Thị trường tài chính Việt nam đã đang và sẽ ngày càng phát t riển cả về qui
mô, hình thức, chất lượng và cấu trúc tham gia thị trường. Theo lộ trình gia nhập W TO,
Việt nam đang và sẽ thực hiện đối xử công bằng giữa các T CTD trong nước và T CT D
nước ngoài về các dịch vụ ngân hàng theo hướng loại bỏ căn bản các hạn chế tiếp cận thị
trường dịch vụ ngân hàng trong nước; Hoàn thiện các loại hình T CT D, phương thức và
hình thức cung cấp dịch vụ ngân hàng có hiệu quả để bảo đảm khả năng tiếp cận của các
thành phần khách hàng đến với dịch vụ ngân hàng, đồng thời hỗ trợ cho các đối tượng
chính sách, đối tượng ưu tiên có khả năng tạo ra tăng trưởng và năng lực cạnh tranh cho
nền kinh t ế. Phát triển dịch vụ ngân hàng trong dân cư là một bộ phận cấu thành trong yếu
trong chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng nói chung nhằm cải t hiện rõ rệt nền văn minh
ngân hàng ở Việt nam và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường hàng hoá, dịch vụ
đời sống trong xã hội với các dịch vụ ngân hàng.
25 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2034 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thị trường dịch vụ Ngân hàng Việt Nam trước xu thế hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có phần giảm sút nhưng vẫn đạt mức 25,43%. Đến đầu năm 2009, tăng trưởng tín
dụng tiếp tục giảm khiến Chính phủ phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng tín dụng từ dưới
30% xuống mức 25-27%, song mục tiêu này nhanh chóng bị phá vỡ chỉ. Những tín hiệu lạc
quan cuối năm đã kéo mức tăng trưởng tín dụng của năm này lên vượt mức mong đợi, ước
tính là 37,73%. Với sự phục hồi này, Nhà nước cũng đã đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng
của năm 2010 là 25%.
Biểu đồ 4: Tín dụng đối với nền kinh tế
Biểu đồ 5: Tốc độ tăng trưởng tín dụng
25.44%
53.89%
25.43%
37.73%
25.00%
31.10%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
2005 2006 2007 2008 2009 2010
Nguồn: Số liệu thu thập từ báo cáo ngân hàng nhà nước
Tăng trưởng tín dụng cao nhất năm 2008 tập trung ở khối NHNNg và liên doanh,
khối TCTD khác với mức tăng 46,55% và 46,27%. Trong khi đó, NHTMNN chỉ tăng có
19,25% và NHTM cổ phần là 22,49%. Tuy nhiên, về tỷ trọng cho vay, khối NHTMNN vẫn
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 10/25
chiếm tỷ trọng lớn nhất, trên 50%, các NHTMCP chiếm khoảng 33% và khối ngân hàng
nước ngoài xấp xỉ 9%
Biểu đồ 6: Tỷ trọng cho vay
Năm 2007 Năm 2008
NHTMNN và NH chính sách xã hội
Khối NH cổ phần, Phi NH và Quỹ tín dụng
Khối chi nhánh nước ngoài và liên doanh
Nguồn: Số liệu thu thập từ báo cáo ngân hàng nhà nước
Về cơ cấu tín dụng, tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông thôn (gồm ngành
nông – lâm – thuỷ sản) chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu cho vay theo ngành của hệ
thống ngân hàng, khoảng 28,84%. Tỷ trọng cho vay ngành thương nghiệp chiếm 18,67%;
tỷ trọng cho vay các ngành công nghiệp, xây dựng, vận tải, kho bãi năm 2008 được duy trì
ổn định, chiếm 25,81%, 13,76%, 5,29% tổng dư nợ cho vay toàn ngành. Những lĩnh vực
thu hút khối lượng lớn vốn tín dụng ngân hàng trong năm 2007 đó là đầu tư các dự án xây
dựng nhà máy điện, dự án đóng tàu, cảng biển, hàng không, dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu
tư bất động sản mà đặc biệt là các dự án khu nhà ở mới và khu đô thị mới, đầu tư vốn
trong lĩnh vực xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng và chế biến thuỷ hải sản, sản xuất và chế
biến một số loại nông sản chủ lực khác, dịch vụ du lịch,... Bên cạnh đó đối tượng đầu tư
chứng khoán, vàng, tiêu dùng,... cũng thu hút một khối lượng rất lớn vốn tín dụng ngân
hàng.
2.3/ Khó khăn và tồn tại:
Tương tự như hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng tuy là hoạt động truyền
thống của các ngân hàng nhưng vẫn còn bộc lộ rất nhiều yếu điểm và ẩn chứa các rủi ro
trong đó:
Rủi ro tín dụng: Tuy trong những năm gần đây, các ngân hàng đã tích cực hơn trong
việc kiểm soát rủi ro tín dụng, nhưng vẫn có một số tổ chức tín dụng vẫn chưa tuân thủ các
điều kiện quy định về các biện pháp đảm bảo tiền vay. Điều này làm phát sinh những
khoản nợ xấu và những khoản nợ không còn khả năng thu hồi. Từ năm 2004 đến 2007, tỷ
lệ nợ xấu có phần nào giảm sút nhưng trong năm 2008, 2009, tỷ lệ này đang có chiều
hướng tăng trở lại.
Biểu đồ 7: Tỷ lệ nợ xấu trong tổng tín dụng ngân hàng
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 11/25
Lãi suất: Lãi suất đã được ổn định dần trong thời kỳ kinh tế Việt Nam phát triển.
Nhưng đến năm 2008, biến động của nền kinh tế thế giới đã buộc nhà nước ta phải tiến
hành điều chỉnh lãi suất cơ bản với 3 lần lên và 5 lần xuống. Khái niệm “lãi suất cho vay
tối đa” cũng xuất hiện trên thị trường. Các lãi suất khác như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
chiết khấu cũng có tần suất tương ứng. Đến năm 2009, lãi suất đã có phần ổn định với một
lần điều chỉnh nhưng vẫn còn ẩn chứa rất nhiều rủi ro. Vậy việc điều chỉnh mức lãi suất với
tần suất lớn như vậy liệu có phát huy vai trò của công cụ chính sách tiền t ệ hay không? Các
quy định lãi suất cơ bản đến nay vẩn chưa được hoàn thiện, vẫn còn những ý kiến khác
nhau, tuy nhiên, để nâng cao sức cạnh tranh trong hội nhập thì việc quản lý có hiệu quả
công cụ này cần phải có sự quan tâm hợp lý và đúng mức.
Lạm phát: Lãi suất cơ bản của hoạt động tín dụng có mối quan hệ mật thiết với chỉ
số lạm phát của một quốc gia. Mâu thuẫn giữa việc gia tăng lãi suất với việc kiềm chế lạm
phát luôn là một vấn đề lớn đối với chính sách tiền tệ của hệ thống ngân hàng. Hiện nay,
Việt Nam vẫn đang cố gắng điều hòa mối quan hệ này, tuy nhiên, xu thế hội nhập sẽ buộc
các chính sách Việt Nam sẽ phải nới lỏng hơn, và khả năng kiềm chế lạm phát từ công cụ
này có thể sẽ giảm trong tương lai.
Cạnh tranh của các NHNNg: Đến cuối tháng 10/2009, hầu hết các TCTD nước ngoài
đều hoạt động có lãi (chênh lệch thu chi lũy kế của các ngân hàng nước ngoài đạt 2.947,5
tỷ đồng). Nguồn vốn huy động của các TCTD này tại Việt Nam tăng đến 17,8%, tổng dư
nợ tín dụng tăng 14%, tổng tài sản có tăng 14,9% so với cuối năm 2008; trong đó, tỷ lệ nợ
xấu chiếm dưới 1% trong tổng dư nợ. Có thể thấy, bên cạnh việc hoạt động hiệu quả, các
TCTD nước ngoài luôn đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động và trích lập dự phòng rủi ro
đúng quy định, nên nợ quá hạn rất thấp, dư nợ tăng trưởng lành mạnh. Với thế m ạnh này,
tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng trong tương lai có thể là rất lớn.
=> Hoạt động tín dụng của các ngân hàng trong thời gian vừa qua luôn đạt mức tăng
trưởng tốt. Tuy nhiên, chất lượng tín dụng luôn là vấn đề hàng đầu đối với của các ngân
hàng nội địa. Các NHNNg với tiềm lực về vốn mạnh, kinh nghiệm và thương hiệu, sẽ là
mối đe dọa rất lớn trên thị trường dịch vụ này trong quá trình mở cửa hội nhập.
3/ Dịch vụ thanh toán
3.1/Giới thiệu:
Với yêu cầu chủ động hội nhập với khu vực và thế giới, các ngân hàng đã bắt đầu
đổi mới hạ tầng công nghệ thông tin từ năm 1986. Giai đoạn 1990- 1998, được xem là giai
đoạn đầu của thời kỳ đổi mới ngành ngân hàng và các dịch vụ thanh toán như: mở tài
khoản và thanh toán qua ngân hàng, lắp đặt máy ATM, tham gia hệ thống chuyển tiền quốc
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 12/25
tế SWIFT, thanh toán bù trừ điện tử, chuyển tiền điện tử…. Tuy nhiên, sự đón nhận của
khách hàng đối với những sản phẩm mới này còn rất hạn chế
Ngày 29/12/2006 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 291/2006/QĐ-
TTg quy định về hạn mức thanh toán bằng tiền mặt, phí giao dịch tiền mặt và việc rút tiền
mặt với số lượng lớn bằng Đồng Việt Nam trong giao dịch, thanh toán t ại Việt Nam giai
đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020. Việc ban hành Quyết định này cùng với sự
đầu tư mạnh cho quá trình hiện đại hóa ngân hàng đã hỗ trợ rất lớn cho việc thúc đẩy hoạt
động thanh toán không dùng tiền mặt, giúp cho các dịch vụ thanh toán ngày càng trở nên
đa dạng hơn đáp ứng nhu cầu của các đối tượng khác nhau. Cụ thể như, Ngân hàng Đông Á
đã tung ra thị trường nhiều loại thẻ với nhiều t iện ích giành cho các chủ thể tham gia: thẻ
Shopping card, thẻ đa năng bác sỹ, thẻ tín dụng DongA Bank, thẻ đa năng CK Card, thẻ đa
năng Richard Hill, thẻ liên kết sinh viên; Ngân hàng Á Châu với thẻ ghi nợ quốc tế Visa
Debit, thẻ ghi nợ nội địa 365 styles, thẻ ACB Card, thẻ tín dụng nội địa ACB, thẻ tín dụng
quốc tế ACB Visa/Master Card, thẻ ACB Visa Electron/MasterCard Electronic, thẻ thanh
toán quốc tế ACB Visa Prepaid/MasterCard Dynamic.
Các phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán dựa trên nền tảng công nghệ hiện
đại đã và đang tạo ra một diện mạo mới cho dịch vụ thanh toán của ngân hàng Việt Nam.
3.2/ Thành tựu:
Tổng phương tiện thanh toán của nước ta trong những năm gần đây vẫn tiếp tục
tăng trưởng và phát triển không ngừng. Tuy nhiên, tốc độ tăng này có phần chậm lại. Năm
2007, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán đạt 46,12% nhưng đến năm 2008 chỉ còn
20,31%. Trong đó, tài sản nước ngoài ròng chỉ tăng rất nhẹ, chủ yếu là tài sản có trong
nước ròng.
Biểu đồ 8: Tổng phương tiện thanh toán
Nguồn: Số liệu thu thập từ báo cáo ngân hàng nhà nước
Mặc dù, tốc độ tăng trưởng có giảm sút, tổng phương tiện thanh toán vẫn tiếp tục
ghi nhận sự thay đổi tích cực của tỷ trọng tiền mặt được sử dụng trong thanh toán. Năm
2001, tỷ trọng này là 23,7%, năm 2002 là 22,56%, năm 2003 là 22,03%, năm 2004 là
20,35%, năm 2005 là 19,01%, năm 2006 là 17,21%, năm 2007 là 16,36% và năm 2008
giảm xuống còn 14,6%.
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 13/25
Biểu đồ 9: Tỷ trọng tiền mặt được sử dụng trong thanh toán từ 2001-2008
14.60%
16.3 6%
17.21%
23.70%
22.56% 22.0 3%
20.35%
19.01%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Nguồn: Số liệu thu thập từ báo cáo ngân hàng nhà nước
Bằng việc nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp, các ngân hàng
đã thu hút khá lớn lượng tiền mặt dưới dạng tiền gửi thanh toán và đáp ứng lại cho thị
trường nhiều loại thẻ thanh toán tiện ích. Hệ thống máy QTM và số diểm ch6a1p nhận thẻ
cũng tăng nhanh chóng. Đến năm 2009, ngành ngân hàng đã đạt tỷ lệ thanh toán không
dùng tiền m ặt là 86%, tốc độ quay vòng đồng vốn của NHTM giảm từ 3-5 ngày t rong năm
2001 xuống chỉ 20 phút năm 2009 mà thôi
Bảng 1: Hệ thống thanh toán các ngân hàng
Năm 2007 2008 Tháng 6/2009
Số máy ATM 4.813 7.051 8.800
Số điểm chấp nhận thẻ -POS 12.548 24.760 28.300
Tổng số thẻ 9,18 triệu (32 tổ
chức phát hành)
13,4 triệu (32 tổ
chức phát hành)
17 triệu (41 tổ
chức phát hành)
Nguồn: Vietnamnet
Bên cạnh đó, trong khuôn khổ triển khai các Đề án thanh toán không dùng tiền mặt
trong khu vực công thuộc Quyết định 291, thời gian vừa qua, NHNN cũng đã phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan t ập t rung triển khai các nội dung và đã đem lại được những kết quả
nhất định Trong các đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, từ cuối năm 2007 đến
cuối năm 2008, số đơn vị trả lương qua tài khoản đã tăng hơn 4 lần, từ 5.181 lên 21.562
đơn vị, số người nhận lương qua tài khoản đã tăng 3,7 lần từ 298.920 lên đến 1.132.442
người. Cuối năm 2008, hầu hết các cơ quan ở Trung ương đã triển khai cho 100% cán bộ
công chức ở trụ sở chính như: Ngân hàng Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Giao
thông Vân tải, Văn phòng Chủ tịch nước v.v.
Đồng thời, để phục vụ cho việc thanh toán không dùng tiền m ặt, Nhà nước đã đầu
tư xây dựng hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, được khai trương 02/2009, đánh
dấu một giai đoạn mới thanh toán ngân hàng với những thay đổi cơ bản về kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến. Hiện nay, hệ thống điện tử liên ngân hàng đã sẵn sàng kết nối với hệ thống
thanh toán của Kho bạc Nhà nước, hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khóan
và các hệ thống cần thiết khác. Đến nay, hệ thống đã kết nối được tất cả NHNN chi nhánh
63 tỉnh, thành phố trong cả nước với công suất thiết kế xử lý 2 triệu giao dịch/ngày. Hiện
hệ thống có 472 đơn vị tham gia thanh toán là các ngân hàng, chi nhánh của các TCTD
trong cả nước. Bình quân giao dịch đạt khoảng 40 đến 44 ngàn giao dịch/ngày, doanh số
trung bình là 70 ngàn tỷ đồng/ngày
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 14/25
3.3/ Khó khăn và tồn tại
Dịch vụ thanh toán là một dịch vụ khá mới mẻ đối với người dân Việt Nam. Chính
vì thế, dù đạt được rất nhiều kết quả khả quan trong thời gian vừa qua, những khó khăn
trong việc phát triển vẫn rất nhiều và cần sự quan tâm hơn nữa của các ngân hàng:
Nhìn chung, thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa phát
triển mạnh, tiền mặt vẫn là phương thức thanh toán chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong khu
vực công, doanh nghiệp và dân cư. Điều này xuất phát từ cơ sở pháp lý còn nhiều lỗ hổng
và thiếu đồng bộ của nước ta.Ngày 25/11/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 91/CP về
tổ chức công tác thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), sau đó, ngày 20/9/2001,
Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2001/NĐ-CP về hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán, nhưng nội dung cả 2 nghị định trên đều quy định “ Các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu về gửi
và rút tiền mặt của người sử dụng dịch vụ thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật”
(điều 13). Do vậy, tiền mặt đã nghiễm nhiên trở thành một công cụ thanh toán không hạn
chế về đối tượng và phạm vi sử dụng.
Biểu đồ 10: Cơ cấu tổng phương tiện thanh toán
Nguồn: Số liệu thu thập từ báo cáo ngân hàng nhà nước
Chất lượng và tiện ích mới trong thanh toán không dùng tiền m ặt còn hạn chế. Các
tiện ích thiết thực và phổ biến như thanh toán tiền điện, nước, điện thoại, truyền hình
cáp…. chưa được triển khai m ạnh trên thực tế. Chất lượng các máy ATM bị than phiền rất
nhiều. Việc xử lý các tình huống phát sinh của các ngân hàng trong quá trình cung cấp dịch
vụ còn thiếu linh hoạt và chưa thỏa đáng.
Hệ thống các chi nhánh, các máy ATM phân bổ chưa hợp lý, mật độ chủ yếu vẫn tập
trung dày đặc ở các thành phố lớn, còn ở những địa phương quy mô nhỏ hơn thì hệ thống
các ngân hàng lẫn các dịch vụ cung cấp rất khiêm tốn.
Hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù ngày 19 tháng
11 năm 2005 vừa qua, Luật Giao dịch điện tử đã được Quốc hội thông qua, tạo hành lang
pháp lý cho các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tạo điều kiện cho ngân hàng tham
gia sâu rộng vào các hoạt động thương mại đầu tư, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các
chủ thể tham gia kinh doanh trực tuyến t rên mạng trong phạm vi toàn xã hội.
Cơ sở hạ tầng về công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu về thanh toán không dùng
tiền mặt: Có một thực tế trong nhiều năm trước đây, cơ sở vật chất của nhiều NHTM còn
nhiều yếu kém do không có nhiều vốn để đầu tư trang bị máy móc thiết bị và công nghệ
nên khi thực hiện công tác thanh toán giữa các tổ chức kinh tế thường chậm trễ, ảnh hưởng
đến quá trình chu chuyển vốn. Thời gian gần đây, trước sự đòi hỏi của thị trường và cạnh
tranh trong dịch vụ ngân hàng, tình hình đầu tư và ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành Ngân hàng đã được cải thiện nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế về mặt công nghệ và
con người nên quá trình này vẫn còn rất chậm chap.
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 15/25
Các chi nhánh NHNNg thường đến từ những nước phát triển, nơi mà hệ thống ngân
hàng tài chính cũng đạt đến trình độ phát triển tương đối cao nên hoạt động của các chi
nhánh này tại Việt Nam cũng được thừa hưởng những ưu thế đó. Điều này được thể hiện rõ
qua các loại hình dịch vụ cung cấp cho khách hàng, chất lượng dịch vụ cũng như thái độ
phục vụ khách hàng. Các chi nhánh NHNNg thường tiên phong trong việc áp dụng công
nghệ hiện đại, giới thiệu sản phẩm dịch vụ mới. Do vậy, có thể nói các chi nhánh NHNNg
thường chiếm ưu thế trong các dịch vụ thanh toán và hoạt động phi tín dụng.
=> Thị trường dịch vụ thanh toán ở Việt Nam vẫn còn hạn chế do thói quen sử dụng
tiền mặt của người Việt. Tuy nhiên, trong tương lai, khi trình độ tiêu dùng được nâng cao,
tính tiện ích của các hệ thống thanh toán mang lại sẽ thu hút rất nhiều khách hàng. Dịch vụ
của các ngân hàng nội địa so với các NHNNg có thể vẫn còn thua kém, nhưng với sự năng
động học hỏi và phát triển trong thời gian vừa qua thì thị trường dịch vụ này sẽ là thị
trường béo bở cho cả hai khối ngân hàng.
4/ Dịch vụ ngoại hối:
4.1 Giới thiệu:
Ngoại hối là những công cụ tài chính quốc tế bao gồm: ngoại tệ t iền mặt, kim loại
quý, đá quý; vàng tiêu chuẩn quốc tế; đồng tiền tập thể (vd: SDR), đồng tiền chung, các
công cụ tín dụng có ghi bằng ngoại tệ, dùng để thanh toán quốc tế; các công cụ tài chính có
ghi bằng ngoại tệ dùng để đầu tư quốc tế….
Trong những năm 2000 trở về trước, khi mà đa số người dân Việt Nam chỉ biết đến
ngân hàng với hai chức năng chính là huy động tiền tiết kiệm và cho vay vốn, thì các
NHTM Việt Nam khi ấy cũng đã có triển khai m ột số các dịch vụ ngoại hối như: thanh toán
quốc tế, chiết khấu các giấy tờ có giá, chi trả và ủy nhiệm đại lý phụ là tổ chức tín dụng
hoặc tổ chức kinh tế thực hiện chi trả kiều hối,…Theo thông tư số 3/2008/TT-NHNN của
NHNN Việt Nam ban hành ngày 11/04/2008, thì hiện nay, tại thị trường trong nước, các
dịch vụ ngoại hối mà Ngân hàng được phép cung ứng bao gồm:
- Cung cấp các dịch vụ hối đoái dưới hình thức giao dịch giao ngay (Spot operation), kỳ
hạn (forward operation), hoán đổi (Swap operation), quyền chọn (Option);
- Huy động vốn, cho vay và bảo lãnh bằng ngoại tệ
- Phát hành, đại lý phát hành thẻ quốc tế
- Cung cấp các dịch vụ chuyển tiền và thanh toán (trong nước và quốc tế) cho các đối
tượng quy định trong Nghị định 160; nhận và chi trả ngoại tệ
- Chiết khấu và tái chiết khấu các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ
- Ủy nhiệm cho tổ chức tín dụng khác và tổ chức kinh tế làm đại lý cung ứng một số dịch
vụ ngoại hối, bao gồm dịch vụ đổi ngoại tệ, dịch vụ nhận và chi trả ngoại tệ và các dịch vụ
khác được quy định trong Nghị định
- Cung cấp các dịch vụ ủy thác và quản lý tài sản bằng ngoại hối
- Cung cấp các dịch vụ ngân hàng đầu tư bằng ngoại hối (mua, bán, sát nhập, bảo lãnh và
làm đại lý phát hành chứng khoán bằng ngoại tệ…)
- Cung ứng các dịch vụ tư vấn cho khách hàng về ngoại hối….
Còn trên thị trường quốc tế, Nhà nước cho phép ngân hàng được:
- Cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế
- Thực hiện các giao dịch mua, bán ngoại hối và vàng trên thị trường nước ngoài
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 16/25
- Tham gia các thị trường tiền tệ, thị trường phái sinh ở nước ngoài
- Cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản tài chính của khách hàng ở nước ngoài
- Cung cấp các dịch vụ ngân hàng đầu tư bằng ngoại hối (mua, bán, sát nhập, bảo lãnh và
làm đại lý phát hành chứng khoán bằng ngoại tệ…) trên thị trường quốc tế
Các NHTM khi muốn thực hiện cung ứng các dịch vụ ngoại hối nêu trên thì phải
đáp ứng được một số các điều kiện do NHNN quy định như: phương án hoạt động cung
ứng dịch vụ đã được Hội đồng Quản trị thông qua, có đầy đủ trang thiết bị cơ sở vật chất
đáp ứng yêu cầu thực hiện dịch vụ, có nhân sự am hiểu về hoạt động ngoại hối, có cơ chế
kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ, tuân thủ tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt
động,…không vi phạm các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối trong 1 năm và hoạt
động kinh doanh có lãi trong năm liền kề năm đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại
hối trên thị trường quốc tế. Chính vì những quy đinh gắt gao này nên số lượng ngân hàng
phát triển kinh doanh dịch vụ này không nhiều và các sản phẩm cũng chưa thực sự đa dạng.
4.2 Thành tựu
Thanh toán quốc tế:
Quan hệ ngoại thương đang được mở rộng, các dòng vốn đầu tư từ nước ngoài cũng
như hoạt động XNK của doanh nghiệp Việt Nam ngày càng sôi động và khởi sắc hơn sau
hội nhập, những động thái này đã thúc đẩy các hoạt động thanh toán phát triển. Các dịch vụ
thanh toán quốc tế được đa dạng hóa hơn. Các nguồn thu cũng nhiều hơn ngoài những
nguồn thu truyền thống như từ phí chuyển tiền thanh toán, phí mở thư tín dụng (Letter of
Credit – L/C), phí bảo lãnh.
Bên cạnh đó, hệ thống NHTM cũng đã tích cực trong việc đổi mới quy trình nghiệp
vụ, nâng cao t rình độ xử lý chứng từ thanh toán và tư vấn, ký kết với rất nhiều các đối tác
là ngân hàng nước ngoài đề làm đại lý. Điều này đã giúp cho quá trình thanh toán quốc tế
của ngân hàng hiện nay trở nên nhanh chóng và tiện lợi hơn rất nhiều. Nếu như trước đây
để xử lý một lệnh chuyển bằng điện (Telex Transfer – T/T), doanh nghiệp phải chờ đợi từ
3-4 ngày, thậm chí cả tuần lễ để chuyển đến người nhận (do thời gian xét duyệt hồ sơ thanh
toán, báo có chủ yếu qua tài khoản trung gian tại Ngân hàng Mỹ, rồi từ đây mới có thể
chuyển đến tài khoản người nhận tại nước đến thứ ba). Đến nay, thời gian chuyển tiền bằng
điện đã được rút ngắn đáng kể, trung bình chỉ còn mất 2 ngày
Các dịch vụ hối đoái:
Ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh mới bắt đầu được sử dụng từ đầu những năm
2000. Tuy nhiên, các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn lẻ. Số lượng giao
dịch của các công cụ này còn hết sức khiêm tốn. Một số tổ chức tín dụng được Ngân hàng
Nhà nước cho phép thực hiện giao dịch các công cụ phái sinh như: Chi nhánh Ngân hàng
Citibank, Ngân hàng Standard Chartered, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân
hàng Ngoại thương, HSBC, nhưng doanh số và số các khách hàng tham gia còn hết sức
khiêm tốn. Về quyền chọn ngoại tệ (ngoại tệ/VND): NHNN đã cho phép thực hiện thí điểm
đối với NHTMCP Quốc tế, Ngân hàng Ngoại thương; NHTM cổ phần Á Châu,
NHĐT&PT, NHTMCP Kỹ thương, NHTMCP Quân đội, nhưng doanh số về hoạt động này
vẫn không đáng kể so với doanh số các hoạt động truyền thống.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, lợi nhuận kinh doanh hối đoái của ngân hàng
bao gồm lệ phí và lời từ hoạt động tự doanh của ngân hàng ngày càng tăng lên. Cụ thể như
năm 2008 các ngân hàng Eximbank, Dong A bank…, đã thu nguồn lợi đáng kể từ kinh
doanh ngoại hối, đặc biệt là ngân hàng ACB với tỷ trọng kinh doanh hối đoái trong tổng
thu nhập lên đến 77%
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 17/25
Bảng 2: Tỷ trọng kinh doanh hối đoái của các ngân hàng
STT Ngân hàng
Lợi nhuận 2008
(tỷ VND)
Tỷ trọng/tổng
thu nhập
1 ACB 1.600 77%
2 Eximbank 470 9.3%
3 Sacombank 11 10%
4 Dong A bank 333 22.51%
5 Vietinbank 290 1.4%
6 Techcom bank 230 14.38%
(Nguồn: tổng hợp Báo cáo tài chính các NH năm 2008)
Dịch vụ kiều hối:
Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong thời gian trước năm 2000 là rất ít. Mục
đích của lượng kiều hối này ban đầu chỉ là trợ cấp cho thân nhân ở Việt Nam. Nhưng sau
này, khi nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển mạnh, lượng kiều hối cũng dần tăng lên.
Những Việt kiều cũng bắt đầu chuyển ngoại tệ về để nhờ người thân đầu tư chứng khoán,
bất động sản, gửi tiết kiệm (do lãi suất Việt Nam có khi lên đến 8-10%/năm còn ngân hàng
nước ngoài chỉ khoảng 2-3%/năm).
Bảng 3: Lượng kiều hối chuyển về VN qua các năm
Năm 1993 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Số tiền (triệu USD) 141 2700 3200 4000 4700 7200 8000 6800
Nguồn: Tổng cục thống kê & Bộ tài chính
Tuy nhiên, năm 2009, lượng kiều hối có phần giảm sút do khủng hoảng nhưng nguồn
cung ngoại tệ này vẫn khá vững chắc. Theo đánh giá, đây vẫn là nguồn bổ sung hiệu quả
cho dự trữ ngoại tệ quốc gia và góp phần giúp cải thiện cuộc sống của người dân VIệt Nam
rất nhiều (trung bình 1 người dân Việt Nam nhận 100 USD tiền kiều hối /năm).
Đồ thị lượng kiều hối từ 1993-2009
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
9000
1993 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Nguồn: Tổng cục thống kê & Bộ tài chính
Đứng trước làn sóng tiền kiều hối chuyển về Việt Nam, các ngân hàng đã tích cực
thay đổi phương pháp tiếp cận theo hướng chủ động hơn. Cụ thể như Vietcom bank, Dong
A bank, Vietinbank đã ký kết với các NHNNg, các công ty kiều hối nước ngoài để quảng
bá dịch vụ và các thông tin cần thiết để chuyển tiền nhằm thu hút khách hàng tại đầu nhận
Việt Nam Một số các ngân hàng thì lại lựa chọn hình thức là ký kết làm đại lý cho công ty
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 18/25
chuyển tiền nước ngoài như ACB, Vietibank ký với Western Union; Vietcombank, Dong A
bank, VIB, Saigonbank ký kết với Money Gram. Với thế mạnh uy tín thương hiệu trên toàn
thế giới và công nghệ hiện đại của các tổ chức này, giao dịch chuyển t iền đã trở nên cực kỳ
nhanh chóng, hình ảnh của các NHTM cũng đang trở nên gần gũi hơn với khách hàng, có
chỗ đứng trong giao dịch kiều hối chuyển về. Đầu tiên phải kể đến Vietcombank với 1.5 tỷ
USD, tăng 20% so với năm 2007. Kế đến là công ty kiều hối Đông Á, trực thuộc Dong A
bank với khoảng 1.2 tỷ USD, chiếm 15% lượng kiều hối chuyển về 2008. Thứ ba là
Vietinbank với 900 triệu USD. Anh cả đỏ Agribank đứng thứ 4 với 870 triệu USD.
Các dịch vụ ngoại hối khác:
Bao thanh toán – Factoring: Hiện nay, Hiệp hội Bao thanh toán quốc tế có 200 thành
viên ở 60 quốc gia thì Việt Nam có 11 ngân hàng đã được cấp phép thực hiện dịch vụ bao
thanh toán, bao gồm 4 ngân hàng thương mại trong nước: Vietcombank, ACB,
Sacombank, Techcom bank và 7 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Dịch vụ quản lý vốn trên tài khoản của khách hàng: đã được Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam triển khai đối với Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam về
khoản vốn gần 750 triệu USD trái phiếu quốc tế phát hành cuối năm 2005.
Phát hành và làm đại lý phát hành thẻ quốc tế: Đây là một trong những sản phẩm
được xem là có tiềm năng phát triển mạnh trước xu thế hội nhập tại VN, được các
NHTM khá quan tâm. Hiện tại, ở Việt Nam có 5 NHTM được chấp nhận làm đại lý phát
hành và thanh toán thẻ t ín dụng quốc tế của các tổ chức thẻ: VISA, Master Card, Amex,...
4.3 Khó khăn và tồn tại :
Các NHTM trong thời gian qua do vốn ít, khả năng phát triển sản phẩm kém, rủi ro
cao, và hoạt động marketing của ngân hàng còn hạn chế nên sản phẩm được nhiều khách
hàng cá nhân và doanh nghiệp biết đến. Điều đó phần nào dẫn đến tập quán sử dụng các
dịch vụ kiều hối chui của người dân. Và cho đến nay, những hoạt động ngầm này vẫn đang
nắm giữ một nguồn ngoại tệ khá lớn của thị trường
Diễn biến của thị trường ngoại hối trong những năm khủng hoảng kinh tế đầy bất
ồn. Các rủi ro tăng cao khi giá vàng, giá USD liên tục trồi sụt. Các hoạt động găm giữ
ngoại tệ để kiềm giá đã tác động không nhỏ đến các chỉ số tỷ giá. Thị trường xuất nhập
khẩu cũng bị ảnh hưởng rất lớn bởi biến động này, thâm hụt thương mại càng dẫn đến
những chuyển biến xấu trong thị trường ngoại tệ. Tuy tình hình vào đầu năm 2010 đã dần
ổn định nhưng rủi ro vẫn là rất lớn
Biểu đồ 12: Nhập siêu gia tăng
Nguồn: Tổng cục thống kê
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 19/25
Biểu đồ 13: Tiền đồng yếu đi
Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á
Biểu đồ 14: Giá vàng Việt Nam năm 2009
Nguồn: www.giavang.net
Hiện nay, đáp ứng nhu cầu có thực của khách hàng tại Việt Nam về vấn đề chuyển
tiền ra nước ngoài của cá nhân người cư trú và không cư trú, Nhà nước đã có các công văn
hướng dẫn cho các tổ chức tín dụng là ngân hàng trong hoạt động này, nhưng quy định lại
chưa cụ thể dẫn đến khó khăn trong tác nghiệp của ngân hàng. Mỗi ngân hàng tự ra hạn
mức chuyển và hồ sơ chuyển dẫn đến chưa nhất quán trong phục vụ. Hoạt động kiểm soát
của NHNN vẫn chưa đầy đủ, vẫn còn lỗ hổng trong kiểm soát hạn mức chuyển tiền trong
toàn hệ thống ngân hàng đối với khách hàng
Mặc dù thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt Nam, nhưng
còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ
phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp dưới “tầm” tác động của các cơn
gió lớn hay cơn bão t ài chính quốc tế. Tư duy kinh doanh truyền thống còn phổ biến, trong
thực tế, những biến động về tỷ giá, lãi suất được dự báo khá “chắc chắn” và giống nhau
giữa các “nhà” có mặt trên thị trường tài chính và những “sai lệch” dễ dự báo đó được các
bên “cân đối” ngay vào giá của sản phẩm chính như lãi suất, tỷ giá, chứng khoán. Ngoài ra,
tham gia thị trường tài chính Việt nam còn thiếu các nhà đầu tư am hiểu về lợi ích cũng
như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp vụ này. Các nhà môi giới chuyên
nghiệp, các trung gian tài chính đủ năng lực tổ chức thị trường phái sinh còn quá ít trên thị
trường tiền tệ, thị trường tín dụng, thị trường chứng khoán Việt nam để thúc đẩy các nhà
đầu tư tham gia mạnh mẽ vào thị trường phái sinh. Bản thân các khách hàng nói chung, các
doanh nghiệp Việt Nam nói riêng còn dè dặt áp dụng công cụ phái sinh.
=> Thị trường ngoại hối trong những năm gần đây luôn có biến động. Các ngân hàng
kinh doanh các dịch vụ này có thể thu lợi lớn nhưng rủi ro cũng rất cao. Trong khi đó, một
số dịch vụ có tiềm năng nhưng đối tượng tiếp cận là các doanh nghiệp và cả những cá nhân
lại chưa quan tâm. Thị trường dịch vụ này cần được phát triển hơn nữa trong tương lai.
5/ Dịch vụ khác:
Dịch vụ Ngân hàng điện tử: Bắt tay triển khai từ 2005 với sản phẩm đầu tiên là
Internet banking, hiện nay, sản phẩm ngân hàng điện tử đa dạng hóa hơn với Home
banking, Phone banking, SMS banking, Mobile banking và ví điện tử. Hiện nay theo Cục
công nghệ tin học NHNN, có 25/49 tổ chức tín dụng trong nước có triển khai dịch vụ ngân
hàng điện tử nêu trên. Về tiện ích, ngân hàng điện tử giúp tiết kiệm được thời gian và giảm
được phần chi phí phát sinh khi giao dịch trực tiếp. Tuy nhiên, bên cạnh những hứa hẹn về
sự tiện lợi, vấn đề an toàn, bảo mật đang là điều thu hút khá lớn sự quan tâm của khách
hàng của dịch vụ này
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 20/25
Cho thuê tài chính – Finance Leasing: Dịch vụ cho thuê tài chính hay còn gọi là t ín
dụng thuê mua ra đời dựa trên nhu cầu vay vốn mua máy móc, thiết bị và các tài sản có giá
trị lớn của doanh nghiệp để phục vụ cho mục đích kinh doanh. Hình thức đang được áp
dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Ðức, Thụy Ðiển, Úc.. Tại
Việt Nam, sản phẩm này cũng đang gây được sự chú ý của các doanh nghiệp và cả các
ngân hàng. Hiện nay, các ngân hàng như Vietcombank, ACB, Vietinbank, Sacombank đều
đã thành lập công ty chuyên cho thuê tài chính trực thuộc ngân hàng.
Dịch vụ phục vụ cho kinh doanh chứng khoán: Hiện nay, có nhiều dịch vụ ra đời
đáp ứng nhu cầu chơi chứng khoán của khách hàng. Trong đó, nổi bật nhất là dịch vụ quản
lý tài khoản của nhà đầu tư chứng khoán. Dịch vụ này được các ngân hàng thực hiện thông
qua 3 giải pháp kết nối: giải pháp Online, giải pháp Offline, giải pháp đồng bộ số dư. Đồng
thời, đi kèm với dịch vụ là hàng loạt các tiện ích do các ngân hàng cung cấp để tăng tính
hấp dẫn.
Các dịch vụ cho du học: Khi đất nước mở cửa, thu nhập tăng cao thì nhu cầu học
tập tại nước ngoài cũng không ngừng tăng lên. Tính đến gần cuối năm 2009, tại Mỹ có 13
ngàn du học sinh Việt Nam, tăng 46% so với năm 2008, tại Australia là 21 ngàn, tăng 58%
so với cùng kỳ năm ngoái. Đáp ứng nhu cầu thiết thực ấy, các ngân hàng đã tiến hành cho
ra đời các sản phẩm phục vụ cho đối tượng du học sinh này như tư vấn mở tài khoản tại
ngân hàng nước ngoài, tư vấn chuyển tiền, phát hành bankdraft, cho vay du học, chứng
minh tài chính phục vụ cho quá trình xin học và xin thị thực của du học sinh….
Giữ hộ tài sản: Hiện một số ngân hàng đã bắt đầu đưa vào sử dụng dịch vụ này
nhằm đưa ra một giải pháp hiệu quả, an toàn hơn cho khách hàng trong việc cất giữ những
tài sản của mình. Tuy nhiên, lượng khách hàng tham gia dịch vụ này chưa nhiều do tâm lý
và thói quen. Trong tương lai, dịch vụ này có thể sẽ phát triển nhờ những tiện ích mà nó
mang lại.
=> Rất nhiều các loại hình dịch vụ mà các ngân hàng có thể khai thác để cung cấp
cho khách hàng. Tùy vào năng lực và thế mạnh của mình, các ngân hàng có thể lựa chọn
những loại hình phù hợp. Thế nhưng, cần phải xác định rõ tỷ trọng của các loại hình dịch
vụ mới mẻ này để có hướng phát triển phù hợp.
III/ Định hướng phát triển của các dịch vụ ngân hàng:
1/ Những dự đoán về kinh tế thế giới và Việt Nam trong năm 2010:
Theo đánh giá sơ bộ của IMF, kinh tế toàn cầu sẽ phục hồi và tăng 3,1% năm 2010
sau khi giảm 1,1% năm 2009, chủ yếu nhờ các nền kinh tế châu Á với mức tăng trưởng
GDP thực đạt gần 5% sau khi tăng 1,75% trong năm 2009, những nền kinh tế mới nổi khác
có tốc độ phục hồi khiêm tốn. Các nưóc phát triển chỉ tăng 1,25% sau khi giảm 3,5% trong
năm 2009, tỉ lệ thất nghiệp còn cao cho đến cuối năm. Trên toàn cầu, tốc độ phục hồi nhìn
chung rất chậm và hoạt động kinh tế vẫn còn kém xa thời điểm trước khủng hoảng
Còn ở Việt Nam, 22 chỉ tiêu chủ yếu của năm 2010 đã được xác lập với niềm tin và
triển vọng của một nền kinh tế tăng trưởng cao hơn năm 2009, tạo t iền đề để tăng trưởng
nhanh và bền vững trong những năm t iếp theo:
GDP sẽ tăng khoảng 6,5% so với năm 2009 (GDP theo gía trị thực tế khoảng
1.931,3 nghìn tỷ đồng, tương đương 106 tỷ USD, bình quân đầu người trên 1.200USD)
Tổng thu Ngân sách Nhà nước đạt 4.456,4 nghìn tỷ đồng
Tổng chi Ngân sách Nhà nước 581,9 nghìn tỷ đồng
Bội chi Ngân sách Nhà nước 125,5 nghìn tỷ đồng, bằng 6,5% GDP
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 21/25
Tổng nguồn vốn đầu tư phát t riển toàn xã hội bằng khoảng 41,5% GDP
CPI tăng khoảng 7%
Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động.
Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%...
Bên cạnh những mục tiêu lạc quan, sự tăng trưởng của nền kinh tế vẫn còn ẩn chứa
rủi ro:
Xu hướng phục hồi kinh tế thế giới tuy khó có thể đảo ngược nhưng còn bấp bênh
và ẩn chứa nhiều rủi ro. Thị t rường tài chính- tiền t ệ quốc tế vẫn diễn biến phức tạp. Sự mất
giá của USD có thể thúc đẩy sự đầu cơ các đồng tiền khác có lãi suất cao hơn, gây rủi ro
bất ổn cho thị trường tiền tệ các nước. Đây là điều đáng lo ngại đối với Việt Nam có nền
kinh tế đã độ mở lớn với kinh tế thế giới:
Nguy cơ lạm phát cao trong năm 2010 do kích thích kinh tế và nới lỏng tiền tệ để
ngăn chặn suy giảm tăng trưởng trong năm 2009. Với độ trễ của mức tăng tín dụng gần
38% năm 2009 và gói cho vay hỗ trợ lãi suất 438 nghìn tỉ thì đến giữa năm 2010 có thể gây
áp lực rất lớn lên chỉ số lạm phát.
Nhu cầu nhập siêu tăng do phục hồi sản xuất, đảm bảo chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế.
2/ Định hướng phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam:
Xây dựng một môi trường pháp lý ngân hàng trong nước hấp dẫn với các cơ chế
chính sách nhất quán, có quy định quyền sở hữu rõ ràng, công tác thanh tra giám sát an
toàn với mức độ độc lập cao, chế độ báo cáo và kiểm toán minh bạch, tạo lập một sân chơi
bình đẳng và hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh để tất cả các ngân hàng (trong nước và
nước ngoài) phát t riển.
Nâng cao tỷ trọng đầu tư từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực khác
nhằm phát triển hạ tầng cho dịch vụ tài chính, ngân hàng; tập trung phát triển nguồn nhân
lực có chất lượng cao, góp phần tạo điều kiện hình thành các trung tâm tài chính - tiền tệ
quy mô lớn và tăng đóng góp của dịch vụ tài chính - ngân hàng vào tổng sản phẩm trong
nước.
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán. Tích cực xúc tiến
thương mại điện tử và phát triển dịch vụ ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ thông
tin, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng điện tử, tự động; tiếp tục nâng cấp m ạng diện rộng và
hạ tầng công nghệ thông tin với các giải pháp kỹ thuật và phương thức truyền thông phù
hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam và các chuẩn mực, thông lệ
quốc tế. Hoàn thiện và phát triển các hình thức quản lý nghiệp vụ ngân hàng cơ bản; các
quy trình, thủ tục quản lý và tác nghiệp theo thông lệ, chuẩn mực quốc t ế; đồng thời theo
hướng hiện đại, tự động hoá và được tích hợp trong hệ thống quản trị ngân hàng hoàn chỉnh
và tập trung; tăng cường hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng. Xây
dựng và triển khai các đề án, dự án liên kết, phát triển hệ thống máy rút tiền tự động ATM.
Phát triển các công ty dịch vụ thẻ ngân hàng và các mô hình tổ chức thanh toán thích hợp;
cải cách hệ thống kế toán ngân hàng hiện hành theo các chuẩn mực kế toán quốc tế, đặc
biệt là các vấn đề phân loại nợ theo chất lượng/mức độ rủi ro, trích lập dự phòng rủi ro,
hạch toán thu nhập/chi phí.
Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính của các NHTM, t rong đó chú trọng
xây dựng cơ chế kiểm soát t ín dụng hữu hiệu, đặc biệt là ngăn chặn nợ xấu gia tăng và biện
pháp xử lý rủi ro tín dụng; Thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo thông
lệ quốc tế và lập báo cáo tài chính theo tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế. Tiến hành cổ
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 22/25
phần hoá các NHTM quốc doanh theo lộ trình đã được phê duyệt. Một số NHTM nhà nước
có mục tiêu hoạt động giống nhau và mạng lưới chi nhánh trùng lắp có thể áp dụng giải
pháp sáp nhập, hợp nhất và các giải pháp thích hợp khác. Nâng cao hiệu lực quản lý và
tăng cường năng lực quản trị rủi ro. Xây dựng hệ thống quản lý rủi ro thanh khoản; rủi ro
thị trường, lãi suất, tỷ giá hối đoái; rủi ro tín dụng.
Tiếp tục phát triển các dịch vụ hiện có và triển khai thêm các loại hình dịch vụ mới
như tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội so
với các sản phẩm trên thị trường nhằm tạo ra sự khác biệt trong cạnh tranh.
Phát triển cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng sang các nước trong khu vực, tiến
tới hình thành các tập đoàn tài chính đa quốc gia nhằm tranh thủ nguồn vốn tại các nước
này.
3/ Định hướng thị trường dịch vụ ngân hàng Việt Nam:
Bên cạnh những định hướng chung của ngành ngân hàng, thị trường dịch vụ ngân
hàng cũng cần cho mình những định hướng cụ thể để có thể không ngừng mở rộng.
3.1/ Định hướng phát triển dịch vụ huy động vốn
Mục tiêu trước mắt cũng như về lâu dài của hệ thống ngân hàng Việt Nam là đảm
bảo vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước góp phần thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện m ục tiêu này, mỗi ngân hàng cần phải chủ
động xây dựng chiến lược phát triển vốn dài hạn phù hợp với nhu cầu và khả năng của
mình, đặc biệt chú trọng khai thác huy động vốn trong dân cư - thị trường đầy tiềm năng.
Một số định hướng về phát triển dịch vụ huy động vốn trong dân cư là:
Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để huy động tối đa các nguồn tiền nhàn
rỗi trong dân cư hiện nay đang được tích trữ dưới dạng vàng, các loại ngoại tệ để đáp ứng
nhu cầu tín dụng của nền kinh tế đồng thời làm chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo hướng
tăng tỷ trọng tiền đồng trong tổng nguồn vốn.
Tiếp tục đưa ra các loại sản phẩm huy động vốn mới có hàm lượng công nghệ cao
và mang nhiều tiện ích cho khách hàng như: sản phẩm tiết kiệm tích luỹ, tiết kiệm bảo
hiểm, Autobank deposit (hiện nay đã có ngân hàng VIETCOMBANK triển khai), huy động
vốn chi trả tại nhà với mức từ 50 triệu đồng trở lên (đã có một số ngân hàng cổ phần triển
khai)… trong đó chú trọng tới việc giảm chi phí huy động vốn, cải cách các thủ tục giao
dịch ngân hàng đảm bảo nhanh, gọn nhưng phải đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Tăng cường mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch, mở các trung tâm
liên hệ giữa ngân hàng với khách hàng để có thể phục vụ các tầng lớp dân cư một cách tốt
nhất.
Đào tạo và xây dựng hệ thống nhân viên ngân hàng thông thạo về nghiệp vụ cũng
như trình độ ngoại ngữ, tin học, nâng cao mức độ tư vấn của cán bộ ngân hàng đối với
khách hàng …
Tăng cường quảng bá rộng rãi, tập trung tiếp thị, chào bán sản phẩm đối với các
khách hàng cá nhân
Xây dựng các chính sách thưởng đối với các khách hàng truyền thống nhằm khuyến
khích, động viên mọi người dân gửi tiền qua ngân hàng thông qua những hình ảnh tốt đẹp
của ngân hàng, những dịch vụ tiện ích, phù hợp nhu cầu thiết thực của người dân.
Bên cạnh việc huy động vốn trong dân cư, các ngân hàng vẫn tiếp tục củng cố và
duy trì các nguồn huy động khác thông qua chất lượng dịch vụ. Đồng thời, nâng cao khả
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 23/25
năng phân tích và đánh giá các biến động tài chính, kinh tế cũng là việc rất cần thiết để loại
bỏ những yếu tố rủi ro từ môi trường bên ngoài
3.2/ Định hướng phát triển dịch vụ tín dụng:
Phát triển rộng rãi dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong đó chú trọng phát triển các dịch
vụ tín dụng tiêu dùng như cho vay thế chấp nhà, cho vay tín chấp, cho vay trả góp, cho vay
thấu chi qua thẻ tín dụng, cho vay cầm cố sổ tiết kiệm…Cần có một chính sách khách hàng
nhất quán để có thể quản lý tập trung và phân đoạn khách hàng theo từng mạng lưới chi
nhánh.
Phát triển các sản phẩm tín dụng mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại như: tài
khoản cá nhân kết hợp với các dịch vụ gia tăng như trả lương, thẻ, sao kê, trả các hoá đơn
dịch vụ; các sản phẩm đầu tư, quản lý tài sản, tài khoản đầu tư tự động, quản lý vốn tập
trung, phát triển các tiện ích mới của thẻ ATM , phát triển các dịch vụ cho vay bảo lãnh,
các sản phẩm cho vay cầm cố, thế chấp.
Tiếp tục mở rộng tín dụng và tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng vay thuộc
mọi thành phần kinh tế đặc biệt cho đối tượng là các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng trên nguyên tắc thị trường. Xoá bỏ bao cấp tín
dụng, từng bước thu hẹp đối tượng vay vốn ưu đãi, tách bạch một cách rõ ràng tín dụng
chính sách và tín dụng thị trường. Bảo đảm để đa số các khoản vay được thực hiện t rên cơ
sở phân tích tài chính chứ không phải từ các quyết định mang tính chính trị kể cả các khoản
cho vay đối với khu vực tư nhân để bảo đảm tính hợp lý và khả năng thanh toán của hệ
thống tài chính vì lợi ích lâu dài của toàn bộ nền kinh tế.
Đa dạng hoá các dịch vụ tín dụng dành cho các doanh nghiệp và dân cư, tạo cơ hội
cho mọi tổ chức cá nhân có nhu cầu vay vốn, làm ăn hợp pháp và có đủ điều kiện trả nợ
ngân hàng đều được tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng một cách thuận lợi. Nghiên cứu, xây
dựng và triển khai các chương trình t ín dụng dành cho khu vực kinh tế tư nhân. Các tổ chức
tín dụng mở rộng kinh doanh đến mọi đối tượng, đặc biệt chú trọng tới khu vực nông
nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để các tầng lớp dân cư có
điều kiện t iếp cận với nguồn vốn ngân hàng. Đồng thời các TCTD phải nghiêm túc tuân thủ
tuyệt đối các giới hạn về an toàn hoạt động ngân hàng.
Đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng, thủ tục cấp tín dụng theo hướng đơn giản,
thuận tiện, phù hợp với đặc điểm kinh doanh và nhóm khách hàng của TCTD. Những qui
định và thủ tục rõ ràng, đơn giản hơn cũng sẽ làm giảm đi những chi phí giao dịch, tránh
được tâm lý e ngại của khách hàng khi vay vốn.
3.3/ Định hướng phát triển dịch vụ thanh toán
Phát triển mạnh các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, đặc biệt là sản phẩm thẻ,
cheque, nhằm tăng cường tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trên cơ sở hệ thống công
nghệ kỹ thuật và hệ thống thanh toán ngân hàng hiện đại, an toàn, tin cậy, hiệu quả, phù
hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, nâng cao các tiện ích thanh toán qua
ngân hàng để khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt là các tầng lớp dân cư sử dụng
dịch vụ thanh toán qua ngân hàng nhằm giảm thiểu lưu thông tiền mặt.
Ngành Ngân hàng phải sớm hình thành Trung tâm thanh toán quốc gia để nhất thể
hoá phương tiện thanh toán điện tử qua Ngân hàng - Tăng cường sự liên kết và hợp tác của
các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán, đặc biệt sớm hình thành hệ thống chuyển mạch
thanh toán thẻ thống nhất để trung tâm này sớm thực sự trở thành trung tâm kết nối thanh
toán giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với cá nhân, giữa cá nhân với
nhau và giữa ngân hàng với ngân hàng. Đồng thời, số lượng các đơn vị chấp nhận thẻ cần
phải được tăng nhiều hơn nữa để đảm bảo cho các chủ thẻ có thể dùng thẻ của mình thanh
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 24/25
toán ở tất cả các trung tâm thương mại, nhà hàng, siêu thị…bằng cách có sự kết hợp chặt
chẽ giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng với các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức
cung ứng dịch vụ, hàng hoá tiêu dùng trong xã hội.
Các ngân hàng cần thường xuyên xem xét và điều chỉnh các quy định liên quan đến
các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt để luôn phù hợp với điều kiện thực tế, làm
cho khách hàng cảm thấy thực sự tiện lợi và an toàn khi sử dụng các phương tiện đó. Các
ngân hàng cũng phải có những phương án cụ thể để ứng phó với những trường hợp khẩn
cấp, tạo niềm tin cho khách hàng sử dụng dịch vụ. Phải có các biện pháp an toàn mạng,
đảm bảo bí mật cá nhân trong giao dịch điện tử. Có chế độ an ninh hữu hiệu chống sự xâm
nhập của các hacker để đảm bảo việc sử dụng các phương tiện thanh qua các giao dịch điện
tử.
Tuyên truyền về các tiện ích trong thanh toán không dùng tiền mặt cho các tầng lớp
dân cư. Cần lập kế hoạch cùng với các tổ chức khác trong việc hỗ trợ, nâng cao trình độ
dân trí nhằm tạo nhu cầu về dịch vụ ngân hàng trên thị trường. Mặc dù để thay đổi thói
quen cũ của người dân, giúp họ tự giác tiếp cận với dịch vụ hiện đại không phải dễ dàng
nhưng khách hàng dù là cá nhân hay doanh nghiệp sẽ đón nhận các dịch vụ thanh toán
không bằng tiền khi họ thực sự thấy được lợi ích của những hoạt động này mang lại tiêu chí
như rẻ, nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi.
3.4/ Định hướng phát triển dịch vụ ngoại hối
Tập trung tối đa các nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để đáp ứng tốt nhất các
nhu cầu chi tiêu ngoại tệ hợp lý của các doanh nghiệp và cá nhân, đồng thời kiểm soát một
cách có hiệu quả chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế để góp phần giảm bớt tình trạng đô
la hoá. Bảo đảm quyền sở hữu, mua, bán và sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp và cá
nhân theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục tạo điều kiện khuyến khích tối đa luồng tiền kiều hối chuyển về nước. Đa
dạng hoá các hình thức huy động kiều hối chuyển về như qua ngân hàng, qua tài khoản của
các tổ chức, cá nhân…;đẩy mạnh quan hệ hợp tác với nước ngoài, nâng cao chất lượng
dịch vụ ngân hàng như chuyển nhanh, chuyển t rả t rực tiếp, giảm phí chuyển tiền, đơn giản
hoá các thủ tục nhận tiền, mạng lưới chi trả phát triển rộng khắp; Song song với quá trình
tăng cường các tiện ích trong quản lý ngoại hối, cần hạn chế, tiến tới xoá bỏ tín dụng ngoại
tệ, trước mắt là t ín dụng ngoại tệ ngắn hạn.
Về mặt dài hạn để chống tình trạng đôla hoá, cần thực hiện chính sách kiều hối cho
phép người thụ hưởng nhận bằng ngoại tệ. Song song đó là phát triển các dịch vụ ngoại hối
thu hút ngoại tệ quay ngược trở lại ngân hàng như tiết kiệm, đầu tư, chuyển đổi VND với
chính sách tỷ giá hợp lý, linh hoạt. Bên cạnh đó, chính sách tiết kiệm ngoại tệ cũng phải
thống nhất chỉ cho phép người gửi tiết kiệm ngoại tệ tại ngân hàng, số ngoại tệ trên tài
khoản được phép chi tiêu ở nước ngoài hoặc thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng để bảo
toàn vốn nhưng khi rút ra để chi tiêu trong nước chỉ thực hiện bằng tiền đồng với tỷ giá hợp
lý, khuyến khích khách hàng bán cho ngân hàng.
Mở rộng các dịch vụ ngân hàng quốc tế, tăng cường tuyên truyền và khuyến khích
khách hàng sử dụng các sản phẩm phái sinh để đầu tư hoặc giảm rủi ro tỷ giá hay đảm bảo
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu,
3.5/ Định hướng phát triển các loại hình dịch vụ khác:
Theo cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập, có 12 danh mục sản phẩm
dịch vụ mà Việt Nam cần đáp ứng. Trong đó, ngoài các dịch vụ kể trên thì các dịch vụ còn
lại bao gồm:
GVGD: PGS.TS.Vũ Thị Minh Hằng
Nhóm 9 – Đêm 1 K19
Pg 25/25
Môi giới tiền tệ;
Quản lý tài sản, như quản lý tiền mặt hoặc danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý
đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác;
Các dịch vụ thanh toán bù trừ tài sản tài chính, bao gồm chứng khoán, các sản phẩm
phái sinh và các công cụ chuyển nhượng khác;
Cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính và phần mềm
liên quan của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác
Các dịch vụ tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác
Những sản phẩm, dịch vụ này cũng đã bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam, tuy nhiên, thị
trường cón quá nhỏ bé. Chính vì thế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phát triển các dịch
vụ này và coi đây là các dịch vụ bổ trợ quan trọng trong chiến lược kinh doanh của các
ngân hàng Việt Nam nhằm đa dạng hoá cơ cấu nguồn thu, đa dạng hoá hoạt động kinh
doanh, mở rộng cơ sở khách hàng góp phần nâng cao khả năng chuyển đổi, phòng ngừa rủi
ro, tăng thu nhập cho ngân hàng.
Đồng thời, ngân hàng có thể phát triển hệ thống dịch vụ đa dạng gắn kết với các
dịch vụ tài chính phi ngân hàng để hình thành nên hệ thống dịch vụ ngân hàng trọn gói, đa
dạng đáp ứng nhu cầu của xã hội về dịch vụ tài chính, khuyến khích các tổ chức, cá nhân
tiết kiệm và đầu tư có hiệu quả các tài sản tiết kiệm trên cơ sở mở rộng quyền tiếp cận dịch
vụ tài chính, ngân hàng và cơ hội kinh doanh.
Phát triển các dịch vụ trên thị trường tài chính, chủ yếu trên thị trường chứng khoán
cũng có thể là một hướng đi tiềm năng cho dịch vụ ngân hàng. Một điều rõ nét và dễ nhận
thấy đó là đến nay đã có 15 ngân hàng thương mại thành lập và đưa vào hoạt động có hiệu
quả công ty chứng khoán trực thuộc. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại cũng phối
hợp với các công ty chứng khoán thực hiện dịch vụ cho vay cầm cố cổ phiếu, cầm cố
chứng khoán để đầu tư chứng khoán. Một số ngân hàng thương mại còn liên doanh với một
số định chế tài chính nước ngoài thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán, như: Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương tín,...
=> Tóm lại: Thị trường tài chính Việt nam đã đang và sẽ ngày càng phát triển cả về qui
mô, hình thức, chất lượng và cấu trúc tham gia thị trường. Theo lộ trình gia nhập WTO,
Việt nam đang và sẽ thực hiện đối xử công bằng giữa các TCTD trong nước và TCTD
nước ngoài về các dịch vụ ngân hàng theo hướng loại bỏ căn bản các hạn chế tiếp cận thị
trường dịch vụ ngân hàng trong nước; Hoàn thiện các loại hình TCTD, phương thức và
hình thức cung cấp dịch vụ ngân hàng có hiệu quả để bảo đảm khả năng tiếp cận của các
thành phần khách hàng đến với dịch vụ ngân hàng, đồng thời hỗ trợ cho các đối tượng
chính sách, đối tượng ưu tiên có khả năng tạo ra tăng trưởng và năng lực cạnh tranh cho
nền kinh tế. Phát triển dịch vụ ngân hàng trong dân cư là một bộ phận cấu thành trong yếu
trong chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng nói chung nhằm cải thiện rõ rệt nền văn minh
ngân hàng ở Việt nam và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường hàng hoá, dịch vụ
đời sống trong xã hội với các dịch vụ ngân hàng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_tttte_nhom_9_9008.pdf