Tiểu luận Nghiên cứu hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài của Việt Nam

Trong suốt hơn một thập kỷ qua, đầu tư nước ngoài luôn là điểm sáng trong toàn cảnh bức tranh kinh tế vĩ mô của Việt N am với một khuôn khổ pháp lý ngày càng được thông thoáng dần. Nhìn chung, nguồn vốn FPI góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng và hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia tăng và phát triển bộ phận thị trường FPI sẽ làm cho thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chứng khoán Việt Nam trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng, thậm chí đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài của thị trường này trong thời gian qua. M ặt khác, FPI cũng góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hóa phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và t hu nhập của đông đảo người dân. Việc phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả về bề rộng và bề sâu sẽ mang lại những cơ hội mới và sự đa dạng hóa trong lựa chọn các p hương thức đầu tư cho các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài và trong nước.

pdf55 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3211 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cầu. Nhật Bản giảm từ thứ 4 năm 1997 xuống thứ 6 năm 2001 (từ 6,5% xuống 4,2%) sau Pháp và Hà Lan. Luồng đầu tư gián tiếp ở các nước phát triển vẫn tiếp tục khá ổn định và còn có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Tính riêng về nguồn vốn đầu tư mạo hiểm: Các quỹ đầu tư mạo hiểm hiện nay đang hoạt động hiệu quả hơn bao giờ hết. Trên thị trường Mỹ, nguồn vốn đầu tư mạo hiểm đã trở thành một phương tiện gia tăng nguồn vốn cổ phần của các công ty trong giai đoạn đầu hình thành và chiếm đến hơn một nửa nguồn vốn đầu tư toàn thế giới trong năm 2005. Ở Châu Âu, nguồn vốn này cũng tăng nhanh từ 12,8 tỷ USD năm 2004 lên tới 15,8 tỷ USD trong năm 2005, trong đó Anh là nước có thị trường vốn đầu tư mạo hiểm phát triển nhất, chỉ sau M ỹ. Nguồn vốn đầu tư mạo hiểm ở Anh đã tăng từ 2 tỷ USD năm 2004 lên 2,8 tỷ USD trong năm 2005, mức cao nhất kể từ năm 2001. Canada cũng là một thị trường thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư mạo hiểm. Trong năm 2005, khoảng 1,5 tỷ USD đã được đầu tư vào 590 công ty. Những năm gần đây, cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, Trung Quốc và Ấn Độ đang là một trong những thị trường thu hút được nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài nhất trong khu vực châu Á. Đối với các nhà đầu tư M ỹ, Trung Quốc và Ấn Độ là hai thị trường lớn nhất, chiếm khoảng 60% thị trường Châu Âu và Châu Á tính gộp lại. Trên thị trường đầu tư mạo hiểm, Trung Quốc cũng chiếm 20% thị trường thế giới chỉ sau Mỹ (22%), đạt khoảng 7 tỷ USD trong năm 2004 và còn có khuynh hướng gia tăng trong những năm tới, Ấn Độ chiếm 13% thị trường thế giới, trên cả Nhật Bản (10%), đạt 2,3 tỷ USD trong năm 2005 và trong quý đầu của năm 2006, ước khoảng 2,5 tỷ USD đã được đầu tư vào thị trường Ấn Độ. a. Trung Quốc Sự phát triển của thị trường chứng khoán cùng với quyết định nới lỏng các chính sách đối với các nhà đầu tư nước ngoài đã khiến cho Trung Quốc trở thành một Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 34 thị trường đầy hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Mỹ và châu Âu. Thu hút vốn đầu tư gián tiếp liên tục gia tăng ở Trung Quốc trong những năm gần đây, từ 115 tỷ USD năm 2003 lên 253 tỷ USD năm 2004. Sự phát triển của thị trường chứng khoán và sự phục hồi của các ngân hàng Trung Quốc trong những năm qua đã thu hút được một lượng vốn khá lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các ngân hàng lớn như HSBC Securities, Bank of America, Citigroup, American Express. Trong 10 năm qua (1995- 2005), 117 công ty Trung Quốc đã thu hút được 45,5 tỷ USD từ các thị trường chứng khoán trên thế giới. Các ngân hàng Trung Quốc đang rất hấp dẫn các nhà đầu tư nhờ sự phát triển ổn định và có triển vọng sau một thời gian dài bất ổn, thị trường trái phiếu phát triển mạnh và người tiêu dùng cũng đã ngày càng sử dụng nhiều hơn các dịch vụ Ngân hàng. Trong những năm qua, các Ngân hàng trên đã mua tổng cộng trên 20 tỷ USD cổ phần của các Ngân hàng Trung Quốc. Từ năm 2001, với việc mở cửa thị trường chứng khoán cho phép dân cư đại lục dự trữ ngoại tệ và đầu tư ra ngoài thị trường đại lục, trong đó có Hồng Kông (nơi có nhiều công ty Trung Quốc hoạt động và niêm yết chứng khoán nhưng lâu nay lại không thể bán cho dân chúng đại lục qua các kênh phân phối chính thức) đã khiến cho lượng vốn đầu tư gián tiếp huy động được trên thị trường này lên tới 462 tỷ USD. b. Ấn Độ Ấn Độ được đánh giá là thị trường lớn thứ hai sau Trung Quốc, đang tiếp tục thu hút nhiều vốn đầu tư gián tiếp nhờ các chương trình tư nhân hóa và những chuyển biến tích cực trong ngành công nghiệp nội địa. Là một quốc gia có lịch sử phát triển thị trường chứng khoán chưa dài, mức độ mở cửa nền kinh tế còn giới hạn và đang trong lộ trình hội nhập toàn cầu, tuy nhiên Ấn Độ đã đạt được những thành công nhất định trong thu hút, quản lý dòng vốn đầu tư gián tiếp Ấn Độ và Việt Nam có sự tương đồng về khu vực địa lý, hơn nữa lại cùng được xếp hạng trong nhóm các quốc gia mới nổi, chính vì vậy, những thành công của Ấn Độ sẽ là kinh nghiệm hữu ích cho Việt Nam. Đầu tư gián tiếp nước ngoài chiếm hơn 10% thị trường chứng khoán Ấn Độ và khoảng từ 50-60% thị trường phân phối. Điều này cho thấy, đầu tư gián tiếp đã trở thành nguồn vốn chủ đạo trên thị trường vốn Ấn Độ. Chính phủ nước này đang tiếp tục nỗ lực đề ra hàng loạt các thay đổi về luật pháp và thuế quan để thu hút nguồn vốn Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 35 đầu tư gián tiếp; tăng cường việc đổi mới để đạt được sự chuyển biến tích cực tạo môi trường trong sạch và lành mạnh trên thị trường chứng khoán. Việc các dòng vốn gián tiếp ngày càng gia tăng ở Ấn Độ đã phản ánh vị thế của nước này trong các nền kinh tế mới nổi. Dòng vốn FPI vào Ấn Độ tăng trưởng bền vững trong hơn một thập kỷ qua, từ 4 triệu USD giai đoạn 1992-1993 đã tăng lên 10,25 tỉ USD ròng năm 2004 -2005 (tổng tích lũy lên tới 36 tỷ USD). Từ khi được phép tham gia thị trường chứng khoán Ấn Độ, lượng mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài luôn dương (ngoại trừ năm 1998 - 1999). Điều này phản ánh nền tảng kinh tế vững, sức tăng trưởng của lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ và những chính sách quản lý hợp lý đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Tháng 4/2003, chỉ số tài chính toàn cầu Morgan Stanley (MSCI) cho các thị trường mới nổi đã tăng tỉ trọng đầu tư vào Ấn Độ lên 4,3%, đánh dấu sự quan tâm lớn của các tổ chức nước ngoài tới thị trường chứng khoán của quốc gia này. Những điểm mốc đáng chú ý trong chính sách quản lý dòng vốn FPI của Ấn Độ Để thu hút được một cách bền vững và sử dụng có hiệu quả dòng vốn FPI, Ấn Độ đã có những điều chỉnh hợp lý trong chính sách quản lý dòng vốn này. Từ tháng 9/1992, quốc gia này đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào cả thị trường sơ cấp và thứ cấp. Mỗi nhà đầu tư nước ngoài được mua không quá 24% vốn điều lệ của một công ty. Sự điều chỉnh này về cơ bản đã khai thông được dòng FII vào thị trường tài chính của ấn Độ. Đến tháng 11/1996, các nhà đầu tư nước ngoài đã được phép đầu tư 100% vào chứng khoán nợ và đến tháng 4/1997, tổng mức giới hạn sở hữu của khối ngoại có tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, nhà đầu tư cá nhân nước ngoài đã tăng lên 30%. Chỉ một năm sau, tháng 4/1998, ấn Độ đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào các chứng khoán do chính phủ phát hành theo mức trần quy định; mức trần lúc đó là 1 tỷ USD, từ năm 2004 tới nay, mức trần đã tăng lên 1,75 tỷ USD. Tháng 6/1998, nhằm đưa ra các công cụ phòng ngừa rủi ro về giá, Ấn Độ đã tăng tổng mức giới hạn danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài từ 5% lên 10%, đồng thời cho phép nguồn vốn FII được đầu tư vào hợp đồng kỳ hạn. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng được phép đầu tư vào chứng khoán phái sinh từ cổ phiếu. Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 36 Tháng 2 năm 2000, Chính phủ Ấn Độ đã cho các tổ chức nước ngoài và cá nhân có mức đầu tư lớn được phép đầu tư thông qua tài khoản thứ cấp của các tổ chức đầu tư nước ngoài. Giám đốc quản lý danh mục đầu tư trong nước được phép làm việc cho các tổ chức đầu tư nước ngoài để quản lý các quỹ của tài khoản thứ cấp. Động thái này khiến cho tính linh hoạt và khả năng quản lý tài sản nội địa được tăng lên mạnh mẽ. Sau đó, kể từ tháng 3/2001, trần tỷ lệ đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài tại Ấn Độ đã được tăng lên 49% và thậm chí cao hơn tùy theo lĩnh vực. Nhằm thu hút hơn nữa sự tham gia của khối ngoại, tiết kiệm thời gian và đơn giản thủ tục đăng ký, tháng 12/2003, Ấn Độ đã thực hiện đơn giản hóa thủ tục cấp phép song song giữa Uỷ ban Chứng khoán và Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ được đơn giản hóa. Kể từ đó, Uỷ ban Chứng khoán là cơ quan duy nhất cấp phép cho hoạt động FPI. Gần 1 năm sau, tháng 11/2004, Ấn Độ áp dụng mức vay tối đa bằng USD cho một tổ chức là 500 triệu USD nhằm mục đích giới hạn các khoản nợ ngắn hạn. Hiệu quả từ các chính sách thu hút FPI của Ấn Độ được thể hiện thông qua sự phát triển TTCK, cụ thể là chỉ số INDIA BSE 30 INDEX. Khởi đầu vào ngày 01/7/1997, chỉ số INDIA BSE 30 đứng ở mức 4.300,86 điểm. Sau khi đạt 6.150,69 điểm vào ngày 14/02/2000, chỉ số này sụt giảm và chạm đáy 3.132,27 điểm vào ngày 28/12/2001. Từ đó tới nay, chỉ số INDIA BSE 30 đã tăng trưởng liên tục và đạt mức cao kỷ lục 21.206,77 ngày 10/01/2008 (tăng gấp gần 7 lần so với năm 2001). Và hiện tại chỉ số này đứng ở mức 16,907.11 vào ngày 22/5/2008. Kết thúc phiên giao dịch ngày 30/5, chỉ số này đóng cửa tại 16.415,57 điểm. Khi so sánh với các quốc gia khác như Hàn Quốc, Philipine, Nhật Bản, Thái Lan, Đài Loan, Indonesia và Nam M ỹ, rõ ràng dòng vốn FII thuần vào Ấn Độ có mức tăng trưởng ổn định hơn hẳn. Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 37 Tổng vốn đầu tư FII vào Ấn Độ Cho tới những năm 80, chiến lược phát triển của Ấn Độ là tự cung - tự cấp và trợ cấp xuất khẩu. Thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp bởi nợ và ODA. Chính phủ đã đặt ra những rào cản với đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế. Sau cuộc cải cách vào đầu những năm 90 đã có sự thay đổi về kết cấu thành phần trong tài khoản vốn. Từ ngày 14/9/1992 với những biện pháp hạn chế phù hợp, FPI và các tổ chức nước ngoài được phép đầu tư vào các công cụ tài chính của Ấn Độ. Cuộc cách mạng về chính sách với FII của quốc gia này đã thể hiện những bước đi thận trọng tiến tới dỡ bỏ hệ thống quản lý theo hạn ngạch, nới lỏng hạn chế về điều kiện hoạt động và đa dạng công cụ đầu tư (Room cho nhà đầu tư nước ngoài tăng từ 5% năm 1992 lên 24% năm 1998, 40% năm 2000, 49% năm 2001 và quy định theo từng lĩnh vực bắt đầu từ 20/9/2001). Khác với một số quốc gia Đông Á đã mở cửa thị trường tài chính một cách ồ ạt và thiếu định hướng, Ấn Độ áp dụng nguyên tắc cẩn trọng, từng bước một trong lộ trình tự do hóa tài khoản vốn. Ấn Độ tiến hành những bước đi thận trọng tiến tới dỡ bỏ hệ thống quản lý theo hạn ngạch, nới lỏng điều kiện hoạt động với FII và đa dạng hóa công cụ đầu tư và sớm triển khai các công cụ phái sinh và tài khoản thứ cấp nhằm theo dõi chặt chẽ sự vận Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 38 động của dòng vốn FPI và thúc đẩy các quỹ đầu tư nước ngoài vào thị trường trong nước Tài khoản thứ cấp: Với những điều kiện thích hợp, quy định đối với các quỹ nước ngoài được nới lỏng vào tháng 8/1999 và tháng 2/2000. Các tổ chức nước ngoài được phép đầu tư thông qua tài khoản thứ cấp. Ấn Độ áp dụng mức sở hữu tối đa 10% vốn cổ phần đối với một nhà đầu tư nước ngoài. Mỗi tổ chức đầu tư nước ngoài có thể có nhiều khách hàng với nhiều tài khoản thứ cấp. Điều này có thể dẫn tới tình huống rằng một tổ chức có nhiều tài khoản thứ cấp có thể nâng tỷ lệ sở hữu lên trên 10%. Vì vậy mức giới hạn này có thể được nâng lên và áp dụng cho 1 tổ chức thay vì áp dụng cho nhiều tài khoản thứ cấp. Công cụ phái sinh: Ấn Độ cũng đưa ra công cụ cho các quỹ nước ngoài không đăng ký thành lập tại Ấn Độ giao dịch trên thị trường nội địa là giấy chứng nhận góp vốn. Đây là công cụ phái sinh phát hành theo luật chứng khoán. Theo đó, giấy chứng nhận góp vốn được hiểu là các hợp đồng phát hành bởi nhà đầu tư nước ngoài có tổ chức, đăng ký phát hành tại Ấn Độ và người mua là các khách hàng tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài. Giấy chứng nhận góp vốn được sử dụng bởi nhà đầu tư cuối cùng, thay thế cho tài khoản thứ cấp, giúp theo dõi chi phí và lịch sử giao dịch. Từ ngày 3/2/2004, các công cụ phái sinh phát hành ra nước ngoài như giấy chứng nhận góp vốn chỉ được phát hành bởi các tổ chức được luật cho phép. Ngoài ra, việc chuyển nhượng quyền sở hữu giấy chứng nhận góp vốn cũng chỉ được tiến hành cho các tổ chức theo quy định. Tính minh bạch: Ấn Độ đưa ra các quy định về tính minh bạch của thị trường được đưa ra nhằm đạt tính hiệu quả và hạn chế hiện tượng làm giá. Để kiểm soát những khoản đầu tư không đăng ký, chế độ báo cáo về các tổ chức nước ngoài hoạt động đầu tư gián tiếp được thiết lập. Hiện nay, Giấy chứng nhận góp vốn cũng không được phát hành cho các tổ chức nước ngoài không đủ điều kiện theo luật. ấn Độ ban hành quy định KYC (kiểm soát thông tin khách hàng) theo dõi các tài khoản thứ cấp cho phép khảo sát chi tiết dòng vốn trong trường hợp có các biểu hiện vi phạm. Thứ ba, chính sách hướng tới hạn chế những tổn thương từ dòng vốn đầu cơ Ấn Độ đã tăng cường sức mạnh của các thể chế đầu tư trong nước nhằm hạn chế sức chi phối của dòng vốn đầu cơ nước ngoài. Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 39 Uỷ ban Chứng khoán ấn Độ đã đề xuất xây dựng một hệ thống pháp lý cho các quỹ phòng hộ (hedge fund) dựa trên nguyên tắc tránh nhầm lẫn và thận trọng. Quan điểm của Ấn Độ là theo dõi chặt chẽ sự phát triển của hedge fund tại Mỹ, Châu Âu, học hỏi các quốc gia khác để xây dựng các quy định cho nước mình. Chỉ những quỹ thích hợp với đăng ký tài khoản thứ cấp theo quy quy định của Uỷ ban Chứng khoán mới được hoạt động. Sự ổn định của dòng vốn nước ngoài tại Ấn Độ đã được cải thiện khi nhà đầu tư nước ngoài có thể được chuyển đổi giữa chứng khoán vốn và chứng khoán nợ. Tính linh hoạt cao hơn sẽ giúp các tổ chức đầu tư nước ngoài hình thành những chiến lược cân bằng, điều hòa giữa cổ phiếu và trái phiếu. Đặc thù trong chính sách quản lý FPI của Ấn Độ là theo dõi sự vận động của FPI thông qua tài khoản thứ cấp và giấy chứng nhận góp vốn hiện chưa được triển khai ở Việt Nam. Hai công cụ này đã chứng tỏ tính hữu hiệu của mình khi Ấn Độ đã tránh được sự rút vốn ồ ạt của FPI trong 4 giai đoạn nhiều biến động của TTCK là: Cuộc khủng hoảng tài chính Đông á 1997; Vụ nổ hạt nhân Polkhran 05/1998; Sự sụp đổ của TTCK 2001; Ngày thứ 2 đen tối 17/05/2004. Ấn Độ kiên trì lộ trình tự do hóa tài khoản vãng lai và mở cửa thị trường tài chính một cách cẩn trọng, từng bước một qua công cụ định lượng là room và giới hạn theo ngành. Ấn Độ không coi thuế đánh vào dòng vốn FPI là biện pháp quan trọng trong quản lý FPI nhằm mục đích thu hút FPI đến với nền kinh tế Ấn Độ đã phát triển các TTCK phái sinh, đa dạng hóa công cụ đầu tư và thiết lập biện pháp quản lý với FPI trên thị trường này bằng các giới hạn về biên độ, mức độ tham gia … Chính sách quản lý FPI của Ấn Độ sử dụng không tách biệt với hệ thống các chính sách điều hành khác như tỷ giá, tiền tệ. Ấn Độ ổn định dòng vốn FPI đi cùng với: Xây dựng nền tảng kinh tế vững theo xu hướng tất yếu của toàn cầu hóa; Phát triển TTCK dựa trên sức hấp dẫn từ giá trị của các công ty trên thị trường; Chú trọng nâng cao chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực kế toán, cơ chế quản lý rủi ro và chống rửa tiền, sự điều tiết hợp lý của chính phủ; Đa dạng nguồn cung thị trường và phát triển các sản phẩm phái sinh.. Đầu tư trực tiếp FDI và gián tiếp FPI đánh dấu một thời kỳ mới của Ấn Độ trong hội nhập toàn cầu. Chính sách quản lý FPI của Ấn Độ thời gian qua Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 40 cho thấy chính phủ ấn Độ đã thu hút và sử dụng hiệu quả luồng vốn này. Ngoài ra, Ấn Độ bằng các biện pháp quản lý của mình đã điều hòa được dòng vốn FPI nhằm tránh những tác động tiêu cực tới thị trường khi FPI đảo chiều. Đây là những kinh nghiệm quý mà Việt Nam có thể học tập từ mô hình của Ấn Độ. 3.1.2. Tác động của dòng vốn đầu tư gián tiếp tới các nước đang phát triển Nguồn vốn đầu tư gián tiếp ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của các nước đang phát triển. Nó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và doanh nghiệp. Có một thực tế là để thu hút được nguồn vốn đầu tư gián tiếp thì các nước cần phải có sự đổi mới trong bản thân nền kinh tế, đổi mới thể chế, cơ chế chính sách kinh tế cho phù hợp với những yêu cầu của nhà đầu tư. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp có ảnh hưởng thúc đẩy sự đổi mới thể chế kinh tế, thúc đẩy thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu phát triển. Các doanh nghiệp cũng cần phải cải tiến công nghệ, áp dụng các công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động, tăng sản lượng. Trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX, luồng vốn tư nhân và công cộng đạt khoảng 60 tỷ USD. Hơn một thập kỷ sau đó, luồng vốn tư nhân đã tăng lên 5 lần đạt 300 tỷ USD trong khi luồng vốn công chỉ tăng 2 lần. Điều này thể hiện mức độ tự do hóa của các nền kinh tế trong việc huy động vốn phát triển kinh tế. Sâu xa hơn là các nền kinh tế mới tự do hóa có sự liên kết với các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. Kết quả là làm tăng sự cạnh tranh trong việc huy động các dòng vốn gián tiếp. Những tác động tích cực của nguồn vốn đầu tư gián tiếp có thể thấy rõ thông qua sự phục hồi nhanh chóng của Hàn Quốc trong giai đoạn 1998-2001, sau khi trải qua cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á (1997-1998). Xây dựng nền kinh tế dân chủ, coi trọng sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phá bỏ quyền lực của các tài phiệt trong nền kinh tế, chống câu kết chính trị - kinh doanh là những cam kết mà Hàn Quốc phải thực hiện để tiếp nhận nguồn vốn từ IM F. Ngày nay, nền kinh tế Hàn Quốc đã được cải tổ một cách sâu rộng, các quan hệ kinh tế đã trở nên lành mạnh hơn và Hàn Quốc đã tiếp tục là một nước có nền kinh tế phát triển ổn định trong khu vực châu Á. Trong giai đoạn 2002-2003, những cải cách trên thị trường vốn đã đưa Ấn Độ trở thành nước có lượng dự trữ ngoại hối đứng thứ 6 trong các nền kinh tế mới nổi. Việc miễn thuế đối với cổ tức mà cổ đông trong các công ty Ấn Độ được hưởng là một Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 41 trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Ấn Độ, qua đó thu hút hơn nữa các luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Ngoài ra, Ấn Độ đã tiến hành tự do hóa đầu tư nước ngoài trong hầu hết các ngành như viễn thông, ngân hàng và bảo hiểm - những ngành trước đây không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Các dòng vốn đầu tư tư nhân vào các nền kinh tế mới nổi, mặc dù có sự suy giảm từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nhưng lại có xu hướng tăng lên ở Ấn Độ. Điều này cho thấy, đầu tư gián tiếp nước ngoài đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế Ấn Độ. Xét một cách tổng thể, vốn đầu tư nước ngoài mà cụ thể là luồng vốn đầu tư gián tiếp đã có những tác động tích cực đối với hầu hết các nền kinh tế, nhất là các nền kinh tế đang phát triển trong những năm vừa qua và tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong những năm tới. 3.1.3. Bài học đối với Việt Nam Trong cơ cấu của các dòng đầu tư vào Việt Nam những năm qua, dòng đầu tư gián tiếp còn khiêm tốn, mới chỉ chiếm hơn 2% (tỷ lệ này ở các nước trong khu vực là 10-50%) nhưng tương lai sẽ phát triển rất nhanh, đòi hỏi phải có các dự báo trước để làm cơ sở cho đề xuất giải pháp nhằm huy động nhiều hơn nguồn vốn này cho phát triển đất nước. Theo kinh nghiệm phát triển của các nước trong khu vực khi thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp cho phát triển thị trường vốn đã gặp phải thách thức lớn là dòng vốn đầu tư gián tiếp đổ vào quá nhanh thì rút ra cũng nhanh, gây tác động xấu tới thị trường. Do đó, việc phân tích và dự báo dòng đầu tư gián tiếp vào Việt Nam rất cần thiết đối với sự phát triển của thị trường vốn Việt Nam khi mà thị trường chứng khoán còn đang trong quá trình hoàn thiện về khuôn khổ pháp lý. Điều này sẽ giúp Việt Nam lượng hoá được những tác động của dòng đầu tư gián tiếp đối với sự phát triển thị trường vốn từ đó sẽ chủ động đưa ra các biện pháp giảm thiểu rủi ro và tránh được sự phụ thuộc quá nhiều vào dòng vốn đầu tư này. Cụ thể, nếu như trước đây, việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài chỉ khép lại ở những doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa thì nay mở rộng đến tất cả các loại hình tại Việt Nam như: công ty TNHH, công ty hợp danh, doanh nghiệp cổ phần hóa, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp có đăng ký kinh doanh, hợp tác xã... Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 42 Việc mua cổ phần hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ bị hạn chế ở mức không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó nhằm đảm bảo đúng tinh thần của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài muốn tham gia mua cổ phần hay góp vốn vào doanh nghiệp Việt Nam với tỷ lệ hơn 30% vốn điều lệ thì sẽ chuyển sang hình thức đầu tư trực tiếp (FDI) theo tinh thần của Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo Ủy quyền của Chính phủ sẽ tiến hành công bố danh mục ngành nghề kinh doanh được phép bán cổ phần hoặc nhận vốn góp của các nhà đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam trước khi bán cổ phần, nhận vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài phải xây dựng phương án trong đó nói rõ dự định sẽ nhận góp vốn hoặc bán cổ phần với số lượng bao nhiêu. Trên cơ sở đó, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Thủ trưởng các tổ chức chính trị - xã hội và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ xem xét và phê duyệt việc góp vốn, bán cổ phần cho nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài Cần tăng cường khuyến khích FPI, không hạn chế tỷ lệ cổ phần ở những ngành nghề có tính cạnh tranh mạnh, những ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu, công nghệ cao, những ngành nghề không ảnh hưởng tới an ninh, quốc phòng, thuần phong mỹ tục... Đối với những ngành nghề có tính nhạy cảm như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, điện lực... cũng cần mở rộng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài để đạt được các mục tiêu huy động nhiều vốn, công nghệ cao từ các nhà đầu tư chiến lược. Việt Nam cũng cần đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tăng cường tính minh bạch của thị trường chứng khoán; ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, thực thi chính sách mở cửa thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài bằng cách ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động lâu dài của các quỹ đầu tư nước ngoài. Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 43 3.2. NHỮNG ƯU THẾ VÀ TRỞ NGẠI TRONG VIỆC TĂNG CƯỜNG THU HÚT FPI VÀO VIỆT NAM 3.2.1. Ưu thế Trong nền kinh tế toàn cầu hóa như hiện nay, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam nổi lên như một quốc gia có nhiều tiềm năng thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh vị trí địa lý thuận lợi, chính trị ổn định, tiềm năng tăng trưởng kinh tế dài hạn, Việt Nam còn là quốc gia có nhiều lợi thế so sánh hấp dẫn nhà đầu tư như: nguồn lao động, thị trường tài nguyên và thị trường tài chính ngày càng hoàn thiện. Hơn nữa, Việt Nam đang ngày càng khẳng định vai trò, vị trí và tầm quan trọng của mình trên bản đồ kinh tế thế giới. Sự quan tâm của thế giới tới Việt Nam, cộng với sự thành công của các nhà đầu tư hiện hữu tại đây sẽ mở ra cơ hội lớn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, Việt Nam có những ưu thế rất lớn trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp FPI so với các nước khác trên thế giới. Với các yếu tố thuận lợi đó, Việt Nam hoàn toàn có khả năng khai thác tiềm năng dòng chảy vốn FPI của thế giới nhằm phục vụ cho công cuộc phát triển của mình. Nhờ có sự tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững của nền kinh tế Việt Nam và sự cải thiện trong môi trường pháp luật, thương mại. Tuy nhiên, việc ban hành Luật Chứng khoán mới là lý do chính của sự gia tăng đầu tư gián tiếp của Mỹ vào Việt Nam. Vị thế chính trị ngày càng cao của Việt Nam trên thị trường thế giới và quá trình cổ phần hóa mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước cũng là nguyên nhân thúc đẩy luồng vốn đầu tư gián tiếp của M ỹ vào Việt Nam, làm cho các nhà đầu tư yên tâm khi bỏ vốn vào thị trường này. 3.2.2. Trở ngại Bên cạnh đó Việt Nam còn có những trở ngại sau:  Tiến trình cổ phần hóa tuy đã được đẩy mạnh từ năm 2002 song đến nay vẫn chưa có hiệu quả như mong muốn, tỷ lệ vốn hóa các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước còn quá thấp, không lôi cuốn mạnh mẽ và đông đảo các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào tiến trình cổ phần hóa. Các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ, không hấp dẫn nhà đầu tư. Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 44  Quy mô của thị trường chứng khoán còn quá nhỏ bé, lại bất ổn định, lên xuống không theo xu thế chung của thế giới, gây tâm lý e ngại đối với nhà đầu tư. Hệ thống tài chính mặc dù đã được cải thiện song vẫn còn nhiều yếu kém, tỷ lệ dự trữ ngoại hối thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư.  Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư của ta còn nhiều hạn chế, hệ số ICOR quá cao, gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi Hàn Quốc và Đài Loan trong giai đoạn phát triển tương tự, tốn quá nhiều vốn cho tăng trưởng, điều này làm giảm ý muốn đầu tư lâu dài của các nhà đầu tư nước ngoài.  Do tính chất nguồn vốn FPI là đầu tư vào doanh nghiệp cổ phần, nên để thu hút được nguồn vốn này, ngoài việc cải thiện, thay đổi hệ thống pháp lý cho phù hợp với các quy tắc chung thì Việt Nam còn phải tăng cường cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp và thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển bằng việc đưa nhiều doanh nghiệp mạnh lên niêm yết, đặc biệt, cần quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển thị trường OTC.  Công tác tiếp thị và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thị trường bên ngoài chưa được đầu tư đúng mức. M ặc dù hoạt động đầu tư đã được tổ chức ở nhiều nước nhưng chủ yếu mới chỉ tập trung vào FDI, còn ít hoạt động xúc tiến thu hút FPI. Bên cạnh đó, việc quảng bá, tiếp thị của các tổ chức, doanh nghiệp vẫn còn yếu.  Theo đánh giá của nhiều nhà đầu tư nước ngoài, mặc dù quy định pháp lý, đường lối chính sách phát triển kinh tế, nội lực doanh nghiệp... vẫn còn những điểm hạn chế, bất cập, nhưng môi trường đầu tư ở Việt Nam đã và đang tỏ ra rất hấp dẫn đối với các tổ chức đầu tư, các định chế tài chính quốc tế. Điều quan trọng là Việt Nam phải quan tâm và triển khai tốt hơn việc quảng bá, tiếp thị hình ảnh của mình, giúp các nhà đầu tư trên thế giới hiểu nhiều hơn nữa về tình hình chính trị, kinh tế của Việt Nam.  Số lượng và chất lượng các thông tin tài chính còn thiếu và yếu. Đối tượng công ty đại chúng được mở rộng nhưng chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính, chất lượng quản trị công ty đại chúng vẫn còn nhiều bất cập. Do vẫn có sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài còn e dè khi đọc các báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán trong nước thực hiện. Việc phát triển và mở rộng quy mô của thị trường trái phiếu vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Dịch vụ định mức tín nhiệm và thống kê dữ liệu ngành hầu như không có. Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 45  Đối với các nền kinh tế mới nổi - với đặc trưng quá trình phát triển kinh tế còn mới, thiếu bền vững, thiếu minh bạch, hệ thống pháp lý và các quy chuẩn, quy phạm còn chưa hoàn thiện, việc quản trị công ty còn yếu kém, thì vấn đề thông tin không đầy đủ được coi là một thách thức cực kỳ lớn.  Về quy mô và tốc độ phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Số lượng và chất lượng các thông tin tài chính còn thiếu và yếu. M ặc dù Luật Chứng khoán sắp có hiệu lực, đối tượng công ty đại chúng được mở rộng nhưng chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính, chất lượng quản trị công ty đại chúng vẫn còn nhiều bất cập. Do vẫn có sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài còn e dè khi đọc các báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán trong nước thực hiện. Việc phát triển và mở rộng quy mô của thị trường trái phiếu vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Dịch vụ định mức tín nhiệm và thống kê dữ liệu ngành hầu như không có.  Sự thiếu và không đồng bộ về mặt luật pháp. Luật Chứng khoán tới đầu năm 2007 mới có hiệu lực. Mặc dù Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp mới được ban hành trong năm 2006 nhưng chưa thể đi vào vận hành vì thiếu hệ thống nghị định, thông tư hướng dẫn. Luật không quy định được vấn đề chi tiết nên phải chờ các văn bản hướng dẫn của các bộ, ban, ngành  Sự kết nối giữa nhà đầu tư và cơ hội đầu tư là yếu. Hiện nay số lượng công ty chứng khoán có khả năng cung cấp thông tin bằng các ngôn ngữ chính như Anh, Pháp, Trung, Nhật, Hàn... không nhiều. Các rào cản về ngôn ngữ và thông tin đã hạn chế các dòng vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp vào thị trường chứng khoán Việt Nam. 3.3. KIỂM SOÁT VÀ ĐIỀU TIẾT VỐN FPI 3.3.1.1. Tính tất yếu của việc kiểm soát và điều tiết vốn FPI Cùng với vốn FDI, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) đang đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Vì vậy, việc xây dựng cơ chế kiểm soát, điều tiết dòng vốn FPI vào và ra khỏi Việt Nam là vấn đề cấp bách và cần thiết trong bối cảnh sự tham gia của các NĐT nước ngoài trên TTCK gia tăng, ảnh hưởng ngày càng lớn và trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam. Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 46 Cùng với những nguyên nhân chủ quan do trình độ phát triển kinh tế và TTCK còn thấp; Khả năng cạnh tranh và tiềm lực hạn chế của hệ thống tài chính nội địa... những hậu quả xấu trên còn do chính những đặc tính của FPI gây ra. Nhận diện được các đặc tính này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình kiểm soát và điều tiết FPI. Có thể kể đến một số dặc tính cơ bán của FPI như sau:  Tính thanh khoản cao Do mục đích của FPI là tỷ suất lợi tức cao với một mức độ rủi ro nhất định (hoặc tỷ suất lợi tức nhất định với mức rủi ro thấp nhất) chứ không quan tâm đến quá trình sán xuất kinh doanh giống như trong phương thức FDI, cho nên NĐT nước ngoài sẵn sàng bán lại những chứng khoán mà họ đang nắm giữ để đầu tư sang thị trường khác hoặc chứng khoán khác với tỷ suất lợi tức dự tính cao hơn, an toàn hơn. Tính thanh khoản cao của FPI khiến cho hình thức đầu tư này trở thành khoản mục đầu tư ngắn hạn mặc dù cố phiếu được coi là chứng khoán dài hạn và nhiều loại trái phiếu giao dịch trên TTCK có thời gian đáo hạn dài hơn 1 năm.  Tính bất ổn định Tính thanh khoản cao là nguyên nhân làm cho dòng vốn FPI mang tính bất ổn định. Sự bất ổn định, trong một giới hạn nào đó có thể có lợi do nó làm cho thị trường tài chính nội địa hoạt động năng động và hiệu quả hơn, vốn đầu tư không ngừng được phân bổ lại, dịch chuyến từ nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp sang nơi có tỷ suất lợi nhuận cao. Tuy nhiên, nếu điều đó xảy ra với tốc độ quá nhanh, những ảnh hưởng xấu đến hệ thống tài chính và tình trạng bất ổn định của nền kinh tế xảy ra là không thể tránh khỏi. Vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn đối với các nước có thị trường tài chính mới hình thành và nền kinh tế còn trong giai đoạn chuyển đổi như Việt Nam.  Tính dễ đảo ngược Tính dễ đảo ngược của dòng vốn FPI thực sự gây tác động xấu đến nền kinh tế, nó là hệ quả của hai đặc tính thanh khoản cao và bất ổn định. Do dễ đảo ngược cho nên có thể chỉ trong khoảng thời gian ngắn một lượng vốn FPI lớn tháo lui “bẻ ghi” đầu tư sang thị trường khác để lại hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Kinh nghiệm khủng khoảng kinh tế tài chính của các nước châu á vào cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20 đă cho thấy tác hại của sự đảo ngược dòng vốn FPI khi nền kinh tế của các Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 47 quốc gia này xuất hiện những khoảng trống, hậu quả là nền kinh tế bong bóng nhanh chóng bị sụp đổ mà trong ngắn hạn khó có thể khắc phục được. 3.3.1.2. Một số giải pháp kiểm soát và điều tiết vốn FPI Nếu không có cơ chế kiếm soát, điều tiết hợp lý, TTCK và nền kinh tế có thể bị tổn thương bởi những tác động tiêu cực do các hiệu ứng nảy sinh từ chính các đặc tính của dòng vốn FPI. Trong thời gian tới, có thể áp dụng một số giải pháp cơ bản nhằm kiểm soát điều tiết dòng vốn này như sau:  Nhanh chóng xây dựng hệ thống thống kê và cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về lượng chứng khoán các NĐT nước ngoài đang nắm giữ, tỷ lệ nắm giữ trong tổng số chứng khoán phát hành, từ đó phân tích, dự báo xu hướng biến động và những ảnh hướng có thể tạo ra từ động thái mua, bán chứng khoán của các NĐT nước ngoài. Ở đây đặc biệt nhấn mạnh đến năng lực và kinh nghiệm phân tích, dự báo về TTCK của đội ngũ cán bộ chuyên trách.  Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ chế độ báo cáo tình hình hoạt động mua, bán chứng khoán của các NĐT nước ngoài. Tổ chức, cá nhân nước ngoài mua, bán chứng khoán phái đăng ký mã số giao dịch với Trung tâm giao dịch chứng khoán. Vấn đề chuyển ngoại tệ vào và ra khỏi Việt Nam phải tuân thủ theo đúng quy định về quản lý ngoại hối của pháp luật Việt Nam. Trung tâm giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán phải trực tiếp giám sát tỷ lệ nắm giữ chứng khoán của NĐT nước ngoài, định kỳ báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Kiên quyết yêu cầu bán số chứng khoán thừa để đảm bảo tỷ lệ nắm giữ của bên nước ngoài tối đa là 49%.  Nhanh chóng xây dựng chiến lược thu hút vốn FPI nằm trong tổng thể chiến lược thu hút và sử dụng vốn của quốc gia và gắn chặt với chiến lược phát triển kinh tế chiến lược phát triển TTK. Trong chiến lược thu hút vốn FPI cần dự tính được nhu cầu vốn FPI của nền kinh tế và tỷ lệ hợp lý của nguồn vốn này trong tổng thể vốn đầu tư, sao cho vốn FPI phát huy tác dụng tích cực nhất đến sự phát triến kinh tế - xã hội và hạn chế thấp nhất những rủi ro mà luồng vốn này có thể gây ra.  Tăng cường phối hợp chặt chẽ giũa các cơ quan ngân hàng - tài chính - chứng khoán trong việc quản lý dòng vốn FPI nhằm đảm bảo sự an toàn, vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính. Nâng cao sức cạnh tranh của các định chế tài Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 48 chính trong nước, đặc biệt là các ngân hàng, đảm báo khả năng chống chọi với những rủi ro, bất ổn do vốn FPI gây ra. Đồng thời có những giải pháp tích cực nâng cao trình độ hiểu biết về chứng khoán và đầu tư chứng khoán cho các NĐT trong nước, tránh tình trạng NĐT trong nước đưa ra quyết định mua, bán chứng khoán chỉ căn cứ theo động thái của các NĐT nước ngoài, hay để các NĐT nước ngoài dẫn dắt thị trường.  Từ từ nới lỏng quy định về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của NĐT nước ngoài cho phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và các định chế tài chính. Cần loại bỏ tâm lý lo ngại cho rằng, mức tỷ lệ nắm giữ giới hạn 49% như quy định hiện hành là quá cao và có thể gây ra những bất lợi cho nền kinh tế và TTCK Việt Nam. Thực tế cho thấy, nhiều nước trong khu vực đã nới lỏng tối đa tỷ lệ nắm giữ của NĐT nước ngoài, ví dụ như Indonesia (100%), M alaysia (100%), Thái Lan (100%), Singapore (100%). Đối với Việt Nam, việc cho phép các NĐT nước ngoài nắm giữ tỷ lệ chứng khoán 100% là chưa thích hợp trong bối cảnh hiện nay, nhưng cần có quan điểm nới lỏng dần dần. Bên cạnh đó, nên có những quy định riêng áp dụng đối với các ngành, lĩnh vực đặc biệt quan trọng, có tác động lớn đến nền kinh tế như ngân hàng, năng lượng,... Đối với các ngành, lĩnh vực này chỉ nên cho phép các NĐT nước ngoài nắm giữ với tỷ lệ không quá 49%.  Thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế của TTCK Việt Nam. Các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán mà Việt Nam có thể tham gia gồm có: Tổ chức quốc tế các Ủy ban chứng khoán nhà nước (gọi tắt là IOSCO), Hiệp hội quốc tế các Sở giao dịch chứng khoán (gọi tắt là FIBV), Hiệp hội các Sở giao dịch Đông Á và châu Đại Dương (gọi tắt là EAOSEF). Tham gia vào các tổ chức quốc tế này là cần thiết bởi mục tiêu thiết lập của chúng là nhằm thống nhất quản lý chứng khoán và TTCK ở quy mô toàn cầu và khu vực hạn chế đến mức tối đa những rủi ro có thế xảy ra trên nguyên tắc hợp tác hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực quản lý và phát triển các định chế tài chính trung gian. Đồng thời, hội nhập cũng tạo điều kiện nhập khẩu các công nghệ hiện đại, các chuẩn mực quốc tế để áp dụng cho thị trường trong nước.  Sử dụng các biện pháp kiểm soát, điều tiết mạnh một khi dòng vốn FPI có những biểu hiện bất thường. Các biện pháp cơ bản như: Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 49  Can thiệp vô hiệu. Để đối phó với sự gia tăng mạnh mẽ của dòng vốn vào có thể áp dụng biện pháp can thiệp vô hiệu với nội dung là NHTW mua và bán các tài sản ngoại tệ và nội tệ với giá như nhau nhưng theo hướng đối ngược, nhằm vô hiệu hóa các tác động đến mức cung tiền nội địa.  Chính sách kiểm soát đầu tư. Nhà nước có thể áp dụng biện pháp hành chính cấp phép, hạn chế hay cấm FPI ở một số lĩnh vực, ngành hay ở một số loại cổ phiếu trái phiếu nhất định.  Chính sách tỷ giá hối đoái. Nới rộng biên độ dao động của tỷ giá khiến cho tỷ giá trở nên linh hoạt hơn, gần sát với tỷ giá thực tế và cơ bản phải phản ánh được quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối.  Chính sách tài chính. Có thể sử dụng biện pháp thắt chặt tài chính, giảm chi tiêu của Chính phủ để đối phó với sự di chuyển mạnh mẽ của dòng vốn vào. Giải pháp này có tác dụng làm giảm tổng cầu và lạm phát, hạn chế được sự tăng giá của đồng tiền nội tệ. 3.4. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY VIỆC THU HÚT VỐN FPI 3.4.1. Giải pháp thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam Bằng chính sách đầu tư hấp dẫn, đến nay, đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lớn có tiềm lực tài chính - công nghệ, góp phần thay đổi trình độ sản xuất của Việt Nam. Tuy nhiên, đầu tư gián tiếp mới chỉ chiếm 2% (so với các nước trong khu vực là 10 -15%). Trong tương lai, đầu tư gián tiếp vào Việt Nam sẽ phát triển rất nhanh, đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ để huy động nhiều hơn nguồn vốn này cho phát triển kinh tế. Để dòng vốn đầu tư gián tiếp nhiều và bền vững hơn, Việt Nam đã và đang thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp sau:  Thứ nhất, nới lỏng tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài như nhiều nước trong khu vực đã làm, đặc biệt là trong ngành ngân hàng;  Thứ hai, mở rộng thêm nhiều ngành nghề được phép thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài;  Thứ ba, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tăng cường tính minh bạch của thị trường chứng khoán; ổn định môi trường kinh tế vĩ mô; Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 50  Thứ tư, mở cửa thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài bằng cách ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động lâu dài của các quỹ đầu tư nước ngoài. Với việc thực hiện nhóm giải pháp này, đầu tư gián tiếp vào Việt Nam chắc chắn sẽ phát triển mạnh. Trên thực tế, việc chính phủ cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua 49% cổ phần trong các doanh nghiệp (thay vì 30% như trước đây) sẽ là t ín hiệu tốt cho các nhà đầu tư gián tiếp khác đổ tiền vào Việt Nam trong tương lai. Tỉ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài khác dự tính cũng sẽ được tăng lên 100% vào năm 2012. Đây là nhân tố thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. 3.4.2. Giải pháp nhằm tăng cường đầu tư gián tiếp ra nước ngoài của Việt Nam Trong tương lai, chắc chắn việc mở cửa để các nhà đầu tư trong nước đầu tư ra gián tiếp ra nước ngoài là điều phải làm. Khi thị trường tài chính thế giới ngày càng liên thông, nhu cầu của nhà đầu tư trong nước là đa dạng hoá danh mục đầu tư, thì việc mở cửa cho dòng vốn chảy ra là điều thiết yếu, không thể đóng mãi cánh cửa để các nhà đầu tư Việt Nam gia nhập vào thị trường tài chính sôi động bên ngoài. Việc đầu tư vào chứng khoán, trái phiếu nước ngoài để phân tán rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận khi thị trường tài chính trong nước phát triển là nhu cầu hợp lý. Lợi ích rõ ràng nhất của việc mở cánh cửa thông hai chiều này chính là đa dạng hoá thị trường tài chính, ổn định được danh mục đầu tư của các nhà đầu tư. Vì trong số các chứng khoán, trái phiếu nước ngoài, rất nhiều loại mang tính ổn định rất cao. Hiện nay, trong danh mục đầu tư của các ngân hàng, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư...chỉ có các chứng khoán và trái phiếu trong nước. Thị trường tài chính Việt Nam về mảng cổ phiếu, trái phiếu nước ngoài không hề có. Các quy định pháp lý về đầu tư ra nước ngoài cũng cần được hoàn thiện hơn vì hiện nay các DN Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh và nhu cầu mở rộng thị trường ra nước ngoài là điều tất yếu. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa có được một kế hoạch tổng thể xây dựng chiến lược đầu tư ra nước ngoài của DN Việt Nam. Trong thời gian tới, các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ đưa ra danh mục ngành hàng khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, địa bàn chiến lược khuyến khích đầu tư... và đây sẽ là điểm mà các DN trong nước quan tâm nhiều. Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 51 3.5. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CẦN THIẾT TRON G THỜI GIAN TỚI Để khai thác, phát huy các tác động tích cực, phòng tránh và giảm thiểu các tác động tiêu cực của FPI, đòi hỏi các cấp, các ngành, các tổ chức, đơn vị doanh nghiệp và cá nhân hữu quan có sự chủ động đổi mới và nâng cao nhận thức đầy đủ, kịp thời và đúng đắn hơn nữa về FPI, cũng như coi trọng sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả mang tính liên ngành, liên cấp, xuyên quốc gia trong việc xây dựng và triển khai các phương án, giải pháp và chính sách cần thiết, trong đó tập trung vào các lựa chọn chính sách chủ yếu sau:  Tăng tính linh hoạt của tỉ giá. Linh hoạt tỉ giá cho phép NHNN tự chủ hơn trong việc quản lí những biến động của các đại lượng tiền tệ do ảnh hưởng của luân chuyển vốn.  Thắt chặt chính sách tiền tệ để cân bằng giữa các mục tiêu bên trong (tăng trưởng, việc làm, lạm phát) và bên ngoài (thăng bằng cán cân thanh toán). Khi dòng vốn vào làm bùng nổ cầu nội địa, và tăng giá tài sản trên các thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, gây sức ép lạm phát, NHTW phải ưu tiên điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo hướng thắt chặt.  Thực hiện chính sách tài chính thận trọng. Một chính sách tài chính lành mạnh rất quan trọng trong trường hợp dòng vốn vào gia tăng. Chính phủ có thể sử dụng chính sách tài chính thắt chặt để giảm áp lực tăng lạm phát và làm giảm áp lực lên giá VND. Thắt chặt chính sách tài chính có xu hướng làm giảm áp lực lên lãi suất, đồng thời giảm khuyến khích dòng vốn vào. Việc điều hành chính sách tài chính thận trọng hiệu quả đặc biệt quan trọng khi dòng vốn vào tăng lên (theo hướng thắt chặt) hoặc giảm xuống khi dòng vốn đảo chiều (nới lỏng).  Tự do hoá dòng vốn ra. Để triệt tiêu tác động dòng vốn vào, hầu hết các nước lớn ở Đông Á đã nới lỏng những hạn chế đối với dòng vốn ra nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Ngoài ra, để tìm kiếm cơ hội đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, nhiều nền kinh tế mới nổi lớn ở Đông Á như Trung Quốc, Malaysia... khuyến khích các nhà đầu tư nhỏ trong nước đầu tư gián tiếp gián tiếp ra nước ngoài. Tuy vậy, vẫn cần thận trọng trong việc dỡ bỏ những hạn chế đối với dòng vốn ra, bởi có thể làm trầm trọng thêm ảnh hưởng tiêu cực của việc dòng vốn đảo chiều.  Tăng cường quản lí và giám sát thị trường tài chính nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường tính ổn định của khu vực tài chính – ngân hàng, nhờ vậy, có thể giảm hiện Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 52 tượng bong bóng đầu cơ. Hiện Việt Nam đang ưu tiên chính sách kiềm chế lạm phát nên cần tăng cường giám sát chặt chẽ thị trường tài chính để phát hiện những dấu hiệu mất ổn định, mất cân đối, khả năng thanh khoản, chất lượng tài sản của các tổ chức tín dụng. Cần tiếp tục giám sát chặt chẽ nghiệp vụ cho vay kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán, tăng cường quản lí rủi ro trong cho vay bất động sản.  Có cơ chế kiểm soát dòng vốn nước ngoài, đặc biệt là dòng vốn gián tiếp. Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ năm 2007 đã tăng đột biến. Từ 865 triệu USD (1,6% GDP) năm 2005 tăng lên 1313 triệu USD (2,1% GDP) năm 2006 và 6,5 tỉ USD (9,2% GDP). So với quy mô của nền kinh tế thì FPI của Việt Nam trong năm 2007 là khá cao. Trong khi đó, ở giai đoạn 1985 – 99, với 13 nước châu Á và châu Mỹ la tinh đã được nghiên cứu ở phần 1 thì chỉ có Philippines đạt mức FPI (% GDP) cao nhất là 6,42% vào năm 1996, đối với các nước còn lại, cao nhất cũng chỉ ở mức 3- 4%. Cụ thể, Indonesia có FPI cao nhất là 2,2% vào năm 96; Hàn Quốc, 3,02% vào năm 97; Thái Lan, 3% vào năm 1997; Chi Lê, 3,15% vào năm 97; Mexico, 4,3% vào năm 96... Vì vậy, mặc dù chưa đặt vấn đề hạn chế dòng vốn đầu tư gián tiếp tại thời điểm hiện nay, nhưng cần có biện pháp kiểm soát dòng vốn gián tiếp.  Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến khuyến khích đầu tư nước ngoài và đầu tư nói chung, nhất là việc nới lỏng, tối đa hóa mức khống chế tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài trong các doanh nghiệp cổ phần Việt Nam hoạt động thuộc các ngành nghề, lĩnh vực cho phép đầu tư 100% FDI.  Tiếp tục giảm thiểu danh mục các doanh nghiệp và lĩnh vực hạn chế đầu tư nước ngoài (cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp), trong đó có các lĩnh vực dịch vụ trình độ cao.  Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lớn, và giảm thiểu tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước, cũng như của các nhà đầu tư sáng lập trong các doanh nghiệp này.  Sớm rà soát điều chỉnh hoàn thiện các quy định liên quan về việc chuyển đổi thuận tiện, nhanh chóng giữa các loại hình, phương thức đầu tư, các quy định thủ tục mua - bán, sáp nhập doanh nghiệp và tài sản doanh nghiệp; chuyển nhượng dự án và chuyển nhượng vốn giữa các nhà đầu tư. Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 53  Cần có chính sách ưu đãi đặc biệt (trước hết là chính sách thuế và giảm chi phí đầu vào, chi phí vận hành) để phát triển các công ty cổ phần đa sở hữu tổ chức theo quy mô tập đoàn kinh tế, công ty mẹ – con, hoạt động xuyên quốc gia và các quỹ đầu tư, trong đó có quỹ đầu tư mạo hiểm và các quỹ đại chúng, các quỹ đầu tư có vốn nước ngoài… Đảm bảo ngày càng liên thông và hội nhập các định chế và quy tắc, tiêu chuẩn vận hành, chất lượng hàng hóa thị trường chứng khoán Việt Nam với các yêu cầu, tiêu chuẩn và xu hướng hoạt động chung của thị trường vốn khu vực, quốc tế.  Coi trọng việc xây dựng và vận hành tốt các cơ chế quản lý, giám sát bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và sự an toàn của thị trường tài chính. Phát triển hệ thống cảnh báo sớm và chủ động xây dựng phương án đối phó thích hợp nhằm giám sát và phòng ngừa hiệu quả các nguy cơ biến động thị trường tài chính tiêu cực do đầu cơ, tội phạm, độc quyền, lũng đoạn và sự mù quáng thị trường; phát triển hệ thống thông tin, các dịch vụ tư vấn, dịch vụ bổ trợ tư pháp trực tiếp hỗ trợ đầu tư gián tiếp. Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định về an toàn thông tin và kinh doanh lành mạnh trên thị trường chứng khoán của bất kỳ tổ chức và cá nhân nào.  Nhà nước cần xem xét điều chỉnh chế độ quản lý ngoại hối, nhất là thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hơn và gia tăng tối đa dự trữ ngoại tệ quốc gia. Thực tiễn thế giới cho thấy, chế độ tỷ giá cố định cứng nhắc, kéo dài theo hướng định giá quá cao đồng tiền bản tệ là không phù hợp, không có lợi cho quốc gia chủ nhà trong bối cảnh có sự gia tăng dòng FPI mặc dù điều này không hoàn toàn đúng đối với dòng FDI.  Bên cạnh việc tiếp tục khai thác và phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế Việt Nam trong đầu tư vào các thị trường truyền thống như Lào, Campuchia, các nước trong khu vực, Liên bang Nga..., Bộ Kế hoạch và Đầu tư khuyến nghị các doanh nghiệp từng bước mở rộng đầu tư sang các nước và thị trường mới như Mỹ Latinh, Đông Âu, Châu Phi... Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 54 KẾT LUẬN Trong suốt hơn một thập kỷ qua, đầu tư nước ngoài luôn là điểm sáng trong toàn cảnh bức tranh kinh tế vĩ mô của Việt Nam với một khuôn khổ pháp lý ngày càng được thông thoáng dần. Nhìn chung, nguồn vốn FPI góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng và hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia tăng và phát triển bộ phận thị trường FPI sẽ làm cho thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chứng khoán Việt Nam trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng, thậm chí đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài của thị trường này trong thời gian qua. Mặt khác, FPI cũng góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hóa phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Việc phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả về bề rộng và bề sâu sẽ mang lại những cơ hội mới và sự đa dạng hóa trong lựa chọn các phương thức đầu tư cho các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài và trong nước. Bên cạnh những tác động tích cực, việc gia tăng thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam còn có những rủi ro đáng kể như làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố nước ngoài, làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán ..v.v.. Trong bối cảnh phát triển của Việt Nam như hiện nay, nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn FPI nói riêng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế. Nguồn vốn này không chỉ là nguồn lực hỗ trợ nền kinh tế phát triển, mà quan trọng hơn sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống tài chính Việt Nam, giúp thị trường tài chính phát triển cả quy mô lẫn chất lượng. Để khai thác, phát huy các tác động tích cực, phòng tránh và giảm thiểu các tác động tiêu cực của FPI, đòi hỏi các cấp, các ngành, các tổ chức, đơn vị doanh nghiệp và cá nhân hữu quan có sự chủ động đổi mới và nâng cao nhận thức đầy đủ, kịp thời và đúng đắn hơn nữa về FPI, cũng như coi trọng sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả mang tính liên ngành, liên cấp, xuyên quốc gia trong việc xây dựng và triển khai các phương án, giải pháp và chính sách cần thiết và phù hợp nhằm đảm bảo tính về vững về dài hạn trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài mà đặc biệt là nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài của nước ta. Tài Chính Quốc Tế Nhóm 3 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huy động vốn đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế Thủ đô - NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội 2004, TS.Nguyễn Minh Phong (chủ biên). 2. Phát triển các thành phần kinh tế ở H à N ội thời kỳ đổi mới. NXB Tài chính – Hà Nội 2005, TS.Nguyễn Minh Phong (chủ biên). 3. Tài liệu kỷ yếu hội thảo khoa học của Bộ Tài chính về đầu tư gián tiếp nước ngoài, tổ chức tại Hà Nội tháng 7/2006.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_thuyet_trinh_nhom_3_9546.pdf
Luận văn liên quan