Quá trình phát triển đô thị là một sự vận động tất yếu, quá trình này sẽ tác động
đến cấu trúc đô thị làm nảy sinh những mâu thuẫn mới giữa vấn đề bảo tồn và phát
triển. Quan niệm về các giá trị bảo tồn trong đó bao gồm cả phương pháp và kỹ thuật
xây dựng truyền thống phụ thuộc vào sự nhận biết giá trị đó trong toàn bộ tiến trình
lịch sử phát triển đô thị. Sẽ còn nhiều vấn đề khác nảy sinh trên con đường phát triển
của lịch sử, sẽ còn nhiều thách thức khác trong việc gìn giữ các giá trị di sản dân tộc –
những cái đã mất mát đi nhiều trong chiến tranh, nhưng sẽ lại còn nguy hiểm hơn khi
bị mất mát ngay trong quá trình tái thiết thành phố. Vì vậy, ngay từ bây giờ Nhà n ước
nên có những chính sách, những định hướng phát triển thích hợp để có một Thăng
Long – Hà Nội mang đậm bản sắc dân tộc.
12 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2493 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phấn đấu cho một nền kiến trúc bền vững, trật tự, thuần khiết, nhân đạo, giàu hiệu quả thị giác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Phấn đấu cho một nền kiến trúc bền
vững, trật tự, thuần khiết, nhân đạo,
giàu hiệu quả thị giác
Lời nói đầu
Mười năm gần đây, thực tiễn kiến trúc Hà Nội đã đòi hỏi giới kiến trúc có chất
lượng nghề nghiệp đổi mới, và muốn hay không, càng sớm càng tốt, phải tiếp xúc với
kiến trúc các nước công nghiệp phát triển và các nước trong khu vực. Kiến trúc Hà
Nội đang đứng trước những biến động lớn của một thời điểm then chốt, cần có một sự
đột biến về chất cũng như về lượng, điều đó khiến cho mỗi kiến trúc sư Bắc Hà phải
cùng suy nghĩ và đóng góp cho sự đột biến đó. Tính xã hội và tính cộng đồng của kiến
trúc Hà Nội đang đặt ra những yêu cầu mới. Phấn đấu cho một nền kiến trúc bền vững,
trật tự, thuần khiết, nhân đạo, giàu hiệu quả thị giác là trách nhiệm cao đẹp của mỗi
người chúng ta.
Nội dung
I. Kiến trúc Hà Nội sau 12 năm nhìn lại
1. Kiến trúc Hà Nội hiện nay
Những ai đã từng xa Hà Nội nhiều năm bây giờ khi trở lại cái đập vào mắt
trước tiên là tốc độ xây dung dồn dập và lượng người đông đảo. Nhà cửa mọc lên như
nấm sau cơn mưa và nhìn đâu cũng thấy toàn người là người. Đi vào Hà Nội từ bất cứ
ngả nào, đều nhìn thấy các tuyến đường mới mở, rộng rãi, khang trang, nhưng nhà cửa
hai bên lại chen choc, lồi ra thụt vào, hỗn độn, kiểu thị trấn hơn là kiểu thành phố lớn,
kéo dài hình như vô tận. Càng đi sâu vào thành phố cái sinh động mà rối loạn đó cứ
như nhân lên dần. Từ đê Yên Phụ nhìn xuống, bờ Hồ Tây dày đặc nhà cửa, không còn
đâu mảng cây xanh mơ tưởng. Hồ Gươm thì có nguy cơ biến thành cái ao con khi nhà
cao tầng lan đến. Việc chúng phá vỡ cảnh quan Hà Nội là một hậu quả đương nhiên,
còn việc một vài công trình có đóng góp được cho bộ mặt thành phố hình như chỉ là
một sự tình cờ may mắn. Bằng chứng là chính những dự án gặp nhiều thuận lợi và
suôn sẻ nhất trong việc xét duyệt và cấp giấy phép xây dựng đến khi được thực thi rồi
lại làm xấu cảnh quan nhiều nhất, chẳng hạn như cao ốc văn phòng 46 Lý Thường Kiệt
với hình khối cục mịch và chất liệu vô cảm, hay công trình Tung Shing Square dù nằm
khá xa Hồ Gươm mà vẫn nhô lên thô thiển bên cạnh ủy ban nhân dân thành phố.
Trong khi đó, một vài công trình khác đã từng là đề tài tranh cãi khá gay gắt thì nay lại
tỏ ra đứng được trong lòng Hà Nội. Ví dụ điển hình là Cao ốc văn phòng 53 Quang
Trung án ngữ tầm nhìn suốt dọc các trục đường Quang Trung và Khâm Thiên, hoặc là
Hà Nội Tower từ xa đã hiện diện một cách chững chạc trên đường Điện Biên Phủ và
Trần Bình Trọng. Cho dù còn đôi chỗ chưa thật thoả đáng về chi tiết, song những đóng
góp của chúng cho cảnh quan Hà Nội là rất ấn tượng và tích cực. Có thể kể thêm
khách sạn Sakura góc công viên Lênin hay Lake View Hotel đầu dốc đường Thanh
Niên. Rõ ràng việc xây dựng nhà cao tầng ở Hà Nội đang diễn ra một cách tự do mà
chưa hề được quy hoạch. Chúng ta có kinh nghiệm của khu vực Hồ Gươm nên đã tỏ ra
thận trọng hơn đối với khu vực Nhà hát lớn khi khống chế chiều cao xây dựng dưới
30m và bắt buộc theo phong cách cổ điển. Song điều đó chỉ cần nhưng chưa đủ, vì hai
công trình office bld 63 Lý Thái Tổ và Opera Hotel từ lúc còn đang thi công đã tỏ ra
tranh chấp với Nhà hát lớn thành phố, tức là với chính công trình được coi là chủ đạo
của khu vực – một di sản kiến trúc hết sức tinh tế và quý báu của Hà Nội.
Thành phố là một cơ thể sống. Xây dựng nhà cao tầng là một phương thức phát
triển đô thị vươn lên độ cao. Từ lâu chúng ta đều biết đến nhữn mô hình đô thị dạng
lòng chảo và dạng bát úp mà đối với Hà Nội cả hai mô hình này đều tỏ ra chưa thật
phù hợp. Về mặt lý thuyết, chúng ta mong muốn phát triển khu vực cao tầng ra ngoại
vi, nơi còn nhiều đất trống và có điều kiện tổ chức mới các cấu trúc hạ tầng, nhằm bảo
tồn trung tâm phố cổ như một di sản kiến trúc tổng thể. Song trên thực tế các nhà đầu
tư đểu chỉ nhắm đến khu vực trung tâm này, và các đơn vị có quyền sử dụng đất tại
đây vì mối lợi trước mắt trong cuộc đua tìm đối tác đã tạo cơ hội cho nhà cao tầng mọc
lên trong vùng cấm địa đó một cách tràn lan và tự phát. Cho nên Hà Nội bây giờ, như
một kiến trúc sư đã nói vui, là một cái chảo thủng lỗ chỗ và bị gặm nhấm từng mảng.
2. Những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến kiến trúc Hà
Nội:
Những tiếng kêu gào vang lên yếu ớt, lạc lõng và vô dụng trước thực tế xây
dựng ồ ạt, không thể chờ đợi. Người có chút kiến thức về thẩm mỹ cảm thấy có một
cái gì đó không ổn, nhưng chỉ bất lực, nhìn nhau lắc đầu ngao ngán vì tiếng nói của họ
như rơi vào giữa sa mạc! Các nhà làm kinh tế thì chua chát: “Đẹp mà ăn được à!
Thành phố phải có càng nhiều nhà cửa càng tốt”. Họ chủ trương làm giàu lên đã, rồi
hãy nói đến thẩm mỹ đô thị. Mà cũng thật khó xử: Không để dân tự xây thì làm sao có
thêm chỗ để ở các khu tập thể nay đã quá tải và xuống cấp nghiêm trọng, từng là nỗi
kinh hoàng cho nhiều người. Chính nguồn đầu tư nước ngoài cho xây dựng đang tạo
nên bộ mặt phồn vinh của Hà Nội. Không riêng gì Hà Nội mà nay thì cả nước đang đối
đầu với những mâu thuẫn thời kinh tế thị trường, triển khai trong một nước nông
nghiệp chưa có đầy đủ cơ sở, định chế, luật pháp làm nền tảng cho phát triển kinh tế
theo lối mới. Hà Nội làm sao thoát nổi số phận chung của các thủ đô Đông – Nam á
khi buộc phải mở cửa ra làm ăn với thế giới, cái được cái mất và các căn bệnh cố hữu
kèm theo nhịp độ đô thị hóa: mất dần di sản kiến trúc và cảnh quan, ô nhiễm môi
trường, ách tắc giao thông, hố sâu ngăn cách giàu nghèo, nạn nhà ổ chuột, kinh tế vỉa
hè của khu vực phi chính quy của người nông thôn nhập cư.
Cái gì rồi cũng có cái giá phải trả. Kiến trúc Hà Nội thời đổi mới được nhiều thứ,
nhưng cũng mất đi không ít. Trong thực tế, Hà Nội vẫn chưa chuyển hẳn sang cơ chế
thị trường, cả trong vấn đề ở. Gánh nặng bao cấp vẫn còn duy trì cho khá nhiều giới,
nhiều người. Thời mở cửa, người dân bung ra, có cái sai, cái đúng. Nhưng ít ra nhiều
người đã có chỗ kha khá. Nhà cửa chưa đẹp, còn hỗn độn, nhưng đã tăng tiện nghi,
khang trang hơn trước. Nhưng đó chỉ là thiểu số, đa số người có đồng lương cố định
vẫn còn rất vất vả vì nạn nhà ở. Hà Nội đang là một công trường xây dựng lớn, với đủ
dạng công trình hiện đại, sử dụng nhiều kỹ thuật, vật liệu mới nhất. Phải nhìn nhận
rằng đầu tư nước ngoài cho xây dựng đang đem lại luồng sinh khí mới, làm sôi nổi hẳn
hoạt động xây dựng ở Thủ đô. Tuy vậy, bên cạnh đó còn rất nhiều cái “chưa được”,
thậm chí còn có thể gọi là mất mát, trầm trọng nhất là việc phá hủy môi trường và sự
hỗn loạn trong nghành xây dựng. Hà Nội còn nổi tiếng với “nhà chóp”. Nó lan đến cả
TP Hồ Chí Minh và các tỉnh. Tìm hiểu lý do mới vỡ lẽ ra rằng khởi đầu là người đi lao
động ở Đông Âu về, có tiền mà không có chỗ ở bèn tậu một khoảnh đất còn rẻ ở ngoại
thành hoặc quanh Hồ Tây để xây nhà. Trong đầu họ chỉ có hình ảnh sang trọng của các
lâu đài thời Trung cổ Đông Âu, với mái nhọn, mái củ hành và cả lỗ châu mai. Cứ thế,
họ ra kiểu cho nhà thầu xây dựng. Nay thì kiểu nhà này cũng ít dần, nhưng Hà Nội lại
có một dạng chóp khác do nước ngoài thiết kế, dựng lên nào mái chùa, đầu đao, rồng
phượng, úp lên nóc nhà cao tầng. Khách sạn Shareton còn làm cả khu tiếp tân, sảnh
lớn kiểu đình chùa, rõ ràng là không ăn nhập nổi với khối cao tầng hiện đại đằng sau.
Thẩm mỹ đô thị còn là một mảnh đất hoang vắng ở Hà Nội, nói như kiểu KTS Nguyễn
Luận.
Hà Nội đã từng đi đầu trong cơn biến động nhà đất vừa qua nên đã thấy xuất hiện
những làng đô thị nửa quê nửa tỉnh, với ngõ xóm ngoằn ngoèo, chạy theo các trục lộ
mới mở, hầu như chưa trang bị hạ tầng kỹ thuật đô thị. Các “xóm liều”, “chợ cóc”,
“chợ người”, các hoạt động kinh tế vỉa hè có mặt khắp nơi. Tốc độ xây dựng lại quá
dồn dập, luật lệ nhà đất chưa đầy đủ, quy hoạch chưa sẵn sàng. Đó mới chỉ là những
cái rối rắm nhìn thấy từ bên ngoài. Nhìn lại thực lực nhân sự quy hoạch đô thị của ta,
phải công nhận rằng các cán bộ quy hoạch và quản lý quy hoạch xây dựng chưa qua
thực hành bao nhiêu, chỉ được đào tạo theo bài bản cũ rất lạc hậu so với tình hình phát
triển mới, lại chưa từng phụ trách công trình quy mô lớn – chiến tranh và cái nghèo
trong một thời gian dài đã hạn chế sự phát triển của ngành kiến trúc, quy hoạch của
chúng ta. Về mặt này ta còn tụt hậu so với các nước khu vực Đông – Nam á. Chuyển
đột ngột từ nền kinh tế xã hộ chủ nghĩa sang kinh tế thị trường càng làm ta lúng túng
hơn.
3. Những tồn tại lớn của thành phố:
Kiến trúc là biểu hiện của văn hóa, lối sống qua nhà cửa, phố thị. Kiến trúc Hà
Nội nay thể hiện sự giằng co giữa cái cũ, truyền thống và cái mới, quốc tế hóa. Một
thành phố cổ như Hà Nội có lịch sử dài cả nghìn năm dễ dơi vào sự phát triển hỗn loạn
khi biến thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước. Hà Nội có
những đặc trưng cơ bản của các thủ đô ở Đông – Nam á:
- Quá trình hình thành khá nhanh quần cư đô thị lớn
- Xuất hiện một khu đô thị tập trung với thành phố hạt nhân quá tải, bao bọc bởi
các thành phố vệ tinh còn mang nặng cơ cấu truyền thống văn hóa xóm làng, văn minh
nông nghiệp lúa nước, với mặt bằng dân trí còn thấp:
- Sự phồn vinh của đô thị thu hút dân nhập cư từ nông thôn tạo ra các khu định
cư tự phát, nghèo nàn. Có sự đối lập rõ nét giữa nhà cao tầng, khu ở sang trọng và các
xóm nhà lụp xụp nghèo nàn.
Nhiều căn bệnh đô thị xuất hiện, nhất là về mặt nhân văn:
- Hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng sâu
- Môi trường xã hội dễ bị xấu đi, do người nhập cư thiếu việc làm, nghề nghiệp
không rõ rệt. Tệ nạn xã hội tăng nhanh ở các khu tạm cư đó
- ô nhiễm, ách tắc giao thông sẽ ngày càng trầm trọng
- Di sản kiến trúc, cảnh quan đô thị ngày càng mất dần.
Từ lâu, đô thị hóa là hệ quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đô thị hóa cũng đem lại sức mạnh và giàu có, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra
các căn bệnh đô thị. Hà Nội không nằm ngoài quy luật đó. Trước mắt, Hà Nội đang
đối phó với nạn bùng nổ dân số, tăng trưởng kinh tế nhanh và hiện tượng xây dựng tự
phát. Sự di chuyển lao động nông thôn lên thành phố là tất yếu, nhất là khi đồng bằng
sông Hồng dân đông và thiếu đất canh tác.
Hà Nội có thể rút kinh nghiệm phát triển của bạn và tìm cách biến sự phát triển
chậm của mình thành thế mạnh và bảo vệ tương lai bằng cách phát huy – chứ không
nên làm lu mờ – những đặc điểm lịch sử, cảnh quan và di sản kiến trúc của mình.
II. Để có một Thăng Long – Hà Nội 2000 năm lịch sử:
1.Hà Nội – một di sản kiến trúc chứa đựng đầy đủ đặc điểm của một đô thị
mang dấu ấn nhiều giai đoạn xây dựng và phát triển:
Ngay từ những ngày đầu giải phóng miền Bắc đã dồn sức mình hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế để bước đầu xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội. Đến nay, trong một chuỗi dài lâu của những diễn biến đó, các thế hệ kiến
trúc sư của chúng ta luôn mang nỗi niềm say mê day dứt, một khát vọng tột cùng,
mong mỏi tìm ra một hướng đi, một phong cách – phong cách kiến trúc xã hội chủ
nghĩa mang đậm đà bản sắc dân tộc. Những công trình mới mọc lên, đây đó có nhiều
tranh cãi giữa cái “chưa được” và cái “được”. Thật khó xác định cái “chưa được” khi
mà người ta nhìn nó bằng một cảm nhận, trên một nền quy hoạch của thành phố chưa
hoàn chỉnh với đúng nghĩa của nó. Đó là một đòi hỏi khách quan cần phân tích, đánh
giá cho công bằng, chính xác. Nhưng cái “được” thì thật có ý nghĩa, vì mỗi công trình
được xây dựng lên, được đánh dấu và qua thời gian nó sẽ trở thành chứng tích, là hiện
vật sống cho một thời kỳ “thịnh” “suy” của một dân tộc.
Sở dĩ ngày nay chúng ta còn phố cổ, la vì ông cha ta, những thế hệ trước, biết
gìn giữ nó, hoặc chưa để tâm đến nó thì sắp tới đây kỷ niệm 1000 năm Thăng Long –
Hà Nội, chúng ta mới có cái mà nói, còn có cái mà tự hào. Công bằng mà nói, ở đây
ngoài một số di tích đã được xếp hạng và số công trình có giá trị về kiến trúc thì đa
phần còn lại chỉ có ý nghĩa về thời gian, mà ít mang một giá trị nào khác. Thế thì, ý
kiến cho là cần phải phá đi hoặc cải tạo triệt để một số công trình nào đó đã xây dựng
trong những năm gần đây bị coi là “chưa được” là một điều cần được cân nhắc trước
khi đi đến một giải pháp tiết kiệm tiền của và công sức của Nhà nước và của nhân dân.
Có lẽ hãy để thời gian minh chứng và mách bảo chúng ta cần phải làm gì đối với
những công trình đó.
Để tránh tình trạng các công trình vừa mới xây xong lại bị “đòi” đập bỏ đi, Hà
Nội cần có một quy hoạch tổng thể của thành phố cho tương lai, đặc biệt là quy hoạch
chi tiết, phù hợp với nền kinh tế, chính sách của từng giai đoạn và rất cần có một mô
hình cụ thể cho từng khu vực để cho mỗi người dân đều hiểu được và mỗi kiến trúc sư,
mỗi Hội đồng kiến trúc có cơ sở để thiết kế và phê duyệt phương án một cách khoa
học, chính xác, tránh được nhữ tốn kém không cần thiết.
2. Vấn đề bảo tồn phố cổ với du lịch thủ đô
Hà Nội của chúng ta vào năm 2010 sẽ kỷ niệm lịch sử 1000 năm. Thế nhưng
phố cổ Hà Nội, một di sản cổ nhất của dân tộc đã bị biến dạng nhanh chóng.
Hà Nội hình thành 36 phố cổ và mỗi phố đều có một nghề vừa sản xuất, vừa buôn
bán, lại là nơi ăn ở của ông chủ. Điều đó chứng tỏ việc bảo tồn phố cổ là phải gắn lion
với sự làm ăn sinh sống của người dân, chứ không đơn thuần là đầu tư xây dựng và di
bớt dân đi để trở thành một bảo tàng khô cứng. Phố cổ phải là một bảo tàng sống động
bằng không gian kiến trúc xưa cộng với cuộc sống đời thường và hơn thế nữa là kế
sinh nhai, là cách làm giàu mang đến cho người dân từ chính việc bảo tồn khu phố cổ
này. Đó mới là định hướng hợp lòng dân mà chúng ta nên thực hiện. Một trong những
cách làm giàu của người dân và cũng nằm trong định hướng chung của Đảng và Nhà
nước là phát triển du lịch – một ngành công nghiệp không khói. Hướng đi ấy hoàn
toàn đúng, nhưng đáng tiếc là chúng ta vẫn chưa có những biện pháp để ngành du lịch
góp sức vào việc bảo tồn phố cổ, bởi phố cổ là một tiềm năng hấp dẫn nhất đối với
khách du lịch khi tới thăm Thủ đô. Nhiều du khách đều có chung một nhận định rằng:
Hà Nội phải là một thành phố du lịch có bản sắc về văn hóa, về kiến trúc và đặc biệt là
trong cuộc sống đời thường của con người. Một minh chứng thực tế tại bản Lác – Mai
Châu là khách rất thích thoải mái thư giãn ở nhà sàn của người Thái, chứ không ở nhà
mái bằng dù đầy đủ tiện nghi, mặc dù giá như nhau. Vậy Mai Châu hấp dẫn du khách
bởi cái duyên của bản sắc từ những ngôi nhà truyền thống giữa một vùng rừng núi thơ
mộng. Từ dẫn chứng trên, ta hãy vận dụng vào một ô phố cổ của Hà Nội, có sự kết
hợp giữa du lịch với kiến trúc, và thực hiện theo phương châm “Nhà nước và nhân dân
cùng làm”. Chúng ta tin một điều rằng, sự hoạch định đúng đắn sẽ tạo cho người dân
một niềm hưng phấn, họ sẽ yên tâm cùng Nhà nước đầu tư, cùng giữ gìn di sản văn
hóa của thủ đô và khi nền kinh tế đã phát triển, theo quy luật tự nhiên người dân sẽ
thấy hết được giá trị của di sản ấy, mỗi tấc đất là một tấc vàng chỉ dùng cho kinh
doanh, còn muốn có điều kiện ở tốt hơn thì họ tự giảm mật độ cư trú, tách hộ đến ở nơi
khác cho hợp lý hơn.
Thời gian không chờ đợi, chúng ta cần hoàn thiện quy hoạch tổng thể và chi tiết
các khu phố Hà Nội để công cuộc xây dựng Thủ đô từng bước được cải thiện vững
chắc, nhanh chóng để có thể hy vọng rằng những thế hệ mai sau khi kỷ niệm 2000
năm Thăng Long – Hà Nội sẽ còn có cái để mà nói, mà tự hào là Hà Nội của chúng ta
còn có những khu phố như phố cổ hiện nay và cũng để những người viết lịch sử kiến
trúc Hà Nội, của Việt Nam còn có cái để mà viết cho các đời sau, bởi lẽ mỗi công
trình, mỗi ngôi nhà được xây dựng lên đều mang dấu ấn lịch sử một giai đoạn phát
triển của mỗi điểm dân cư, của mỗi dân tộc.
Kết Luận
Quá trình phát triển đô thị là một sự vận động tất yếu, quá trình này sẽ tác động
đến cấu trúc đô thị làm nảy sinh những mâu thuẫn mới giữa vấn đề bảo tồn và phát
triển. Quan niệm về các giá trị bảo tồn trong đó bao gồm cả phương pháp và kỹ thuật
xây dựng truyền thống phụ thuộc vào sự nhận biết giá trị đó trong toàn bộ tiến trình
lịch sử phát triển đô thị. Sẽ còn nhiều vấn đề khác nảy sinh trên con đường phát triển
của lịch sử, sẽ còn nhiều thách thức khác trong việc gìn giữ các giá trị di sản dân tộc –
những cái đã mất mát đi nhiều trong chiến tranh, nhưng sẽ lại còn nguy hiểm hơn khi
bị mất mát ngay trong quá trình tái thiết thành phố. Vì vậy, ngay từ bây giờ Nhà nước
nên có những chính sách, những định hướng phát triển thích hợp để có một Thăng
Long – Hà Nội mang đậm bản sắc dân tộc.
Tài liệu tham khảo
Tạp chí kiến trúc – Hội kiến trúc sư Việt Nam
Mục lục
Lời nói đầu ............................................................................................................. 1
Nội dung ................................................................................................................. 2
I. Kiến trúc Hà Nội sau 12 năm nhìn lại ................................................................ 2
1. Kiến trúc Hà Nội hiện nay ................................................................................... 2
2. Những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến kiến trúc
Hà Nội ..................................................................................................................... 3
3. Những tồn tại lớn của thành phố .......................................................................... 5
II. Để có một Thăng Long - Hà Nội 2000 năm lịch sử ........................................... 6
1. Hà Nội - một di sản kiến trúc chứa đựng đầy đủ đặc điểm của một đô thị mang dấu
ấn của nhiều giai đoạn xây dựng và phát triển ......................................................... 6
2. Vấn đề bảo tồn phố cổ với du lịch thủ đô ............................................................. 7
Kết luận ................................................................................................................ 10
Tài liệu tham khảo ............................................................................................... 11
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 63_1364.pdf