Hiện nay, sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), chúng ta đang có rất 
nhiều cơ hội để tiếp cận với những nguồn vốn lớn. Nhưng mặt khác, những thách thức từ
môi trường kinh doanh quốc tế sẽ vô cùng khó khăn, đối mặt với rủi ro, mà điển hình là rủi 
ro tỉ giá, là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, thiết nghĩ việc tìm hiểu và xây dựng một hệ
thống phát triển thị trường công cụ phái s inh ngoại hối có hiệu quả ở Việt Nam trong giai 
đoạn tới sẽ vô cùng quan trọng. Trên đây là một số giải pháp mang tính vĩ mô,. Đó là những 
công việc mà nhà nước, chính phủ và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy 
nhiên, để thị tr ư ờng ngày càng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ
lực của tất cả các chủ thể kinh tế, các DN, các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ thể
cung cấp và sử dụng sản phẩm phái sinh. Và vấn đề cốt lõi chính là nhận thức của chính các 
chủ thể tham gia trực tiếp chứ không chỉ là các chủ thể quản lý. Hy vọng một trương lai 
không xa tới, Việt Nam sẽ có một thị trường các sản phẩm phái sinh tài chính với một hành 
lang pháp lý hiệu quả tạo thuận lợi cho các DN của chúng ta
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 37 trang
37 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3165 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sử dụng các công cụ phái sinh trong công tác bảo vệ tỷ giá tại thị trường ngoại hối Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g phải thỏa thuận đến hai loại hợp đồng, theo đó 
khách hàng bán giao ngay và mua kỳ hạn hoặc mua giao ngay và bán kỳ hạn với cùng một 
loại ngoại tệ. Giao dịch riêng lẻ này khiến cho khách hàng phải chịu thiệt hai lần do chênh 
lệch giữa giá bán và giá mua và những phiến toái trong thoả thuận hợp đồng giao dịch. 
Thay vì thực hiện giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn riêng biệt, ngân hàng kết 
hợp hai loại giao dịch này lại trong một hợp đồng, gọi là hợp đồng hoán đổi tiền tệ. Trong 
hợp đồng giao dịch hoán đổi, hai bên ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau một số 
nội dung chính như sau: 
Thời hạn giao dịch – Thời hạn giao dịch hoán đổi có thể từ 3 ngày đến 6 tháng. Nếu 
ngày đáo hạn rơi vào ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ thì hai bên sẽ thoả thuận chọn một ngày 
đáo hạn thích hợp và thời hạn hợp đồng sẽ tính trên số ngày thực tế. 
Điều kiện thực hiện – Giao dịch hoán đổi áp dụng đối với khách hàng có đủ các điều 
kiện sau: (1) có giấy phép kinh doanh, (2) xuất trình các chứng từ chứng minh nhu cầu sử 
dụng ngoại tệ, (3) mở tài khoản ngoại tệ và tài khoản VND ở ngân hàng, (4) trả phí giao 
dịch theo qui định, (5) duy trì một tỷ lệ đặt cọc tối đa không quá 5% trị giá hợp đồng để bảo 
đảm việc thực hiện hợp đồng, và (6) ký hợp đồng giao dịch hoán đổi với ngân hàng. 
 -15- 
Ngày thanh toán – Trong giao dịch hoán đổi, ngày thanh toán bao gồm hai loại ngày 
khác nhau: ngày hiệu lực và ngày đáo hạn. Ngày hiệu lực là ngày thực hiện thanh toán giao 
dịch giao ngay trong khi ngày đáo hạn là ngày thực hiện thanh toán giao dịch có kỳ hạn. 
Xách định tỷ giá hoán đổi – Một hợp đồng hoán đổi liên quan đến hai loại tỷ giá: tỷ 
giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn. Tỷ giá giao ngay là tỷ giá do ngân hàng niêm yết tại thời 
điểm giao dịch do hai bên thoả thuận. Tỷ giá có kỳ hạn được tính trên cơ sở tỷ giá giao 
ngay, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ, và số ngày thực tế của hợp đồng. 
Quy trình thực hiện giao dịch hoán đổi – Tại ngân hàng thương mại quy trình thực 
hiện giao dịch hoán đổi tiến hành qua các bước sau đây: 
- Khách hàng có nhu cầu thực hiện giao dịch hoán đổi đến liên hệ với phòng kinh 
doanh tiền tệ của ngân hàng 
- Căn cứ vào cung và cầu ngoại tệ, phòng kinh doanh tiền tệ sẽ chào giá và kỳ hạn cụ 
thể cho khách hàng 
- Nếu khách hàng đồng ý giá cả thì hai bên sẽ ký hợp đồng hoán đổi. 
Có hai trường hợp xảy ra hợp đồng hoán đổi như vừa trình bày trong hai tình huống 
trên đây. Ở tình huống 1 ngân hàng mua giao ngay và bán có kỳ hạn. Ở tình huống 2 ngân 
hàng bán giao ngay và mua có kỳ hạn. Để thực hiện giao dịch hoán đổi với khách hàng, ở 
ngày hiệu lực ngân hàng phải thu thập thông tin tỷ giá và lãi suất để xác định tỷ giá và chào 
cho khách hàng. Giả sử vào ngày hiệu lực có tỷ giá và lãi suất như sau: 
USD/VND: 15805 – 15810 
USD: 4,6 – 5,2 
VND: 7,8 – 10,6 
Nếu Saigonimex và Cholonimex đồng ý thực hiện giao dịch hoán đổi với ngân hàng 
với trị giá hợp đồng hoán đổi là 80.000USD, các giao dịch diễn ra như sau: 
Vào ngày hiệu lực: 
- Ngân hàng bán giao ngay 80.000USD cho Cholonimex theo tỷ giá giao ngay 
USD/VND=15810 và nhận được: 80.000 x 15810 = 1.264.800.000VND trong khi 
Cholonimex nhận 80.000USD. 
- Ngân hàng mua giao ngay 80.000USD của Saigonimex theo tỷ giá mua 
USD/VND =15805 và nhận 80.000USD trong khi Saigonimex nhận 
 -16- 
được: 80.000 x 15805 = 1.264.400.000VND. 
- Ngân hàng xác định và chào tỷ giá mua kỳ hạn (Fb) cho Cholonimex và tỷ giá bán 
kỳ hạn (Fa) cho Saigonimex: 
 = 15906 
 = 16044 
Vào ngày đáo hạn( 3 tháng sau): 
- Ngân hàng nhận lại 80.000USD và chi cho Cholonimex một số VND bằng 
 80.000 x 15906= 1.272.480.000 VND 
- Ngân hàng giao lại 80.000USD cho Saigonimex và nhận lại số VND bằng 
 80.000 x 16044= 1.283.520.000 VND 
)*1(
)*1.(
tRca
tRtbSb
Fb
)*1(
)*1.(
tRcb
tRtaSa
Fa
 -17- 
PHẦN 2: THỰC TIỄN TRÊN THẾ GIỚI 
I. Tác động của tỷ giá đến các doanh nghiệp 
Tỷ giá là một trong nguồn gốc rủi ro chính khiến nhiều doanh nghiệp trên thế giới rơi 
vào lao đao, và cũng là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của rất nhiều công cụ phòng chống 
rủi ro ngoại hối. Trong quá khứ, tác động của việc tỷ giá biến động nhiều hơn kể từ sau sự 
sụp đổ của chế độ tỷ giá Bretton Woods vào đầu thập niên 1970 đã kéo nhiều công ty lớn 
trên thế giới, đặc biệt là nhiều công ty tên tuổi của Mỹ và Nhật vào những “rắc rối” về tỷ giá 
trong các thập niên 1980 và 1990. Thời kỳ đó, những tên tuổi như Laker Airlines, 
Caterpillar, Toyota, Honda, v.v. đều than phiền trên mặt báo rằng những biến động bất lợi 
của tỷ giá đã tạo ra nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh của họ, và khiến cho doanh 
thu lẫn lợi nhuận giảm thấp. 
Xu thế tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế diễn ra mạnh mẽ về chiều rộng lẫn 
chiều sâu, bao gồm cả nuớc đang phát triển cũng đã và đang tích cực tham gia tến trình hội 
nhập, la tiền đề để các nuớc tiến hành noiứ lỏng quy chế quản lý ngoại hoío nhằm tạo điều 
kiện cho chuy chuyển chuyển hàng hóa, dịch vụ và vốn quốc tế đuợc hiểu quả. Điều này tạo 
nên một thị truờng ngoại hối quốc tế ngày càng rộng lớn với doanh số giao dịch ngày một 
cao. 
Tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã góp phần 
làm giảm chi phí giao dịch, tăng tốc độ thanh toán, góp phần tích cực thúc đẩy thị trường 
ngoại hối phát triển như ngày nay. 
Bên cạnh tăng nhanh doanh số giao dịch, thị truờng ngoại hối quốc tế còn phát triển 
mạnh về chiều sâu, đó là tạo ra nhiều nghiệp vụ kinh doanh mới, phức tạp hơn, tinh vi hơn 
và cũng trở nên rủi ro hơn. 
Trong những năm đầu 1990, ngân hàng và những nhà kinh doanh đầu tư chulyên 
nghiệp vẫn tiếp tục là những người đóng vai trò chủ đạo trên thị truờng ngoại hối. Các công 
ty thuờng xuyên tích cực tham gia thị truờng nhằm quản lý rủi ro ngoại hối và thường sử 
dụng các chuơng trình bảo hiểm rủi ro ngoại hối có chọn lọc và trực tiếp tham gia kinh 
daonh ngoại hối. Các quyết định kinh doanh ngoại hối của các công ty có thể ảnh huởng 
đáng kể lên thị trường ngoại hối trong ngắn hạn và dài hạn; nhưng trên thực tế thì nó lại 
chưa đựoc xem như một yếu tốt thựuc thụ có ảnh huởng lên thị truờng. Ngoài ra, các cá 
nhân cũng có thể thành các nhân tốt tác động lên thị truờng khi họ tiếp cận và sử dụng ngoại 
 -18- 
hối thông qua các cơ chế khác nhau, kể cả thị trường tưong lai và việc mua bán các trái 
phiếu và cổ phiếu nước ngoài. 
Một điều hiển nhiên phải thừa nhận rằng: các nhà kinh doanh chuyên nghiệp, các 
công ty, các nhà quản lý quỹ, các ngân hàng và các cá nhân hoạt động trên thị trường ngoại 
hói kiếm tiền dựa trên sự biến động của tỷ giá. Đối với những đối tượng này, thì thị trường 
ngoại hối kiếm tiền dựa trên sự biến động của tỷ giá. Khi tỷ giá biến động sẽ tạo ra cơ hội để 
nhà đầu cơ kiếm được tiền. 
Ngược lại đối với những nhà xuất nhập khẩu, một thực tế là tỷ giá biến động có thể 
tăng hoặc giảm làm cho nhà xuất nhập khẩu có thể phát sinhlãi hay lỗ; nhưng những nhà 
kinh doanh xuất nhập khẩu không phải là các chuyên gia tiền tệ, họ không thể kiếmlãi từ sự 
biến động tỷ giá, họ là những người ngại rủi ro tỷ giá. Họ thường mong muốn tỷ giá được ổn 
định hoặc cố định từ truớc để tập trung vào việc thực hiện hợp động thương mại. 
Về lý thuyết, biến động tỷ giá có thể tác động đến doanh nghiệp theo nhiều cách và 
được đo lường bằng độ nhạy cảm đối với rủi ro tỷ giá. 
Nguy cơ độ nhạy cảm tỷ giá có thể xảy ra cho bất kỳ doanh nghiệp nào – thậm chí 
xảy ra với cả những doanh nghiệp mà tất cả các hoạt động kinh doanh của họ không liên 
quan gì đến bất cứ một loại ngoại tệ nào. Vậy nguồn gốc của rủi ro tỷ giá xuất phát từ đâu? 
Nguy cơ độ nhạy cảm tỷ giá bắt nguồn từ các giao dịch thương mại. Đây là loại 
nguy cơ độ nhạy cảm tỷ giá phổ biến nhất mà các doanh nghiệp gặp phải do hoặc phải trả 
tiền cho người cung cấp hoặc bán hàng và thu về một đồng tiền khác với đồng tiền nước 
mình, thông qua các giao dịch như: 
- Mua nguyên vật liệu cho sản xuất kinh doanh trả tiền bằng ngoại tệ, hoặc 
- Bán sản phẩm thu tiền bằng ngoại tệ. 
Nguy cơ rủi ro kiểu này là rất quan trọng bởi vì những biến động ngoại hối có thể ảnh 
hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nguy cơ rủi ro này có thể định lượng được và 
do vậy doanh nghiệp thường hiểu rất rõ về nó. 
Để minh họa tác động tiềm ẩn của độ nhạy cảm giao dịch đối với các rủi ro tỷ giá, 
hãy xem các nhà xuất khẩu Mỹ đã bán sản phẩm của họ cho các nước châu Á trong suốt 
cuộc khủng hoảng 1997 – 1998, khi một vài đồng tiền các nước châu Á giảm giá khoảng 
80%. Nếu các nhà xuất khẩu thu tiền bằng tiền của các nước châu Á, thì dòng tiền của họ có 
thể ít hơn 80% so với dự định. Nếu các nhà xuất khẩu thu tiền bằng USD họ sẽ không phải 
gánh chịu nhạy cảm giao dịch đối với rủi ro tỷ giá. Trong trường hợp này, các công ty nhập 
 -19- 
khẩu ở các nước châu Á lại chịu rủi ro này. Tác động của sự thay đổi lớn trong giá trị tiền tệ 
có thể tàn phá các công ty kinh doanh chủ yếu dựa vào giao dịch quốc tế. 
Nguy cơ độ nhạy cảm tỷ giá từ các chi nhánh tại nước ngoài. Nếu một công ty có 
một công ty con (chi nhánh) tại nước ngoài, thì công ty đó phải đối mặt với một nguy cơ rủi 
ro đối với đồng tiền tại nước mà chi nhánh của nó đang hoạt động. Nguy cơ loại này được 
thể hiện thông qua hai dạng đặc trưng sau: 
Chuyển lợi nhuận – giá trị tiền tệ của công ty mẹ về một dòng lưu chuyển lợi nhuận 
không đổi từ công ty con sẽ thay đổi cùng với bất kỳ sự thay đổi nào về tỷ giá giữa hai nước. 
Do vậy nó sẽ tác động đến báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất của công ty đó. 
Nguy cơ từ bảng cân đối kế toán – giá trị bảng cân đối kế toán của công ty con tính 
theo đồng tiền của công ty mẹ sẽ biến động theo tỷ giá. Biến động đó không ảnh hưởng tới 
báo cáo kết quả kinh doanh của công ty nhưng nó có thể làm thay đổi các tỷ số tài chính 
quan trọng như các tỷ số đòn bẩy tài chính (sử dụng nợ). Tương tự, nguy cơ rủi ro có thể 
cảm nhận được rất rõ ràng nếu công ty mẹ quyết định bán công ty con đi bởi vì giá trị của 
khoản tiền thu được đối với công ty mẹ sẽ thay đổi theo tỷ giá hối đoái. 
Loại nguy cơ rủi ro này là loại mà chính công ty con không gặp phải nhưng lại ảnh 
hưởng tới các tài khoản của công ty mẹ. Có thể có những dự đoán tương đối hợp lý về quy 
mô của những nguy cơ rủi ro kiểu này. 
Minh họa trong thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính châu Á tác động đến độ nhạy 
cảm chuyển đổi đối với rủi ro tỷ giá. Thu nhập hợp nhất của công ty Black & Decker, công 
ty Coca-Cola cũng như những công ty khác của Mỹ rất nhạy cảm đối với tỷ giá hối đoái bởi 
vì hơn 1/3 tài sản và doanh số của các công ty này là ở nước ngoài. Khi các đồng ngoại tệ 
giảm giá so với đô la thì thu nhập của các công ty mẹ cũng giảm theo. Trong giai đoạn từ 
1985 – 1988 khi đồng đô la yếu thì thu nhập của các công ty mẹ tại Mỹ gặp thuận lợi do tác 
động đồng đô la yếu bởi vì các khoản thu nhập từ nước ngoài chuyển về Mỹ được tính theo 
tỷ giá cao hơn. 
Trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, đồng tiền của các quốc gia này giảm 
giá hơn 50% so với đồng đô la làm cho ngoại tệ của các công ty con đặt tại châu Á chuyển 
sang đô la ít hơn phân nửa so với dự kiến trước đây. Tác động của khủng hoảng này cũng 
ảnh hưởng dây chuyền đến đồng yên Nhật làm cho đồng yên yếu đi. Kết quả là thu nhập của 
các công ty con Mỹ đang hoạt động tại Nhật khi chuyển sang đô la cũng giảm đáng kể. 
 -20- 
Theo đánh giá của tổ chức tư vấn nghiên cứu thế giới (WRA), tổng cộng thu nhập các 
công ty giảm khoảng 20 tỷ đô la trong quý 3/1998 chỉ với lý do đồng tiền các nước châu Á 
giảm giá so với đô la. 
Nguy cơ độ nhạy cảm tỷ giá từ các khoản vay bằng ngoại tệ: Thông thường các 
doanh nghiệp có nhiều khả năng tiếp cận với các nguồn vốn bằng các loại ngoại tệ khác với 
đồng nội tệ của nước mình với các mức lãi suất rất cạnh tranh. Sở dĩ như thế là do ngày càng 
có nhiều những lời chào mời cho vay cạnh tranh hơn bằng các đồng tiền khác, hay đơn giản 
bởi vì các mức lãi suất tuyệt đối của các đồng tiền khác là thấp hơn. Các khoản vay như vậy 
đã đẩy công ty tới nguy cơ rủi ro về độ nhạy cảm tỷ giá – khi phải thanh toán lãi vay, nhưng 
quan trọng hơn là khi hoàn trả khoản vốn vay cuối cùng. Nhiều công ty ở các nước châu Á 
đã thấm thía như thế nào khi chứng kiến thảm cảnh chi phí cho việc dùng đồng nội tệ để 
hoàn trả các khoản vay mà họ đã vay bằng đồng USD đến ngày trả nợ lại tăng lên đáng kể. 
=>Nguy cơ rủi ro loại này thường là do công ty tự nguyện lâm vào và cũng dễ định 
lượng. 
Nguy cơ độ nhạy cảm từ các chiến lược. Loại nguy cơ này thường là rất không rõ 
ràng, nhưng tiếp theo những bất ổn tiền tệ mà chúng ta đã từng chứng kiến trong khoảng 
một thập niên nay, thì nhiều công ty sẽ vô cùng cay đắng để nhận thức ra sự thật phũ phàng 
này. 
Loại nguy cơ rủi ro này có thể tác động đáng kể đến khả năng cạnh tranh và do vậy 
ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của một công ty. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 
năm 1997, tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia trong khu vực đã thay đổi đột ngột và do vậy 
khả năng cạnh tranh tương đối của các công ty sản xuất những sản phẩm tương tự nhau ở 
các quốc gia khác nhau cũng đã thay đổi. 
Đáp ứng nhu cầu của những nhà xuất nhập khẩu, các NHTM đã cung cấp các nghiệp 
vụ ngọai hối phái s inh bao gồm: kỳ hạn, hoán đổi, tuơng lai, và quyền chọn.Vịệc sử dụng 
các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trước rủi 
ro tỷ giá rất hữu hiệu bằng những giao dịch kỳ hạn, không những vậy qua các hợp đồng phái 
sinh các nhà đầu cơ có thể kiếm lợi từ những hợp đồng tuơng lai hoặc quyền chọn. 
II. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá và đầu cơ từ những hợp đồng phái sinh 
Các nghiệp vụ ngoại hối phái s inh (Currency Derivatives) hay còn được gọi là các 
nghiệp vụ ngoại hối hiện đại, nó bao gồm các nghiệp vụ; Kỳ hạn, Tương lai, quyền chọn và 
hoán đổi(Forward,Futures ,Options,Swaps). Thị trường này trên thế giới đã được thực hiện 
 -21- 
từ những năm 1970 của thế kỷ trước, đây là một công cụ để bảo hiểm rủi ro tỷ giá và đầu cơ 
ngoại hối của các nhà đầu tư. 
Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, 
rộng và đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hoá, lãi 
suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các 
phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xẩy ra, các nghiệp vụ tài 
chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng tài chính mà giá trị cuả 
nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở (hay còn gọi là chính phẩm). 
Đến nay, trên thị trường tài chính quốc tế nghiệp vụ tài chính phái sinh đã phát triển 
rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò quan 
trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu. Sở dĩ nó phát triển thành công như vậy, là do sử 
dụng nghiệp vụ này đem lại lợi ích cho các thành viên thị trường. Trên thị trường có thể 
phân ra thành 3 loại thành viên: Người đầu tư, người đầu cơ, người cơ lợi. Sự dụng nghiệp 
vụ tài chính phái s inh đều mang lại lợi ích cho 3 loại thành viên này: Người đầu tư phải đối 
diện với những rủi ro do biến động giá cả của các sản phẩm chính, họ phải sử dụng nghiệp 
vụ phái sinh để giảm thiểu hoặc loại bỏ rủi ro; đối với người đầu cơ lại muốn đánh cuộc trên 
những biến động giá cả của sản phẩm chính, họ dùng nghiệp vụ này như một đòn bẩy đặc 
biệt; đối với người cơ lợi ( thực hiện lợi nhuận mà không có rủi ro) bằng cách sư dụng chênh 
lêch giá giữa các thị trường tài chính khác nhau, họ đã sử dụng rất hiệu quả các nghiệp vụ 
phái sinh để hưởng chênh lệch giá. 
Mặc dù, xuất hiện lần đầu tiên với tư cách là 1 công cụ phòng chống rủi ro nhưng 
cùng với sự lớn mạnh và phức tạp của thị trường tài chính, các công cụ tài chính phái sinh 
cũng được sử dụng nhiều hơn để tìm kiến lợi nhuận và thực hiện các hoạt động đầu cơ. 
Chính vì những biến thái như nên không phải lúc nào sử dụng công cụ tài chính phái sinh để 
phòng ngừa rủi ro cũng có hiệu quả. Các công cụ phái sinh ngày càng tinh vi và mang theo 1 
số rủi ro gây gián đoạn lớn hơn độ rủi ro thông thường. Sự sụp đổ của thị trường tài chính cổ 
phiếu Mỹ năm 1987 chính được đẩy nhanh nhờ sử dụng rộng rãi kỹ thuật tự bảo hiểm Delta, 
được mua bán các hợp đồng bảo hiểm danh mục đầu tư. Những người bảo hiểm này đã đầu 
tư, mạnh hơn vào thị trường mà nếu như không có kỹ thuật này thì có thể họ đã không làm 
như vậy. Khi sự sụt giảm của thị trường kích hoạt bảo hiểm, khối lượng bán đột ngột gây ra 
một gián đoạn và thị trường sụp đổ. Hay như Great Britain’s Bearing, một trong những ngân 
hàng lâu đời nhất thế giới đã phá sản năm 1995 khi đầu cơ các hợp đồng tương lai trong một 
thương vụ ở Singapore. Tuy vậy, các công cụ tài chính phái sinh vẫn phát triển mạnh mẽ và 
được sử dụng rộng rãi tại các thị trường tài chính lớn của thế giới. Nguyên nhân không nằm 
ngoài việc đó là phương thức duy nhất để các chủ thể trên thị trường phòng chống rủi ro. 
 -22- 
Theo điều tra đối với 500 công ty lớn nhất thế giới tai 26 quốc gia khác nhau thì có tới 92 % 
các công ty trả lời rằng họ thường xuyên sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa 
và quản lí rủi ro. 
Tuy nhiên, ý thức phòng ngừa rủi ro tỷ giá thông qua các công cụ phái sinh tiền tệ 
của các NHTM cũng như các chủ thể khác trong nền kinh tế vẫn còn rất hạn chế (Mallin, 
Ow-Young and Reynolds , 2001). Nhận định này được thể hiện khá rõ nét nếu chúng ta so 
sánh tỷ trọng của giao dịch phái sinh tiền tệ với tổng các giao dịch tài chính phái sinh khác 
(xem sơ đồ 1). Theo số liệu về doanh số của các công cụ tài chính phái sinh toàn cầu tháng 
6/2007, các giao dịch phái s inh tiền tệ chỉ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn khoảng 9% so với 
68% của giao dịch phái sinh lãi suất và 23% của giao dịch phái s inh trên chỉ số chứng 
khoán. 
 Tỷ trọng của giai dịch phái sinh tiền tệ so với các giai dịch phái sinh khác trên OTC 
(tháng 6/2007) 
9%
68%
23%
Currency Derivatives Interest Derivatives Others
 Nguồn: BIS Quaterly Review, March, 2008. 
Tuy vậy, một thực tế không thể phủ nhận rằng, bên cạnh mục đích phòng ngừa rủi ro 
về tỷ giá, các giao dịch phái sinh tiền tệ ngày càng được sử dụng với mục đích đầu cơ nhằm 
tìm kiếm lợi nhuận khổng lồ, đặc biệt là hợp đồng tiền tệ tương lai và quyền chọn. Chính vì 
lẽ đó mà doanh số của các giao dịch này đã có sự gia tăng đáng kể qua các năm. Chúng ta có 
thể thấy điều đó qua Sơ đồ 2 và Sơ đồ 3. 
 -23- 
Dec-07
Doanh söë giao dõch phaái sinh cuãa caác húåp àöìng phaái sinh 
Tiï ìn tï å tr ï n caác Súã giao dõch toaân cêìu (2000-2007) 
0
50
100
150
200
12/2000 12/2001 12/2002 12/2003 12/2004 12/2005 12/2006
Nùm
T
y
ã U
S
D
OptionsFutures
Nguồn: BIS Quaterly Review, March, 2008 
0
5,000 
10,000 
15,000 
20,000 
25,000 
T
yã 
U
S
D
12/2000 12/2001 12/2002 12/2003 12/2004 12/2005 12/2006 6/2007 
Nùm 
Doanh söë cuãa caác húåp àöìng phaái sinh tiï ìn tïå trï n OTC (200-2007)
Outright Forward&Forex Swap Currency Swap Options
Qua hai sơ đồ trên chúng ta có thể thấy rằng doanh số của các giao dịch phái sinh tiền 
tệ trên thị trường phi tập trung (OTC) cao hơn rất nhiều so với các giao dịch diễn ra trên Sở 
 -24- 
giao dịch. Có thể nói đó là con số áp đảo khi các giao dịch phái sinh tiền tệ trên OTC chiếm 
tới 99% về doanh số, còn giao dịch trên Sở chỉ là 1%. 
Theo một nghiên cứu khá toàn diện của Wharton School được thực hiện năm 2003, 
đối tượng điều tra là các công ty phi tài chính của Mỹ, thì có khoảng 40% doanh nghiệp sử 
dụng các giao dịch tài chính phái sinh, 76% trong số đó có sử dụng các giao dịch phái sinh 
tiền tệ để phòng ngừa rủi ro hối đoái. Mục đích chính của các công ty khi sử dụng các giao 
dịch này là quản lý luồng tiền, tiếp đó là quản lý sự biến động trong thu nhập của chính họ. 
Với mục đích phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc các giao dịch 
tài trợ quốc tế, 86% các doanh nghiệp cho rằng họ sẽ sử dụng hợp đồng kì hạn và tương lai 
và cho đó là công cụ phòng ngừa rất hữu hiệu. Trong khi đó, nếu phòng ngừa rủi ro tỷ giá 
cho giá trị thị trường của các doanh nghiệp thì nghiệp vụ “option” lại được xem là một công 
cụ quan trọng, khi có tới 67% doanh nghiệp lựa chọn. Một lý do rất đơn giản khi giải thích 
tại sao giao dịch kì hạn lại được sử dụng nhiều hơn giao dịch quyền chọn vì giao dịch kì hạn 
tỏ ra thích hợp hơn khi phòng ngừa rủi ro tỷ giá, hơn nữa, chi phí phòng ngừa lại rẻ hơn 
nhiều so với các giao dịch phái sinh khác. 
 -25- 
PHẦN 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT 
NAM 
I. Tổng quan về thực trạng thị trường công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam. 
1. Thực Trạng 
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống tài chính Việt Nam đã có những 
bước phát triển quan trọng theo hướng hội nhập với thông lệ và chuẩn mực Quốc tế được 
chấp nhận chung. Đây là đinh hướng phát triển đúng đắn để Hệ Thống tài chính Việt Nam 
ổn định, bền vững, tạo điệu kiện cần cho phát triển kinh thế nước ta. Ngày nay hợp đồng 
phái sinh được giao dịch tại nhiều thị trường của thế giới và trên quy mô khổng lồ. Công cụ 
tài chính phái s inh được trao đổi thông qua hai thị trường có tổ chức vào OTC. Tính đến 
31.12.2006, tổng giá trị thị trường phái sinh toàn cầu đạt 9.695 tỷ USD. Khối lượng giao 
dịch của các hợp đồng phái s inh có tổ chức thì ngay từ năm 2002 đã đạt 693.000 tỷ USD ( 
cùng thời gian theo IMF thì tổng GDP toàn thế giới chỉ đạt 32.100 tỷ USD). Ở Châu Á, 
Singapor và Hongkong là hai quốc gia có thị trường phái sinh phát triển mạnh mẽ.Tuy 
nhiên, nhìn một cách tổng quát, mức độc áp dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam còn rất 
hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho phép chúng ta 
áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập quán kinh doanh là 
những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam. 
a. Đối với giao dịch kỳ hạn: Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài 
chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 
25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND 
giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc ngân hàng thương mại 
khác được phép của ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, Hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một 
phần là do thị trường liên ngân hàng ở VN chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn 
của nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và những hạn chế của NHNN. Vì thế, các giao 
dịch kỳ hạn chỉ chiểm khoảng 5-7% khối lượng giao dịch của thị trường liên ngân hàng. 
b. Đối với giao dịch hoán đổi: Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo 
quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số 
893/2001/QĐ- NHNN ngày 17/7/2001 của thống đốc NHNN. Tuy nhiên đây chỉ là những 
giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa NHNN và NHTM. Nó chỉ được sử dụng trong trường 
hợp các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND. 
 -26- 
Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở VN và được các 
ngân hàng sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động 
ngân hàng quốc tế. NHNN đã cho phéo các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh 
nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất, tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ-NHNN và các TCTD, 
các DN được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả 
VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng và các doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng, giữa ngân 
hàng với những doanh nghiệp vay vốn tại các tổ chứ tín dung ( TCTD) khác, kể cả vay vốn 
nước ngoài, giữa các ngân hàng trong nước với nhau và giữa các ngân hàng thương mại 
trong nước với các TCTD nước ngoài. Trên cơ sở nới lỏng quản lý của NHNN, nhiều 
NHTM đã triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh nghiệp(DN), tìm 
kiếm đối tác là các TCTD nước ngoài để ký kết hợp tác. Tuy nhiên, giao dịch phái sinh 
trong đó có hoán đổi lãi suất được coi là hoạt động ngoại bảng của NH do đó hướng dẫn 
hạch toán từ phía NHNN đối với các nghiệp vụ này đang xem là điều kiện đủ để các NHTM 
đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách hàng. 
Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt 
Nam ( từ 1/2003), đã có một số ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất 
trọng phạm vu đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dich hoán đổi lãi 
suất giữa 2 đồng tiền USD và VND ( hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi 
có quy định chính thức của ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi được NHNN cho 
phép, HSBC đã cung cấp gói Swaps tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên 
tới 15 triệu USD trên tại trường Viêt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ 
khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ khác hàng. Với giao 
dịch này, khách đã đạt được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay 
vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không chịu bất chưa một rủi ro nào vầ tỷ giá USD/VND. 
Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau 
này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo 
giữa hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng khi khách hàng vay 
ngoại tệ. Và trong tương lại, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh 
nữa trên thị trường Việt nam, hứa hẹn tương lại phát triển thị trường. 
Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi 
suất cộng dồn, hoán đổi lãi suất kèm điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu thực 
hiện trong tương lai… cũng xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối gần đây. Điều 
đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí điểm áp dụng tại Việt Nam 
theo công văn 3324/NHNN-CSTT, tháng 4/2006 cho phép HSBC chi nhánh TP. Hồ Chí 
Minh thực hiện. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại 
 -27- 
giống một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, 
định kì sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay 
trên bị vỡ nỡ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù 
trừ lỗ. 
Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng 
của các loại trái phiếu do chính phủ hoặc các DN Việt Nam phát hàng trái phiếu ra thị 
trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của DN Việt Nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động 
tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các tổ chức tín dụng 
hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở nước ngoài. 
Thời hạn giao dịch không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này chũng giống như 
thực hiện một khoản đầu tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cũng giống như 
thực hiện một khoản đầu tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư 
có cơ hội tìm kiếm những mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình 
thường, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các TCTD. Hơn nữa, việc sử dụng các 
công cụ mới này còn góp phần nâng caco mức độ tín nhiệm của chính phủ và các DN Việt 
Nam khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. 
c. Hợp đồng quyền chọn: Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là 
những công cụ phái sinh được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu 
điểm vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng đang ở trạng thánh tăng liên 
tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực 
hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được ghép thực hiện 
đối với các khoản cho vay và đi vay trung hạn ( dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và 
chỉ được thực hiện đối với các DN hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động ở VN 
được NHNN cho phép và các NH ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các NHTM khác, 
bao gồn cả NHTM cổ phần cũng được cho phéo thực hiện nghiệp vụ này. 
Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung 
cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribanj, Citibank, Vietcombank, 
ICB, và ngân hàng Hồng Kông bank chi nhánh tại TP. HCM. Nguyên tắc chính của loại 
quyền này là các DN và các cá nhân được đặt mua hay bán USD với VND thông qua một tỷ 
giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VND 
đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà 
nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sauk hi NHNN cho phép ACB, 
Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là 
ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh 
trong nước và quốc tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường 
 -28- 
mức độ đón nhận của thị trường đối với công cụ. Tới này, đã có rất nhiều ngân hàng được 
NHNN cho phép thực hiện các nghiệp vụ Option. Đặc biệt, NHNN cũng đã cho phép thực 
hiện ác Options tiền Đồng tại BIDV,ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng cổ 
phần thương mại quốc tế. Với nghiệp vụ này, chắc chán tương lai sẽ được mở rộng bởi khi 
đó VND đang có cơ hội tiếp cận gần hơn với thị trường tài chính thế giới ( hệ quả gia nhập 
WTO), vị tế của VND qua đó cũng tăng lên.Nhìn chung, hoạt động này đem lại một cơ cấu 
sản phẩm hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Hơn nữa, nhu cầu của khác 
hàng đối với các giao duchj Options đang có xu hướng tăng lên, do vậy NHNN đã tiến hành 
gia hạn thí điểm hợp đồng các nghiệp vụ này. 
Có thể nói rằng “ Thị trường phái sinh ở Việt Nam đang còn rất manh nha”. Trên thế 
giới hợp đồng phái s inh được dùng trong hầu hết giá cả các loại tài sản và hàng hóa, thậm 
chí cả giá trị kinh tế của các yếu tố không mang tính thị trường. Đối tượng tham gia thị 
trường phái s inh rất đa dạng, nhiêu nhất là các công ty, nhà đầu tư, các tổ chức tài chính( 
Đóng vai trò môi giới). Ở Việt Nam, đối tượng tham gia thị trường còn rất hạn chế , mới chỉ 
có Ngân hàng thực hiện các giao dịch ngoại hối phái sinh, quyền chọn vàng và một vài Ngân 
hàng chào hợp động tương lai quyền chọn, bao thanh toán với doanh nghiệp. 
Giao dịch ngoại hối phái sinh được hầu hết các Ngân hàng Việt Nam triển khai từ 
lâu, bao gồm:1/ Quyền lựa chọn ngoại tệ- VND( option). 2/ Hợp đồng hoán đổi lãi suất. 3/ 
Mua bán ngoại tệ giao ngay( spot). 4/ Giao dịch hoán đổi ngoại tệ(swap). 5/ Mua bán ngoại 
tệ kỳ hạn( forward). Mặc dù có một danh mục như vậy nhưng đến nay khác hàng chủ yếu 
chỉ mua và bán ngoại tệ theo hình thức thanh toán ngay trong ngày hoặc sau tối đa 2 ngày 
làm việc( spot). Ngoại tệ để mua bán chủ yếu là USD và VND. Nhiều Ngân hàng xác định 
giao dịch ngoại hối phái s inh không nhằm mục đích lợi nhuận mà chỉ đáp ứng nhu cầu về 
ngoại hối của khách hàng để thanh toán, trả nợ vay, góp vốn, chi tiêu… của khách hàng, qua 
đó Ngân hàng thi lãi và phí từ các dịch vụ khác. Còn hình thức Hợp đồng tương lai, quyền 
chọn, bao thanh toán… mặc dù đã được một vài Ngân hàng chài mời đến các doanh nghiệp, 
hộ gia dình sản xuất, kinh doanh XNK, đặc biệt là các DN sản xuất cà phê, chè, lương 
thực… nhưng sau thời gian ngắn thực hiện, trong số ít doanh nghiệp sử dụng hình thức này 
cũng giảm. 
Ngay cả về khái niệm, đa số người Việt Nam, kể cả trong ngành tài chính- ngân hàng 
cũng còn xa lạ với những gì liên quan tới thị trường phái sinh. Một nhân viên của một chi 
nhánh Ngân hàng Công thương( NHCT) cho biết “ Ngày xưa đi học thì cũng có biết đến các 
công cụ phái sinh đấy nhưng thực tiễn công tác chẳng thấy triển khai nên cũng không rõ 
lắm. NHCT Việt Nam cũng vừa có đợt tập huấn phổ biến về công cụ phái sinh, nhưng cũng 
mới chỉ để cho cán bộ biết thế nào là công cụ phái sinh thôi”. Đại điện lãnh đạo một chi 
 -29- 
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói: “ Hội sở chính của chúng tôi cũng có ý tưởng đột 
phá thị trường phái sinh. Nhiều dự án đã được triển khai nhưng chưa có điều kiện thực hiện 
nên vẫn dở dang. Xác định là để chuẩn bị thôi chứ trong tương lại gần không triển khai được 
đâu” 
2 Khung pháp lý chế độ kế toán Việt Nam liên quan đến công cụ tài chính phái sinh. 
Đối với các tổ chức tín dụng, năm 2006, sau khi được Bộ Tài Chính chấp thuận, 
NHNN đã ban hành chế độ kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ tại các tổ chức tín dụng( thể 
hiện ở Quyết định số 29/2006/ QĐ- NHNN ngày 10/07/2006 của Thống đôc NHNN; Công 
văn số 7404/NHNN-KTTC ngày 29/08/2006 của NHNN). Theo đó, các công cụ tài chính 
phái s inh tiền tệ ghi nhận lần đầu theo giá trị giao dịch, tiếp theo thường xuyên được đáng 
giá lại, ghi nhận trên sổ sách kế toán theo hoặc gần đúng theo giá trị hợp lý thị trường, đồng 
thời kết quả ( lãi/ lỗ) của TCTD được xác định hợp lý, hạn chế bớt tình trạng lãi giả, lỗ thật 
hoặc lãi thật, lỗ giả. Tiếp đến, với Quyết định số 16/2007/QĐ-NHNN ngày 18/04/2007 của 
Thống đốc NHNN về chế độ báo cáo tài chính đối với các TCTD, việc công bố thông tin về 
công cụ tài chính phái s inh trên báo cáo tài chính của các TCTD đã ở mức dầy đủ, chi tiết 
cần thiết cho những ai quan tâm. Chế độ báo cáo này gần như quán triệt tuyệt đối các chỉ 
tiêu cần công bố theo thông lệ Quốc tế về trình bày báo cáo tài chính các ngân hàng và các 
tổ chức tài chính tương tự. Đáng lưu ý là các thông tin sau: Loại công cụ tài chính phái sinh 
được mua bán, quy mô mua bán, giá trị ròng về tài sản, công nợ theo giá trị hợp lý thị 
trường của các công cụ tài chính phái s inh, mức độ các loại rủi ro thanh khoản, rủi ro tín 
dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá và rủi ro giá cả khác hiện có…. 
 Đối với các doanh nghiệp, theo quy định tại khoản 1, Điều 7 của Luật kế toán về 
Nguyên tắc kế toán thì khi mua bán các công cụ tài chính phái sinh thì sẽ ghi nhận theo “ 
Giá trị tài sản được tính theo giá gốc…”, và nguyên tắc này được cụ thể hóa bằng các quy 
định Chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành( Quyết định số 15/2006/QĐ_BTC ngày 
20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính), tuy nhiên chưa có hướng dẫn trực tiếp về xử lý kế 
toán, về trình bày chỉ tiêu tài chính có liên quan trên báo cáo tài chính đối với các nghiệp vụ 
mua bán giao dịch công cụ tài chính phái sinh. 
Nếu vận dụng các quy định hiện hành, quy trình xử lý kế toán tại doanh nghiệp như 
sau: khi doanh nghiệp mua tài sản là công cụ tài chính phái sinh, doanh nghiệp sẽ ghi nhận 
theo giá gốc, quá trình nắm giữ, nếu giảm giá bán có thể lập dự phòng rủi ro, khi bán tất 
toán công cụ tài chính phái s inh, chênh lệch giữa giá bán và giá trị đang ghi sổ kế toán, 
doanh nghiệp sẽ được ghi thu khác, ghi chi khác. Việc xử lý kế toán như vậy về công cụ tài 
chính nói chung, về công cụ tài chính phái s inh nói riêng không phù hợp với thông lệ kế 
 -30- 
toán Quốc tế. Tất yếu của vấn đề, kết quả kinh doanh của năm sẽ không xác định được hợp 
lýb do chưa quán triệt được các nguyên tắc kế toán như “ dồn tích, thận trọng, phù hợp…” 
Những chỉ tiêu tài chính về công cụ tài chính cần phải trình bày trên báo cáo tài chính doanh 
nghiệp để cung cấp thông tin cho đối tác, cho đầu tưm cho cơ quan quản lý… cũng chưa có. 
Đối với một vài tổ chức tín dụng đang thực hiện thí điểm mua bán các loại công cụ 
tài chính phái sinh khác ( ngoài phái sinh ngoại tệ), tổ chức tín dụng phải tự vận dụng thông 
lệ Quốc tế cho việc ghi chép kế toán và xác định kết quả hoạt động kinh doanh. 
II. Nguyên nhân và giải pháp. 
1 Nguyên nhân. 
-Một là, thiếu nhu cầu thực sự từ khách hàng. 
Đây là vấn đề cốt lõi, vì trước đây tỷ giá USD/VND thường xuyên ổn định tại mức 
trần so với giá NHNN công bố, khách hàng không quan tâm tới vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ 
giá. 
Tuy nhiên, sang năm 2007,2008 sang tới năm 2009 và 2010 thị trường chứng kiến sự 
biến động và đảo chiều mạnh mẽ của đồng VND với đồng USD, tỷ giá USD/VND giảm 
xuống giao dịch tại mức sàn và sau đó tăng kéo dài. Nguyên nhân là do lượng lớn ngoại tệ 
từ cá hoạt động đầu tư trực tiếp, gián tiếp nước ngoài, kiều hối vào các NHTM làm xuất hiện 
dư thừa ngoại tệ do mất cân đối cung cầu. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu phải đối mặt với 
vấn đề rủi ro, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu trong ngành thủy sản, dệt may, cà 
phê… và các ngành sản xuất, xuất khẩu khác. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn 
chưa có thói quen hay nói đúng hơn là chưa quan tâm tới phòng ngừa rủi ro đối với các hoạt 
động ngoại tệ của mình. Năm 2008 được giới phân tích tài chính coi là “ năm bất ổn của tỷ 
giá” với những biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung 
cần ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn. Chỉ trong 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, 
một mật độ chưa từng có trong lịch sử. Còn trong 2009 và năm 2010 có thể nói tỷ giá của 
USD/VND vẫn duy trì ở mức tăng. 
 -31- 
Diễn biến tỷ giá USD/USD năm 2008- Nguồn : BIDV 
 Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2009- nguồn: BIDV 
Diễn biến tỷ giá USD/VND các tháng đầu năm 2010- nguồn BIDV. 
 -32- 
Hàng năm các doanh nghiệp Việt Nam đều phải vay ngoại tệ hàng trăm triệu USD 
hoặc EUR để đầu tư vào các dự án lớn, các doanh nghiệp này sau khi vay ngoại tệ thường 
bán số ngoại tệ này chuyển sang VND để tiến hành hoạt động đầu tư dự án, đến thời kỳ trả 
nợ họ phải mua lại ngoại tệ đó bằng VND. Trong thời gian tiến hành hoạt động sản xuất 
kinh doanh, rõ ràng sẽ có sự biến động về cả lãi suất cho vay và cả tỷ giá hối đoái. Nếu sử 
dụng công cụ phái sinh như hoán đổi lãi suất hoặc công cụ kỳ hạn hay quyền chọ về ngoại tệ 
thì các doanh nghiệp sẽ bảo hiểm được rủi ro lãi suất trong trường hợp nếu lãi suất vay là thả 
nổi và khi lãi suất thị trường đã tăng lên như hiện nay hoặc bảo hiểm được rủi ro tỷ giá khi 
ngoại tệ có xu hướng giảm xuống vào thời điểm doanh nghiệp bán ngoại tệ. 
 - Hai là, thiếu cơ sở pháp lý 
Trong vài năm trở lại đây, NHNN đã cho phép các NHTM được thực hiện nhiều 
nghiệp vụ mới như quyền chọn ngoại hối, quyền chọn vào, hoán đổi lãi suất. Tuy nhiên cơ 
sở pháp lý cho nghiệp vụ phái sinh còn chưa đầy đủ, ngoại trừ chỉ có giao dịch hóa đổi lãi 
suất đã có quy chế của NHNN là quyết định số 1133/2003/QĐ-NHNN, ngày 30/09/1930. 
Mặc dù hiện nay tất cả các NHTM đều được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, tuy 
nhiên chỉ được thực hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và ngoại tê, còn quyền chọn giữa ngoại 
tệ và VND thì phải được sự cho phép từ phía NHNN. Trên thực tế, các doanh nghiệp xuất 
nhập khẩu thường xuyên chuyển đổi ngoại tệ ra VND để phục vụ hoạt động đầu tư sản xuất 
trong nước mà hầu như không chuyển đổi từ ngoại tệ ra ngoại tê. Đây cũng là trở ngại lới 
đối với các NHTM làm cho doanh số giao dịch quyền chọn rất thấp.d 
Đặc biệt, hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam còn chưa có các chuẩn mực tương 
đồi với các chuẩn mực kế toán Quốc tế về công cụ tài chính, đặc biệt trong đó là các chuẩn 
mực IAS 39 “ghi nhận và xác định giá trị”, IAS 32 “ thuyết minh và trình bày thông tin” và 
IFRS7 “ Công bố”. 
Việc thiếu vắng các tiêu chuẩn kế toán chất lượng cao để ghi nhận, đánh giá giá trị 
công cụ tài chính nói chung và công cụ tài chính phái sinh nói riêng sẽ ảnh hưởng nghiêm 
trọng đến việc xác định kết quả tài chính, đến quản trị rủi ro tài chính của doanh nghiệp. 
Đồng thời cơ quan giám sát tài chính- ngân hàng- chứng khoán cũng không thể có được 
thông tin đầy đủ, trung thực để giám sát thị trường chung, giám sát an toàn hoạt động của 
từng tổ chức hoạt động tài chính. Hiện tại, cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam cũng mới 
cấp giấy phép hạn chế do một số TCTD, một số doanh nghiệp được mua bán đối với một số 
công cụ tài chính phái sinh mà thôi. 
-Ba là, thiếu kiến thức, hiểu biết về công cụ phái sinh. 
 -33- 
 Sản phẩm phái s inh trong phòng chống rủi ro là một sản phẩm khá mới và phức tạp 
đối với thị trường Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cũng như các NHTM phải có hệ 
thống thông tin dự báo tỷ giá quốc tế nhanh, chính xác, cập nhật liên tục, phải có công cụ 
đo lường và cảnh báo rủi ro tỷ giá, lãi suất, đội ngũ các nhà quản lý, các giao dịch viên 
chuyên nghiệp. Thực tế có nhiều NHTM được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại hối từ 
lâu nhưng đến nay vẫn chưa khai triển được. Đối với các doanh nghiệp thì việc hiểu biết các 
công cụ phái sinh để phòng chống rủi ro còn nhiều hạn chế. 
-Bốn là, chi phí giao dịch có liên quan để mua bán các giao dịch công cụ tài chính 
phái sinh còn cao. 
Các chi phí giao dịch bao gồm: 
 Chi phí tìm kiếm thông tin. 
 Chi phí thương lượng với đối tác. 
 Chi phí để điểu chỉnh trạng thái nhằm thích nghi với điều kiện mới của 
thị trường và tài thương lượng. 
 Chi phí phát sinh từ những yếu tố bất định và rủi ra về thông tin, thể 
chế…( uncertainly cost- chi phí rủi ro không dự đoán được) 
 Chi phí ủy quyền tác nghiệp. 
 Chi phí thực hiện giám sát. 
2 Giải pháp. 
Từ thực tế trên, để ứng dụng và phát triển công cụ phái sinh ở Việt nam cần phải có 
các điều kiện sau: 
-Thứ nhất, về khách quan. 
Tỷ giá thị trường phải biến động tới mức đủ để các để các doanh nghiệp phải quan 
tâm chú ý tới vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Các NHTM cũng muốn triển khai các sản phẩm 
dịch vụ mới nhưng khô hề “ cố ép” khách hàng sử dụng khi thực sự họ không có nhu cầu. 
NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, tạo ra một thị trường ngoại hối 
phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ. NHNN cần tiếp tục nớ rộng biên độ dao động so 
với tỷ giá bình quân và thường xuyên điều chinh linh hoạt biên độ này cho phù hợp với thị 
trường hơn. Đây là cơ sở để NHTM cũng như doanh nghiệp quen dần với các công cụ 
phòng chống rủi ro tỷ giá. Bên cạnh đó, NHNN cần nghiên cứu ban hành những quy tắc cơ 
 -34- 
bản nhất trong giao dịch pháo sinh, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp với điều kiện 
thị trường của Việt Nam hiện nay, để có hành lang pháp lý chung cho hoạt động của các 
NHTM. Cho phép các NHTM chủ động thực hiện quyền chọn ngoại hối giữa ngoại tệ và 
VND khi có nhu cầu phái sinh. Tránh để các NHTM thực hiện nghiệp vụ mới một cách 
riêng lẻ theo sự hiểu biết của ngân hàng, dẫn đến tình trạng không thống nhất, dễ gây ra 
tranh chấp khi có sự cố xảy ra. 
-NHNN cần tăng cường hơn nữa vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị 
trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành nhằm hình thành 
một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên thị 
trường. Ngân hàng Nhà nước tham gia thị trường với tư cách là người mua, người bán cuối 
cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết vì mục tiệu chính sach tiền tệ quốc gia. 
-Hai là, về phía các NHTM 
Cần tiếp cận khách hàng, tổ chức hội thảo để giới thiệu và tư vấn nhằm mục đích vừa 
nâng cao nhận thức của khách hàng về rủi ro tỷ giá vừa giúp cho khách hàng hiểu biết về 
các công cụ phái sinh ngoại hối. Phát triển các công cụ phái sinh và thị trường phái sinh là 
giúp cho các doanh nghiệp có them cơ hội lựa chọn loại hình giao dịch hối đoái phù hợp với 
mục tiêu kinh doanh. Khi sử dụng các công cụ phái sinh doanh nghiệp có được sự lựa chọn 
về tỷ giá mong muốn. Mặt khác, cần tập trung ưu tiên đào tạo và bồi dưỡng cho các cán bộ 
trực tiếp kinh doanh trên thị trường hối đoái quốc tế về các công cụ phái sinh nói chung và 
phái s inh ngoại hối nói riêng,vì đây là những sản phẩm mới, phức tạp cả về lý thuyết lẫn 
thực tiễn áp dụng. Ngoài ra cần trang bị them những kiến thức và kinh nghiệm về thị trường 
ngoại hối và thị trường tiền tệ quốc tế, kỹ năng phân tích kỹ thuật, phân tích cơ bản trên cơ 
sở chọn lọc, tổng hợp và phần tích thông tin để dự đoán xu hướng diễn biến của thị trường 
nhằm sử dụng các công cụ phái sinh một cách hiệu quả nhất. Thông qua đó để có thể tư vấn, 
hướng dẫn, giúp đỡ cho khách hàng của mình hiểu biết hơn về thị trường ngoại hối. 
-Ba là, về phương tiện, thiết bị. 
Ngoài những phương tiện, thiết bị hiện có của Reuters, Thomson, Sow Jones News 
hay Letastock, cần trang bị them phần mềm xử lý, quản lý rủi ro và tính phí đối với các 
nghiệp vụ phái sinh. Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trên thị trường 
ngoại hối quốc tế, để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, về hệ thống phân tích quản lý rủi ro 
đối với các công cụ phái sinh nói chung và công cụ quyền chọn ngoại hối, công cụ tương lại 
ngoại hối nói riêng. 
 -35- 
3 Xu hướng phát triển tương lai. 
Ủy ban Chứng khoán vừa gợi mở một số chi tiết đầu tiên của kế hoạch xây dựng loại 
hình thị trường mới cho chứng khoán Việt Nam. Chỉ số tương lai của Vn-Index nhiều khả 
năng sẽ là sản phẩm phái sinh đầu tiên. 
Chia sẻ tại Hội thảo về xây dựng thị trường phái sinh Việt Nam, được tổ chức ngày 
14/04 tại Hà Nội, hầu hết đại diện của Ủy ban Chứng khoán (SSC) và các chuyên gia quốc 
tế đều khẳng định sự cần thiết của việc xây dựng thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt 
Nam. 
“Trong 10 năm hoạt động của thị trường chứng khoán tại Việt Nam, Vn-Index từng 
có lúc lên tới 1.170 điểm nhưng cũng đã đã có thời điểm chỉ còn 235 điểm. Biên độ dao 
động rất lớn này cho thấy nhà đầu tư đang rất cần các công cụ để bảo hiểm rủi ro”, bà Tạ 
Thanh Bình, Phó vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường (SSC) khẳng định. 
Ủy ban Chứng khoán dự kiến sẽ xây dựng một thị trường phái sinh tập trung, dựa 
trên các chứng khoán cơ sở đang được niêm yết tại 2 Sở giao dịch Hà Nội và TP HCM hiện 
nay. Phương án xây dựng thị trường OTC cũng từng được tính đến nhưng không được ủng 
hộ do chứng khoán trên thị trường phi tập trung có độ rủi ro cao trong khi thanh khoản lại 
thấp, không thích hợp để tạo ra các sản phẩm phái sinh. 
Theo tiết lộ của đại diện SSC, hợp đồng tương lai của chỉ số chứng khoán (cụ thể là 
Vn-Index) sẽ là chứng khoán phái s inh đầu tiên được dự kiến giao dịch trên thị trường vì 
đây là loại sản phẩm tương đối phổ biến trên thế giới và tương đối “dễ hiểu” đối với nhà đầu 
tư. 
 Tuy nhiên, một khó khăn khi xây dựng sản phẩm phái s inh từ Vn-Index là chỉ số 
này, mặc dù mang tính đại diện cao cho thị trường, nhưng vẫn được tính theo công thức cũ. 
“Do Vn-Index hiện được tính từ toàn bộ rổ cổ phiếu niêm yết tại sàn TP HCM nên có những 
cổ phiếu thanh khoản thấp, hoặc không có giao dịch vẫn có thể gây ảnh hưởng lớn. Do vậy 
Vn-Index chưa thực sự phản ánh chính xác diễn biến của thị trường”, Phó vụ trưởng Vụ 
Phát triển thị trường cho biết. 
Để giải quyết vấn đề này, giải pháp được Ủy ban Chứng khoán đưa ra là xây dựng bộ 
chỉ số rút gọn Vn-Index 30 hoặc Vn-Index 50, tương tự như thông lệ của các thị trường 
chứng khoán lớn trên thế giới hiện nay. Bộ chỉ số này sẽ được tính cố định từ 30 hoặc 50 mã 
chứng khoán có thanh khoản tốt và có sức ảnh hưởng lớn nhất trên sàn chứng khoán (có thể 
thuộc hoặc không thuộc một nhóm ngành). Do đó, tránh được việc thường xuyên phải tính 
lại Vn-Index khi có thêm cổ phiếu mới lên sàn. 
 -36- 
Sau khi thử nghiệm thành công hợp đồng tương lai của Vn-Index, Ủy ban Chứng 
khoán dự kiến sẽ mở rộng sản phẩm sang các loại hình chứng khoán khác (trái phiếu, cổ 
phiếu, chứng chỉ quỹ…) và xa hơn là các “hàng hóa” khác như vàng, lãi suất, hối đoái, dầu 
mỏ, cà phê… Các giao dịch trên thị trường phái sinh sẽ được thanh toán bằng tiền, thay vì 
các loại hàng hóa cơ sở. 
Riêng với chứng khoán niêm yết, SSC cũng đề xuất chỉ sử dụng các loại chứng khoán 
có thanh khoản cao, chất lượng công bố thông tin tốt và được quản lý tài chính chặt chẽ… 
để tạo ta sản phẩm phái sinh. “Cơ quan quản lý sẽ tiến hành một cuộc kiểm tra toàn diện về 
thanh khoản của các chứng khoán niêm yết trước khi cho phép tạo ra sản phẩm phái sinh”, 
đại diện Ủy ban Chứng khoán cho biết. 
Về mô hình thị trường, SSC dự kiến không triển khai hình thức 2 Sở giao dịch độc 
lập, 2 bảng điện tử như áp dụng với các loại chứng khoán cơ sở hiện nay bởi về lâu dài, mô 
hình này sẽ gây chia tách thị trường và tốn kém khi xây dựng. Hai phương án còn lại được 
tính đến là xây dựng một tập đoàn Giao dịch chứng khoán - nơi các Sở giao dịch là công ty 
thành viên hoạt động song song hoặc tiến hành hợp nhất 2 Sở giao dịch hiện nay. 
Cả 2 mô hình này đều đang được bỏ ngỏ vì còn phụ thuộc khá nhiều vào định hướng 
phát triển thị trường chứng khoán giai đoạn 2015 - 2020, trong đó có việc tách - nhập các Sở 
giao dịch hiện nay. Hiện tại Ủy ban Chứng khoán cho biết đang hoàn thiện khung pháp lý 
cũng như cho thử nghiệm các công cụ hỗ trợ thị trường như giao dịch ký quỹ, bán khống, 
vay và cho vay chứng khoán bắt buộc… Cơ quan này dự kiến, nếu các bước chuẩn bị diễn ra 
suôn sẻ, thị trường phái sinh tại Việt Nam sẽ chính thức đi vào hoạt động kể từ năm 2014. 
 -37- 
KẾT LUẬN 
Hiện nay, sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), chúng ta đang có rất 
nhiều cơ hội để tiếp cận với những nguồn vốn lớn. Nhưng mặt khác, những thách thức từ 
môi trường kinh doanh quốc tế sẽ vô cùng khó khăn, đối mặt với rủi ro, mà điển hình là rủi 
ro tỉ giá, là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, thiết nghĩ việc tìm hiểu và xây dựng một hệ 
thống phát triển thị trường công cụ phái s inh ngoại hối có hiệu quả ở Việt Nam trong giai 
đoạn tới sẽ vô cùng quan trọng. Trên đây là một số giải pháp mang tính vĩ mô,. Đó là những 
công việc mà nhà nước, chính phủ và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy 
nhiên, để thị tr ư ờng ngày càng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ 
lực của tất cả các chủ thể kinh tế, các DN, các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ thể 
cung cấp và sử dụng sản phẩm phái sinh. Và vấn đề cốt lõi chính là nhận thức của chính các 
chủ thể tham gia trực tiếp chứ không chỉ là các chủ thể quản lý. Hy vọng một trương lai 
không xa tới, Việt Nam sẽ có một thị trường các sản phẩm phái sinh tài chính với một hành 
lang pháp lý hiệu quả tạo thuận lợi cho các DN của chúng ta 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nhom_4_tieuluan_qtrr_7186.pdf nhom_4_tieuluan_qtrr_7186.pdf