Tiểu luận Ngành sữa Việt Nam – biểu tượng của sự phát triển ổn định

Quý I/2012, đại diện CTCP sữa Việt Nam (Vinamilk) cho biết, sau thảm hoạ lũ lụt lịch sử, các đối tác Thái Lan đã ký hợp đồng cung cấp sữa Vinamilk với trị giá gần 10 triệu USD. Năm 2011, Vinamilk đạt doanh thu hơn 1 tỷ USD, tăng 37% về doanh thu. Với doanh thu ấn tượng trên, Vinamilk đã chính thức trở thành doanh nghiệp sữa lớn của châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt, năm 2011 với kim ngạch xuất khẩu vượt kế hoạch (trên 140 triệu USD, tăng 72% so với 2010), Vinamilk đã đạt doanh số xuất khẩu kỷ lục từ khi thành lập đến nay. Vinamilk với các sản phẩm đa dạng đang được xuất khẩu đến 15 nước như Mỹ, Australia, Canada, Nga, Vinamilk đang nổ lực đầu tư chiều sâu để trở thành 1 trong 50 doanh nghiệp sữa lớn nhất thế giới với doanh số 3 tỷ USD vào năm 2017.

pdf8 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2950 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Ngành sữa Việt Nam – biểu tượng của sự phát triển ổn định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Ngành sữa Việt Nam – biểu tượng của sự phát triển ổn định I. Tổng quan ngành sữa Việt Nam Nằm trong xu thế chung của các nước đang phát triển trên thế giới, nhu cầu về các sản phẩm sữa ở Việt Nam như một nguồn bổ sung dinh dưỡng thiết yếu ngày càng tăng lên. Điều này có thể thấy qua sự gia tăng doanh số từ sữa của các hãng sản xuất tại Việt Nam, với tổng doanh thu các mặt hàng sữa tăng ổn định qua các năm (18% các năm 2009, 2010). Nhu cầu về sữa ở Việt Nam còn rất lớn. Theo thống kê của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, mức tiêu thụ các sản phẩm từ sữa của người Việt Nam là 14,81 lít/ người/ năm, còn thấp so với Thái Lan (23 lít/ người/ năm) và Trung Quốc (25 lít/ người/ năm). Trẻ em tại thành phố lớn tiêu thụ 78% các sản phẩm sữa, hứa hẹn thị trường đầy tiềm năng tại Việt Nam. Thu nhập tăng cùng với việc hiểu biết hơn về lợi ích của sữa khiến nhu cầu tiêu dùng sữa ngày càng tăng cao (20-25% một năm, trong đó sữa nước tăng 8-10% một năm). Về phía cung: ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào ngành sản xuất, chế biến sữa. Hiện cả nước có hơn 60 doanh nghiệp với 300 nhãn hiệu. Tuy nhiên, tổng sản lượng sữa tươi sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 20-25% nhu cầu, còn lại phải nhập khẩu từ nước ngoài. 1. Các sản phẩm sữa ở Việt Nam Cùng với nhu cầu về các sản phẩm sữa ngày càng tăng lên tại Việt Nam, thị trường sữa hiện có sự tham gia của nhiều hãng sữa, cả trong nước và nước ngoài, với nhiều sản phẩm phong phú:  Sữa bột là mảng sản phẩm đem lại lợi nhuận cao nhất cho nhà sản xuất:Cạnh tranh trong ngành sữa diễn ra mạnh nhất ở mảng sữa bột (bao gồm cả sữa bột công thức và các loại sữa bột khác). Mảng sữa bột, đặc biệt là các loại sữa bột thuộc phân khúc cao cấp sẽ là đối tượng cạnh tranh của các hãng, do lợi nhuận của nhà sản xuất/ giá bán lẻ ở mức rất cao, đạt 40%; và đây cũng là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu các mặt hàng sữa. Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt nhất bởi mảng sản phẩm này bởi có sự tham gia của rất nhiều hãng sữa cả trong nước và nước ngoài.  Các sản phẩm sữa uống bao gồm: sữa nước, sữa bột khác (không bao gồm sữa bột công thức trẻ em), và sữa đậu nành.  Sữa nước. Sữa nước bao gồm sữa tươi nguyên chất (được làm từ 100% sữa tươi) và sữa tiệt trùng (được chế biến từ sữa bột nhập khẩu). Do nguồn nguyên liệu trong nước hạn chế, các sản phẩm sữa tiệt trùng hiện chiếm phần lớn trong tiêu thụ sữa nước. VINAMILK và Dutchlady là 2 công ty chiếm phần lớn thị phần sữa nước, với sữa nước dành cho trẻ em và các đối tượng khác. Các công nhỏ trong nước khác như Hanoimilk, Nutifood, Mộc Châu, Ba Vì… chiếm thị phần nhỏ về mảng sản phẩm này. Năm 2009, Vinamilk đã có bước tăng trưởng đột phá, vươn lên chiếm 55,4% thị phần sữa nước toàn quốc  Sữa bột khác. Đây là các loại sữa bột dành riêng cho từng đối tượng, thường là người lớn với các sản phẩm như: Dielac Mama (VINAMILK), Enfamama (Abbott), Frisomum (Dutch Lady – nhập khẩu trực tiếp từ Hà Lan) hướng tới đối tượng là phụ nữ mang thai; Anlene (Fonterra Brands) hay Ensure (Abbott) dành cho người có nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt. Thị trường chuyên biệt trong ngành sữa thường là dinh dưỡng cho người lớn tuổi và dinh dưỡng dành cho theo bệnh lý như. Vượt trội trong cung cấp calcium cho người lớn tuổi, nhãn hàng Anlene của công ty Fonterra đã chiếm đến 80% thị phần trong ngành hàng chuyên biệt này. Ở mảng sản phẩm này, các mặt hàng sữa nhập khẩu nước ngoài vẫn chiếm ưu thế về thương hiệu và thị phần.  Sữa đậu nành. Sản phẩm này có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong những năm qua, với CAGR giai đoạn 2004-2009 đạt 24,2%, do nhận thức của người tiêu dùng về lợi ích của sữa đậu nành ngày càng tăng, và nhờ các chiến dịch quảng cáo của nhà sản xuất. Hiện nay, công ty sữa đậu nành Việt Nam Vinasoy chiếm 70% thị phần về sữa đậu nành hộp giấy, với 2 sản phẩm chính là sữa đậu nành Fami và sữa đậu nành mè đen. Thị phần còn lại là của VINAMILK với nhãn hiệu V-fresh. VINAMILK đang muốn mở rộng doanh thu ở mặt hàng.  Các loại sữa khác  Sữa đặc có đường. Hiện nay, thị trường về sản phẩm này đã bão hòa, với 79% thị phần thuộc về VINAMILK và 21% thị phần thuộc về Dutch Lady. Tuy nhiên, người tiêu dùng, đặc biệt là ở thành phố, bắt đầu nhận thức được sữa đặc có đường không tốt cho sức khỏe, và hiện nay, sữa đặc có đường hiện phổ biến hơn đối với người tiêu dùng ở nông thôn. Theo EMI, nhu cầu về các sản phẩm sữa đặc ở Việt Nam hiện đang đến giai đoạn bão hòa.  Sữa chua. Sữa chua được nhiều người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng nhờ các thành phần dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe. Hiện nay, phần lớn sữa chua được sản xuất bởi các công ty sữa như VINAMILK, Dutchlady, Ba Vì, Mộc Châu… 2. Hệ thống phân phối Hệ thống phân phối trong ngành sữa rất quan trọng đến quyết định doanh thu của các công ty. Hiện các công ty phânphối qua các kênh:  Từ đại lý lớn tới các tạp hóa nhỏ  Qua các siêu thị: ngày càng chiếm tỷ trọng lớn do thay đổi trong thói quen tiêu dùng của người dân.  Qua các trung tâm dinh dưỡng, giới thiệu sản phẩm: phối hợp với các bệnh viện (Viện nhi, Viện phụ sản…),các quầy thuốc tại bệnh viện, các trung tâm tư vấn dinh dưỡng (Viện dinh dưỡng quốc gia, Trung tâm khám vàtư vấn dinh dưỡng TP Hồ Chí Minh…): kết hợp trực tiếp giới thiệu sản phẩm và tư vấn thông qua các chuyên gia dinh dưỡng tại đây Các công ty trong nước. VINAMILK hay Dutch Lady có hệ thống phân phối riêng của mình. VINAMILK hiện có hệ thống phân phối riêng với 135.000 điểm bán lẻ trên toàn quốc (VINAMILK, 2010). Dutch Lady Việt Nam hiện phân phối sản phẩm của mình thông qua hơn 150 nhà phân phối và 100.000 điểm bán lẻ Các công ty nước ngoài. Các công ty sữa nước ngoài khi bán hàng tại Việt Nam phải phân phối qua các đại lý ủy quyền, từ đó phân phối ra các kênh khác. Các công ty sữa ở nước ngoài khi bán hàng tại Việt Nam phải qua 1 đại để kiểm tra kiểm dịch chất lượng sản phẩm, đóng gói lại theo tiêu chuẩn Việt Nam. 3. Nguồn nguyên liệu Nguồn nguyên liệu trong nước phụ thuộc vào tiềm năng phát triển của ngành chăn nuôi bò sữa trong nước và nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Đàn bò sữa tăng trưởng 16%/năm trong giai đoạn 2001-2009, tập trung chủ yếu ở miền Nam. Miền Bắc chỉ chiếm từ 15-25% tổng số bò sữa tại Việt Nam trong giai đoạn này. Ở miền Nam, thành phố Hồ Chí Minh là vùng nuôi nhiều bò sữa nhất, với hơn 69 nghìn con vào năm 2008. 4. Diễn biến giá sữa Sữa là một trong những mặt hàng bình ổn giá theo thông tư 104. Nhưng thông tư 104 hiện tại còn nhiều sơ hở, để các doanh nghiệp có thể lách được và tiếp tục tăng giá sữa…Ví dụ như mỗi đợt tăng giá sữa phải hơn 20% mới bị coi là vi phạm thông tư này, trong khi các hãng sữa chia nhỏ các đợt tăng giá, mỗi đợt đều dưới 20%. Ngoài ra, thông tư này không áp dụng với các hãng sữa nước ngoài. Từ đầu tháng 1/2011, nhiều mặt hàng sữa như: Friso, Hanco, Dutch Lady… đã đồng loạt tăng giá bán, với mức tăng từ 5-10%. Ví dụ, tháng 4/2011, giá 1 hộp Ensure Gold – 900g là 560.000 VND. Trong khi đó, từ giữa tháng 3, mặt hàng này đã tăng từ 474.000 đồng lên lên 550.000 đồng. Sữa Gain Plus IQ 900g cũng tăng khoảng 10.000 đồng lên 400.000 đồng. Sữa Pediasure 900gr tăng mạnh hơn lên 490.000 đồng. Đây hầu hết là các sản phẩm sữa bột nhập ngoại. Nguyên nhân mà các hãng sữa đưa ra là chi phí đầu vào tăng cao. Cụ thể như tỷ giá liên tục tăng cao, hay thuế nhập khẩu sữa cũng tăng từ 5% lên 10%. Đặc biệt, chi phí mua nguyên liệu cũng tăng mạnh từ 10-30%... II. Vinamilk - đại diện tiêu biểu cho ngành sữa Việt Nam 1. Mở rộng doanh nghiệp Năm 2009, phát triển được 135.000 đại lý phân phối, 9 nhà máy và nhiều trang trại nuôi bò sữa tại Nghệ An, Tuyên Quang. Năm 2011-2012 xây dựng nhà máy sữa nước và sữa bột tại Bình Dương với tổng vốn đầu tư là 20 triệu USD. Riêng năm 2011, Vinamilk đưa vào hoạt động nhà máy sữa Đà Nẵng với vốn đầu tư 30 triệu USD. 2. Xuất khẩu: Quý I/2012, đại diện CTCP sữa Việt Nam (Vinamilk) cho biết, sau thảm hoạ lũ lụt lịch sử, các đối tác Thái Lan đã ký hợp đồng cung cấp sữa Vinamilk với trị giá gần 10 triệu USD. Năm 2011, Vinamilk đạt doanh thu hơn 1 tỷ USD, tăng 37% về doanh thu. Với doanh thu ấn tượng trên, Vinamilk đã chính thức trở thành doanh nghiệp sữa lớn của châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt, năm 2011 với kim ngạch xuất khẩu vượt kế hoạch (trên 140 triệu USD, tăng 72% so với 2010), Vinamilk đã đạt doanh số xuất khẩu kỷ lục từ khi thành lập đến nay. Vinamilk với các sản phẩm đa dạng đang được xuất khẩu đến 15 nước như Mỹ, Australia, Canada, Nga,…Vinamilk đang nổ lực đầu tư chiều sâu để trở thành 1 trong 50 doanh nghiệp sữa lớn nhất thế giới với doanh số 3 tỷ USD vào năm 2017. 3. Thương hiệu Vinamilk Vinamilk đang xây dựng và phát triển một hệ thống các thương hiệu mạnh mẽ đáp ứng tốt nhu cầu và tâm lý tiêu dung của người tiêu dung Việt Nam. Thương hiệu Vinamilk đang là thương hiệu dinh dưỡng có uy tín, đáng tin cậy nhất với mọi người dân Việt Nam thong qua các chiến lược quảng bá về giá trị dinh dưỡng đặc thù phù hợp nhất với người tiêu dung Việt Nam. Ngoài ra, Vinamilk còn có thị phần rất mạnh ở các mặt hàng nước giải khát tốt cho sức khoẻ (như VFresh) đáp ứng nhu cầu tiêu dung tăng nhanh đối với các mặt hang nước giải khát đến từ thiên nhiên và tốt cho sức khoẻ con người. Ngoài ra Vinamilk đang cố gắng mở rộng thị phần của mình hơn đến các nơi Vinamilk chưa có thị phần cao, đặc biệt là vùng nông thôn và các đô thị nhỏ. Vinamilk đang tiếp tục nâng cao năng lực quản lý hệ thống cung cấp, mở rộng phát triển hệ thống phân phối chủ động, vững mạnh và hiệu quả. Vinamilk luôn tìm cách đảm bảo nguồn cung sữa tươi ổn định, chất lượng cao với giá cả cạnh tranh đáng tin cậy. Với thành tựu đáng tự hào của Vinamilk vào năm 2011 và đầu năm 2012, đây là dấu hiệu tốt cho thấy Vinamilk đang phát triển thương hiệu một cách vững mạnh. Ngành sữa Việt Nam có tiềm năng rất lớn vẫn chưa được các doanh nghiệp khai thác hết và sẽ còn phát triển mạnh trong tương lai, tiêu biểu là Vinamilk, một thương hiệu sữa Việt Nam mạnh mẽ đầy uy tín và tiềm năng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf_10_tn09db2_2906.pdf
Luận văn liên quan