Tiểu luận Những thành tựu nỗi bật của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2012

Để khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, không thể giản đơn mà phải đổi mới toàn diện, bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế để đi lên một mô hình mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời đại mới. Đổi mới về kinh tế là cơ bản, xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ XHCN phải làm đồng thời nhưng có bước đi vững chắc, đồng thời sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của thế lực thù địch nhằm xuyên tạc phá hoại công cuộc đổi mới. Sau khi đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, còn phải tiếp tục công cuộc đổi mới để khắc phục tình trạng tụt hậu khá xa về kinh tế so với các nước trong khu vực, phấn đấu vì Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh

doc32 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3293 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những thành tựu nỗi bật của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cung, tự cấp sang kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài. Nhà nước đã triển khai cụ thể hóa thành các kế hoạch và chương trình hành động, trong đó nổi bật là ba chương trình kinh tế lớn: chương trình lương thực, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình xuất khẩu. Nền kinh tế đã thu được một số thành tựu đáng khích lệ, các mặt xã hội và đời sống dân cư có nhiều tiến bộ. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới tư duy kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 1986-1990, 1.1.2Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 1986-1990 1.1.2.1Chương trình lương thực thực phẩm Sản xuất lương thực đã có bước phát triển đáng kể, từ mức trên dưới 18 triệu tấn quy thóc mỗi năm trong những năm 1984-1987 đã tăng lên đạt 21,5 triệu tấn trong năm 1989 va 1990. Từ chỗ lương thực sản xuất không đủ tiêu dùng, nước ta đã trở thành quốc gia xuất khẩu lương thực với mức tương đối khá (năm 1989 xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, trị giá 290 triệu USD; năm 1990 xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo, trị giá 304,6 triệu USD). Chăn nuôi gia súc, gia cầm và nghề đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản được phát triển khá; mô hình VAC (vườn –ao-chuồng) lần đầu được nhắc đến với ý nghĩa khuyến khích kinh tế gia đình trong các hộ nông dân và các nơi có điều kiện trồng trọt, chăn nuôi…Sản lượng thịt hơi các loại đạt 1 triệu tấn, trong đó thịt lợn hơi là 73 vạn tấn vào năm 1990.Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8-4%/năm. 1.1.2.2 Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng Đã được tổ chức triển khai thực hiện trên diện rộng; được sự chỉ đạo sát sao của các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương. Các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phát triển tương đối khá. Năm 1990, sản lượng vải đạt 380 triệu mét so với mục tiêu là 430-450 triệu mét; giấy các loại đạt 78.000 tấn so với mục tiêu là 12.000 tấn; các mặt hàng tiêu dùng thông thường như xà phòng, thuốc chữa bệnh, đồ dùng sành sứ, thủy tinh, xe đạp, quạt điện, máy thu thanh, thu hình …đều vượt kế hoạch. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13-14%/năm. 1.1.2.3 Chương trình sản xuất hàng háo xuất khẩu Đã được triển khai thực hiện với những đổi mới cơ bản về cơ chế, chính sách khuyến khích xuất khẩu, khai thác nguồn hàng, mở rộng, tìm kiếm thị trường…nhờ vậy đã khơi dậy khả năng xuất khẩu của đất nước; giải quyết được phần nào khó khăn về ngoại tệ cho nền kinh tế do bị Mỹ bao vây, cấm vận. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trong năm năm (1986-1990) tăng 28%/năm. Thị trường dần dần được mở rộng.Kế hoạch năm năm 1986-1990 phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát…mà quan trọng là đã chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lí cũ sang cơ chế quản lí mới, thực hiện đổi mới đời sống kinh tế xã hội và giải phóng sức lao động. Tuy một số chỉ tiêu định lượng đạt thấp so với mục tiêu đề ra, nhung nền kinh tế đã bắt đầu có những chuyển biến tích cực; đã tạo ra một số nhân tố mới thúc đẩy sự chuyển biến bước đầu rất có ý nghĩa trong những năm 1989-1990; mở đầu một thời kỳ phát triển mới trong những kế hoạch năm năm sau. 1.1.3 Hạn chế và yếu kém: Bên cạnh những thành tích đạt được trong quá trình đổi mới còn bộc lộ những hạn chế yếu kém và đứng trước những khó khăn thử thách cần được khắc phục: - Nước ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế XH nhiều vấn đề kinh tế XH nóng bỏng vẫn chưa đưọc giải quyết - Nền kinh tế vẫn còn mất cân đối giữa cung và cầu giưuã tích luỹ và tiêu dùng, giữa công nghiệp và nông nghiệp, dao động thiếu việc làm, năng xuất lao động và hiệu quả SX kinh doanh còn thấp , chưa tạo được tích luỹ từ nội bộ kinh tế - Đời sống của người ăn lương lực lượng vũ trang và1 bộ phận nông dân bị giảm sút - Trên lĩnh vực văn hoá chính trị tư tưởng còn nhiều thiếu sót bất lợi lớn quyền làm chủ của nhân dân lao động chưa được phát huy đầy đủ : Mất dân chủ, luật pháp bị vi phạm kỷ cương kỷ luật còn buông lỏng ... - Những khó khăn do thiên tai đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng đối với đời sống kinh tế của nhân dân . Sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch đối với VN trên tất cả các lĩnh vực , ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng XHCN như : Liên xô, Đông âu và hệ thống XHCN giảm sút đã tác động tiêu cực đến tâm lý và tình cảm của nhân dân ta - Những sai lầm thiếu sót này cần được khắc phục kịp thời và triệt để nếu không sẽ dẫn đến việc làm tăng thêm Giai đoạn 1991-1995 1.2.1 Các chỉ tiêu phát triển kinh tế theo kế hoạch 5 năm(1991-1995) của Chính Phủ Đại hội VII (1987-1992) đã đề ra mục tiêu tổng quát cho 5 năm 1991-1995 là: vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa Việt Nam cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Trên cơ sở phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu tổng quát đó, kế hoạch 5 năm 1991-1995 được xây dựng với các chỉ tiêu chủ yếu sau: 1- Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân mỗi năm 5,5-6,5%. 2- Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng bình quân mỗi năm 7,5-8,5%. 3- Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng bình quân mỗi năm 3,7-4,5%. 4- Kim ngạch xuất khẩu 5 năm (1991-1995): 12-15 tỉ USD. 5- Kim ngạch nhập khẩu 5 năm (1991-1995): 16 tỉ USD. 6- Đến năm 1995:- Tỷ lệ tăng dân số chỉ còn ở mức 1,87%.Sản lượng lương thực quy thóc 24-25 triệu tấn, sản lượng điện 15-16 tỷ kWh, sản lượng dầu thô 7-8 triệu tấn, sản lượng thép 270-300 nghìn tấn, sản lượng xi măng 4,0-4,5 triệu tấn. 1.2.2 Những thành tựu đạt được trong giai đoạn (1991-1995) 1.2.2.1 Nền kinh tế đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái Kinh tế đạt mức tăng trưởng khá cao, liên tục và tương đối toàn diện; thực hiện vượt mức hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995.Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hằng năm  8,2% (kế hoạch là 5,5 - 6,5%) Nông nghiệp tăng bình quân hằng năm  4,5% (mức đề ra 3,7 - 4,5%). Sản lượng lương thực 5 năm qua tăng 26% so với 5 năm trước đó, tạo điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nuôi trồng và đánh bắt thuỷ, hải sản tăng khá nhanh; kim ngạch xuất khẩu thuỷ, hải sản năm 1995 gấp 3 lần năm 1990. Tỉ lệ đất có rừng che phủ bắt đầu tăng nhờ đẩy mạnh trồng, khoanh nuôi và bảo vệ rừng, hạn chế khai thác gỗ.Các ngành dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với năm 1990 (bình quân hàng năm tăng 12%). Giao thông vận tải có chuyển biến tiến bộ, vận tải hàng hóa tăng 62%; viễn thông phát triển nhanh, doanh thu bưu điện và doanh thu du lịch đều gấp 10 lần; thị trường hàng hoá trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội . Lĩnh vực tài chính, tiền tệ đạt tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã chặn được nạn lạm phát cao, từng bước đẩy lùi lạm phát. Chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch vụ giảm từ 67,4% năm 1991 xuống còn 17,5% năm 1992; 5,2% năm 1993; 14,4% năm 1994 và 12,7% năm 1995. Trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, đã phân định những chức năng quản lý Nhà nước của ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh của ngân hàng thương mại. Việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn đinh giá trị đồng tiền Việt Nam, quản lý ngoại hối, xây dựng thị trường hối đoái hợp pháp và các hoạt động tín dụng, thanh toán . Quy mô đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khá. Trong 5 năm, ước tính vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 18 tỉ USD (theo mặt bằng giá 1995), trong đó phần của Nhà nước chiếm 43% (bao gồm cả đầu tư qua ngân sách, tín dụng Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư), đầu tư của nhân dân chiếm trên 30%, đầu tư trực tiếp của nước ngoài chiếm 27%. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, đã chuyển mạnh từ hình thức ngân sách cấp phát có tính chất bao cấp sang hình thức tín dụng đầu tư, mở rộng liên doanh liên kết, vay vốn trong nước và ngoài nước...Đã tập trung nhiều hơn vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước cho hạ tầng kinh tế, xã hội. Vốn đầu tư của dân phát triển ở cả nông thôn và thành thị. Tốc độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong 5 năm qua tăng bình quân hằng năm 50%; phần vốn được thực hiện đạt khoảng 1/3 tổng số vốn đăng ký theo dự án NĂM TỔNG SỐ KV NÔNG – LÂM –NGƯ NGHIỆP KV CÔNG NGHIỆP KV DỊCH VỤ 1985 106176 36832 26396 42948 1986 109189 37932 29284 41973 1988 119960 38867 33349 47744 1990 131968 42003 33221 56744 1992 151782 45869 40359 65554 1995 195567 51319 58550 85698 1999 256269 60892 88047 107330 Những kết quả về đầu tư phát triển đã làm tăng năng lực sản xuất trong nông thôn, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đưa vào hoạt động một số công trình quan trọng của nền kinh tế, nhất là giao thông, thuỷ lợi, dầu khí, thép, xi măng và các cơ sở du lịch, dịch vụ. 1.2.2.2Cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng đã bắt đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá; hình thành nền kinh tế nhiều thành phần. TỔNG SẢN PHẨM TRONG NƯỚC 1985 – 1999 THEO GIÁ SO SÁNH PHÂN THEO KHU VỰC KINH TẾ(USD) Cơ cấu ngành: Trong GDP, nông, lâm, ngư nghiệp tăng khá về số tuyệt đối, nhưng tỉ trọng giảm từ 38,7% năm 1990 xuống 29% năm 1995; công nghiệp và xây dựng từ 22,6% tăng lên 29,1%; dịch vụ từ 38,6% tăng lên 41,9%. Cơ cấu sản xuất của nông nghiệp, công nghiệp cũng có những thay đổi theo hướng hiệu quả hơn; các ngành dịch vụ phát triển đa dạng. Cơ cấu vùng kinh tế:Cơ cấu vùng đang hình thành từng bước theo quy hoạch kinh tế - xã hội của các địa phương, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm. Các khu công nghiệp, khu chế xuất đang được xây dựng. Một số địa bàn kinh tế, đặc biệt là một số thành phố lớn, phát huy lợi thế của mình đã đẩy mạnh đầu tư, đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Một số vùng nông thôn đã có bước phát triển nhanh nhờ chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng khai thác lợi thế so sánh, gắn với thị trường. Cơ cấu thành phần kinh tế: Khu vực kinh tế nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài chính, tín dụng. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã tiếp cận thị trường, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, hoạt động có hiệu quả hơn trước. Các hợp tác xã trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua bán, tín dụng .Đến nay một số ít đã đổi mới tổ chức, quy mô và phương thức hoạt động, khôi phục và phát triển sản xuất, kinh doanh, xuất hiện các hình thức kinh tế hợp tác kiểu mới, tuy chưa phổ biến. Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển nhanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ, đã góp phần quan trọng vào cá thành tựu kinh tế - XH Kinh tế tư bản tư nhân trong các nước bước đầu phát triển, tập trung phần lớn vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất còn ít. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, có một số doanh nghiệp quy mô tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và với tư bản nước ngoài đang phát triển. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã bắt đầu đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu, tạo nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp. 1.2.2.3. Kinh tế đối ngoại phát triển trên nhiều mặt; thị trường xuất, nhập khẩu được củng cố và mở rộng; nguồn vốn đầu tư của nước ngoài tăng nhanh. Trong 5 năm (1991 - 1995) tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 17 tỉ USD (kế hoạch là 12 - 15 tỉ USD), bảo đảm nhập các loại vật tư, thiết bị và hàng hoá đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp phần cải thiện cán cân thanh toán thương mại. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu đã có thêm một số mặt hàng chế biến và tăng số mặt hàng có khối lượng xuất khẩu lớn như dầu thô, gạo, cà phê, hải sản, may mặc... Tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỉ USD, kể cả phần nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tỉ trọng nhập khẩu vật tư, thiết bị tăng lên, đáp ứng được nhu cầu phát triển. Quan hệ mậu dịch đã mở rộng với trên 100 nước, tiếp cận nhiều thị trường mới. Mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu... Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) tăng nhanh, đến cuối năm 1995, các dự án được cấp giấy phép đạt trên 19 tỉ USD vốn đăng ký. Tỉ trọng đầu tư vào công nghiệp chiếm 40% tổng số vốn theo dự án (nếu kể cả dầu khí thì chiếm trên 60%), trong đó hơn 60% là đầu tư chiều sâu. Hình thức đầu tư chủ yếu là xí nghiệp liên doanh, chiến trên 65% tổng số vốn; xí nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm gần 18%; hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm gần 17%. Mối quan hệ hợp tác phát triển đã được khôi phục, khai thông và mở rộng với nhiều nước và các tổ chức tài chính quốc tế; cơ chế thu hút nguồn tài trợ phát triển song phương và đa phương đã được thiết lập. Nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) tăng dần lên trong những năm  gần đây và được tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội. Hạn chế Chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, nước ta vẫn còn là một trong những nước nghèo trên thế giới, trình độ khoa học kĩ thuật và công nghệ còn thấp, nguy cơ tụt hậu xa hơn còn lớn. Việc xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng, vừa buông lỏng. Tài chính, tiền tệ chưa ổn định và thiếu lành mạnh. Các mặt văn hoá-xã hội còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc như: tình trạng tham nhũng, lãnh phí, buôn lậu, làm ăn phi pháp cũng như hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước chưa được ngăn chặn triệt để; sự phân hóa giàu nghèo, đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn… 1.3 Giai đoạn 1996-2000 1.3.1 Các chỉ tiêu phát triển kinh tế hteo kế hoạch 5 năm (1996-2000) của Chính Phủ Kế hoạch 5 năm (1996 – 2000) được xác định là thời kỳ rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước. Thực hiện đồng thời 3 mục tiêu: tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả. Ổn định kinh tế vĩ mô, chuẩn bị tiền đè cho bước phát triển cao hơn năm 2000, chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực,khoaa học – công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế,…kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa – xã hội, tập trung giải quyết hững vấn đè bức xúc nhằm tạo được chuyển biến rõ nét về thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển kế hoạch 5 năm (1996 – 2000) đã được xây dựng với mức phấn đấu rất cao, cả về tốc độ phát triển và hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế .Qua 5 năm đàu thực hiện chiến lược 1991 -2000 chúng ta đã hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu.Tại Đại hội VIII đưa ra nhận định” nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng vẫn còn một số chưa vững chắc.Nhiệm vụ đè ra cho chặn đường đầu thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH – HĐH. Theo đó phương hướng nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1996 -2000 được Đại hội VIII quyết định với mức phấn đấu cao hơn 5 năm trước. Giữa năm 1997, tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực cùng với thiên tai nghiêm trọng liên tiếp xảy ra đã đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách quyết liệt. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu, duy trì được nhịp độ tăng trưởng bình quân 6.7% trong 5 năm , tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng. 1.3.2 Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 1996-2000 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng gấp đôi, giá trị sản lượng của các ngành sản xuất đều đạt về chỉ tiêu phấn đấu, đặc biệt trong nông nghiệp cả 2 kỳ kế hoạch 5 năm 1990 – 1995 và 1996 – 2000, đều tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu đề ra, sản lượng lương thực bình quân đầu người từ 300 kg(1990) tăng 370kg (1995) và 435kg (2000), nhiều loại hang tiêu dung, có dự trữ và xuất khẩu nagỳ càng tăng. Tích lũy nội bộ kinh tế của nề kinh tế từ mức không đáng kể đã đạt 25% GDP,đầu tư phát triển tăng từ 1,2%(1990) lên 2,8% (2000) trong GDP. Kết cấu hạ tầng xã hội được phát triển ngày càng rõ rệt. Năng lực của hầu hết các ngành sản xuất dịch vụ đều tăng.Cơ cấu sản xuất hang hóa trên hầu khắp các vùng trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm còn 25%,công nghiệp tăng từ 22,7% lên 34,5%; dịch vụ tăng từ 38,6% lên 40,5%. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước đã có bước sắp xếp, đổi mới vầ phát triển, hình thàng các tổng công ty lớn trong nhiều lĩnh vực then chốt, các thành phố kinh tế khác phát triển khá nhanh.Thể chế quản lý và phân và phân phối được chuyển đổi phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Từ chổ bị bao vây cấm vận, nước ta đã chủ động tranh thủ thời cơ, từng bước hội nhạp có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, bình thường hóa và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu sau 10 năm tăng gấp 6 lần, nhanh gấp 3 tốc độ tăng trưởng GDP, một số sản phẩm như gạo, cà phê, thủy sản đã giành được thị phần đáng kể trên thị trường thế giới, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã thực hiện trong 10 năm khoảng 15tỷ USD, chiếm ¼ tổng đầu tư trong xã hội, thu hút trên 30 vạn lao đọng trực tiếp, năm 200 tạo 22% kim ngạch xuât khẩu.Trong 5 năm nguồn tài trợ của chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế được giải ngân 6,1 tỷ, tập tung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội 1.3.2.1Nông nghiệp Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam, thường tạo ra trên 40% tổng sản phẩm xã hội và khoảng 50% thu nhập quốc dân. Sự phát triển của ngành nông nghiệp tương đối vững chắc, đặc biệt là sản xuất lương thực. Giá trị sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng qua các năm: 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2,9% 8,4% 6,7% 4,9% 6,6% 5,1% 7,0% 3,9% 7,1% Kết quả quan trọng nhất trong nông nghiệp lá sản xuất lương thực, vấn đề an toàn lương thực mới được khẳng định và sản lượng hang năm không chỉ cao hơn 21,0 triệu tấn đề ra từ năm 1980 mà còn thường xuyên tăng lên với mức bình quân mỗi năm trên 1,2 triệu tấn trong suốt 9 năm 1991 – 1999.day là thời kỳ sản lượng lương thực tăng ổn định nhất có mức tăng bình quân/ năm và tốc độ tăng trưởng cao nhất kể từ 1975 đến nay. Năm 1999, cả nước có khoảng 113000 trang trại, khai thác gần 30000000 ha đất trống đồi trọc và hoang hóa.Số vốn các trang trại đầu tư lên đến 20000tỷ đồng, giải quyết việc làm hơn 40.000 lao động, kinh tế trang trại hàng năm tạo ra giá trị tổng sản phẩm gần 12000 tỷ đồng, chiếm 10% sản lượng nông nghiệp. Tốc độ phát triển chung nông – lâm – ngư nghiệp tăng 4,1% trong đó nông nghiệp 5,6%; lâm nghiệp 0,4% , ngư nghiệp 8,4%. Công nghiệp. Thành tựu đạt được trong công nghiệp, xây dựng đã đạt được nhiều tiến bộ. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13,5% trong đó: công nghiệp quốc doanh tăng 9,5%; ngoài quốc doanh tăng 11,5%; khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8%. Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển góp phần tích cực cho tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống. Thương mại tăng trưởng khá, đảm bảo lưu chuyển cung ứng vật tư hang hóa trong cả nước và trên từng vùng. 1.3.2.3 Thương mại Những năm qua nhờ chính sách đổi mới, hàng hóa sản xuất trong nước dồi dào, nguồn hàng nhập khẩu cũng rất phong phú, nhiều thành phần kinh tế đã được nhà nước khuyến khích phát triển, nên ngành thương mại có mức tăng trưởng khá cao, giá cả bình ổn hơn. Thời kỳ đổi mới nhà nước thực hiên chính sách mở cửa đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 100 nước và lãnh thổ trên thế giới, Việt Nam ký hiệp định hợp tác thương mại EU, bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ(12 – 07 – 1995), trở thành thành viên chính thức của ASEAN(1995). Đến năm 2000, hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết. Nét đặc trưng nổi bật là quá trình mở cửa hoạt đông thương mại được đẩy mạnh. Đến năm 1997, tổng kim ngạch ngoại thương vượt 21 tỷ USD, hệ số mở cửa của nền kinh tế nước ta phát triển nhanh. Sự đẩy mạnh hoạt động ngoại thương, nhất là xuất khẩu đã trở thành một động lực quan trọng để đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế.Năm 1995, GDP tăng 9,5% thì tốc độ xuất nhập khẩu là 47%( xuất khẩu 50%) Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1991-1995 gấp 2-2,5 lần so với 5 năm trước, nhưng đến năm 2000 tăng 5,4 lần. Đã thực hiện được nhiệm vụ “ Cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tốc mặt hang chế biến, tạo ra một sồ mặt hang có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định”. Trong kim ngạch xuất khẩu, tỉ trọng sản phẩm qua chế biến từ 8%(1991) lên đến 40% (2000) và đã có 12 mặt hàng khối lượng và kim ngạch lớn, trong đó mặt hàng có trị giá trên 1 tỷ USD là gạo, giày dép, may mặc và dầu thô. Đặc biệt một số sản phẩm Việt Nam có vị thế cao trên thế giới như gạo, cà phê Nhập khẩu đã phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mơi công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống. Tình trạng nhập siêu đã gảm cả về giá trị tuyệt đối lẫn tương đối, trong 5 năm( 1991-1995), nhập siêu chiếm 33% kim ngạch nhập khẩu thì 5 năm sau (1996-2000) chỉ còn khoảng 18%, riêng năm 1999 là 0,7% đã vượt qua khủng hoảng thị trường vào đầu những năm 90 do Liên Xô và Đông Âu tan rã, và đẩy lùi được chính sách bao vây cấm vận nước ta, về mặt cơ bản thực hiện được chủ trương “ đa dạng hóa thị trường, đa phương hóa quan hệ kinh tế”. Nước ta đã có quan hệ thương mại với 105 nước và vùng lãnh thổ, kí trên 60 hiệp định thương mại với các nước trong đó có Hoa Kì, gia nhập ASEAN, APEC, và đang đàm phán chuẩn bị gia nhập WTO, là thành viên của IMF,WB,ADB. Đã đổi mới một cách cơ bản cơ chế xuất nhập khẩu thoe hướng cho phép mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinnh tế được trực tiếp xuất nhập khẩu, xóa bỏ hầu hết các thủ tục phiền hà và các looại giấy phép không cần thiết, nên đến 2000 có trên 1200 doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp 1.3.3 Những hạn chế và khó khăn Kinh tế Việt Nam còn phát triển chưa vững chắc, lạc hậu, trình độ kém, thu nhập quốc dân, năng suất tuy tăng cao nhiều lần so với các năm trước nhưng vẫn còn thấp, đời sống nhân dân khó khăn, tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao. Xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực tham nhũng, lãng phí, buôn lậu và nhiều tiêu cực còn tồn tại trong nhà nước. Trình độ khoa học kĩ thuật kém không đáp ứng nhu cầu đất nước. Tình trạng chảy máu chất xám xuất hiện 1.4 Giai đoạn 2001-2005 1.4.1 Các chỉ tiêu pát triển kinh tế theo kế hoạch 5 năm của Chính Phủ Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm, cơ bản xóa đói giảm hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 2001 - 2005: - Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm tăng 7,5%. - Tỷ trọng ngành trong GDP năm 2005 dự kiến: Nông - lâm - ngư nghiệp 20-21%, công nghiệp và xây dựng 38-39%, dịch vụ 41-42%.Xuất khẩu tăng 14-16%. - Giảm tỷ lệ sinh BQ hàng năm 0,05%, tốc độ tăng dân số năm 2005 khoảng 1,2%. - Giải quyết việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động (bình quân 1,5 triệu lao động/năm), nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005. - Cơ bản xóa đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10% năm 2005.- Nâng tuổi thọ bình quân năm 2005 lên 70 tuổi,cung cấp nước sạch cho 60% dân số nông thôn. 1.4.2. Những thành tựu đạt được giai đoạn 2001-2005 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) (2001-2005) tăng bình quân7,5%/năm đạt mục tiêu đề ra. Trong đó: Nông nghiệp tăng 3,8%, Công nghiêp và xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng7% Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 5 năm 2001-2005 2001 2002 2003 2004 Ước tính 2005 BQ mỗi năm 2001-2005 Tổng số 6,89 7,08 7,34 7,79 8,43 7,51 Nông lâm nghiệp và thuỷ sản 2,98 4,17 3,62 4,36 4,04 3,83 - Công nghiệp và xây dựng 10,39 9,48 10,48 10,22 10,65 10,24 - Dịch vụ 6,1 6,54 6,45 7,26 8,48 6,96 Biều đồ: Tỷ trọng cơ cấu ngành năm 2005 Quy mô tổng sản phẩm trong nước 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đổng, gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người: 640 USD/ người, vượt mức bình quân cảu các nước phát triển có thu nhập thấp (500 USD/ người) Công nghiệp Liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao. Cơ cấu sản xuất và chất lượng sản phẩm có bước chuyển biến tích cực. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 15,9%/ năm cao hơn 2%/năm so với năm trước. Đến 2005, cả nước đã có 125 khu công nghiệp, khu chế xuất, tỷ lệ công nghiệp chế tác, công nghiệp cơ khí chế tạo tăng lên. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được với thị trường thế giới, cơ cấu sản phẩm công nghiệp xuất khẩu phong phú hơn, đadạng hơn, đã có chỗ đứng ở một vài thị trường trên thế giới. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển, ngành nghề đa dạng đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp. Các địa phương có tỷ trọng sản xuất công nghiệp lớn: Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng,… Giá trị xuất khẩu công nghiệp trong 5 năm đạt 82 tỷ USD, chiếm 74% gia1 trị kim ngạch xuất khẩu cả nước. Sự tham gia của các thành phần kinh tế trog sản xuất công ngiệp đã góp phần làm cho sản xuất công nghiệp mang tính đa dạng cả về quy mô lẫn sản xuất, cả về trình độ công nghệ, chủng loại và chất lượng sản phẩm, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của các thi trường tiêu thụ 1.4.2.2 Nông nghiệp Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 5,5%/năm. Sản lượng lương thực tăng bình quân hằng nắm triệu tấn. Năm 2005 đạt 39,5% triệu tấn. Ngành chăn nuôi phát triển với tốc độ 6,4%/Năm. Độ che phủ rừng từ 33,7% năm 2000-2005 là 37,4%. Ngành thủy sản phát triển nhanh nhất là nuôi trồng. Sản lượng thủy sản 2005: 3,43 triệu tấn tăng 1,5 lần so với năm 2000.Tỷ trọng xuất khẩu thủy sản năm 2000 là 15,6%- 2005 là 21,2% Kinh tế nơng thôn phát triển theo hướng đa dạng hóa ngành nghề, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Kinh tế trang trại được hình thành và phát triển với quy mô đa dạng, phù hợp với đặc điểm từng vùng. 1.4.2.3 Dịch vụ Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 7,6%/năm. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa lẻ tăng bìn quân 15%/năm Ngành du lịch có bước phát triển khá, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng đáng kể Dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông đã mở cửa thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh để phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng hiện đại. Trogn 5 năm 2000-2005, phát triển trên 11 triệu máy điện thoại, đến 2005 hầu hết các xã đều có điện thoai, 83% số xã trên toàn quốc có điểm bưu điện văn hóa xã, 2,8 triệu thuê bao internet. Mật độ điện thoại 17,1 máy/ 100 dân Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 1.4.3 Những khó khăn và hạn chế Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển, sức cạnh tranh thấp và chứa đựng nhiều mặt mất cân đối. Những năm 2001-2005 vừa qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng bình quân mỗi năm 7,51% là một thành công, do xuất phát điểm thấp nên quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé, giá trị tăng thêm của 1% tăng lên không cao và do vậy đến nay nước ta vẫn chưa ra khỏi danh sách các nước đang phát triển có thu nhập thấp. Theo phân loại của Ngân hàng Thế giới năm 2003 về thu nhập, các quốc gia và vùng lãnh thổ được chia thành 4 nhóm: (1) Thu nhập thấp tổng sản phẩm trong nước bình quân từ 765 USD/người/năm trở xuống; (2) Thu nhập trung bình thấp 766-3035 USD/người/năm; (3) Thu nhập bình quân cao 3036-9385 USD/người/năm; (4) Thu nhập cao từ 9386 USD người/năm trở lên, bình quân đầu người của nước ta năm 2005 chỉ đạt 638 USD, tuy tăng 58,7% so với năm 2000 nhưng mới bằng 83,4% cận trên của nhóm thu nhập thấp. Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người tính bằng đô la Mỹ theo tỷ giá hối đoái năm 2004 của nước ta chỉ bằng 53,2% của Phi-li-pin; 46,4% của In-đô-nê-xi-a; 43,6% của Trung Quốc; 21,8% của Thái Lan và bằng 12% của Ma-lai-xi-a. Nếu tính theo sức mua tương đương thì cũng có tình trạng thấp thua tương tự. Chính do tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người thấp nên mặc dù chỉ số tuổi thọ trung bình và chỉ số giáo dục tương đối cao nhưng chỉ số HDI vẫn rất thấp. Một hạn chế lớn khác của nền kinh tế nước ta là đang chứa đựng nhiều mặt mất cân đối. Quan hệ tích luỹ, tiêu dùng ít được cải thiện. Tích luỹ trong tổng sản phẩm trong nước chiếm tỷ trọng thấp và gần như không tăng qua các năm. Trong quan hệ thương mại, nhập siêu tuy vẫn nằm trong tầm kiểm soát nhưng ở mức tương đối cao. Đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được khắc phục.Tỷ lệ hộ nghèo của nước ta đã giảm đáng kể, nhưng đến nay vẫn còn tương đối cao. Một bộ phận dân cư, nhất là bộ phận dân cư sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc ít người đời sống vẫn rất khó khăn. 1.5. Giai đoạn 2006-2010 1.5.1 Các chỉ tiêu phát triển kinh tế theo kế hoạch 5 năm( 2006-2010) của Chính Phủ GDP bình quân đạt 7,5 – 8%, phấn đấu đạt trên 8% (theo so sánh GDP năm 2010 gấp 2,1 lần so với 2000) GDP bình quân đầu người đến 2010: 1.050 – 1.100 USD (năm 2005 đạt khoảng 600 USD) Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010: -Nông, lâm nghiệp và thủy sản khoảng 15 -16%, công nghiệp và xây dựng: 43 – 44%, các ngành dịch vụ: 40 – 41% Tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước đạt khoảng 21 – 22% GDP - Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm Tổng đầu tư xã hội chiếm 40%GDP (vốn trong nước chiếm 65%, vốn bên ngoài 35% 1.5.2. Những Thành tựu đạt được trong giai đoạn Trong hai năm đầu (2006 – 2007) Việt Nam được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Từ Quý II năm 2007 mặc dù lạm phát trong nước bắt đầu tăng cao, tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động không thuận đến nền kinh tế nước ta, nhưng Việt Nam đã sớm vượt qua và vẫn giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng khá với mức tăng trưởng bình quân trong cả thời kì 2006 – 2010 khoảng 7%; mặt bằng kinh tế - xã hội được nâng lên đáng kể. Điều này được chứng minh qua những chỉ tiêu trong một số lĩnh vực lớn như sau: Quy mô và năng lực sản xuất của các ngành đều tăng. GDP năm 2010 gấp 2 lần so với năm 2000; ước đạt trên 101 tỉ USD, gấp hơn 3,2 lần năm 2000 (31,2 tỉ USD); (theo giá thực tế bình quân đầu người) ước khoảng 1.160 USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 1.050 – 1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp và trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Cấu trúc kinh tế đã có thay đổi tích cực. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006-2010 đạt 56 tỉ USD/năm, bằng 2,5 lần thời kỳ 2001-2005 và tăng 17,2%/năm.Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn ODA ngày càng tăng và có nhiều thuận lợi. Vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỉ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỉ, năm 2008 đạt 11,5 tỉ USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất nhiều so với năm trước. Thời kỳ 2006-2010, FDI thực hiện tăng bình quân 25,7%/năm. Các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế trong những năm cuối kỳ kế hoạch. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân 5 năm ở mức khoảng 28% GDP, bội chi ngân sách bình quân chỉ 5,7%. An ninh tài chính quốc gia được bảo đảm, ước tính đến cuối năm 2010 dư nợ chính phủ chiếm khoảng 44,5% GDP. Dư nợ ngoài nước của quốc gia so GDP ở mức an toàn cho phép. Chính sách tiền tệ điều hành linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống ngân hàng thương mại có sự phát triển cả về quy mô và chất lượng tín dụng; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của hầu hết các ngân hàng đều đạt chuẩn mực quốc tế trên 8%. Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư khá cao trong những năm đầu của kỳ kế hoạch, còn 2 năm cuối (2009-2010) tuy có mức thiếu hụt, nhưng không bị phá vỡ cân đối. Tổng vốn đầu tư được huy động đưa vào phát triển kinh tế - xã hội 5 năm qua theo giá hiện hành đạt khoảng 3.062 nghìn tỉ đồng (tăng 14,4% so với kế hoạch) bằng 42,7% GDP, gấp hơn 2,5 lần so với 5 năm trước đó (2001 – 2005). Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện đáng kể tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Nhiều nhà máy công nghiệp lớn, kỹ thuật cao, cụm công nghiệp,… được ra đời và đi vào hoạt động hiệu quả, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở tất cả các vùng, miền trong cả nước. 1.5.3 Những hạn chế và yếu kém: Nhìn một cách tổng thể so với yêu cầu thì chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, kinh tế phát triển chưa bền vững vẫn ở dưới mức tiềm năng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, các cân đối vĩ mô còn hạn hẹp, lợi ích mang lại từ tăng trưởng kinh tế không cao. Thể hiện: Một là, tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác nguồn tài nguyên và các yếu tố tác động đầu vào (vốn, lao động) của nền kinh tế, còn tác động của các nhân tố tổng hợp (TFP), chủ yếu là nhân tố khoa học, công nghệ... thì rất thấp. Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP 5 năm qua chỉ giảm được 0,67 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục tiêu đặt ra là phải giảm khoảng 5 – 6 điểm phần trăm). Mặt khác, trình độ công nghệ ở nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, chi phí năng lượng, giá thành cao... Trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế cũng còn khoảng cách quá xa. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa tạo được sức lan tỏa thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Ba là, nguồn nhân lực kỹ năng lao động, có tay nghề cao thiếu trầm trọng, đang là vật cản kìm hãm chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh chậm phát triển và chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế, dẫn đến hậu quả tăng chi phí trung gian và các yếu tố đầu vào, năng lực cạnh tranh thấp. Bốn là, tài chính quốc gia còn hạn hẹp; thu ngân sách nhà nước chủ yếu mới đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên và trả nợ, phần lớn vốn đầu tư phát triển phải dựa vào các khoản vay trong nước và ngoài nước thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và huy động vốn để xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục. Năm là, kết cấu hạ tầng kinh tế kém phát triển, thiếu đồng bộ gây nhiều hạn chế cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và khả năng hợp tác kinh tế với nước ngoài .Cụ thể, chất lượng đường bộ còn rất thấp và lạc hậu. Hạ tầng đô thị, đặc biệt là giao thông, cấp thoát nước, thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn vừa thiếu, vừa kém chất lượng đang gây ách tắc cho sự phát triển. 1.6 Giai đoạn 2011- 2012 1.6.1 Các chỉ tiêu của Chinh Phủ đặt ra năm 2011 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 7 - 7,5% so với năm 2010; GDP bình quân đầu người khoảng 1.300 USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu là 74,8 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2010. Giảm nhập siêu xuống dưới 20%. Tổng thu ngân sách nhà nước 590,5 nghìn tỷ đồng; Tổng chi ngân sách nhà nước 725,6 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách nhà nước so với GDP 5,5%. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 40% GDP.Tăng giá tiêu dùng khoảng 7%. Năm 2012- Chỉ tiêu lạm phát: Năm 2012 phấn đấu kiềm chế lạm phát dưới 10%, các năm sau thấp hơn, đến năm 2015 lạm phát khoảng 5 - 7%.- Chỉ tiêu tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP): Năm 2012 tăng GDP khoảng 6 - 6,5%. Để chủ động ứng phó với diễn biến phức tạp của tình hình và tập trung cho nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, Chính phủ đề nghị điều hành theo phương án tăng trưởng khoảng 6%, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức 6,5%.Trong giai đoạn 5 năm 2011 - 2015, tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,5 - 7%. Phấn đấu đạt 7%.- Các chỉ tiêu về bội chi ngân sách nhà nước và nợ công: Năm 2012, bội chi ngân sách nhà nước bằng 4,8% GDP, các năm sau giảm dần để đến năm 2015 giảm xuống còn 4,5%. Đến năm 2015, nợ công khoảng 60 - 65% GDP. - Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 dự kiến tăng khoảng 12 - 13% so với năm 2011; nhập siêu 11,5 - 12% tổng kim ngạch xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2015, nhập siêu khoảng 10%. - Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội: Năm 2012 bằng khoảng 33,5 - 34% GDP. Bình quân 5 năm khoảng 33,5 - 35% GDP. 1.6.2 Những thành tựu đạt được trong giai đoạn này. Lạm phát giảm dần, kinh tế vĩ mô có bước chuyển biến tích cực kiềm chế lạm phát và nỗ lực thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiểm soát giá cả, điều tiết cung cầu, bình ổn thị trường nên từ tháng 5 năm 2011 mức tăng giá tiêu dùng đã giảm dần, 9 tháng tăng 16,63%, ước cả năm tăng khoảng 18%. Điều hành chính sách tài khoá thắt chặt, tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, đồng thời rà soát, cắt giảm và sắp xếp lại đầu tư công, tập trung vốn cho các công trình quan trọng , sắp hoàn thành; miễn, giảm nhiều loại thuế cho doanh nghiệp và cá nhân. Kết quả là, bội chi ngân sách nhà nước cả năm 2011 giảm xuống còn 4,9% GDP (kế hoạch là 5,3%), thu ngân sách tăng, đáp ứng nhu cầu chi và dành một phần để tăng chi trả nợ.Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt. Vốn tín dụng được ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thị trường ngoại hối chuyển biến tích cực, tỷ giá dần ổn định, trạng thái ngoại hối của hệ thống ngân hàng, dự trữ ngoại tệ và cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện. Mua bán ngoại tệ và kinh doanh vàng được kiểm soát có kết quả bước đầu. Nợ công được giữ ở mức an toàn. An ninh năng lượng và lương thực được bảo đảm. Sản xuất kinh doanh được duy trì và tiếp tục phát triển nông nghiệp phát triển khá toàn diện, đạt mức kỷ lục về sản xuất lương thực và xuất khẩu gạo, thu nhập và đời sống của nông dân được cải thiện, giá trị sản xuất nông nghiệp 9 tháng tăng 4,1%, ước cả năm tăng 3,6%; chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 9 tháng tăng khá, đạt 7,8%, ước cả năm tăng khoảng 7%; khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển, 9 tháng tăng 6,24%, dự báo cả năm tăng 6,4%.Xuất khẩu tăng cao, nhập khẩu được kiểm soát. Nhập siêu giảm mạnh, dự kiến khoảng 10 tỷ USD, bằng 10,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch (không quá 18%), đã góp phần tích cực cải thiện cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá.Trong điều kiện phải tập trung kiềm chế lạm phát, giảm mạnh tăng trưởng tín dụng, thắt chặt chi ngân sách nhưng kinh tế vẫn tăng trưởng liên tục, quý sau cao hơn quý trước, cả năm ước đạt khoảng 6%. 1.6.3 Những khó khăn và hạn chế Đã xuất hiện những dấu hiệu suy giảm tăng trưởng kinh tế.  Tốc độ tăng trưởng GDP quý I năm 2012 chỉ đạt 4%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2011 (5,57%) và năm 2010 (5,84%). Trong đó công nghiệp, xây dựng chỉ tăng 2,94 .Việc thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt, chính sách tiền tệ làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lãi suất vay còn cao, nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận và hấp thụ vốn; chi phí đầu vào lớn, sản phẩm tiêu thụ chậm, tồn kho cao, dẫn đến quy mô sản xuất phải thu hẹp, nhiều doanh nghiệp phải ngừng hoạt động hoặc phá sản, giải thể, lao động mất việc làm tăng, gây sức ép lớn đến ổn định xã hội và đời sống của nhân dân. Tuy lạm phát giảm mạnh nhưng lãi suất vay ngân hàng vẫn còn cao. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng gia tăng. Nhập khẩu giảm mạnh, nhất là khối doanh nghiệp trong nước. Buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất và tiêu thụ hàng giả, hàng kém chất lượng chưa giảm, làm thất thu ngân sách, gây thêm khó khăn cho sản xuất, xâm phạm lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đời sống nhân dân ở nhiều vùng vẫn còn khó khăn, tình hình an ninh, trật tự xã hội ở nhiều nơi vẫn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý vi phạm chưa nghiêm.Tình hình tệ nạn xã hội, tội phạm còn nghiêm trọng, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm chống người thi hành công vụ. Tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi; việc bảo đảm an toàn các công trình thủy điện, tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông ở một số thành phố lớn, vẫn là những vấn đề bức xúc xã hội. III/ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TIẾP THEO Theo nhiều dự báo, kinh tế thế giới đang có những dấu hiệu tích cực nhưng vẫn còn nhiềudiễn biến phức tạp, khó lường. Tình hình kinh tế - xã hội trong nước còn nhiều khó khăn, thiên tai, dịch bệnh còn tiềm ẩn, nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn còn lớn; lãi suất tín dụng còn cao; áp lực tăng giá của một số loại hàng hóa là đầu vào của sản xuất sẽ tiếp tục gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh cũng như điều hành kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, có thể thấy rằng một số lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, sản xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng trong nước, nhất là các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản chế biến, điện tử… vẫn đang có mức tăng khá. Đây chính là những yếu tố quan trọng cần phát huy, tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành để vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2012.Căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 mà các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã đề ra đồng thời xuất phát từ tình hình thực tiễn khó khăn của nền kinh tế trong những tháng gần đây, Chính phủ xác định nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới là: Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đồng thời tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô để tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững; từng bước thực hiện có kết quả chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.Trong đó tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây: Một là, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đầu tư, đồng thời tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương thực hiện có hiệu quả các giải pháp thiết thực, phù hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thúc đẩy sản xuất phát triển, nhất là về vốn, mặt bằng, nhân lực, thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu theo các cơ chế, chính sách đã ban hành, tập trung thực hiện tốt Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2012 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường. Đặc biệt cần điều chỉnh giảm lãi suất vay phù hợp với mức giảm của lạm phát; tăng khả năng vay vốn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ và khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện việc kéo dài thời hạn nộp thuế, giảm tiền thuê đất, miễn thuế môn bài đối với một số đối tượng doanh nghiệp; đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư nhà nước; đồng thời trình Quốc hội xem xét miễn giảm thêm một số loại thuế. Tăng cường thu hút, giải ngân các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Triển khai áp dụng các giải pháp xử lý nợ phù hợp đối với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có tiềm năng phát triển nhưng đang gặp khó khăn tạm thời (cơ cấu lại nợ, giãn nợ, thay đổi thời hạn, lãi suất…). Xoá bỏ các rào cản đầu tư bất hợp lý, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh. Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương kiềm chế lạm phát, thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để bảo đảm lạm phát mục tiêu năm 2012 khoảng 8 - 9%, tạo tiền đề cho việc kiềm chế lạm phát xuống mức thấp hơn trong những năm sau, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc và sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong trung và dài hạn. Cần quán triệt tư tưởng chỉ đạo quan trọng này trong hành động của mỗi cấp, mỗi ngành. Thực hiện lành mạnh hoá tài chính quốc gia theo hướng: Phấn đấu thực hiện bội chi ngân sách nhà nước năm 2012 theo đúng Nghị quyết của Quốc hội  và giảm dần trong những năm tiếp theo; tiếp tục quản lý, giám sát chặt chẽ nợ Chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp tục có giải pháp hỗ trợ phù hợp đối vớicác ngành hàng xuất khẩu chủ lực, có lợi thế, có thị trường và có khả năng cạnh tranh; tăng cường kiểm định chất lượng hàng xuất khẩu… đồng thời có các giải pháp linh hoạt nhằm tranh thủ cơ hội tăng xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng và thị trường đang có triển vọng phục hồi. Tập trung phát triển thị trường trong nước, nhất là hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho, đổi mới hệ thống thu mua, tiêu thụ, đưa hàng hóa về nông thôn. Quản lý giá đi đôi với việc tăng cường quản lý thị trường, giá cả, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý các hành vi tăng giá bất hợp lý, nhất là đối với nguyên vật liệu quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu; ngăn chặn tình trạng chuyển giá, trốn, lậu thuế, găm hàng và thao túng thị trường giá cả. Thực hiện tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng để giảm giá thành sản phẩm, thay đổi mẫu mã phù hợp, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tập trung nguồn lực phát triển nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Chuẩn bị tốt các yếu tố giống, phân bón, thuốc trừ sâu, phổ biến kỹ thuật nuôi trồng mới, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ các công trình phòng chống lụt bão, thiên tai, tăng cường các biện pháp phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi, kết hợp với bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Hai là, thực hiện tốt nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Thực hiện chủ trương tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế phân cấp quản lý đầu tư theo hướng vừa bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội của cả nước, của ngành, vùng, vừa bảo đảm lợi ích của địa phương cả trong ngắn, trung và dài hạn. Thực hiện có kết quả lộ trình cơ cấu lại hệ thống tài chính, ngân hàng mà trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, nâng cao chất lượng dịch vụ, hiệu quả kinh doanh và bảo đảm an toàn của cả hệ thống; thực hiện các giải pháp xử lý phù hợp đối với nhóm ngân hàng yếu kém, đồng thời bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền.Đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo hướng xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước để khu vực doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu tổ chức hợp lý, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, thực hiện tốt hơn vai trò, nhiệm vụ được giao. Tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước, chức năng giám sát của chủ sở hữu. Đổi mới phương thức quản lý, thực hiện có hiệu quả cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cần tập trung rà soát, hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ và liên kết giữa các loại quy hoạch. Tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý phát triển theo quy hoạch của các ngành,địa phương. Quan tâm chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh việc đào tạo theo nhu cầu xã hội, nâng cao hiệu quả chuyển dịch lao động gắn với tăng năng suất lao động xã hội. Triển khai quyết liệt các chương trình đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển sản phẩm quốc gia, thị trường khoa học công nghệ để phát huy vai trò quan trọng của khâu đột phá này trong tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. KẾT LUẬN Có thể nói trong giai đoạn 1986-2012 mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thử thách nhưng nền kinh tế nước ta vẩn đang hòa nhập và đạt được hiều thành tựu rực rỡ. Từ đó tạo ra những chuyển biến lớn, tiền đề cho sự phát triển lâu dài. Đồng thời góp phần nâng cao tiềm lực cho nền kinh tế, chất lượng cuộc sống cho nhân dân và khẳng định vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Điều đó cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt và kịp thời của Đảng và nhà nước Để khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, không thể giản đơn mà phải đổi mới toàn diện, bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế để đi lên một mô hình mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời đại mới. Đổi mới về kinh tế là cơ bản, xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ XHCN phải làm đồng thời nhưng có bước đi vững chắc, đồng thời sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của thế lực thù địch nhằm xuyên tạc phá hoại công cuộc đổi mới. Sau khi đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, còn phải tiếp tục công cuộc đổi mới để khắc phục tình trạng tụt hậu khá xa về kinh tế so với các nước trong khu vực, phấn đấu vì Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh Mỗi nước cần có chiến lược phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất, kết hợp với đường lối mở cửa hướng ra bên ngoài. Khai thác có hiệu quả và thuận lợi bên ngoài để nhân lên sức mạnh bên trong. Xác định đúng các giải pháp chiến lược để vượt qua cửa ải đói nghèo, lạc hậu tiến tới giàu mạnh và phát triển. Đánh giá đúng ảnh hưởng và tác dụng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nhận rõ đặc điểm của thời đại hiện nay và những thời cơ thách thức của nó. Làm sống động nền kinh tế hướng vào mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, dựa trên cơ sở lợi ích người sản xuất, người lao động, coi đó là động lực trực tiếp của sự phát triển XH.Việt Nam dám chấp nhận thách thức nắm lấy thời cơ, gấp rút xây dựng đất nước để tiến kịp và rút ngắn khoảng cách giữa mình với cộng đồng thế giới. Nhiệm vụ của chúng ta là phải phấn đấu không mệt mỏi, phát huy đầy đủ cố gắng chủ quan và tìm mọi cách hạn chế, khắc phục những khó khăn khách quan nhằm tạo ra cho mình một môi trường quốc tế thuận lợi để có thể tập chung xây dựng đất nước đuổi kịp và sánh ngang hàng với các nước phát triển. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnhung_thanh_tuu_noi_bat_cua_nen_kinh_te_viet_nam_giai_doan_1986_2012_674.doc
Luận văn liên quan