Tiểu luận Tài nguyên biển đối với sự phát triển

PHẦN MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài: Đại dương thế giới là cái nôi của sự sống trên Trái đất, là một kho dự trữ tài nguyên khổng lồ, nhưng vẫn có giới hạn trong phạm vi “năng lực tải” của nó. Đại dương có rất nhiều chức năng quan trọng: điều tiết khí hậu toàn cầu, nơi nghỉ ngơi du lịch của con người, nguồn cung cấp protit cho con người, cung cấp nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, là đường giao thông giá rẻ Tuy vậy, sự tăng nhanh của dân số kèm theo đó là các nhu cầu sinh hoạt ngày càng gia tăng, sự phát triển của các quốc gia trên thế giới nói chung và sự phát triển của con người trên vùng đất ven biển, hải đảo đã kéo theo nhu cầu gia tăng sử dụng tài nguyên biển, đồng nghĩa với sự gia tăng sức ép lên môi trường biển và tài nguyên biển. Trong quá trình khai thác và sử dụng các loại tài nguyên biển, con người đã làm cho nguồn tài nguyên thay đổi về quy mô, số lượng, chủng loại, làm cho môi trường biển ngày càng biến đổi chất lượng và có dấu hiệu suy thoái. Và trên thực tế, những thất bại và thiệt hại đó, con người đã phải nếm trải. Chính vì vậy, chúng em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”, để tìm hiểu về thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm bảo tồn môi trường và tài nguyên biển, duy trì cuộc sống ổn định cho con người cùng với sự phát triển bền vững. Với sự cố gắng thực sự khi nghiên cứu đề tài này nhưng không thể tránh khỏi thiếu sót, chúng em rất mong được sự đánh giá, góp ý của cô giáo để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. II. Mục tiêu nghiên cứu: - Mục tiêu chung: Các loại tài nguyên biển nói chung. - Mục tiêu cụ thể: Các loại tài nguyên biển trên thế giới và ở Việt Nam: sản lượng, trữ lượng, tình hình khai thác, sử dụng đối với sự phát triển của loài người. Từ đó đưa ra các đề xuất giải pháp. III. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá lý thuyết, . IV. Phạm vi nghiên cứu: - Không gian: trên thế giới và ở Việt Nam. - Thời gian: từ năm 1950 trở lại đây.

doc30 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8503 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tài nguyên biển đối với sự phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài: Đại dương thế giới là cái nôi của sự sống trên Trái đất, là một kho dự trữ tài nguyên khổng lồ, nhưng vẫn có giới hạn trong phạm vi “năng lực tải” của nó. Đại dương có rất nhiều chức năng quan trọng: điều tiết khí hậu toàn cầu, nơi nghỉ ngơi du lịch của con người, nguồn cung cấp protit cho con người, cung cấp nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, là đường giao thông giá rẻ… Tuy vậy, sự tăng nhanh của dân số kèm theo đó là các nhu cầu sinh hoạt ngày càng gia tăng, sự phát triển của các quốc gia trên thế giới nói chung và sự phát triển của con người trên vùng đất ven biển, hải đảo đã kéo theo nhu cầu gia tăng sử dụng tài nguyên biển, đồng nghĩa với sự gia tăng sức ép lên môi trường biển và tài nguyên biển. Trong quá trình khai thác và sử dụng các loại tài nguyên biển, con người đã làm cho nguồn tài nguyên thay đổi về quy mô, số lượng, chủng loại, làm cho môi trường biển ngày càng biến đổi chất lượng và có dấu hiệu suy thoái. Và trên thực tế, những thất bại và thiệt hại đó, con người đã phải nếm trải. Chính vì vậy, chúng em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Tài nguyên biển đối với sự phát triển”, để tìm hiểu về thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm bảo tồn môi trường và tài nguyên biển, duy trì cuộc sống ổn định cho con người cùng với sự phát triển bền vững. Với sự cố gắng thực sự khi nghiên cứu đề tài này nhưng không thể tránh khỏi thiếu sót, chúng em rất mong được sự đánh giá, góp ý của cô giáo để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. II. Mục tiêu nghiên cứu: - Mục tiêu chung: Các loại tài nguyên biển nói chung. - Mục tiêu cụ thể: Các loại tài nguyên biển trên thế giới và ở Việt Nam: sản lượng, trữ lượng, tình hình khai thác, sử dụng đối với sự phát triển của loài người. Từ đó đưa ra các đề xuất giải pháp. III. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá lý thuyết,... IV. Phạm vi nghiên cứu: - Không gian: trên thế giới và ở Việt Nam. - Thời gian: từ năm 1950 trở lại đây. PHẦN NỘI DUNG I. Lý luận liên quan: 1.1. Khái niệm tài nguyên biển: Tài nguyên biển là một bộ phận của tài nguyên thiên nhiên, hình thành và phân bố trong khối nước biển (và đại dương), trên bề mặt đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển. 1.2. Phân loại tài nguyên biển: 1.2.1. Tài nguyên sinh học biển: Bao gồm các dạng: rong cỏ biển, cá, thân mềm, động vật lớn biển dùng trong các lĩnh vực y tế, may mặc, hóa học, mỹ phẩm, dược phẩm, nông nghiệp, giấy, trang sức. Chúng tồn tại do đánh bắt và nuôi trồng nhân tạo. 1.2.2. Tài nguyên khoáng vật và hóa học biển: Bao gồm các dạng: (Năng lượng) dầu, khí đốt, than, băng cháy; (Kim loại cứng) sắt, thủy ngân, đồng, nhôm, niken, vàng, bạc, platin, Magnetit, Ilmenit,..; (Hóa học) Cl, Na, S, Ca, K, Br.. dùng cho sản xuất muối ăn, Mn dùng cho các lĩnh vực may mặc xây dựng, dược phẩm, nông nghiệp; (nước ngọt) chế nước biển – thành nước ngọt.. 1.2.3. Tài nguyên năng lượng biển: Bao gồm các dạng: thủy triều, dòng chảy, sinh khối, sóng, gradient muối, gradient nhiệt, gió và bức xạ mặt trời ngoài khơi. 1.2.4. Tài nguyên hàng hải và thông tin liên lạc biển: Bao gồm: Các đường hàng hải và cảng biển, tầu biển, các tuyến đường máy bay trên biển, các cáp quang thông tin liên lạc dưới đáy biển. 1.2.5. Tài nguyên: “dân cư ven biển và hải đảo”: Biển, đại dương – “cái nôi” điều tiết di cư dân số, các nền văn minh biển, khảo cổ và các bảo tàng biển, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, bãi biển, công viên đại dương. 1.2.6. Tài nguyên nhân tạo biển (tài nguyên vị thế biển): Thành phố - đảo, nhà máy, sân bay, khu nghỉ dưỡng ngoài khơi trên biển, vị trí địa lý biển đảo. 1.3. Vai trò của tài nguyên biển: - Điều hòa khí hậu toàn cầu. - Nhiều sinh vật biển được sử dụng trong các lĩnh vực y tế, may mặc, hóa học, mỹ phẩm, dược phẩm, nông nghiệp, giấy, trang sức. - Tiềm năng để phát triển nuôi trồng hải sản. - Cung cấp các nguồn năng lượng quý giá (điện… ) - Phát triển giao lưu quốc tế bằng đường biển. - Tài nguyên biển là một loại tài nguyên quan trọng để rút ngắn khoảng thời gian tích lũy vốn bằng việc khai thác dầu khí hay các hải sản để xuất khẩu bán ra nước ngoài tạo nguồn tích lũy vốn ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa của đất nước. - Biển còn là nơi nghỉ ngơi, du lịch lý tưởng. II. Thực trạng tài nguyên biển: 2.1. Thực trạng tài nguyên biển trên thế giới: 2.1.1. Thực trạng tài nguyên sinh học biển: Ước tính có khoảng 200 tỷ tấn sinh vật sống trong biển và đại dương, bao gồm cả 3 nhóm: sinh vật đáy, bơi lội và trôi nổi. Đây là nguồn tài nguyên tái tạo rất lớn, nguồn dự trữ thực phẩm quan trọng cho loài người trong tương lai. Chỉ tính riêng động vật biển đã có 32,5 tỷ tấn, trong khi toàn bộ động vật trên lục địa chưa đến 10 tỷ tấn. Theo dự tính, sinh vật biển mỗi năm có thể sản xuất ra 134 tỷ tấn chất hữu cơ. Trong điều kiện nguồn lợi không bị hủy hoại thì mỗi năm biển có thể cung cấp 3 tỷ tấn hải sản. Theo WWF (1997), cá và các loài động vật biển cung cấp 14% lượng chất đạm động vật trên toàn thế giới. Theo CBD/UNEP (2001), ngành hải sản đã cung cấp nguồn protein tự nhiên lớn nhất và có tầm quan trọng đặc biệt đối với sinh kế của nhiều cộng đồng trên thế giới. Từ năm 1970 trở lại đây, nguồn tài nguyên sinh vật biển của thế giới được coi là hữu hạn, đặc biệt là những loại có ý nghĩa kinh tế. Nhiều loài bị khai thác quá mức, vượt quá khả năng tái tạo của chúng, một số có nguy cơ tiệt chủng. So sánh với sản lượng khai thác hàng năm ở nước ngọt thì ở biển và đại dương luôn vượt hơn khoảng 50 lần. Nhịp độ khai thác tăng dần theo thời gian, thể hiện ở bảng sau: Năm Nước mặn (triệu tấn) Nước ngọt (triệu tấn) 1950 17,6 3,2 1989 75 13,5 1990 90 25,5 2002 112 32,4 Tính toán trong vòng 50 năm cho thấy, tổng sản lượng đánh bắt cá trên thế giới tăng 5 lần nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ. Hiện nay , tổng sản lượng đánh bắt cá tập trung ở 6 nước: Nhật, Nga, Trung Quốc, NaUy, Peeeerru và Mỹ, chiếm khoảng 80% sản lượng toàn thế giới. 2.1.2. Thực trạng tài nguyên khoáng vật và hóa học biển: Tính toán trữ lượng hydrocacbon trong đại dương thế giới trên cơ sở xác định khối lượng của các tầng trầm tích chỉ ra rằng trong đại dương tiềm chứa khoảng trên 65% toàn bộ tầng chứa dầu tiềm năng của Trái đất, trong đó ở rìa ngầm các lục địa chứa gần 38%. Theo tính toán của Cơ quan nghiên cứu Dầu mỏ Pháp, trữ lượng dầu mỏ có thể khai thác được ở mức ngưỡng đạt tới 300 tỷ tấn, trong đó dầu mỏ đại dương chiếm khoảng trên 135 tỷ tấn. Từ những năm 1970 đến nay, mỗi năm thế giới có thêm 1,5 tỷ tấn trữ lượng dầu mỏ, và 10 năm gần đây, lượng dầu mỏ khai thác được trong khoảng 2,6 đến 3,1 tỷ tấn. Tập đoàn dầu khí BP(Anh) vừa công bố số liệu về tình hình năng lượng thế giới, theo đó trữ lượng dầu mỏ được phát hiện trên thế giới năm 2009 đã tăng 0,05% so với năm 2008, từ 1332 tỷ thùng lên 1333 tỷ thùng do phát hiện thêm các nguồn mới tại Arap Xeut và Indonesia. Theo đánh giá của OPEC trữ lượng dầu của Iraq đã tăng 24% so với con số 115 tỷ thùng trong thập niên 70 của thế kỷ trước và chỉ đứng sau Arap Xeut và Vênezuela. Hiện Arap Xeut là quốc gia đứng đầu về trữ lượng dầu mỏ với 264,5 tỷ thùng. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua cũng xảy nhiều vụ tràn dầu gây ô nhiễm nghiêm trọng. Vụ tràn dầu ngoài biển Timor, nổi tiếng với tên gọi vụ Montara, xảy ra từ ngày 21-8 đến 3-11-2009, là vụ tràn dầu tồi tệ nhất trong lịch sử ở khu vực biển ngoài khơi Úc, dù nhỏ hơn so với vụ BP ở vịnh Mexico. Giàn khoan West Atlas ở khu vực Montara, nằm cách bờ biển Úc khoảng 200km, đã bốc cháy vào ngày 21-8, dẫn tới tràn dầu với trung bình mỗi ngày 400 thùng đổ ra biển suốt 74 ngày liên tiếp. Hình ảnh: vụ tràn dầu ngoài biển Timor (vụ Montara) Tổ chức Bảo vệ Tây Timor, một hiệp hội nghề nghiệp hỗ trợ các ngư dân nghèo ở đông Indonesia, ước tính vụ tràn dầu làm ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất của 18.000 ngư dân, trong đó nghiêm trọng nhất là các nghề nuôi trồng thủy sản, nuôi ngọc trai và rong biển. 2.1.3. Thực trạng tài nguyên năng lượng biển: Trên thế giới hiện nay, năng lượng tái tạo ngoài biển đã trở thành nguồn năng lượng mới quan trọng. Ở Anh, tuabin dòng thủy triều, đập thủy triều, thiết bị khai thác năng lượng sóng và tuabin gió ngoài khơi, phương án nào cũng có thể cung cấp không dưới 20% nhu cầu điện năng của cả nước. Đến nay 100MW công suất nguồn đã được lắp đặt tại Liên hiệp châu Âu. Trong đó công trình lớn nhất từ xưa đến nay là dự án Horns Rev trải dài ngoài khơi cách bờ biển Đan Mạch từ 14 đến 20km, với 80 tuabin công suất 2MW. Năng lượng thủy triều của toàn thế giới ước tính chừng 3 tỷ KW, lượng phát điện hàng năm có thể đạt 1.200 tỷ độ. Con người đã luôn nghĩ cách làm thế nào để tận dụng được nguồn năng lượng khổng lồ này bằng cách xây các nhà máy điện Thủy triều công suất lớn. Hình ảnh: Nhà máy điện thủy triều tại Hàn Quốc. 2.1.4. Thực trạng tài nguyên hàng hải và thông tin liên lạc biển: Các chuyến vận chuyển bằng đường biển chiếm khoảng 40% còn lại là đường bộ, sắt và hàng không là 60%. Năm 1869 khai thông kênh Suê, 1895 kênh Kiel thúc đẩy vận tải biển phát triển mạnh mẽ. Đầu thế kỷ 20 hàng nguyên liệu công nghiệp chiếm 2/3 khối lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. Sau chiến tranh thế giới lần II, vận tải biển và thương mại thế giới phát triển không ngừng. Tốc độ vận chuyển hàng hóa qua đường biển tăng liên tục khoảng 150.000 lần từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20. Đối với tàu chở dầu và chở hàng đạt mức siêu hạng > 50.000 tấn. Với xu thế hiện nay thì vận tải hành khách tàu biển chiếm 2% tổng lượng hành khách đi bằng các phương tiện giao thông. 2.1.5. Thực trạng các dạng tài nguyên biển khác: Khí hậu biển thường ôn hòa, không khí bờ biển trong lành do chứa một lượng lớn anion – một loại vitamin không khí. Khi hít thở các anion này đi vào cơ thể cải thiện hoạt động của phổi, tăng khả năng hấp thụ khí oxi. Ngoài ra, nước biển xanh trong và là một dung dịch muối tổng hợp rất tốt cho loại hình du lịch nghỉ dưỡng, nhiều eo vụng sóng biển yên lặng thuận lợi cho du ngoạn. Vì vậy, các thiên đường nghỉ dưỡng, công viên đại dương… mọc lên khắp các bờ biển của các nước theo nhu cầu nghỉ ngơi ngày tăng của con người. Ví dụ như Montego là 1 trong những thành phố hiện đại nhất vùng Caribbean. Nơi đây, có dãy đá ngầm trải dài bao quanh vùng vịnh, nước trong xanh, quanh cảnh tuyệt diệu. Hình ảnh: Bờ biển Montego, Jamaica. 2.2. Thực trạng tài nguyên biển tại Việt Nam: 2.2.1. Thực trạng tài nguyên sinh học biển Việt Nam: Trong vùng biển nước ta, đến nay đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Các loài sinh vật đó thuộc về 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có 3 vùng biển: Móng Cái- Đồ Sơn, Hải Vân- Đại Lãnh và Đại Lãnh- Vũng Tàu có mức độ đa dạng sinh học cao hơn các vùng khác. Trong tổng số loài được phát hiện có khoảng 6.000 loài động vật đáy; 2.038 loài cá (trong đó có hơn 100 loài cá kinh tế); 653 loài rong biển; 657 loài động vật phù du; 537 loài thực vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 12 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước. Được biết, trên diện tích gần 1.200 km2 rạn san hô, có tới hơn 300 loài san hô đá phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam. Sống gắn bó với các hệ sinh thái này là trên 4.000 loài sinh vật sống dưới đáy và cá, trong đó có trên 400 loài cá, rạn san hô cùng nhiều đặc hải sản.  a) Rừng ngập mặn: Trước đây rừng ngập mặn nước ta có diện tích khá lớn 400.000 ha, tập trung ở Nam bộ 250.000 ha, nhất là bán đảo Cà Mau, nay diện tích bị thu hẹp chỉ còn khoàng 252.500 ha chủ yếu là rừng thứ sinh, rừng trồng, rừng cây bụi. Rừng ngập mặn ở phía Bắc thường nghèo nàn nhưng ở Nam bộ được thừa hưởng nền nhiệt độ cao và những điều kiện thuận lợi khác “đe, hè” chắn sóng, chống lại sự bào mòn của biển đối với lục địa, đồng thời còng là công cụ của đất liền tiến chiếm đại dương. b, Hải sản: Theo sự phân bố của các vật thể hữu cơ trong biển thì biển Việt Nam có mật độ cá vào loại trug bình trên thế giới và có đủ các loại hải sản chủ yếu của các biển nhiệt đới khác. Trữ lượng đánh bắt khoảng 3 – 3,5 triệu tấn, có giá trị kinh tế cao nhưng chưa được khai thác đúng mức, chỉ mới đạt 60% mức có thể khai thác được hàng năm. * Cá biển: Theo đánh giá sơ bộ có khoảng trên 2000 loài cá trong đó có khoảng trên 100 loài có giá trị kinh tế cao (cá thu, cá trích, ngừ, bạc má,…). Có đủ các loại cá nổi, cá tầng giữa và cá tầng đáy. Nhưng nhiều hơn cả là cá nổi chiếm 63% tổng trữ lượng cá biển. Trữ lượng cá biển nước ta đạt khoảng 3 triệu tấn, cho phép khai thác hàng năm từ 1,2 - 1,4 triệu tấn, trong đó gần 50% sản lượng phân bố ở vùng biển Nam Bộ. Khả năng khai thác tốt nhất là ở độ sâu : 21 - 50 mét chiếm 58% khả năng khai thác toàn vùng biển. Khu vực có độ sâu từ 51 - 100 mét chiếm 24%. Khu vực ven bờ từ 20 mét nước trở vào chiếm 18%. Mức khai thác hiện nay đối với hải sản biển đã đến giới hạn cho phép, cần có biện pháp hạn chế. * Giáp xác, nhuyễn thể: Biển nước ta có 1647 loại giáp xác trong đó có 70 loài tôm, có những loài có giá trị xuất khẩu cao, như tôm he, tôm hùm, tôm sú. Nhuyễn thể có hơn 2.500 loài. Ngoài ra còn nhiều đặc sản như hải sâm, bào ngư, sò, điệp,… + Tôm: Tôm là loại đặc sản có tiềm năng khai thác lớn và có giá trị kinh tế cao, là nguồn hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta hiện nay. Tôm phân bố rộng khắp ở khu vực gần bờ từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu. Khả năng khai thác tôm biển khá lớn, trong đó trên 70% ở viên biển Nam Bộ. + Mực: Khả năng khai thác mực là 30 - 40 ngàn tấn/năm và tập trung nhiều ở vùng biển Trung bộ (45 - 50%). Đây là nguồn tài nguyên có giá trị, mở ra triển vọng lớn cho việc khai thác và chế biến xuất khẩu trong tương lai. * Rong, tảo biển: Dọc bở biển nước ta, từ vùng trên triều đến vùng dưới triều đều có những thuận lợi cho đời sống của nhiều loài tảo bám. Đến nay, theo số liệu thống kê (1994 - Nguyễn Văn Tiến) trong vùng nước ven bờ đã phát hiện được 653 loài rong biển, 24 biến loài, 20 dạng, trong đó ở miền Bắc có trên 300 loài, ở miền Nam trên 500 loài. Trong chúng, 90 loài (14%) là những đối tượng kinh tế quan trọng cho các ngành công nghiệp hoá chất dược liệu, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, phân bón. Các loài rong câu thường có giá trị bậc nhất. Hiện nay, rong biển được trồng khá nhiều trong các đầm nước lợ. c, Ngư trường và thực trạng khai thác hải sản: Các nguồn lợi cá, tôm, mực… tập trung ở những vùng biển nhất định gọi là ngư trường. Nước ta có 15 ngư trường trong đó 12 ngư trường ở ven biển và 2 ngư trường ngoài khơi. Có 4 ngư trường trọng điểm được xác định là : Ngư trường Minh Hải - Kiên Giang; ngư trường Ninh Thuận - Bình Thuận , Bà Rịa - Vũng Tàu; ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh và ngư trường quần đảo Trường Sa - Hoàng Sa. Hình ảnh: Ngư trường quần đảo Hoàng Sa. Việc khai thác hải sản hiện nay tập trung ở các ngư trường lớn, đặc biệt là ngư trường Đông Nam Bộ, thể hiện ở bảng sau: Vùng Khả năng khai thác cho phép (nghìn tấn/năm) Thực trạng khai thác (nghìn tấn/năm) Vịnh Bắc Bộ 325 114 Ven biển Trung Bộ 240 200 Đông Nam Bộ 490 401 Tây Nam Bộ 250 213 2.2.2. Thực trạng tài nguyên khoáng sản biển Việt Nam: Trong các vùng biển Việt Nam đã biết khoảng 35 loại hình khoáng sản có quy mô trữ lượng khác nhau từ nhỏ đến lớn. a, Dầu mỏ và khí đốt. Nhiều nhà địa chất nước ngoài dựa vào những tài liệu mới mẻ đã mạnh dạn dự đoán rằng, dầu mỏ của thềm lục địa Đông Nam Á có thể có “tầm cỡ Trung Đông”. - Tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác 4 – 5 tỷ tấn. Trữ lượng khí đồng hành 250 – 300 tỷ m3. Dầu khí đang có triển vọng lớn với điều kiện khai thác thuận lợi. - Dầu mỏ ở đây được xác định trong các trầm tích trẻ, chủ yếu thuộc tuổi Miôxen (khoảng 28 triệu năm về trước) và thường nằm ở độ sâu 1000 - 2000m. - Hiện nay sản lượng dầu khai thác mỗi năm gia tăng từ 0,4 triệu (1986) lên trên 7,0 triệu tấn (1995). Xuất khẩu thô đạt khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. - Theo những tài liệu thống kê hiện nay gần đây (1989) trữ lượng dầu mỏ trên một số vùng được đánh giá vào khoảng 1.500 triệu tấn. Vùng Trữ lượng dầu mỏ (triệu tấn) Vịnh Bắc Bộ 500 Cửu Long 300 Biển Tây Nam Bộ (Vịnh Thái Lan) 300 Các vùng biển khác 400 b, Hoá chất và khoáng sản. Bờ biển nước ta rất giàu có các chất : thạch anh, cát, sét, cao lanh, đá vôi,… cùng nhiều các hợp chất khác của các nguyên tố hoá học. Đây là nguyên liệu quý cho các ngành công nghiệp quan trọng. Các vùng bãi biển còn chứa lượng nguyên tố đất hiếm lớn lao. Nguyên tố đất hiếm không giống như một nguyên tố hoá học thông thường như vàng, sắt, ôxy,… mà nó gồm 15 nguyên tố trong bảng HTTH của Menđêlêép (Thứ tự từ 57 tới 71). Các dạng hỗn hợp của đất là flaridi, Mismetali (hỗn hợp kim loại của trất cả đất hiếm)… Biển nước ta rất giàu muối, nồng độ muối là 3,5% ngang với biển có độ mặn trung bình thế giới. Suốt dọc bờ biển nước ta có nhiều chỗ có thể dựng được các điểm trường để khai thác muối đặc biệt là các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Bình Thuận, Bà Rịa… Nghề làm muối là nghề truyền thống và giữ vai trò thiết yếu đối với đời sống của nhân dân. Muối ăn cũng như lương thực, thực phẩm, nước uống cần thiết cho đời sống của con người. 2.2.3. Thực trạng tài nguyên năng lượng biển Việt Nam: a, Thủy triều, nhiệt biển, gió biển: Một kho báu nữa của biển nước ta là nguồn năng lượng vô tận của thuỷ triểu, nhiệt biển và gió biển. Các dạng năng lượng này rẻ tiền, sạch và trở thành năng lượng của tương lai. Việt Nam nằm trong khu vực cận nhiệt đói gió mùa với bờ biển dài nên có thuận lợi cơ bản để phát triển năng lượng gió. Ở vùng ven biển, số giờ gió trong tháng là rất cao kể cả mùa hè cũng như mùa đông. Theo kết quả khảo sát chi tiết về năng lượng gió, tại Việt Nam, tổng tiềm năng điện gió ước đạt 513.360 MW bằng hơn 200 lần công suất của Thủy điện Sơn La. b, Năng lượng dòng chảy, sóng biển: Tiềm năng sử dụng năng lượng dòng chảy ở nước ta nói chung khá lớn. Dòng chảy không chỉ có lưu lượng lớn mà còn có lưu tốc ổn định do đó ẩn chứa một nguồn năng lượng cực lớn. Nơi gặp gỡ của các dòng biển nóng và dòng biển lạnh có rất nhiều hải sản , người dân có thể dựa vào đặc điểm này để đánh bắt hải sản. Sóng biển tạo ra nguồn năng lượng vô tận. Các kết quả tính toán cho thấy năng lượng sóng dọc dải ven bờ của nước ta rất phong phú. Dòng năng lượng trung bình yếu nhất đạt 15kW/m; mạnh nhất 30kW/m. Cụ thể vịnh Hạ Long, Quảng Ninh, vịnh Gành Rái, Bà Rịa - Vũng Tàu hội tụ đủ ba yếu tố: Mật độ năng lượng GWh/km2; tiềm năng GWh; hiệu suất GWh/km. 2.2.4. Thực trạng hàng hải và thông tin liên lạc trên biển Việt Nam: a. Các đường hàng hải và cảng biển: Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường quốc tế trong thời điểm hiện nay không chỉ phụ thuộc vào chất lượng và giá thành của sản phẩm mà còn phụ thuộc nhiều vào chi phí vận tải mà doanh nghiệp đó phải chi trả trong quá trình bao tiêu sản phẩm. Các mặt hàng được sản xuất trong nước nếu nhập nguyên liệu thô và xuất sản phẩm bằng đường thuỷ với các tàu biển có trọng tải lớn sẽ là kênh tiêu thụ có hiệu quả, giảm đáng kể chi phí vận tải và tăng hiệu quả đầu tư. Chính vì vậy, yếu tố cảng biển là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trong việc quyết định lựa chọn vị trí của dự án. Đất nước ta có đường bờ biển dài 3.300 km, giao thông vận tải, buôn bán bằng đường biển từ lâu đã là một thế mạnh. Cụ thể các cảng biển chính hiện nay gồm: cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân ở miền Bắc, cảng Tiên Sa, cảng Quy Nhơn ở miền Trung và cảng Sài Gòn, cảng Cát Lái ở miền Nam. Năm 2007, tổng khối lượng hàng hoá thông qua các cảng tại Việt Nam là 177 triệu tấn, trong đó hệ thống cảng Sài Gòn là 55 triệu tấn. Hình ảnh: Cảng Hải Phòng. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết các cảng biển Việt Nam chỉ mới đạt tiêu chí cảng truyền thống với vai trò cơ bản là xếp dỡ hàng hoá. Trong số đó, có một số ít cảng mới được xây dựng có khả năng phát triển để đạt được các tiêu chí của một cảng hiện đại. b. Tàu biển : Theo thống kê hiện nay tình trạng tàu biển mang cờ Việt Nam bị lưu giữ ở nước ngoài đang trong tình trạng báo động đỏ. Cơ quan chuyên môn đánh giá chất lượng tàu biển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương - Tổ chức hợp tác kiểm tra Nhà nước tại các cảng biển khu vực Châu Á Thái Bình Dương (Tokyo MOU) xếp tàu biển Việt Nam vào danh sách TOP 10 cụ thể đứng thứ 9 trong số các quốc gia có tỉ lệ tàu bị lưu giữ cao nhất thế giới. Nguyên nhân chủ yếu khiến tàu Việt Nam bị lưu giữ tại các cảng nước ngoài là do mất an toàn chống cháy, thiếu trang bị phao cứu sinh, an toàn hàng hải hoặc thậm chí vệ sinh tàu không sạch, để trang thiết bị không đúng nơi quy định… Nhưng không thể không nhắc tới việc trao đổi hàng hóa cũng ngày càng phong phú và nhộn nhịp hơn và tiếp nhận ngày càng nhiều tàu biển của các nước. Ví dụ như : Tổng số lượt tàu các loại đã vào sông Hậu qua luồng Định An tăng khá nhanh, từ 888 lượt năm 2006 lên 7.873 lượt năm 2009. Có được sự tăng trưởng này là do số lượng lượt tàu kéo sà-lan, bắt đầu từ cuối năm 2007, đã tăng lên rất nhanh (0, 542, 2.952, 6.824 lượt). Tuy nhiên trọng tải DWT bình quân mỗi lượt tàu kéo sà-lan sau khi tăng (6.756, 8.288 tấn) đến năm 2008, đã quay trở về mức 4.450 tấn. Hiện nay có trên 30 hãng tầu biển nước ngoài hoạt động thường xuyên trên các tuyến vận tải biển đến Việt Nam để chở hàng xuất nhập khẩu và đã có 20 hãng tầu với 70 tầu đã được cấp phép khai thác tầu Container chuyên dùng dưới hình thức Liner (theo Quyết định của Bộ GTVT). Ngoài ra còn một số hãng khác tuy không trực tiếp đem tầu vào khai thác tại Việt Nam, nhưng đang thực sự khai thác thị trường này thông qua mạng lưới đại lý vận chuyển, môi giới tìm hàng. Bảng phân loại đội tàu chuyên dụng của Tổng công ty hàng hải Việt Nam. Trọng tải & loại tàu 0-5 tuổi 5-10 tuổi 10-15 tuổi 15-20 tuổi Trên 20 tuổi 1. Tàu hàng rời 10.001 - 15.000 dwt 1 15.001 - 20.000 dwt > 20.000 dwt 3 Cộng 1 3 2. Tàu dầu < 1.000 dwt 1.000 - 5.000 dwt 1 1 5.001 - 10.000 dwt 1 1 10.001 - 15.000 dwt 15.001 - 20.000 dwt > 20.000 dwt 2 Cộng 4 1 1 3.RORO/Container < 1.000 dwt 1.000 - 5.000 dwt 5.001 - 10.000 dwt 1 2 10.001 - 15.000 dwt 2 15.001 - 20.000 dwt 1 > 20.000 dwt Cộng 1 5 Tổng cộng (16 tàu) 6 9 1 c. Cáp quang và thông tin liên lạc biển: Về viễn thông quốc tế, chúng ta hiện có hai tuyến cáp quang trên biển là tuyến TVH nối Thái Lan – Việt Nam – Hồng Kông và tuyến SEA – ME – WE 3 nối châu Âu – châu Á . Hiện nay tại Việt Nam có các công ty viễn thông trong nước đóng góp xây dựng tuyến cáp biển: Saigon Postel (20 triệu USD), Viettel (20 triệu USD), FPT Telecom (10 triệu USD). Đầu năm 2004, VNPT bắt đầu xây dựng tuyến cáp quang biển Bắc-Nam. Cáp quang trên biển sẽ cung cấp các dịch vụ thoại, dịch vụ Internet, truyền số liệu, quảng bá cho kênh truyền hình, truyền dẫn cho các bộ ngành và đặc biệt đảm bảo an toàn cho mạng trục Bắc Nam. Hiện nay, Công ty viễn thông quốc tế VTI (Đơn vị thành viên của tập đoàn Bưu chính viễn thông VN - VNPT) đã đưa vào hoạt động hệ thống cáp quang biển quốc tế AAG (Asia America Gateway) tại VN. Hệ thống cáp quang biển này được đưa vào khai thác sẽ cho phép các nhà viễn thông mở ra khả năng kinh doanh loại hình dịch vụ mới, tận dụng tối đa cơ sở hạ tầng truyền dẫn và nguồn vốn đạt hiệu quả đầu tư cao, đồng thời kết nối trực tiếp với các nước tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên hiện nay, cáp quang biển bị cắt trộm khá nhiều, được đánh giá cực kỳ nguy hiểm, chưa có nước nào xảy ra chuyện hàng chục km cáp quang bị cắt trộm như vậy. 1.500 tấn cáp bị cắt trộm là con số thống kê được cơ quan chức năng thông báo với báo chí sáng 5/6. Và tình trạng này đã khiến mạng viễn thông VN trở nên mất an toàn... 2.2.5. Thực trạng về một số tài nguyên biển khác của Việt Nam: a, Dân cư ven biển và hải đảo: Vùng ven biển Việt Nam có dân cư tập trung khá đông đúc, chiếm khoảng 30% tổng dân số của cả nước. Số người trong độ tuổi lao động có khoảng 10,2 triệu người. Dự báo đến năm 2011 dân số vùng ven biển khoảng gần 27 triệu người, trong đó gần 18 triệu người ở độ tuổi lao động. Gần đây, dân cư và cuộc sống của người dân trên một số đảo đã có bước phát triển nhờ chính sách di dân và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên các đảo. Tuy vậy, quy mô kinh tế biển Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD; trong khi sản lượng kinh tế biển của thế giới ước đạt 1 .300 tỷ USD, Nhật Bản 468 tỷ USD, Hàn Quốc 33 tỷ USD. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. b, Các bảo tàng biển và cổ vật: Hàng trăm nghìn cổ vật được tìm thấy cả dưới đáy biển đã phần nào cho thấy chứng tích của các hoạt động liên quan đến “lịch sử sông nước” Việt Nam; tầm quan trọng, vị trí chiến lược của Việt Nam trong những cuộc giao lưu thương mại quốc tế trên biển, trên sông… Trong khoảng 20 năm qua, việc phát hiện và khai thác cổ vật dưới nước hầu hết do ngư dân và chuyên gia nước ngoài hợp tác khai quật. Ở Việt Nam hiện nay quy mô của bảo tàng hải dương học khá phong phú và đa dạng: - Sa bàn, hình ảnh và các mô hình sinh thái biển. - Bể nuôi sinh vật biển. - Bảo tàng đa dạng sinh học. - Các mẫu vật lớn như: + Bộ xương cá voi lưng gù dài 18 m, nặng 18 tấn (Bộ xương được khai quật tại Tỉnh Nam Hà năm 1994). + Bộ xương nàng tiên cá (Dugong dugon) khai quật tháng 11/1997 tại bãi Lò Vôi (Côn Đảo), loài này đang bị nguy cơ tuyệt chủng. - Các mẫu vật nhỏ: + Những con Chim Yến trong chiếc tổ làm từ nước dãi của nó trên các vách đá treo leo giữa biển + Bạch tuộc đốm xanh lần đầu tiên thu mẫu được ở Việt Nam năm 1999, loài này có độc tố rất độc có thể gây chết người nếu bị cắn… c, Du lịch biển: Nước ta có lợi thế phát triển du lịch biển do: vùng biển rộng gấp 3 lần đất liền, bờ biển dài trên 3.260 km. có trên 3.000 đảo lớn nhỏ, khí hậu nhiệt đới gió mùa, bãi biển đẹp, giàu đa dạng sinh học, nhiều phong cảnh ven biển đẹp… Dọc ven biển có không dưới 126 bãi cát lớn nhỏ có khả năng chứa khoảng vài chục đến vài trăm ngàn người, trong đó có khoảng 20 bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế. Sự kết hợp hài hòa đó đã tạo cho biển Việt Nam có tiềm năng du lịch rất lớn. Các khu nghỉ dưỡng, chữa bệnh, du lịch sinh thái, lặn ngầm, tắm biển ngày càng nhiều và sang trọng. * Các bãi tắm biển nổi tiếng: - Miền Bắc: + Tỉnh Quảng Ninh: Trà Cổ, Vân Đồn, Bãi Cháy, Tuần Châu. + Thành phố Hải Phòng: Cát Bà, Đồ Sơn… - Miền Trung: + Tỉnh Nghệ An: Cửa Lò + Tỉnh Hà Tĩnh: Xuân Thành, Thiên Cầm… + Huế: Thuận An + Đà Nẵng: Hội An, Sơn Trà… - Miền Nam: + Bà Rịa – Vũng Tàu: Bãi Sau, Bãi Trước, Bãi Dâu, Bãi Dứa + Kiên Giang: Phú Quốc, Hòn Chông… Hình ảnh: Đảo Cát Bà – Hải Phòng. III. Cơ hội và thách thức đối với tài nguyên biển Việt Nam: 3.1. Cơ hội đối với tài nguyên biển Việt Nam: Trong xu thế "lấy đại dương nuôi đất liền", chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xác định một trong những mục tiêu cơ bản là "phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển”. Với nguồn tài nguyên biển dồi dào hiện có, Việt Nam có cơ hội để phát triển kinh tế biển xứng tầm với nhiều quốc gia giàu mạnh trên thế giới. 3.1.1. Cơ hội giao lưu quốc tế đường biển: Việt Nam là nước gắn liền với lục địa nhưng có tỷ lệ bờ biển trên diện tích thuộc top 10 thế giới. Với bờ biển dài hơn 3.260km bao bọc lãnh thổ Việt Nam ở cả 3 hướng Đông, Nam và Tây Nam và diện tích lãnh thổ trên bộ rộng 320.000km2, tính đơn giản thì cứ 100km2 diện tích, ta có tương đương 1km bờ biển (cao gấp 6 lần tỷ lệ này của thế giới). Vùng biển Việt Nam rộng khoảng 1 triệu ki lô mét vuông, án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Dọc bờ biển có một số trung tâm đô thị lớn, 90 cảng biển lớn nhỏ và gần 100 địa điểm có thể xây dựng cảng (kể cả cảng ở qui mô trung chuyển thế giới). Vì vậy, Việt Nam rất có lợi thế trong việc giao lưu quốc tế bằng đường biển. 3.1.2. Cơ hội phát triển công nghiệp khai khoáng: Ven bờ biển nước ta có nhiều loại khoáng sản và vật liệu xây dựng quan trọng phục vụ phát triển công nghiệp và hơn 6 vạn héc ta ruộng muối biển. Biển và biển ven bờ Việt Nam chứa nhiều sa khoáng như Ti, Zr, Sn... và vật liệu xây dựng (cát, cuội, sỏi...) làm vật liệu san lấp. Đây là lợi thế so sánh phát triển công nghiệp khai khoáng ven biển của nước ta, đặc biệt phải tính đến tác động của điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tuy nhiên, tài nguyên khoáng sản biển nói chung và dầu khí nói riêng thuộc nhóm tài nguyên không tái tạo, nên rất cần xây dựng chính sách, chiến lược quy hoạch, khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản một cách hợp lý để phát triển kinh tế xã hội bền vững. Theo dự đoán của các chuyên gia nước ngoài, Việt Nam có trữ lượng dầu khá lớn, ước tính khoảng 300 tỉ thùng (mỗi thùng - 159 lít). Họ còn dự báo vào thập kỷ đầu của thế kỷ XXI nước ta có thể sản xuất tới 300 đến 500 nghìn thùng trong mỗi ngày đêm. Nhờ vậy trong những năm qua, nhất là khi nền kinh tế mở cửa thì hàng loạt các hãng, các công ty dầu khí nổi tiếng trên thế giới vào Việt Nam để hợp tác thăm dò khai thác và tinh chế dầu mỏ như hàng shell (Hà Lan), Total (Pháp), BP (Anh)… cùng với nhiều công ty khác của Ấn Độ, Indônêxia… Mức khai thác dầu khí năm 2005 là 18,8 triệu tấn dầu thô và 6,89 tỷ m3 khí, sản phẩm dầu thô gần như xuất khẩu toàn bộ, kim ngạch xuất khẩu dầu đạt 7,44 tỷ USD, là ngành có đóng góp lớn nhất cho GDP kinh tế biển hiện nay. Khai thác dầu mỏ và khí đốt trên thềm lục địa riêng hay nền công nghiệp dầu khí của nước ta nói chung đang mở ra những triển vọng to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, ngành này càng được đẩy mạnh, càng được mở rộng thì mặt trái của nó gây ra cũng sẽ tăng tiến, đe doạ đến đời sống của sinh vật biển và đến môi trường tại một vùng biển được coi là trù phú nhất của đất nước. Không những thế, bờ biển nước ta còn rất giàu có các chất : thạch anh, cát, sét, cao lanh, đá vôi,… cùng nhiều các hợp chất khác của các nguyên tố hoá học. Đây là nguyên liệu quý cho các ngành công nghiệp quan trọng. Chẳng hạn : các loại cát (cát trắng, cát vàng, cát đen) không chỉ đơn thuần sử dụng chúng làm vật liệu xây dựng mà còn là nguyên liệu cho ngành quang học. Từ cát người ta có thể chế ra thuỷ tinh, pha lê trong suốt hay cùng một vài chất khác tạo ra các loại pha lê có màu rực rỡ như sắc cầu vồng. Cát quý có nhiều ở Cát Hải, Nghệ Tĩnh, Bình - Trị - Thiên. Cát ở Cam Ranh nổi tiếng nhất thế giới, có giá trị xuất khẩu cao, trữ lượng xấp xỉ 4 - 5 trăm triệu tấn. Trước đây người ta định xây dựng ở đây nhà máy sản xuất pha lê với công suất ba vạn tấn trong một năm. 3.1.3. Cơ hội mở rộng xuất khẩu hải sản: Ưu điểm của biển Việt Nam là có thềm cát lục địa mở rộng, kèm theo những dãy sơn đảo rất thuận tiện cho việc đánh cá. Đồng thời biển Việt Nam còn có những dòng hải lưu ven biển và những dòng sông lớn từ các vùng sâu trong nội địa chảy ra đem theo những sinh vật trôi nổi làm mồi cho cá, khiến cho mật độ hải sản có thể cao hơn so với một số vùng biển nhiệt đới khác. Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực với 75 loài tôm, 25 loài mực, 2.100 loài cá, 7 loài bạch tuộc cùng nhiều loại nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao như ngọc trai, vẹm, hào, bào ngư, sò huyết, ngao… Vì thế có nhiều cơ hội mở rộng xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản trong 5 tháng đầu năm 2010 đã đạt 1,62 tỉ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó xuất khẩu tôm đông lạnh đã tăng 29,5% so với cùng kỳ, đặc biệt tại các thị trường EU, Trung Quốc, Hàn Quốc... Mặt hàng cá tra, basa mặc dù bị thiệt hại do đồng euro mất giá so với đồng USD nhưng cũng có mức tăng trưởng 12,3%. Mỹ vẫn là nhà nhập khẩu cá tra và tôm lớn thứ 2 của VN. Từ đầu năm đến nay cá tra VN xuất khẩu sang Mỹ đã đạt trên 13.000 tấn, trị giá 40 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của VN sang Mỹ và Canada cũng đã tăng hơn 500% so với cùng kỳ năm trước. Không chỉ tăng về lượng, giá xuất khẩu tại các thị trường này đang ngày càng hấp dẫn với mức giá trung bình khoảng 3,83 USD/kg. Khai thác hải sản và nuôi trồng thủy sản nước lợ vốn là lĩnh vực kinh tế đặc trưng của biển đã đóng góp khoảng 4,5 tỷ USD trong tổng giá trị thủy sản xuất khẩu (2008); tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động đánh cá trực tiếp, nuôi thủy sản và 50 vạn lao động dịch vụ liên quan. 3.1.4. Cơ hội phát triển du lịch biển: Với bờ biển dài trên 3.000 km, hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ, hàng loạt những bãi tắm cát trắng, nước trong xanh trải dài ven biển là những điều kiện thuận lợi cho du lịch biển Việt Nam phát triển. Những bãi biển, vịnh biển của Việt Nam được du khách cả thế giới biết đến như vịnh Hạ Long, vịnh Nha Trang hay bãi biển Đà Nẵng được Tạp chí Forbes bầu chọn là một trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh… đều nói lên sức hút của biển Việt Nam đối với du khách trong và ngoài nước. Dọc bờ biển Việt Nam đã có khoảng 125 bãi biển thuận lợi cho việc phát triển du lịch, trên 30 bãi biển đã được đầu tư và khai thác. Trong đó, các khu vực biển có tiềm năng lớn đã đầu tư phát triển là vịnh Hạ Long - Hải Phòng - Cát Bà; Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam; Vân Phong - Đại Lãnh - Nha Trang; Vũng Tàu - Long Hải - Côn Đảo; Hà Tiên - Phú Quốc; Phan Thiết - Mũi Né. 3.2. Thách thức đối với tài nguyên biển Việt Nam: Lịch sử phát triển của thế giới cho thấy những bước đột phá mang tầm thế giới cho đến nay hầu như đều bắt nguồn từ những quốc gia – biển (đại dương). Đó là Italia, Anh, Nhật bản, Singapo, Trung Quốc… Ngày ngày, thế giới đang bước vào giai đoạn bùng nổ phát triển mới xu hướng ngày càng khẳng định tầm quan trọng to lớn của biển và đại dương. Tình trạng khan hiếm nguyên liệu, năng lượng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết, dẫn tới cạnh tranh thị trường, tranh chấp lãnh thổ và xung đột quốc gia thừong xuyên và gay gắt hơn. Vươn ra biển khai thác đại dương đã trở thành khẩu hiệu mang tính chiến lược của toàn thế giới. Tuy nhiên, tài nguyên biển Việt Nam vẫn còn có nhiều thách thức đang được đặt ra. 3.2.1. Thách thức trong việc quản lí tài nguyên biển: Tài nguyên biển thuộc dạng tài nguyên chia sẻ, chứa đứng “yếu tố không gian”, là tiền đề phát triển đa ngành. Song việc quản lí biển, đảo đến nay vẫn theo cách tiếp cận mỏ kiểu “điền tư, ngư chung” và chủ yếu quản lí theo ngành. Trong một thời gian dài, quản lí biển đã thuộc về nhiều ngành, cơ quan chủ yếu quan tâm đến vấn đề chủ quyền an ninh trên biển,… Vì vậy, quản lí tài nguyên môi trường biển xem như bỏ trống. Các phương thức cách tiếp cận mới chậm được áp dụng, nếu đã áp dụng cũng chưa có khả năng nhân rộng như: tiếp cận hệ thống tổng hợp, liên ngành trong quản lí biển và vùng bờ, quản lí dựa vào hệ sinh thái và đồng quản lí. Khu vực biển Đông đang có tranh chấp gay gắt nên việc giải quyết tranh chấp liên quan đến biển, những phạm vi trong quá trình sử dụng, khai thác tài nguyên biển chưa có các quy định mang tính pháp qui như trong quản lí sử dụng trên đất liền và còn nhiều bất cập. 3.2.2. Tài nguyên biển Việt Nam đối mặt với biến đổi khí hậu toàn cầu: Việt Nam là 1 trong năm nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu và nâng cao mực nước biển, trước hết là vùng ven biển và các đảo nhỏ. Các hệ sinh thái ven biển, các giá trị dịch vụ của chúng và của người dân ven biển và trên các đảo kà đối tượng dễ bị tổn thương và bị tác động mạnh mẽ nhất, nhưng đến nay còn thiếu nhiều nghiên cứu cị thể về vấn đề này, cũng như chưa có giải pháp lồng ghép trong mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu và nâng cao mực nước biển. Đặc biệt, biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam, thiên tai sẽ làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển, biến động chủng loại, quần đàn và di cư cá biển, có khả năng làm thay đổi các bãi cá. Nhiệt độ trên bề mặt nước biển ấm lên, nồng độ muối thay đổi sẽ làm nguy hịa đến san hô, các thảm thực vật ở các khu bảo tồn. Các bãi cá, cá đáy ở khu vực tuyến bờ và lộng có xu hướng ra xa dần. Đồng thời, nước biển dâng cao có khả năng làm thay đổi hướng của dòng chảy, có thể làm thay đổi đường di cư của một số thủy sản quý hiếm đi ra ngoài khu vực bảo tồnvà sinh kế dựa vào khu bảo tồn biển. Sự ô nhiễm do đô thị hóa và phát triển công nghiệp đã tác động đến chất lượng nước, làm giảm năng suất hệ sinh học và tác động tới tình trạng của các loài thủy sinh quan trọng. Những người dân địa phương sống phụ thuộc vào hệ thống tài nguyên ven biển này để tăng thu nhập hạn hẹp của mình đã buộc phải khai thác quá mức các nguồn lợi đang bị cạn kiệt, làm cho vấn đề càng tồi tệ hơn. 3.2.3. Một số thách thức khác đối với tài nguyên biển Việt Nam: * Quy hoạch lấn biển: Thách thức lớn nhất hiện nay khi qui hoạch lấn biển, thường chú trọng đến mục đích lấn biển để hình thành các khu dân cư đô thị hay các khu nghỉ dưỡng cao cấp hơn là các lợi ích khác do chính hoạt động này mang lại. Trong khi đó, ở một góc độ khác, vẫn có thể lấn biển để phát triển nghề nuôi trồng thủy hải sản, phát triển dịch vụ nghiên cứu khoa học, kết hợp bảo tồn và khai thác du lịch sinh thái ven biển. Mặt khác, việc quản lý, khai thác và sử dụng quỹ đất bãi bồi, cồn nổi ở cửa sông ven biển chưa được hoạch định một cách tổng thể và chi tiết nhằm khai thác hợp lý nguồn lợi vốn có của nó. Vẫn còn tình trạng người dân tự ý lấn chiếm và khai thác trái phép quỹ đất này xảy ra ở một vài nơi trong nước. * Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Các chỉ tiêu hàng thông qua cảng trên đầu người rất thấp so với các nước trong khu vực (chỉ bằng 1/140 của Singapore, 1/7 của Malaysia và 1/5 của Thái Lan). Đến nay, Việt Nam vẫn chưa có đường bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một hệ thống kinh tế biển liên hoàn. Các sân bay ven biển và trên một số đảo nhỏ bé. Các thành phố, thị trấn, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển còn nhỏ bé, đang trong thời kỳ bắt đầu xây dựng. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học-công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo thời thiết, thiên tai, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn,... còn nhỏ bé, trang bị thô sơ. * Thách thức cho ngành du lịch biển: Ngành du lịch biển vẫn thiếu những sản phẩm dịch vụ biển - đảo đặc sắc có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế và chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt trình độ quốc tế. IV. Biện pháp và đề xuất bảo tồn và phát triển tài nguyên biển: 4.1. Bảo tồn đa dạng sinh học biển: Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên biển. Tốc độ khai thác đánh bắt thủy hải sản phải nhỏ hơn tốc độ tái tạo, không đánh bắt trái vụ, đánh vào mùa cá đẻ, không sử dụng lưới mắt nhỏ, các ngư lưới có tính chất hủy diệt: đánh mìn, dùng hóa chất... sẽ dẫn tới tình trạng suy giảm trữ lượng các loài sinh vật biển, cạn kiệt nguồn tài nguyên biển. Phân vùng chức năng biển và ven biển, quản lý tổng hợp các hoạt dộng khai thác và nuôi trồng thủy sản ven biển, thành lập hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển, phòng ngừa và giảm thiểu tác hại của thiên tai ven biển. Trước tiên, cần quy hoạch lại vùng nuôi trồng hải sản ven bờ biển, áp dụng các phương thức khai thác, nuôi trồng theo hướng an toàn sinh thái.Bảo vệ các khu rừng ngập mặn có giá trị sinh thái cao dọc theo dải bờ biển, bảo vệ các đầm phá, bãi triều, các rạn san hô... Kiểm soát, ngăn chặn triệt để việc buôn bán các sinh vật biển quý hiếm, có nguy cơ tiệt chủng cao như vooc đầu trắng, san hô. Loại bỏ các phương thức khai thác hủy diệt đặc biệt là khai thác thủy sản. 4.2. Bảo vệ hữu hiệu môi trường biển: Ứng dụng nghiên cứu khoa học, đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, trong xử lý chất thải để giảm lượng chất thải độc hại vào môi trường nói chung và vào biển nói riêng ( hầu hết các loại chất thải đều được đổ ra biển). Kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải từ đất liền, các chất thải phải qua xử lý đạt tieu chuẩn môi trường mới được thải ra biển bởi biển tuy rộng lớn bao la nhưng nếu thải tràn lan và mức các chất thải độc hại thì biển cũng không thể điều hòa hết được và hậu quả là biển bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng tới sự sống trong lòng đại dương. Phát hiện kịp thời và ngăn chặn các nguồn ô nhiễm trên biển: + Sử dụng phao quây dầu bị rò rỉ từ các tàu thuyền tại các bến cảng. + Áp dụng công nghệ hiện đại trong khai thác dầu và trong giao thông vận tải đường biển tránh tình trạng bị rò rỉ gây ô nhiễm biển. 4.3. Các giải pháp phát triển kinh tế biển: 4.3.1. Phát triển mạnh giao thông vận tải biển để đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hóa: + Phát triển kết cấu hạ tầng biển trên cơ sở đầu tư nâng cấp các cụm cảng, đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu. + Mở rộng và nâng cấp hệ thống cảng biển quốc gia, nhằm tạo ra cơ hội mở cửa và hội nhập quốc tế. + Nâng cấp và từng bước hiện đại hóa hệ thống cảng cũ theo quan điểm xây dựng các “cụm cảng” nhằm tận dụng tối đa tài nguyên của khu vực lãnh thổ, xóa bỏ ranh giới trong phát triển kinh tế dựa vào tiềm năng tài nguyên thiên nhiên và tạo điều kiện cho nhau về mặt chức năng phát triển, tránh trùng lặp trong đầu tư phát triển. + Phát triển đội tàu biển quốc gia mạnh và hiện đại, tham gia tích cực vào thị trường thế giới. + Hợp tác nước ngoài để đào tạo nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế. + Đầu tư cải tạo các cơ sở sửa chữa và đóng mới tàu biển để có đủ năng lực sửa chữa các loại tàu biển khác nhau. + Đồng bộ và hiện đại hóa cơ sở vât chất kỹ thuật cho việc quản lý và điều hành các hoạt động hàng hải quốc gia. Bao gồm hệ thống radda, đèn biển, phao tiêu, cứu hộ, hệ thống thông tin liên lạc giữa các tuyến và kỹ thuật ứng cứu sự cố môi trường biển. 4.3.2. Tập trung phát triển du lịch đảo và du lịch ven biển: + Phát triển du lịch biển thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nhiều khu vực biển nước ta có các bãi biển khá bằng phẳng, nước biển trong, sóng gió vừa phải, không có chỗ nước xoáy. Sự kết hợp hài hòa giữa cảnh quan thiên nhiên biển – đảo, hang động ngầm, cảnh quan ngầm của các rạn san hô...đã tạo ra nhiều lợi thế cho ngành du lịch, trong đó tập trung phát triển các loại hình du lịch biển mới lạ như: lướt ván, lặn ngầm,kinh khí cầu, du lịch sinh thái... + Đầu tư công nghệ, cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch biển. + Đào tạo phát triển nguồn nhân lực, năng lực quản lý hoạt động phát triển du lịch biển đảo gắn liền với bảo tồn phát huy di sản văn hóa và bảo vệ tài nguyên môi trường nói riêng và phát triển du lịch nói chung. 4.3.3. Tăng cường khai thác năng lượng, khoáng sản, thủy sản biển: + Cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp ven biển, trước hết là dầu mỏ, khí đốt, than, quặng kim loại... + Phát triển kinh tế thủy sản bảo đảm và cải thiện kế sinh nhai cho dân cư sống ở vùng ven biển và đảo. + Mở rộng thêm diện tích những nơi thuận lợi nhất cho nghề muối.Đẩy mạnh sản xuất muối biển trên cơ sở thâm canh, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất các đồng muối hiện có. PHẦN KẾT LUẬN Việt Nam là một nước có đường bờ biển kéo dài trên 13 độ vĩ tuyến án ngữ gần như toàn bộ bờ phía tây của Biển Đông. Các vùng biển của Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú cả trong khối nước, trên đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển bao gồm tài nguyên sinh, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên năng lượng và các tài nguyên đặc biệt khác. Ngoài ra biển còn là cửa ngõ giao lưu với thế giới, tạo điều kiện cho công tác xuất nhập khẩu hành hóa thuận lợi với chi phí thấp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện nay thì biển ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo năng lực cạnh tranh của các quốc gia. Do đó phát triển kinh tế biển là một trong những chiến lược quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Do Việt Nam là nước đang trên đường hội nhập với thế giới bên ngoài, vì vậy đối với biển chúng ta cần nghiên cứu và đưa ra một đường lối hợp tác hữu hiệu với các quốc gia nhằm phục vụ cho việc khai thác các tiềm năng biển, phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước.. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác và sử dụng sẽ gây ra những ảnh hưởng không tốt đến môi trường và đời sống xã hội. Vì vậy để đạt được sự phát triển bền vững ta cần phải sử dụng và khai thác tài nguyên biển một cách hợp lý và bảo vệ môi trường, sinh thái xung quanh ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình “Hải dương học biển Đông” (Lê Đức Tố - ĐHQGHN) 2. Giáo trình “Luật biển quốc tế” 3. Giáo trình “Địa lý kinh tế Việt Nam” (NXB Nông nghiệp – 2005) 4. Giáo trình “Dự báo thủy văn biển” (Phạm Văn Huấn - NXB ĐHQGHN - 2002) 5. “Phát triển đồng quản lý tài nguyên dùng chung ven biển miền Trung Việt Nam” (PGS.TS Trương Văn Tuyển, TS Lê Thị Hoa Sen - NXB nông nghiệp 2010) 6. Một số website:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận Tài nguyên biển đối với sự phát triển.doc
Luận văn liên quan