của mỗi cộng đồng dân tộc không thể
không gắn với sự gia tăng giao lưu văn hoá, văn minh toàn cầu. Triết học với tư cách
hạt nhân lý luận của văn hoá và là linh hồn sống của văn minh, đã trở thành một
trong những cơ sở nền tảng cho những nghiên cứu liên văn hoá, cũng như những
nghiên cứu về các nền văn minh thế giới. Giao lưu liên văn hoá với tư cách một lĩnh
vực nghiên cứu mới và ngày càng phát triển là sự thúc đẩy có tính chất cốt tử của nền
văn minh nhân loại, trong đó bao hàm cả các truyền thống triết học. Thấu hiểu quá
trình giao lưu liên văn hoá, tính liên văn hoá và bản sắc trong sự đa dạng của các nền
văn minh thế giới để trên cơ sở đó, xác lập tâm thế liên văn hoá một cách tích cực và
tuân thủ nguyên tắc đạo đức trong giao lưu liên văn hoá không thể không dựa trên
những nghiên cứu triết học. Theo đó, có thể khẳng định rằng, trong kỷ nguyên toàn
cầu này, trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, một trong những vai trò quan trọng
của triết học chính là đẩy mạnh nghiên cứu triết học đối với giao lưu liên văn hoá và
thúc đẩy sự giao lưu, hợp tác có hiệu quả giữa các truyền thống triết học, giữa các
trào lưu triết học đa dạng vì mục tiêu chung của các nền văn minh thế giới, vì nhiệm
vụ chung trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu của thời đại.
Về vai trò của triết học Mác – Lênin trong kỷ nguyên toàn cầu đã có những quan
điểm cho rằng, mặc dù chưa lý giải sâu, song C.Mác và Ph.Ăngghen đã có những dự
đoán khoa học về xu thế lịch sử của toàn cầu hoá và ít nhiều, các ông đã đề cập đến
vai trò định hướng của triết học trong việc nhận thức và giải quyết những vấn đề toàn
cầu của thời đại. Lý luận của chủ nghĩa Mác chính là một loại lý luận mang tính hiện
đại và cho đến nay, những khẳng định mang tính lịch sử của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác về các giá trị của tính hiện đại vẫn còn giữ nguyên ý nghĩa của nó. Do
vậy, việc luận giải một cách nghiêm khắc và theo tinh thần phê phán đối với toàn cầu
hoá lấy chủ nghĩa tư bản làm trung tâm là một trong những nội dung cần thiết và có ý
nghĩa quan trọng cho việc nghiên cứu sâu hơn lý luận về tính hiện đại của chủ nghĩa
Mác. Không chỉ thế, việc luận giải đó còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
định hướng phát triển cho cả cộng đồng nhân loại lẫn mỗi cộng đồng dân tộc trong
kỷ nguyên toàn cầu này, trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay.
Về triết học Việt Nam và vai trò của nó trong việc xác định định hướng phát triển
của Việt Nam hiện nay, một số người cho rằng, triết học Việt Nam tồn tại và phát
triển trên cơ sở vừa khẳng định bản sắc dân tộc của mình, vừa tiếp thu mọi giá trị
tích cực của các dân tộc khác. Với dân tộc Việt Nam, yêu thương không những là
tình cảm tự nhiên, mà còn là điều kiện để tồn tại, là lẽ sống bền vững và là hạnh phúc
lớn nhất của con người. Chủ nghĩa yêu nước là biểu hiện rõ nhất của tính cộng đồng
Việt Nam; đồng thời cũng là cốt lõi của mọi tư duy triết học, là tiêu chuẩn cao nhất
trong đạo đức và là điều thiêng liêng nhất trong mọi tôn giáo ở Việt Nam. Trong kỷ
nguyên toàn cầu và giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, trong việc mở rộng quan hệ giao
lưu, đối thoại giữa các nền văn hoá, văn minh, giữa các trào lưu triết học trên toàn
thế giới, việc phấn đấu cho thế giới được sống trong hoà bình, hữu nghị, cho các
cộng đồng dân tộc được phồn vinh và hạnh phúc là mục tiêu cao nhất, có ý nghĩa sâu
sắc của triết học.
Cùng với quan điểm đó, cũng đã có quan điểm cho rằng, trong lịch sử, triết học Việt
Nam thể hiện tập trung ở hai vấn đề: tư tưởng triết học về số phận của cá nhân con
người và tư tưởng triết học về vận mệnh của đất nước. Đây chính là sắc thái tư duy
triết học đặc thù của Việt Nam. Trước đây, triết học Việt Nam ít nhiều đã có sự giao
lưu với các trường phái, các tư tưởng triết học nước ngoài. Ngày nay, khi mở cửa
giao lưu văn hoá và hội nhập kinh tế quốc tế vừa là cơ hội, vừa là thách thức mới đối
với Việt Nam, bản thân triết học Việt Nam cũng cần phải tự đổi mới để phát triển, để
có được một diện mạo mới, một sắc thái mới, một vị trí xứng đáng, một vai trò ngày
càng có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội, trong việc tham gia
lựa chọn và thực hiện định hướng phát triển đất nước. Trong kỷ nguyên toàn cầu và
giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, việc nhận thức lại tư duy truyền thống và lựa chọn,
kế thừa những giá trị trong tư duy triết học của thế giới là điều cần thiết để triết học
Việt Nam tự đổi mới, phát triển và hội nhập tích cực với triết học thế giới.
Trong kỷ nguyên toàn cầu này, để có được vị trí và vai trò xứng đáng trong đời sống
tinh thần xã hội và tham gia ngày một tích cực vào việc giải quyết những vấn đề do
thực tiễn phát triển đất nước đặt ra, triết học Việt Nam không chỉ tập trung nghiên
cứu những vấn đề do toàn cầu hoá đặt ra, tức là phản tư những vấn đề thế giới hay
vấn đề toàn cầu, mà còn phải và hơn nữa, coi là hướng nghiên cứu chủ đạo - tập
trung luận giải những vấn đề thực tiễn của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
trong bối cảnh toàn cầu hoá, mở cửa giao lưu văn hoá và chủ động hội nhập kinh tế
thế giới. Đồng thời, cần đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu những tư tưởng triết học
Việt Nam, nghiên cứu những trào lưu, những tư tưởng, quan điểm triết học của các
nhà triết học tiêu biểu trên thế giới, cả phương Đông lẫn phương Tây, trước hết là
những trào lưu, những tư tưởng và quan điểm triết học có ảnh hưởng nhiều hơn đến
Việt Nam, đặc biệt là triết học Mác – Lênin.
Đó là tất cả những vấn đề đang được đặt ra và giải quyết trong việc nhận thức lại vai
trò của triết học với diện mạo mới, sắc thái mới, sự phát triển mới của triết học cuối
thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI.
Trước mắt bạn đọc là cuốn sách bao gồm tập hợp các bài viết mà phần lớn là các báo
cáo khoa học của các học giả trong và ngoài nước đã tham gia hội thảo quốc tế
“Nhận thức lại vai trò của triết học trong kỷ nguyên toàn cầu” do Viện Triết học
phối hợp với Liên đoàn quốc tế các hội triết học (FISP) tổ chức tại Hà Nội vào tháng
6 năm 2006. Hội thảo đã thu hút được hơn 30 nhà triết học đại diện cho các hội triết
học trên thế giới và gần 60 người đại diện cho các nhà nghiên cứu và giảng dạy ở
Việt Nam, được tổ chức dưới sự tài trợ về kinh phí của Xã hội mở Đài Bắc, Trường
Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh (Trung Quốc) và Hội đồng nghiên cứu Triết học và
Giá trị thuộc Trường Đại học Công giáo Hoa Kỳ. Đồng thời hội thảo cũng nhận được
sự hỗ trợ hết sức đắc lực về cơ sở vật chất và phương tiện của Viện Khoa học xã hội
Việt Nam.
Phần lớn các báo cáo của phần thứ nhất cuốn sách này đã được in trên Tạp chí Triết
học. Số bài còn lại được lấy từ tài liệu do Liên đoàn quốc tế các hội triết học cung
cấp. Đó là những bài viết giới thiệu một cách tổng quan về tình hình nghiên cứu và
giảng dạy triết học ở một số nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù không phải
là cuốn chuyên khảo, nhưng với kết cấu hai phần: phần thứ nhất “Nhận thức lại vai
trò của triết học trong kỷ nguyên toàn cầu”, phần thứ hai “Diện mạo triết học thế
giới cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI”, cuốn sách tập trung bàn về một chủ đề đang
được giới triết học trong nước và thế giới quan tâm - đó là chủ đề: Nhận thức lại
triết học ngày nay. Đây cũng chính là chủ đề chính của Đại hội Liên đoàn quốc tế
các hội triết học lần thứ XXII sẽ được tổ chức vào từ 30 tháng 7 đến 5 tháng 8 năm
2008 tại Seoul, Hàn Quốc. Hy vọng cuốn sách sẽ cung cấp cho người đọc những
cách nhìn khác nhau về triết học trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Với sự ra đời của cuốn sách này, cho phép chúng tôi được bày tỏ sự cảm ơn tới
GS.,TS. Đỗ Hoài Nam, Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam, đã cho phép và tạo
mọi điều kiện để Hội thảo quốc tế được tổ chức tại Hà Nội; cảm ơn GS. Peter Kemp,
Chủ tịch Liên đoàn quốc tế các hội triết học, cảm ơn GS. Mc. Bride, Tổng thư ký
Liên đoàn quốc tế các hội triết học với tư cách là những người đại diện cho cơ quan
đồng tổ chức hội thảo với Viện Triết học; cảm ơn các học giả trong và ngoài nước đã
tham gia viết bài và thảo luận tại hội thảo. Đặc biệt, chúng tôi xin chân thành cảm ơn
GS. Trần Văn Đoàn, Ủy viên Ban điều hành của Liên đoàn quốc tế các hội triết học,
Chủ tịch Liên hiệp các nhà triết học châu Á, Giáo sư Trường Đại học Quốc gia Đài
Loan, người đã đề xuất ra ý tưởng về chủ đề Hội thảo, đồng thời rất tích cực vận
động tài trợ để Hội thảo được tổ chức tại Hà Nội.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin cảm ơn các cơ quan tài trợ của Hội thảo là Xã hội mở
Đài Bắc, Trường Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh (Trung Quốc) và Hội đồng nghiên
cứu Triết học và Giá trị thuộc Trường Đại học Công giáo Hoa Kỳ.
Cuối cùng, dù có rất nhiều cố gắng, nhưng cuốn sách này chắc chắn sẽ khó tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong các bạn đọc lượng thứ và có nhiều ý kiến góp ý.
PHẠM VĂN ĐỨC (*)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tap_chi_triet_hoc_so_9_196_nam_2007_6069.pdf