Khấu trừ tại nguồn cũng là một giải pháp. Theo ông Nguyễn Thái Sơn - Trưởng
phòng Thuế thu nhập cá nhân : “Chìa khoá của sự thành công trong việc quản lý và thu
thuế thu nhập cá nhân là công tác khấu trừ tại nguồn. Do vậy, ở một số nơi như Nhật
Bản, Đài Loan, Trung Quốc, cơ quan quản lý thuế sẽ xử phạt rất nặng đối với những đơn
vị nào không thực hiện khấu trừ tại nguồn khi chi trả thu nhập cho người lao động ”.
Ở Nhật Bản, số thu thuế thu nhập cá nhân hằng năm chiếm hơn 30% tổng số thu thuế nội
địa, và có đến 82% trên tổng số thu là được khấu trừ tại nguồn. Kinh nghiệm quản lý thuế
thu nhập cá nhân từ đất nước mặt trời mọc này cho thấy, tất cả các nguồn thu nhập của
đối tượng nộp thuế đều được chi trả qua hệ thống ngân hàng, từ hệ thống này dữ liệu sẽ
được nhập bằng máy tự động (OCR) rồi truyền về ngân hàng nhà nước.Tại ngân hàng
trung ương, các thông tin về thu nhập của người nộp thuế sẽ được giám sát bằng hệ thống
(KSK) quản lý thông tin về thuế. Khi đó, cơ quan thuế chỉ việc “nhấp chuột” vào hệ
thống này để kiểm tra, giám sát và thu thuế.
24 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2490 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tác động của thuế thu nhập cá nhân đố với người làm công ăn lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thu nhập được miễn thuế thu nhập cá nhân
- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con
đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ
với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị,
em ruột với nhau.
- Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá
nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất.
- Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao đất.
- Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với
con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ
với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em
ruột với nhau.
- Thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối,
nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ
chế thông thường.
- Thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao để
sản xuất.
- Thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
- Thu nhập từ kiều hối.
- Phần tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương làm
việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định của pháp luật.
- Tiền lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả.
- Thu nhập từ học bổng, bao gồm:
a) Học bổng nhận được từ ngân sách nhà nước;
b) Học bổng nhận được từ tổ chức trong nước và ngoài nước theo chương trình
hỗ trợ khuyến học của tổ chức đó.
6
- Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tiền bồi thường tai nạn
lao động, khoản bồi thường nhà nước và các khoản bồi thường khác theo quy định của
pháp luật.
- Thu nhập nhận được từ quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành
lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo, không nhằm mục đích lợi
nhuận.
- Thu nhập nhận được từ nguồn viện trợ nước ngoài vì mục đích từ thiện, nhân đạo dưới
hình thức chính phủ và phi chính phủ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
1.5. Các khoản giảm trừ
1.5.1 Giảm trừ gia cảnh
- Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối
với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân
cư trú. Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau đây:
a) Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu
đồng/năm);
b) Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng.
- Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện theo nguyên
tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế.
- Người phụ thuộc là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, bao
gồm:
a) Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động;
b) Các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy
định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết
tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; những người khác không nơi
nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng.
1.5.2 Giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo
- Các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế đối
với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân
cư trú, bao gồm:
a) Khoản đóng góp vào tổ chức, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, người tàn tật, người già không nơi nương tựa;
b) Khoản đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học.
- Tổ chức, cơ sở và các quỹ quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này phải được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích
từ thiện, nhân đạo, khuyến học, không nhằm mục đích lợi nhuận.
1.6. Biểu thuế và cách tính thuế
1.6.1 Biểu thuế lũy tiến từng phần
Thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền
công được áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần theo quy định tại Điều 22 Luật
Thuế thu nhập cá nhân, cụ thể như sau:
7
Bậc
thuế
Phần thu nhập tính
thuế/năm
(triệu đồng)
Phần thu nhập tính
thuế/tháng
(triệu đồng)
Thuế suất
(% )
1 Đến 60 Đến 5 5
2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10
3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15
4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20
5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25
6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30
7 Trên 960 Trên 80 35
Thu nhập tính thuế áp dụng Biểu thuế này là thu nhập của cá nhân cư trú có thu nhập
chịu thuế từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công sau khi đã trừ đi khoản giảm trừ
gia cảnh, các khoản đóng bảo hiểm bắt buộc, khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo,
khuyến học.
1.6.2 Biểu thuế toàn phần
Thu nhập tính thuế Thuế suất (% )
a) Thu nhập từ đầu tư vốn 5
b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5
c) Thu nhập từ trúng thưởng 10
d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10
đ) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn quy định tại khoản 1 Điều
13 của Luật này
20
Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán quy định tại khoản 2
Điều 13 của Luật này
0,1
e) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản
1 Điều 14 của Luật này
25
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản 2
Điều 14 của Luật này
2
1.6.3 Cách tính thuế
Thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công là tổng
số thuế được tính theo từng bậc thu nhập và thuế suất tương ứng theo biểu luỹ tiến
từng phần, trong đó số thuế tính theo từng bậc thu nhập được xác định bằng thu nhập
tính thuế của bậc thu nhập nhân (x) với thuế suất tương ứng của bậc thu nhập đó.
1.7. Một số vấn đề cơ bản về thu nhập từ tiền lương, tiền công
1.7.1. Thu nhập từ tiền công, tiền lương
8
Thu nhập từ tiền lương, tiền công là các khoản thu nhập người lao động nhận
được từ người sử dụng lao động dưới các hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền,
bao gồm:
- Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công.
- Các khoản phụ cấp, trợ cấp kể cả sinh hoạt phí mà người lao động nhận được,
trừ một số khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định dưới đây.
- Tiền thù lao nhận được dưới các hình thức như: tiền hoa hồng môi giới, tiền tham
gia các đề tài nghiên cứu khoa học, kỹ thuật; tiền tham gia các dự án, đề án; tiền
nhuận bút do viết sách, báo, dịch tài liệu; tiền tham gia các hoạt động giảng dạy; biểu
diễn văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao; tiền thu được từ các dịch vụ quảng cáo và
từ các dịch vụ khác.
- Tiền nhận được do tham gia vào các hội, hiệp hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh
doanh, hội đồng quản trị doanh nghiệp, ban kiểm soát doanh nghiệp, ban quản
lý dự án, hội đồng quản lý, hội đồng doanh nghiệp và các tổ chức khác.
- Các khoản lợi ích khác bằng tiền hoặc không bằng tiền mà người lao động được
hưởng ngoài tiền lương, tiền công do người sử dụng lao động trả hoặc trả hộ cho
người lao động, cụ thể như sau:
a) Tiền nhà ở, tiền điện, nước và các loại dịch vụ khác kèm theo. Trường hợp cá
nhân ở tại trụ sở làm việc thì thu nhập chịu thuế căn cứ vào tiền thuê nhà, hoặc
chi phí khấu hao, tiền điện, nước và các dịch vụ khác tính theo tỷ lệ giữa diện
tích cá nhân sử dụng với diện tích trụ sở làm việc.
b) Tiền mua bảo hiểm đối với các hình thức bảo hiểm mà pháp luật không quy
định trách nhiệm bắt buộc người sử dụng lao động phải mua cho người lao
động.
c) Các khoản phí hội viên phục vụ cho cá nhân như: thẻ hội viên sân gôn, sân quần
vợt, thẻ sinh hoạt các câu lạc bộ văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao.
d) Các dịch vụ khác phục vụ cho cá nhân trong hoạt động chăm sóc sức khoẻ, vui
chơi, thể thao, giải trí, thẩm mỹ.
đ) Các khoản lợi ích khác mà người sử dụng lao động chi cho người lao động phù
hợp với các quy định của pháp luật như: chi trong các ngày nghỉ, lễ; thuê các
dịch vụ tư vấn, thuê kê khai thuế; chi cho người giúp việc gia đình như lái xe,
người nấu ăn, người làm các công việc khác trong gia đình theo hợp đồng, trừ
các khoản khoán chi như: văn phòng phẩm, điện thoại, công tác phí, trang phục.
- Các khoản thưởng như tháng, quý, năm, thưởng đột xuất, thưởng tháng lương
thứ 13 bằng tiền hoặc không bằng tiền (kể cả thưởng bằng chứng khoán). Trường
hợp người lao động được thưởng bằng cổ phiếu thì giá trị thưởng được xác định theo
mức thưởng ghi trên sổ sách kế toán của đơn vị trả thưởng.
1.7.2. Các khoản phụ cấp, trợ cấp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế từ tiền
lương, tiền công bao gồm:
- Phụ cấp đối với người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi
đối với người có công, bao gồm: phụ cấp, trợ cấp cho thương binh, bệnh binh, cho
thân nhân liệt sỹ; phụ cấp, trợ cấp cho cán bộ hoạt động cách mạng; phụ cấp, trợ cấp
cho các anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
9
- Phụ cấp quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật.
- Các khoản phụ cấp theo quy định của Bộ luật Lao động, gồm:
a) Phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi
làm việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm.
b) Phụ cấp thu hút đối với vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và đảo xa đất liền có
điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn.
c) Phụ cấp khu vực theo quy định của pháp luật đối với người làm việc ở vùng xa
xôi, hẻo lánh và khí hậu xấu.
- Các khoản trợ cấp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ luật Lao động:
a) Trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
b) Trợ cấp một lần khi sinh con, nhận con nuôi.
c) Trợ cấp do suy giảm khả năng lao động.
d) Trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng.
đ) Các khoản trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thất nghiệp.
e) Các khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội trả.
- Trợ cấp để giải quyết tệ nạn xã hội theo quy định của pháp luật.
Các khoản phụ cấp, trợ cấp, mức phụ cấp, trợ cấp được trừ khi xác định thu nhập
chịu thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công nêu trên thực hiện theo các văn bản
hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được áp dụng thống nhất với tất cả
các đối tượng, các thành phần kinh tế.
Trường hợp các văn bản hướng dẫn về các khoản phụ cấp, trợ cấp, mức phụ cấp,
trợ cấp áp dụng đối với khu vực nhà nước thì các thành phần kinh tế khác, các cơ sở kinh
doanh khác được căn cứ vào danh mục và mức phụ cấp, trợ cấp hướng dẫn đối với khu
vực nhà nước để tính trừ. Các trường hợp chi cao hơn mức phụ cấp, trợ cấp theo quy định
trên thì phần chi vượt phải tính vào thu nhập chịu thuế.
1.7.3. Các khoản tiền thưởng được trừ khi tính thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền
công:
- Tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được nhà nước phong tặng như cả tiền thưởng
kèm theo các danh hiệu thi đua, các hình thức khen thưởng theo quy định của pháp
luật về thi đua khen thưởng, cụ thể:
a) Tiền thưởng kèm theo các danh hiệu thi đua như Chiến sĩ thi đua toàn quốc;
Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; Chiến sĩ thi đua cơ sở, Lao động tiên tiến, Chiến sỹ tiên tiến;
b) Tiền thưởng kèm theo các hình thức khen thưởng như Huân chương, Huy
chương các loại.
c) Tiền thưởng kèm theo các danh hiệu vinh dự nhà nước như danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam anh hùng, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, danh
hiệu Anh hùng, danh hiệu Nhà giáo, Thầy thuốc, Nghệ sỹ Nhân dân,...
d) Tiền thưởng kèm theo giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước.
đ) Tiền thưởng kèm theo Kỷ niệm chương, Huy hiệu.
10
e) Tiền thưởng kèm theo Bằng khen, Giấy khen.
Thẩm quyền ra quyết định khen thưởng, mức tiền thưởng kèm theo các danh hiệu
thi đua, hình thức khen thưởng nêu trên phải phù hợp với quy định của Luật Thi đua khen
thưởng.
- Tiền thưởng kèm theo các giải thưởng quốc gia, giải thưởng quốc tế được Nhà nước
Việt Nam thừa nhận.
- Tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền công nhận.
- Tiền thưởng về phát hiện, khai báo hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
11
CHƯƠNG 2:
TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN ĐỐI VỚI NGƯỜI LÀM CÔNG
ĂN LƯƠNG
2.1. Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân
- Thuế thu nhập cá nhân là lại thuế trực thu đánh vào thu nhập chính đáng của từng
cá nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo
luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế thu nhập cá nhân không
có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khoá sang cho các đối tượng khác tại thời điểm
đánh thuế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh: một là đối
tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh thuế
không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước ngoài; hai là
đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất
cả công dân của nước sở tại và những người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không
thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của
pháp luật thuế TNCN.
- Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế Thu nhập doanh nghiệp
ở chỗ nó có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia cho dù quốc gia đó
có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế, xây dựng một chính sách thuế có tính trung lập
không nhằm nhiều mục tiêu khác nhau. Thể hiện, nó luôn quy định loại trừ một số khoản
thu nhập trước khi tính thuế TNCN như thu nhập mang tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần
thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình người nộp thuế, khoản chi mang tính nhân đạo xã
hội…
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân,
chính sách xã hội cụ thể, có áp dụng phương pháp luỹ tiến. Do đó đảm bảo công bằng xã
hội, người có thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn một khoản thu
nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế.
2.2. Những điểm mới có tác động tích cực của thuế thu nhập cá nhân
Mặc dù còn những ý kiến khác nhau về Luật thuế TNCN, song có thể nói, đây là
một văn bản luật được soạn thảo công phu nhất từ trước đến nay, phản ánh khá đầy đủ ý
chí, nguyện vọng của nhân dân với nhiều điểm mới so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế-xã hội nước ta hiện nay.
Quy định rõ hơn về đối tượng nộp thuế
Về đối tượng nộp thuế, có một điểm mới là luật định nghĩa rõ hơn đối tượng cư trú
(đối tượng phải nộp thuế TNCN cho Việt Nam đối với toàn bộ thu nhập, kể cả thu nhập
phát sinh ở Việt Nam và nước ngoài). Nếu như trước đây, đối tượng cư trú chỉ là cá nhân
có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên
tục kể từ khi đến Việt Nam thì Luật thuế TNCN đã bổ sung thêm một điều kiện nữa được
coi là cư trú ở Việt Nam, đó là "cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có
nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời
12
hạn". Bổ sung như vậy làm cho việc xác định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao
quát hết đối tượng nộp thuế và mở rộng đối tượng nộp thuế một cách hợp lý.
Đổi mới cách phân loại thu nhập chịu thuế để xác định nghĩa vụ thuế
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập được phân
chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Tuy nhiên, Pháp
lệnh không định nghĩa rõ thế nào là thu nhập thường xuyên, thế nào là thu nhập không
thường xuyên. Do vậy, trong thực tế, việc tính thuế gặp khá nhiều khó khăn. Đồng thời,
việc tính thuế đối với từng loại thu nhập không hợp lý, không phù hợp với thông lệ quốc
tế. Luật thuế TNCN đã khắc phục được hạn chế này với việc phân loại thu nhập chịu thuế
theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ kinh
doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển
nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập khác (bao gồm: thu nhập từ trúng
thưởng, thu nhập từ bản quyền, thu nhập từ thừa kế, quà tặng, thu nhập từ chuyển nhượng
quyền thương mại). Đây là cơ sở để tính thuế phù hợp với từng loại thu nhập. Từ cách
phân loại này, việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai hướng: đối với thu nhập từ
kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với
các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến toàn phần.
Mở rộng diện điều tiết một cách hợp lý trên cơ sở bổ sung một số khoản thu
nhập chịu thuế
Điều này góp phần điều tiết công bằng thu nhập của các tầng lớp dân cư theo
hướng mọi cá nhân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập rất thấp và một số trường hợp
đặc biệt) đều phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đồng thời, bằng quy định mới
này, Luật thuế TNCN sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lí trên
cơ sở không bỏ sót nguồn thu của nền kinh tế.
Sử dụng thuật ngữ "thu nhập được miễn thuế" thay cho "thu nhập không chịu
thuế" và bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế.
Trên cơ sở kế thừa các khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế của Pháp lệnh
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế TNCN đã thay đổi, gọi đúng bản
chất là thu nhập được miễn thuế và bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế khác.
Cụ thể là bổ sung các khoản thu nhập sau vào diện miễn thuế: thu nhập từ tiền lương làm
việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn lương làm việc ban ngày, làm việc trong
giờ; lương hưu; tiền thưởng cho cá nhân về việc phát hiện, khai báo cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luât; học bổng nhận từ ngân sách Nhà nước và từ
các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ; thu nhập từ viện trợ, từ
thiện với điều kiện các quỹ từ thiện này phải được Nhà nước cho phép thành lập hoặc
công nhận hoạt động vì mục đích nhân đạo không nhằm mục đích thu lợi nhuận; thu nhập
từ lãi trái phiếu chính phủ.
Việc bổ sung một số khoản thu nhập miễn thuế nêu trên thể hiện sự ưu đãi của nhà
nước đối với một số đối tượng được hưởng thu nhập trong những trường hợp gặp khó
khăn. Điều này cũng thể hiện chính sách khuyến khích của nhà nước đối với một số hoạt
động có lợi cho phát triển kinh tế- xã hội như tố giác tội phạm, tăng cường lao động sản
xuất…
Áp dụng giảm trừ gia cảnh khi xác định nghĩa vụ thuế
Đây chính là vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân nhất song cũng là vấn đề
gây nhiều tranh cãi nhất khi dự thảo Luật được đưa ra lấy ý kiến nhân dân. Sự ủng hộ
13
xuất phát từ cơ sở là, thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng
nộp thuế (có tính riêng đối với người Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam)
thì chuyển sang áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối
tượng nộp thuế. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp
thuế được công bằng hơn. Tuy nhiên, điểm gây nhiều tranh cãi là ở chỗ, mức giảm trừ
nên là bao nhiêu cho bản thân đối tượng nộp thuế và cho người phụ thuộc. Sau khi thảo
luận khá sôi nổi và thẳng thắn, Quốc hội đã biểu quyết thông qua mức giảm trừ cho bản
thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng
nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1.6 triệu đồng/tháng.
Có ý kiến cho rằng, mức giảm trừ gia cảnh như trên là thấp. Tuy nhiên, mức giảm
trừ gia cảnh như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam trong những
năm tới và phù hợp với quản điểm cải cách hệ thống thuế của Việt Nam. Theo đó, với
mức thu nhập bình quân đầu người dự kiến cho năm 2009 là khoản 1.5 triệu đồng/tháng
thì mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế ở mức 4 triệu đồng/tháng có ý nghĩa
rằng, chỉ những người có thu nhập từ trung bình khá trở lên mới phải nộp thuế (và chỉ
phải nộp đối với phần thu nhập vượt trên mức giảm trừ này). Những năm sau đó, khi thu
nhập tăng lên, mức giảm trừ này sẽ tiến gần đến với mức thu nhập trung bình trong xã hội
và khi đó những người có thu nhập ở mức trung bình trở lên sẽ phải nộp thuế TNCN.
Điều này có nghĩa là Luật sẽ tự động mở rộng diện đánh thuế để thực hiện nguyên tắc
mọi công dân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập quá thấp) đều có nghĩa vụ nộp thuế
cho Nhà nước, từ đó đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư. Tất
nhiên, đến một thời điểm nào đó, khi thu nhập và mức sống của dân cư đã tăng rất cao,
Quốc hội sẽ xem xét điều chỉnh mức giảm trừ này cho phù hợp với định hướng vừa phân
tích trên.
Việc giảm trừ cho người phụ thuộc được thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ
thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế. Những người phụ thuộc
được giảm trừ khá rộng, bao gồm: con chưa thành niên, con đang học đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp, con tàn tật không có khả năng lao động; các cá nhân khác
không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng thấp hơn mức quy định của Chính phủ hoặc
không có nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng (gồm cha, mẹ, vợ
chồng, cô, dì, chú, bác, cháu…). Luật cũng không khống chế mức giảm trừ tối đa cho
người phụ thuộc (trong dự thảo Luật lấy ý kiến nhân dân, dự kiến khống chế mức giảm
trừ tối đa cho người phụ thuộc là 10 triệu đồng/tháng)
Việc mở rộng diện giảm trừ như trên cho những người phụ thuộc đảm bảo thực
hiện công bằng trong điều tiết thu nhập và phù hợp với đạo lý xã hội của người Việt
Nam, chắc chắn sẽ nhận được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo nhân dân.
Ví dụ: Nếu như trước đây, người nộp thuế có thu nhập là 10 triệu đồng/tháng (bất
kể diện độc thân hay diện đã có gia đình phải nuôi cha mẹ, con cái) nộp thuế suất 10%
theo biểu thuế lũy tiến (0% x(10 triệu - 5 triệu) + 5 triệu đồng x 10%= 500.000đ).
Theo Luật thuế TNCN bản thân người nộp thuế, người nộp thuế sẽ được giảm trừ
gia cảnh 4 triệu đồng và mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng. Ví dụ, 1 người có thu
nhập 10 triệu đồng/tháng, phải nuôi 1 con nhỏ thì thu nhập chịu thuế được tính như sau:
10.000.000đ – 4.000.000đ – 1.600.000đ = 4.400.000đ , thuế TNCN phải nộp: 4.400.000đ
x 5% = 220.000đ/tháng.
Các số liệu so sánh trong bảng dưới đây cho thấy lợi ích của người làm công ăn
lương khi chuyển sang thực hiện Luật Thuế TNCN.
14
Số thuế phải nộp của cá nhân có nuôi 01 người phụ thuộc
(Lợi ích khi chuyển sang thực hiện Luật thuế TNCN)
Đơn vị: Đồng VN
Thu nhập bình
quân 1 tháng
Thuế phải nộp theo
PL cũ
Thuế TNCN theo
Luật mới (Từ
2009)
Thuế giảm đi do thực
hiện Luật Thuế TNCN
mới
(1) (2) (3) ( 4) = (3) – (2)
1.000.000 0
0
0
200.000
500.000
700.000
1.000.000
1.600.000
2.000.000
3.000.000
0 -
-
-
-130.000
-280.000
-310.000
-310.000
-490.000
-590.000
-770.000
2.000.000 0
5.000.000 0
7.000.000 70.000
10.000.000 220.000
12.000.000 390.000
15.000.000 690.000
18.000.000 1.110.000
20.000.000 1.410.000
25.000.000 2.230.000
Số liệu trong cột số (4) thể hiện số âm (-) thể hiện lợi ích khi chuyển sang áp dụng Luật
Thuế TNCN: chính là số tiền thuế mỗi tháng nộp ít hơn so với mức thuế theo quy định
trước đây.
Áp dụng giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo
Khoản đóng góp từ thiện nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế
nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh;
không áp dụng đối với các khoản thu nhập khác. Đây là điểm mới không chỉ so với Pháp
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành mà còn mới ngay cả đối với
bản dự án Luật lấy ý kiến nhân dân. Nội dung mới này của Luật được Quốc hội tiếp thu ý
kiến nhân dân. Với quy định này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham
gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Đồng thời, đây cũng chính là một khoản "chi tiêu
qua thuế" của nhà nước, thể hiện ở chỗ một khoản thu lẽ ra được nộp về ngân sách Nhà
nước bây giờ được chuyển sang cho đối tượng thụ hưởng khoản đóng góp từ thiện.
Chẳng hạn như, một người có thu nhập từ kinh doanh trước thuế của một năm 360 triệu
đồng (thu nhập bình quân tháng 30 triệu đồng) thực hiện góp quỹ ủng hộ đồng bào lụt 10
triệu đồng. Khi đó, 10 triệu đồng này được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế. Với biểu
thuế như sẽ được trình bày dưới đây, số thuế nhà nước giảm thu khi cho cá nhân này
giảm trừ vào thu nhập tính thuế là 2 triệu đồng. Có thể hiểu trong trường hợp này, coi
như Nhà nước đã sử dụng ngân sách góp vào quỹ ủng hộ đồng bào bão lụt 2 triệu đồng,
còn cá nhân này thực ra chỉ ủng hộ 8 triệu đồng.
Điều chỉnh thuế suất theo hướng giảm thuế suất cao nhất, thấp nhất, và tăng
bậc thuế suất; thống nhất biểu thuế đối với người Việt Nam và người nước
ngoài.
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập thường
xuyên chịu thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần với bốn mức thuế suất, thấp nhất là
10% và cao nhất là 40%. Đối với thuế thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công,
15
Luật thuế TNCN vẫn áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần nhưng mức thuế suất thấp nhất
giảm xuống còn 5% và mức thuế suất cao nhất giảm xuống còn 35% với số lượng bậc
thuế nâng lên thành bảy và áp dụng chung cho cả người Việt Nam và người nước ngoài.
Với biểu thuế mới này, tuy việc tính toán có phức tạp hơn (do tăng số lượng bậc
thuế) nhưng lại đảm bảo công bằng hơn trong điều tiết thu nhập do chênh lệch về thuế
suất giữa các bậc thuế giảm đi. Việc hạ thuế suất cao nhất và thấp nhất xuống thể hiện
tinh thần mở rộng diện đánh thuế nhưng mức độ điều tiết cũng giảm đi, huy động sự
đóng góp của nhiều người nhưng với mức độ vừa phải, thực hiện "góp gió thành bão".
Mặc khác, việc giảm mức thuế suất cao nhất sẽ góp phần khuyến khích người lao động
tích cực lao động và sản xuất, kinh doanh; khuyến khích người dân làm giàu chính đáng.
Đối với các khoản thu nhập còn lại. Luật thuế thu nhập cá nhân quy định biểu thuế
luỹ tiến toàn phần. Ngoài ra, Luật còn quy định thuế suất cụ thể cho từng loại thu nhập áp
dụng đối với cá nhân không cư trú với các mức thuế suất từ 1% đến 10% tính trên toàn
bộ thu nhập phát sinh ở Việt Nam (không được trừ chi phí).
Tóm lại, Luật thuế TNCN vừa được Quốc hội thông qua có nhiều điểm mới, phù
hợp với tiến trình đổi mới quản lý kinh tế của nhà nước, với quá trình hội nhập kinh tế
của đất nước và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội của nước ta hiện nay. Với
việc ban hành Luật thuế quan trọng này, hệ thống thuế của chúng ta đang hướng đến phù
hợp hơn với hệ thống thuế các nước, hướng tới một hệ thống thuế công bằng và hiện đại
hơn.
2.3. Những điểm bất cập trong thuế thu nhập cá nhân
Vẫn nhiều thủ tục rườm rà
Với quá nhiều quy định trong việc kê khai, nộp thuế, người nộp thuế phải tốn rất nhiều
thời gian, công sức để tìm hiểu các thủ tục giấy tờ
Trong việc xác nhận giảm trừ gia cảnh
Có 7 đối tượng được xem xét trong diện phụ thuộc với vô số giấy tờ xác nhận.
Hồ sơ chứng minh người phụ thuộc là ông bà nội, ông bà ngoại; cô, dì, chú, bác,
cậu ruột; anh, chị, em ruột; cháu ruột, các cá nhân khác và nội dung xác nhận của Ủy
ban nhân dân cấp xã đối với trường hợp người phụ thuộc là ông, bà nội, ông, bà ngoại,
cô, dì, chú, bác, cậu ruột, cháu ruột, các cá nhân khác:
- Trường hợp người phụ thuộc cùng hộ khẩu với đối tượng nộp thuế thì không cần xác
nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã mà chỉ cần bản sao hộ khẩu.
- Trường hợp người phụ thuộc không cùng hộ khẩu nhưng đang sống cùng đối tượng
nộp thuế là: bản sao đăng ký tạm trú hoặc bản tự khai ( theo mẫu số 21a/XN- TNCN
trong thông tư 62/2009/TT-BTC ngày 27/03/2009) có xác nhận Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi đối tượng nộp thuế sống về việc người phụ thuộc đang sống cùng.
- Trường hợp người phụ thuộc không sống cùng đối tượng nộp thuế nhưng đối tượng
nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng thì đối tượng nộp thuế tự khai (mẫu 21b/XN-
TNCN theo thông tư 62/2009/TT-BTC ngày 27/03/2009) và đề nghị Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi người phụ thuộc đang sống xác nhận về việc người phụ thuộc hiện đang
sống tại địa phương và không có ai nuôi dưỡng
Hồ sơ chứng minh người phụ thuộc là người tàn tật không có khả năng lao
động:
16
- Trường hợp người tàn tật không có khả năng lao động nhưng không có xác nhận của
cơ quan y tế thì đối tượng nộp thuế tự khai ( theo mẫu số 22/XN- TNCN theo thông tư
62/2009/TT- BTC ngày 27/03/2009) và đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người
phụ thuộc đang sống xác nhận những biểu hiện cụ thể về sự tàn tật của người phụ
thuộc; ví dụ như xác nhận người phụ thuộc bị cụt tay, cụt chân, mù mắt, mắc bệnh
thiểu năng trí tuệ, bị di chứng chất độc màu da cam...
- Trường hợp người phụ thuộc mắc bệnh mà không có khả năng lao động ( như AIDS,
ung thư, suy thận mãn....) có bệnh án của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên thì chỉ cần
bản sao bệnh án mà không cần phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Đối với người lao động làm việc trong các tổ chức kinh tế, các cơ quan hành chính sự
nghiệp có bố, mẹ, vợ (hoặc chồng), con và những người khác thuộc đối tượng được
tính là người phụ thuộc đã khai rõ trong lý lịch thì hồ sơ chứng minh người phụ thuộc
do người lao động tự lựa chọn áp dụng một trong hai cách sau:
Cách 1: Chỉ cần Tờ khai đăng ký người phụ thuộc (mẫu số 16/DDK-TNCN
Thông tư số 84/2008/TT-BTC) có xác nhận của Thủ trưởng đơn vị vào bên trái
Tờ khai. Thủ trưởng đơn vị chỉ chịu trách nhiệm đối với các nội dung sau: họ tên
người phụ thuộc, năm sinh và quan hệ với đối tượng nộp thuế; các nội dung
khác, đối tượng nộp thuế tự khai và chịu trách nhiệm. Trường hợp có sự thay đổi
người phụ thuộc thì đề nghị Thủ trưởng đơn vị xác nhận vào tờ khai điều chỉnh.
Cách 2: Thực hiện theo hướng dẫn tại tiết 3.1.7, điểm 3.1, khoản 3, Mục I, phần
B Thông tư số 84/2008/TT-BTC.
Hồ sơ chứng minh người phụ thuộc trong trường hợp người nộp thuế có con
đang học đại học: ngoài bản sao giấy khai sinh hoặc bản sao hộ khẩu cần có một trong
các chứng từ sau chứng minh con đang theo học Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề:
- Bản photocopy giấy báo nhập học; hoặc
- Bản photocopy hoặc scan thẻ sinh viên; hoặc
- Bản photocopy giấy thông báo nộp học phí của cơ sở đào tạo ( trường); hoặc chứng từ
thu học phí; hoặc
- Một chứng từ khác chứng minh đang học.
Các loại giấy tờ này không phải công chứng hoặc xác nhận của chính quyền
phường xã. Trường hợp các giấy tờ nên trên ghi bằng tiếng nước ngoài thì người nộp
thuế nộp bản photocopy tiếng nước ngoài kèm bản tự dịch ra tiếng Việt (không cần công
chứng hoặc xác nhận của bất cứ cơ quan nào). Người nộp thuế phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm về tính chính xác của bản photocopy và bản dịch
Trong việc khấu trừ thuế TNCN
Để hoàn thuế thu nhập cá nhân cho những người có nhiều nguồn thu nhập khác
nhau phải cần đến rất nhiều thủ tục rườm rà.
Hồ sơ hoàn thuế gồm có:
- Văn bản đề nghị hoàn thuế theo mẫu số 01/HTBT ban hành kèm theo Thông tư số
60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính.
- Bản sao chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu.
17
- Tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân.
- Chứng từ khấu trừ thuế, biên lai thu thuế thu nhập cá nhân.
- Chứng từ xác định tình trạng kết thúc thời gian làm việc như quyết định nghỉ hưu,
quyết định thôi việc, bản thanh lý hợp đồng lao động, bảng kê xác định ngày cư
trú,...(nếu có).
- Giấy uỷ quyền trong trường hợp uỷ quyền khai hoàn thuế (nếu có).
Rất nhiều loại giấy tờ phức tạp, riêng “Tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân”
lại phải kèm theo 3 loại phụ lục nữa.
Như vậy để có thể lấy lại số tiền vốn là của mình (do không thuộc đối tượng nộp
thuế thu nhập nhưng vẫn bị khấu trừ), người dân phải hoàn tất hàng chục loại giấy tờ rắc
rối phức tạp. Rồi gửi hồ sơ đến cơ quan thuế, nếu sai sót còn phải bổ sung, sau đó chờ
quyết định hoàn thuế rồi mới đi kho bạc rút tiền. Người không rành thủ tục có thể phải
thuê người tư vấn, ngoài ra còn chi phí đi lại, cước bưu điện... Quả là quá nhiêu khê, rắc
rối và tốn kém, đến mức hầu như không ai làm, chỉ trừ trường hợp số tiền hoàn thuế
tương đối lớn. Trường hợp này rơi vào những cá nhân có thu nhập thấp, có nguồn thu
nhập khác nhau, làm việc không có hợp đồng lao động, như sinh viên, công nhân xây
dựng, cộng tác viết báo...
Hiện nay, cách quản lý thuế đối với những người có hợp đồng lao động, làm việc
tại một nơi là tương đối hợp lý. Thế nhưng, với người làm việc ở nhiều nơi, không có chỗ
làm việc nhất định thì khá phức tạp. Do chưa rõ họ có thu nhập đến mức chịu thuế hay
không, nhưng để tránh thất thu thuế, Bộ Tài chính quy định cứ mỗi lần nhận thu nhập
trên 500.000 đồng những người này đều bị tạm khấu trừ 10%. Cuối năm, nếu người đó
chưa đến ngưỡng phải nộp thuế (4 triệu đồng/tháng, 48 triệu đồng/năm), lúc này họ phải
đến cơ quan thuế để lấy lại tiền.
Cách tạm khấu trừ này không có lợi cho những người phải nuôi người thân (con,
bố mẹ, vợ/chồng mất sức lao động). Theo Luật thuế thu nhập cá nhân, khi phải nuôi
người thân, người nộp thuế được giảm trừ một khoản tương ứng với 1,6 triệu
đồng/người/tháng. Thế nhưng, họ cũng không được tính phần này vào mà cứ trừ đủ 10%
trong mỗi lần nhận thu nhập trên 500.000 đồng.
Cơ quan thuế giải thích rằng chỉ là tạm thu, cuối năm khi quyết toán sẽ được hoàn
lại. Như vậy, một khoản thu nhập lẽ ra dùng để nuôi dưỡng người thân lại bị “chiếm
dụng”, cuối năm mới được lấy lại với quy trình hoàn thuế phức tạp. Khá nhiều hồ sơ đề
nghị hoàn thuế tại Cục Thuế TP.HCM chỉ có thu nhập ở mức 2,5-4 triệu đồng/tháng, tức
30-50 triệu đồng/năm nhưng vẫn bị khấu trừ thuế.
Với quy trình hoàn thuế khá chặt chẽ như hiện nay, theo một bạn đọc cần 18 chữ
ký để được hoàn thuế, như vậy với 300 hồ sơ hoàn thuế mà Cục Thuế TP.HCM đã giải
quyết trong thời gian qua phải cần đến 5.400 chữ ký, trong đó lãnh đạo Cục Thuế
TP.HCM phải ký 1.800 lần, lãnh đạo phòng thuế thu nhập cá nhân khoảng 3.000 chữ ký.
Hiện có hơn 1.000 hồ sơ đề nghị hoàn thuế và để giải quyết cần đến 18.000 chữ ký.
Trong đó, lãnh đạo cục phải ký tối thiểu 6.000 lần.
Theo quy định, khi tiếp nhận hồ sơ cơ quan thuế phải giải quyết hoàn thuế sau 15
ngày làm việc. Tuy nhiên với số lượng hồ sơ xin hoàn thuế lớn như trên và có khả năng
tăng thêm trong thời gian tới, cơ quan thuế cho biết khó bảo đảm giải quyết cho người
dân đúng hạn
18
Thiệt thòi đối với những người không có hợp đồng lao động, mã số thuế
Với lý do chưa thể quản lý được nên Bộ Tài chính đã đưa ra những quy định
không thuận lợi cho người nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN), nhất là những trường hợp
nơi làm việc không ổn định, không có hợp đồng lao động, làm thời vụ như công nhân xây
dựng, sinh viên...
Quy định khai và tính thuế
Cá nhân có hợp đồng lao
động
Hằng tháng giảm trừ gia cảnh cho bản thân và người
phụ thuộc rồi mới tính thuế TNCN để tạm nộp, cuối
năm quyết toán.
Cá nhân có hợp đồng lao
động và có nơi làm thêm
Tương tự như trên, nhưng phần thu nhập ở nơi làm
thêm chưa được tính để giảm trừ gia cảnh hằng tháng,
vẫn phải tạm nộp thuế 10%, cuối năm quyết toán.
Cá nhân không hợp đồng
lao động, có mã số thuế
Khấu trừ 10% trên thu nhập, cuối năm quyết toán mới
được giảm trừ gia cảnh.
Cá nhân không hợp đồng
lao động, không mã số thuế
Khấu trừ 20% trên thu nhập. Nếu không kê khai và
đăng ký mã số thuế thì không thể giảm trừ gia cảnh và
quyết toán thuế.
Với những người làm thời vụ
Nếu người lao động làm việc trong các hang, cơ sở có hợp đồng lao động từ 3
tháng trở lên thì áp dụng cách tính thuế hàng tháng, cuối năm quyết toán lại. Nhưng
ngược lại nếu có hợp đồng lao động thời vụ dưới 3 tháng hoặc không có hợp đồng lao
động thì cứ thu nhập từ 500.000 đồng trở lên sẽ bị nơi trả lương khấu trừ 10% trên thu
nhập đối với các cá nhân đã có mã số thuế, hoặc khấu trừ 20% trên thu nhập đối với các
cá nhân không có mã số thuế, cuối năm sẽ quyết toán thuế tại cơ quan thuế địa phương
nơi cư trú.
Một viên chức nhà nước có hai người phụ thuộc, được giảm trừ gia cảnh 7,2 triệu
đồng nhưng lương chỉ có 2,5 triệu đồng/tháng nên không phải tạm nộp thuế hằng tháng.
Viên chức này đi làm thêm, thu nhập 4 triệu đồng/tháng. Cộng cả thu nhập trong và ngoài
là 6,5 triệu đồng thì viên chức này cũng chưa phải nộp thuế. Nhưng do quy định của Bộ
Tài chính nên viên chức này vẫn phải nộp thuế cho khoản làm thêm theo mức tạm khấu
trừ 10% trên thu nhập, cuối năm cộng các nguồn thu nhập để quyết toán, dư thì hoàn lại.
Tương tự, những người làm thời vụ, không có hợp đồng lao động thì quanh năm
không được giảm trừ gia cảnh ngay trong tháng, nhận thu nhập trên 500.000 đồng/lần là
phải tạm nộp thuế 10%. Đến cuối năm, những người này phải trở về nơi cư trú để quyết
toán thuế mới được tính giảm trừ. Đây cũng là một trở ngại vì những người này thường
phải làm ăn xa, trong khi thu nhập của họ chưa đến ngưỡng chịu thuế. Tới đây, những
người này phải có thói quen giữ chứng từ khấu trừ thuế để cuối năm đi quyết toán thuế
nếu không muốn bị... mất tiền.
Sẽ đơn giản hơn cho những trường hợp này nếu hằng tháng tổng hợp thu nhập để
tính thuế và được khấu trừ ngay. Nhưng như thế sẽ rối cho cơ quan thuế khi phải kiểm
soát thu nhập của cá nhân có từ nhiều nguồn khác nhau. Cứ tạm trừ, cuối năm cá nhân
phải khai thu nhập từ các nguồn kèm theo chứng từ đã khấu trừ thuế, như thế sẽ dễ dàng
19
hơn cho cơ quan thuế. Khoản nào có chứng từ khấu trừ hợp lệ thì được tính vào, không
thì “bóc ra”, thuế thì đã tạm thu rồi. Khi đó để được giảm trừ gia cảnh, cá nhân phải
chứng minh mình có thu nhập và đã tạm nộp thuế.
Với những người không có mã số thuế
Nhưng căng nhất là trường hợp làm việc không cố định, không có hợp đồng lao
động nhưng cũng không đăng ký mã số thuế thì cứ mỗi lần nhận thu nhập, cá nhân sẽ bị
khấu trừ thuế tới 20%. Sinh viên B đi làm thêm được 1 triệu đồng/tháng (12 triệu
đồng/năm) nhưng không đăng ký để có mã số thuế, mỗi lần nhận lương bị trừ 200.000
đồng (2,4 triệu đồng/năm). Nếu sinh viên này vẫn không đăng ký để có mã số thuế thì
khó quyết toán thuế, cũng không được giảm trừ gia cảnh nên số tiền tạm trừ 20% (2,4
triệu đồng) không được hoàn lại. Nếu có mã số thuế, s inh viên này được giảm trừ gia
cảnh và không phải nộp thuế, vì chỉ riêng khoản giảm trừ gia cảnh cho bản thân đã lên
đến 48 triệu đồng/năm trong khi thu nhập chỉ 12 triệu đồng/năm.
Theo các chuyên gia thuế, quy định này nhằm buộc cá nhân phải đăng ký mã số
thuế, qua đó cơ quan thuế sẽ quản lý được cá nhân nộp thuế. Tuy nhiên, rơi vào trường
hợp này phần lớn là người có thu nhập thấp như công nhân xây dựng, sinh viên làm
thêm... làm việc xa nhà, do hoàn cảnh nên không có điều kiện quyết toán thuế và có tâm
lý ngại đụng chạm đến giấy tờ...
Ai cũng biết rằng thường những người làm công ăn lương không được ký hợp
đồng lao động là những người có công ăn việc làm không ổn định hoặc những người phải
làm thêm công việc bán thời gian để kiếm sống như giới công nhân ngành xây dựng, giới
sinh viên làm thêm, những người lao động làm các công việc không cần tay nghề cao...
và dĩ nhiên là lương thấp. Điều phi lý là những người phải bán sức lao động này đa số là
người ít chữ nghĩa, lao động nhập cư, nay phải về nơi cư trú để mà đăng ký mã số thuế
nếu không muốn bị tạm khấu trừ thuế đến 20% thu nhập và cuối năm phải tự mình kê
khai quyết toán thuế để được hoàn thuế, trong khi đó những người có hợp đồng lao động
lại được các công ty lo hết từ đăng ký mã số thuế đến quyết toán thuế (nếu mức lương
phải đóng thuế). Mười phần trăm lương đối với người lao động hằng ngày phải trực tiếp
dầm mưa dãi nắng không nhỏ chút nào.
Một người bạn từng đi phát lương cho các công nhân ở các công trường xây dựng
phải kêu lên rằng: thậm chí có rất nhiều công nhân chữ ký còn không biết ký thế nào, nay
phải đi đăng ký mã số thuế rồi cuối năm phải đi quyết toán thuế mong được hoàn thuế
với những cán bộ thuế chuyên nghề hạch sách thì khổ cho họ quá. Phải chăng nhà nước
mở đường cho một loại hình tham nhũng mới cho cán bộ thuế?
Hiện giờ các công ty xây dựng cũng đang rối lên vì thông tin tạm khấu trừ thuế
10% đối với các tổ đội thầu khoán cho các công trình hoặc có nên ký hợp đồng với các
công nhân xây dựng hay không?
Đối với các tổ đội thầu khoán nếu công ty chịu luôn khoản 10% thuế thì sẽ bị đội
chi phí công trình vì chỉ có người lao động mới được hoàn thuế, còn nếu trừ thẳng 10%
(khi đăng ký mã số thuế cho tổ trưởng, đội trưởng) thì sẽ thiếu hụt nhân lực vì chắc chắn
rằng, một là, các tổ đội đó trừ thẳng lại những người lao động trực tiếp, hai là, cả tổ
không làm nữa. Vì với tư cách là một đội thầu khoán không có tư cách pháp nhân mà lại
bị nhà nước giam 10% thuế để cuối năm phải làm hồ sơ thống kê lại phát lương cho anh
A tháng này bao nhiêu, anh B tháng nọ bao nhiêu, thu nhập thực còn lại là bao nhiêu để
xin hoàn thuế, thì khả năng có lẽ không mấy người làm được. Nếu có làm được chắc
cũng phải tìm cách làm cho xong chuyện.
20
Đối với các công nhân lao động phổ thông, đứng trên phương diện kinh doanh,
các ông chủ cũng tính toán sao cho có lợi, nếu ký hợp đồng lao động cho công nhân thì
phải chịu thêm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tới đây sẽ là bảo hiểm thất nghiệp (cộng
là là 18% lương). Còn không ký hợp đồng lao động thì chỉ có nước khấu trừ thuế vào
lương 10% hoặc 20% vì thử hỏi sẽ có bao nhiêu người công nhân có được mã số thuế.
Nhưng đối với người lao động có thu nhập thấp thì họ sẽ bị sốc vì thu nhập trước mắt bị
sụt giảm, nếu bị trừ nhiều quá chỉ còn cách kiếm công việc khác. Nếu công ty không chịu
phần thuế này hoặc không tăng lương thì sẽ mất lao động, ngược lại chịu thuế thì chi phí
sẽ đội lên.
Không riêng gì công ty ngành xây dựng, các công ty của các ngành khác có thuê
mướn lao động thời vụ hay khoán gọn như may mặc, giày da... cũng sẽ phải đối mặt với
bài toán thuế này. Phải chăng khi ra chính sách thuế này, nhà nước muốn ép buộc các
công ty, xí nghiệp phải ký hợp đồng lao động cho mọi người lao động? Nhưng liệu rằng
có ép được họ chăng khi mà với một rừng luật như hiện nay, nhưng khi triển khai thì
chồng chéo, k hông cơ quan nào chịu trách nhiệm, các công ty xí nghiệp mặc sức lách
luật. Và hậu quả mà Luật thuế này gây ra có thể thấy được mà những người làm công ăn
lương phải gánh chịu.
Thiếu công cụ quản lý thu nhập
Phương pháp quản lý và thu thuế TNCN mà thông tư của Bộ Tài chính đề ra vẫn
còn nhiều bất cập. Lý do đơn giản nhất là thiếu công cụ quản lý được thu nhập - điều kiện
cơ bản nhất để thu đúng, thu đủ.
So với các đối tượng khác, cá nhân có thu nhập từ tiền công, tiền lương là đối
tượng sẽ phải nộp thuế vì ngành thuế theo sát các cơ quan chi trả thu nhập. Tuy nhiên, cá
nhân hành nghề tự do, cá nhân có thu nhập từ nhiều nơi - nhóm đối tượng có thu nhập
cao ngất - lại trốn thuế. Ví dụ, các ca sĩ nổi tiếng thường có thu nhập từ ba nguồn chính:
Một là đóng quảng cáo; hai là hát tại các phòng trà, sân khấu, sự kiện...; ba là các chương
trình biểu diễn nước ngoài rất khó cho cơ quan thuế xác định chính xác thu nhập của họ
ngoài việc tự các cá nhân này tự kê khai thu nhập của chính mình.
Thực tế cho thấy, với thu nhập từ đóng phim quảng cáo, các ca sĩ vẫn bị nộp thuế
vì đơn vị chi trả thực hiện khấu trừ tại nguồn rất nghiêm túc. Còn thu nhập từ phòng trà
thì ngành thuế không thể nắm được bởi thuế áp dụng với các phòng trà hiện nay là thuế
khoán, các phòng trà luôn kê khai mức cát-sê chi trả cho các ca sĩ thấp (để nộp thuế ít);
trong khi trên thực tế, mức cát-sê luôn cao vì yếu tố cạnh tranh.
Thêm nữa, tần suất biểu diễn nước ngoài của các ca sĩ khá dày nhưng đã nhiều
năm rồi, cơ quan thuế không thu được đồng nào từ các khoản thu nhập này bởi chỉ biết
trông chờ vào sự tự giác của các ca sĩ. Thế mới có chuyện 144 nghệ sĩ ở TPHCM một
năm chỉ đóng thuế TNCN hơn 800 triệu đồng; còn một cá nhân làm trong ngành dược
(cũng ở TPHCM) nộp thuế đến 4,83 tỉ đồng/năm! Tương tự là nhóm cá nhân hành nghề
độc lập có thu nhập cao như bác sĩ, giảng viên thỉnh giảng, luật sư, kiến trúc sư... Thế
nên, hễ ai tự giác khai thu nhập thì người đó bị thiệt.
Phạm vi giảm trừ còn hẹp
Về đối tượng giảm trừ gia cảnh nếu chỉ tính là người phụ thuộc là chưa bao quát,
chưa đủ. Ở một số nước, ngoài giảm trừ gia cảnh còn giảm trừ nghề nghiệp và giảm trừ
theo lý do sức khỏe.
21
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Nên nâng mức khởi điểm khấu trừ
Để giảm bớt rắc rối cho người lao động có thu nhập ở nhiều nơi, nên nâng mức
khởi điểm khấu trừ 10% khi nhận thu nhập lên 1 triệu đồng, thay vì 500.000 đồng/lần
như hiện nay. Mức khấu trừ cao hơn sẽ hạn chế tối đa tình trạng khấu trừ thuế của cả
người có thu nhập thấp.
Với trường hợp ở đơn vị chỉ có người nộp thừa thì đơn vị chi trả ứng trước tiền để
hoàn thuế cho người lao động và quyết toán sau với cơ quan thuế. Ngược lại chỉ có người
nộp thiếu thì khấu trừ số thuế thiếu và nộp vào ngân sách.
Nếu số thuế của người nộp thừa lớn hơn thuế của người nộp thiếu thì đơn vị chi trả
thu nhập khấu trừ thuế của người nộp thiếu, đồng thời ứng trước số tiền phải hoàn thuế từ
ngân sách nhà nước để hoàn trả cho người nộp thừa. Ngược lại thì khấu trừ số thuế nộp
thiếu để trả cho người nộp thừa, số thuế còn lại nộp vào ngân sách.
Trường hợp số thuế của người lao động nộp thừa bằng với tổng số thuế của người
nộp thiếu thì tổ chức chi trả thu nhập khấu trừ số thuế của người nộp thiếu để trả cho
người nộp thừa.
Thời hạn hoàn thuế là năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ quyết toán
thuế của cơ quan chi trả thu nhập.
Thời gian qua do chưa được phép bù trừ nên trường hợp người lao động đã tạm
nộp dư cơ quan chi trả chỉ cấp chứng từ khấu trừ và người lao động phải tự liên hệ với cơ
quan thuế để làm thủ tục hoàn thuế
3.2. Mở rộng diện giảm trừ
Về đối tượng giảm trừ gia cảnh, nếu chỉ tính là người phụ thuộc thì chưa bao quát,
chưa đủ. Luật thuế TNCN nên mở rộng hơn các đối tượng giảm trừ khác, như giảm trừ
theo nghề nghiệp, giảm trừ theo lý do sức khỏe.
3.3. Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt
Để Luật Thuế thu nhập cá nhân thực sự đi vào cuộc sống thì phải nhanh chóng xây
dựng chế độ thanh toán không dùng tiền mặt trong tất cả các loại giao dịch của nền kinh
tế - xã hội.
Đó là việc xây dựng cơ sở dữ liệu đối tượng nộp thuế theo cơ chế thanh toán qua
ngân hàng cho các loại thu nhập chịu thuế. Trong đó cần có sự hỗ trợ của hệ thống tài
chính - ngân hàng nhà nước cũng như ngân hàng thương mại trong việc kiểm soát mã tài
khoản của từng cá nhân, đồng thời sớm xây dựng thí điểm chương trình quản lý thuế thu
nhập cá nhân bằng máy vi tính, thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu, phần mềm trợ giúp.
Có như thế, mọi thu nhập chịu thuế của đối tượng nộp mới nằm trong “tầm ngắm” của cơ
quan thuế, khi đó các nguồn thu nhập sẽ nhanh chóng được điều tiết và chống thất thu
cho ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, các vấn đề về quản lý thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công của
người lao động cũng cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ từ các cơ quan chức năng, trong đó
22
đặc biệt là việc xử lý hoặc truy tố hình sự thật nghiêm khắc đối với hành vi trốn thuế,
không khấu trừ thuế tại nguồn, không đăng ký kê khai thuế…
Bởi lâu nay, các vụ việc vi phạm thuế thu nhập cá nhân chưa được xử lý triệt để,
thích đáng và số vụ án trốn thuế được đưa ra xét xử cũng không nhiều, nên không tạo
được tính răn đe, cũng như nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ nộp thuế của mọi công
dân sống và làm việc trong cộng đồng.
3.4. Khấu trừ tại nguồn
Khấu trừ tại nguồn cũng là một giải pháp. Theo ông Nguyễn Thái Sơn - Trưởng
phòng Thuế thu nhập cá nhân : “Chìa khoá của sự thành công trong việc quản lý và thu
thuế thu nhập cá nhân là công tác khấu trừ tại nguồn. Do vậy, ở một số nơi như Nhật
Bản, Đài Loan, Trung Quốc, cơ quan quản lý thuế sẽ xử phạt rất nặng đối với những đơn
vị nào không thực hiện khấu trừ tại nguồn khi chi trả thu nhập cho người lao động…”.
Ở Nhật Bản, số thu thuế thu nhập cá nhân hằng năm chiếm hơn 30% tổng số thu thuế nội
địa, và có đến 82% trên tổng số thu là được khấu trừ tại nguồn. Kinh nghiệm quản lý thuế
thu nhập cá nhân từ đất nước mặt trời mọc này cho thấy, tất cả các nguồn thu nhập của
đối tượng nộp thuế đều được chi trả qua hệ thống ngân hàng, từ hệ thống này dữ liệu sẽ
được nhập bằng máy tự động (OCR) rồi truyền về ngân hàng nhà nước.Tại ngân hàng
trung ương, các thông tin về thu nhập của người nộp thuế sẽ được giám sát bằng hệ thống
(KSK) quản lý thông tin về thuế. Khi đó, cơ quan thuế chỉ việc “nhấp chuột” vào hệ
thống này để kiểm tra, giám sát và thu thuế.
3.5. Quản lý bằng kỹ thuật số
Việc quản lý bằng kỹ thuật số và quản lý mã số thuế cá nhân giúp cho công tác
thống kê, tổng hợp, phân tích được nhanh chóng và hiệu quả.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật thuế thu nhập cá nhân ngày 21/11/2007.
2. Nghị định của Chính Phủ số 100/NĐ-CP ngày 08/09/2008 quy định chi tiết một
số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân.
3. Thông tư 84/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều Luật thuế thu nhập
cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định 100/NĐ-CP ngày 08/09/2008.
4. Thông tư 160/2009/TT-BTC ngày 12/08/2009.
5. Quản lý ngân sách nhà nước _ PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
6. TS. Lê Xuân Trường _ Tạp chí kiểm toán (Tapchikiemtoan.com).
7. Luật thuế thu nhập cá nhân, cách đăng ký mã số thuế, giảm trừ gia
cảnh_www.tuoitre.vn
8. Miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân: Cả người hưởng lương và hộ kinh doanh
điều có lợi_www.thuvienphapluat.vn
9. Tìm hiểu vai trò của thuế thu nhập cá nhân_www. Thuethaibinh.gov.vn
10.www.google.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_7_tac_dong_cua_thue_tncn_doi_voi_nguoi_lam_cong_an_luong_5798.pdf