Tiểu luận Tìm hiểu về hiệp định Trims

Thứnhất, tăng cường hơn nữa tính minh bạch và chiến lược của doanh nghiệp. Đểtăng cường tính minh bạch và khảnăng dự đoán của pháp luật, ngoài việc công khai lộtrình cam kết gia nhập WTO, Việt Nam cần công bốcác chương trình luật pháp có liên quan cho tất cảcác doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong lập kếhoạch xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, cần cải cách các chính sách liên quan đến đầu tưtheo hướng giảm thiểu, tiến tới xoá bỏcác rào cản trái với quy định của WTO. Thứhai, xây dựng quy chếphê duyệt và quản lý dựán đầu tưthông thoáng đơn giản và hiệu quả. Quá trình thực hiện Hiệp định TRIMs khi gia nhập WTO đòi hỏi cần cải cách mạnh mẽhành chính, nâng cao năng lực của các cơquan có thẩm quyền liên quan, tạo dựng môi trường pháp lý ổn định ràng buộc trách nhiệm của cảcơquan chức năng và nhà đầu tư từ đó giảm được tối đa các rào cản hành chính và cũng đồng thời làm giảm chi phí đầu tư, tận dụng được các cơhội đầu tưthuận lợi, nâng cao hiệu quả đầu tưcho các nhà đầu tư.

pdf18 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5306 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu về hiệp định Trims, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 TIÊU LUẬN TÌM HIỂU VỀ HIỆP ĐỊNH TRIMS 2 MỤC LỤC I) KHÁI QUÁT VỀ HIỆP ĐỊNH TRIMs......................................................................2 1)TRIMs là gì ? ........................................................................................................2 2) Hoàn cảnh ra đời ..................................................................................................2 3) Mục đích .............................................................................................................. 2 4) Áp dụng................................................................................................................ 2 5) Ý nghĩa ................................................................................................................4 II) NỘI DUNG CỦA HIỆP ĐỊNH ...............................................................................4 Điều 1 .......................................................................................................................4 Điều 2 .......................................................................................................................5 Điều 3 .......................................................................................................................8 Điều 4 ....................................................................................................................... 8 Điều 5 ....................................................................................................................... 8 Điều 6 .......................................................................................................................9 Điều 7 .....................................................................................................................10 Điều 8 .....................................................................................................................10 Điều 9 .....................................................................................................................10 III) LIÊN HỆ VIỆT NAM ..........................................................................................11 1.Cam kết của Việt Nam đối với Hiệp định TRIMs ..............................................11 2.Tình hình thực hiệp định TRIMS tại Việt Nam và vấn đề đặt ra ........................13 3.Các biện pháp thích nghi của Việt Nam .............................................................15 3.1) Nhóm giải pháp liên quan đến đầu vào của các ngành công nghiệp............ 15 3.2) Nhóm giải pháp liên quan đến phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ ...16 3.3) Nhóm giải pháp liên quan đến quản lý vĩ mô và chiến lược doanh nghiệp..17 3 I) Khái quát hiệp định TRIMS : 1) TRIMS là gì ? TRIMs (The Agreement on Trade-Related Investment Measures) là các biện pháp liên quan đến thương mại bao gồm các quy định của nước nhận đầu tư đối với đầu tư nước ngoài có tác động tới các luồng trao đổi hàng hóa nhập khẩu có tính phù hợp cao đối với vấn đề tiếp nhận đầu tư giữa các nước.. 2) Hoàn cảnh ra đời : Hiệp định TRIMs đã được ký kết vào cuối vòng đàm phán Urugoay và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1995. Sự ra đời của hiệp định này được coi là bước thoả hiệp ban đầu của quan điểm các nước phát triển và đang phát triển về việc đưa ra quy định điều chỉnh hoạt động đầu tư nhằm hạn chế trở ngại cho thương mại quốc tế. 3) Mục đích : Điều khoản của Hiệp định GATT 1994 đã đưa ra một số biện pháp dẫn đến những tác động bóp méo và hạn chế thương mại quốc tế nên Hiệp định TRIMs đã ra đời nhằm giúp tránh các tác động có hại đó. TRIMs thường được áp dụng tại các nước đang phát triển, những nước mà vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được quan tâm hàng đầu. Vì sự phát triển của đất nước, bảo vệ và tăng cường khả năng cạnh tranh của các công ty nội địa, đồng thời để đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, Chính phủ các nước đang phát triển thường áp dụng TRIMs. Trong GATT 1994 cũng đã quy định cấm áp dụng các biện pháp đầu tư vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nghĩa vụ loại bỏ các hạn chế định lượng, nhưng phạm vi không được xác định rõ ràng. Trong Hiệp định TRIMs các quy định trở nên rõ ràng hơn bằng việc đưa ra một danh sách minh hoạ các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại cấm áp dụng đối với các nước thành viên WTO. Mục tiêu chính của hiệp định là nhằm thúc đẩy việc mở rộng, phát triển tự do hoá đầu tư và thương mại quốc tế để tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả các nước tham gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, trên cơ sở đảm bảo tự do cạnh tranh. Ngoài ra, hiệp định cũng có tính đến các nhu cầu cụ thể về thương mại, phát triển và khả năng tài chính của các nước thành viên đang phát triển, nhất là các nước thành viên kém phát triển. 4 4) Áp dụng: Hiệp định này chỉ áp dụng đối với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hàng hoá. Trong GATT 1994 cũng đã quy định cấm áp dụng các biện pháp đầu tư vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nghĩa vụ loại bỏ các hạn chế định lượng, nhưng phạm vi không được xác định rõ ràng. Trong Hiệp định TRIMs các quy định trở nên rõ ràng hơn bằng việc đưa ra một danh sách minh hoạ các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại cấm áp dụng đối với các nước thành viên WTO. Nhóm biện pháp Ví dụ minh họa Những yêu cầu về hàm lượng nội địa Yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng một tỷ lệ nhất định nguyên liệu đầu vào có xuất xứ trong nước hoặc từ các nguồn nội địa Những yêu cầu về cân đối thương mại Yêu cầu doanh nghiệp phải đảm bảo khối lượng hoặc trị giá sản phẩm nhập khẩu tương đương với khối lượng, trị giá sản phẩm xuất khẩu Những yêu cầu về cân đối ngoại hối Quy định ngoại hối phục vụ nhập khẩu phải ở một tỷ lệ nhất định so với giá trị ngoại hối mà doanh nghiệp thu được từ xuất khẩu và từ các nguồn khác Những yêu cầu về ngoại hối Hạn chế việc tiếp cận nguồn ngoại hối của doanh nghiệp - hạn chế nhập khẩu Những yêu cầu về tiêu thụ trong nước Yêu cầu doanh nghiệp phải đảm bảo rằng khối lượng hoặc trị giá sản phẩm tiêu thụ trong nước tương đương với sản phẩm xuất khẩu – hạn chế xuất khẩu Những yêu cầu về sản xuất Yêu cầu một số loại sản phẩm phải được sản xuất trong nước Những yêu cầu về xuất khẩu Yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu Những yêu cầu bắt buộc về loại sản phẩm Yêu cầu nhà đầu tư phải cung cấp cho những thị trường nhất định một hoặc một số sản phẩm được chỉ định hoặc được sản xuất/cung cấp bởi một nhà sản xuất/cung cấp nhất định Những hạn chế về sản xuất Quy định cấm doanh nghiệp không được sản xuất một số sản phẩm hoặc loại sản phẩm nhất định ở nước nhận đầu tư Những yêu cầu về chuyển giao công nghệ Yêu cầu phải chuyển giao bắt buộc một số loại công nghệ nhất định (không theo các điều kiện thương mại thông thường) và/hoặc yêu cầu các loại hoặc mức độ nghiên cứu và phát triển (R&D) phải được thực hiện ở nước nhận đầu tư Những yêu cầu về việc chuyển giao quyền sử dụng bằng sáng chế (li-xăng) Quy định buộc nhà đầu tư phải chuyển giao công nghệ tương tự hoặc không liên quan đến công nghệ mà họ đang sử dụng tại nước 5 đầu tư cho doanh nghiệp tại nước nhận đầu tư. Những hạn chế về chuyển lợi nhuận ra nước ngoài Hạn chế quyền của nhà đầu tư trong việc chuyển lợi nhuận thu được từ đầu tư về nước Những yêu cầu về tỷ lệ vốn trong nước Ấn định một tỷ lệ nhất định vốn của doanh nghiệp phải do nhà đầu tư trong nước nắm giữ. 5) Ý nghĩa : Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại là vấn đề có ý nghĩa to lớn. Thực hiện nghĩa vụ của hiệp định TRIMs sẽ xoá bỏ rào cản đối với đầu tư nước ngoài (FDI), tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia vào các ngành công nghiệp, chế biến nông sản và nhất là dịch vụ có lợi thế. Việc điều chỉnh chính sách nhằm xoá bỏ yêu cầu cân đối thương mại và cân đối ngoại tệ cũng là điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành hàng có lợi thế xuất khẩu. Từ thực tiễn ở nhiều quốc gia, trong thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp FDI thường mở mang những ngành nghề mới, thực hiện chuyển giao công nghệ và kỹ năng sản xuất kinh doanh cho lao động của nước sở tại nhằm thu được lợi nhuận cao. Mở mang phát triển những ngành nghề mới áp dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi lao động có trình độ kỹ thuật cao, buộc lực lượng lao động trẻ phải tự học hỏi vươn lên để có việc làm. Đây cũng chính là là cơ hội để nâng cao trình độ nguồn nhân lực nước ta khi vào WTO. Gia nhập WTO, dịch vụ sẽ là khu vực có độ mở cao. Đón nhận dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI sẽ đến cùng với công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nhà đầu tư, xu hướng này cũng tạo nhiều thuận lợi để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng phát triển các ngành dịch vụ. Sự tăng trưởng các ngành dịch vụ, đến lượt mình lại tạo điều kiện để tăng sức hấp dẫn và nâng cao khả năng cạnh tranh trong thu hút nguồn vốn FDI. Các nguồn đầu tư được phân phối lại theo hướng hiệu quả cho phép phát triển nhanh những ngành hàng có lợi thế cạnh tranh, đi theo hướng này, nước ta có thể mở rộng một số dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động. Khi vào WTO, thị trường mở rộng, người tiêu dùng trong nước được tiếp cận với những dịch vụ đa ngành với giá thấp và chất lượng tốt sẽ là cơ hội để giảm chi phí sản xuất và quan trọng là nâng cao được sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam. 6 II) NỘI DUNG CỦA HIỆP ĐỊNH Điều 1: Phạm vi. Hiệp định này chỉ áp dụng đối với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hàng hoá (trong Hiệp định này được gọi là "TRIMs"). Điều 2:Đối xử quốc gia và những hạn chế về số lượng. Khoản 1: Không làm phương hại đến quyền lợi và nghĩa vụ qui định tại GATT 1994, không một Thành viên nào được phép áp dụng TRIMs trái với các qui định tại Điều III hoặc Điều XI của GATT 1994. Điều III GATT 94 (Đối xử quốc gia về thuế và quy tắc trong nước) quy định: - Thuế và các khoản thu nội địa áp dụng cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trong nước không được cao hơn thuế và các khoản thu nội địa áp dụng cho các doanh nghiệp nội địa. Trừ trường hợp khoản thuế hoặc khoản thu nội địa đó có thoả thuận cụ thể cho phép duy trì căn cứ vào một Hiệp định thương mại có giá trị hiệu lực vào ngày 10 tháng 4 năm 1947, theo đó các khoản thuế và khoản thu nội địa này đã được cam kết trần, không tăng lên cho đến khi hiệp định thương mại này hết hiệu lực. - Các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào trong nước sẽ được hưởng đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho các doanh nghiệp nội địa về mặt luật pháp, quy tắc và các quy định tác động đến bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng hàng trên thị trường nội địa. - Nước nhận đầu tư không được áp dụng hay duy trì một quy tắc định lượng nội địa nào với pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm tính theo khối lượng cụ thể hay theo tỷ lệ, trực tiếp hay gián tiếp đòi hỏi một khối lượng hay tỷ lệ nhất định của bất cứ một sản phẩm nào chịu sự điều chỉnh của quy tắc đó phải được cung cấp từ nguồn nội địa. Tuy nhiên, quy định này sẽ không áp dụng với những quy tắc (định lượng nội địa) có hiệu lực trên lãnh thổ của bất cứ bên ký kết nào vào ngày 1 tháng 7 năm 1939, ngày 10 tháng 4 năm 1947 hay ngày 24 tháng 3 năm 1948 tuỳ bên ký kết liên quan chọn; miễn là các quy tắc đó sẽ không bị điều chỉnh bất lợi hơn cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và chúng sẽ được xem như là một khoản thuế quan để tiếp tục đàm phán. 7 - Nước nhận đầu tư không được áp dụng hay duy trì một quy tắc định lượng nội địa nào điều chỉnh việc pha trộn, chế biến tính theo khối lượng hay tỉ lệ để phân bổ các khối lượng hay tỷ lệ nêu trên theo xuất xứ của nguồn cung cấp. - Các quy định của Điều khoản này sẽ không áp dụng với việc các cơ quan chính phủ mua sắm nhằm mục đích cho tiêu dùng của chính phủ chứ không phải để bán lại nhằm mục đích thương mại hay đưa vào sản xuất nhằm mục đích thương mại. - Các quy định của điều khoản này sẽ không ngăn cản việc chi trả các khoản trợ cấp chỉ dành cho các nhà sản xuất nội địa, kể cả các khoản trợ cấp dành cho các nhà sản xuất nội địa có xuất xứ từ các khoản thu thuế nội địa áp dụng phù hợp với các quy định của điều khoản này và các khoản trợ cấp thực hiện thông qua việc chính phủ mua các sản phẩm nội địa. - Các quy định của điều này không ngăn cản các bên ký kết định ra hay duy trì các quy tắc hạn chế số lượng nội địa liên quan tới số lượng phim trình chiếu áp dụng theo đúng các quy định của Điều IV GATT 1994 - Điều XI GATT 1994 (Đối xử quốc gia về thuế và quy tắc trong nước) quy định: 1) Ngoại trừ thuế quan và các khoản thu khác (thủ tục hải quan…), không được áp dụng các hình thức hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu khác như hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu… 2) Các quy định của Khoản 1 trong điều khoản này sẽ không được áp dụng với các trường hợp dưới đây: a) Cấm hay hạn chế xuất khẩu tạm thời áp dụng nhằm ngăn ngừa hay khắc phục sự khan hiếm trầm trọng về lương thực hay các sản phẩm khác mang tính trọng yếu đối với với bên ký kết đang xuất khẩu. b) Cấm hay hạn chế xuất khẩu cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn hay quy chế về phân loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản phẩm trên thị trường quốc tế. c) Hạn chế nhập khẩu nông sản hay thuỷ sản dù nhập khẩu dưới bất cứ hình thức nào nhằm triển khai các biện pháp của chính phủ được áp dụng: 8 -để hạn chế số lượng các sản phẩm nội địa tương tự được phép tiêu thụ trên thị trường hay sản xuất, hoặc là nếu không có một nền sản xuất trong nước đáng kể, thì để hạn chế số lượng một sản phẩm nội địa có thể bị sản phẩm nhập khẩu trực tiếp thay thế; hoặc -để loại trừ tình trạng dư thừa một sản phẩm nội địa tương tự, hoặc nếu không có nền sản xuất một sản phẩm nội địa tương tự, thì để loại trừ tình trạng dư thừa một sản phẩm nhập khẩu trực tiếp thay thế, bằng cách đem số lượng dư thừa để phục vụ một nhóm người tiêu dùng miễn phí hay giảm giá dưới giá thị trường; hoặc - để hạn chế số lượng cho phép sản xuất với một súc sản mà việc sản xuất lại phụ thuộc trực tiếp một phần hay toàn bộ vào một mặt hàng nhập khẩu, nếu sản xuất mặt hàng đó trong nước tương đối nhỏ. Bất cứ một bên ký kết nào khi áp dụng hạn chế nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào theo nội dung điểm (c) của khoản này sẽ công bố tổng khối lượng hay tổng trị giá của sản phẩm được phép nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định trong tương lai và mọi thay đổi về số lượng hay trị giá nói trên. Khoản 2. Một danh mục minh họa TRIMs không phù hợp với các nghĩa vụ về đối xử quốc gia qui định tại Khoản 4, Điều III của GATT 1994 và nghĩa vụ loại bỏ chung các biện pháp hạn chế về số lượng qui định tại Khoản 1, Điều XI của GATT 1994 được nêu tại Phụ lục của Hiệp định này. Danh mục minh họa các biện pháp TRIMs trái với nghĩa vụ đãi ngộ quốc gia 1. TRIMs không phù hợp với các nghĩa vụ về đối xử quốc gia được qui định tại Điều III của GATT 1994 bao gồm những biện pháp hoặc các điều kiện mà chỉ khi tuân thủ các điều kiện này mới được hưởng một ưu đãi nào đó, và biện pháp này qui định: a. Yêu cầu tỉ lệ nội địa hóa:doanh nghiệp nước ngoài phải mua hoặc sử dụng các sản phẩm có xuất xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước, dù yêu cầu đó được xác định theo sản phẩm nhất định, theo số lượng hoặc giá trị sản phẩm hoặc theo tỷ lệ về số lượng hoặc giá trị của sản xuất trong nước; hoặc b. Yêu cầu cân bằng thương mại: doanh nghiệp nước ngoài chỉ được mua hoặc sử dụng các sản phẩm nhập khẩu được giới hạn trong một tổng số tính theo số lượng hoặc giá trị sản phẩm nội địa mà doanh nghiệp này xuất khẩu. 9 2. TRIMs không phù hợp với nghĩa vụ loại bỏ chung các biện pháp hạn chế về số lượng được qui định tại Khoản 1, Điều XI của GATT 1994 bao gồm những biện pháp hoặc các điều kiện mà chỉ khi tuân thủ với các điều kiện này mới được hưởng một ưu đãi nào đó, và biện pháp này là: a. Hạn chế về nhập khẩu: hạn chế doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu sản phẩm để sử dụng liên quan đến việc sản xuất ,dưới hình thức hạn chế chung hoặc đưa ra hạn nghạch nhập khẩu theo số lương hoặc giá trị sản xuất trong nước của loại hàng hóa mà doanh nghiệp này sản xuất; b. Hạn chế về giao dịch ngoại hối: hạn chế khả năng tiếp cận đến nguồn ngoại hối liên quan đến nguồn thu ngoại hối của doanh nghiệp nước ngoài; c. Hạn chế về xuất khẩu: hạn chế doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu hoặc bán để xuất khẩu các sản phẩm, dưới hình thức sản phẩm cụ thể, số lượng, giá trị sản phẩm, tỷ lệ về số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước của doanh nghiệp. Điều 3:Các ngoại lệ Trong trường hợp thích hợp, tất cả các ngoại lệ qui định tại GATT 1994 được áp dụng đối với các qui định của Hiệp định này. Điều 4:Các Thành viên đang phát triển Một Thành viên là nước đang phát triển được phép tạm thời chưa hoàn toàn tuân thủ các qui định của Điều 2 trong chừng mực và theo cách thức mà Điều XVIII của GATT 1994, Bản Ghi nhớ về Các điều khoản về Cán cân Thanh toán của GATT 1994 và Bản Tuyên bố về các Biện pháp Thương mại được áp dụng cho các mục đích về cán cân thanh toán thông qua ngày 28/11/1979 (BISD 26S/205-209) cho phép Thành viên được phép làm trái các qui định của Điều III và XI của GATT 1994. Điều 5:Thông báo và các thoả thuận về thời kỳ quá độ Khoản 1. Các Thành viên, trong vòng 90 ngày kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, phải thông báo cho Hội đồng thương mại hàng hoá tất cả các TRIMs đang áp dụng không phù hợp với qui định của Hiệp định này. Các TRIMs này, dù được áp dụng chung hay áp dụng trong một số trường hợp cụ thể, phải được thông báo cùng với các đặc điểm chính của các biện pháp đó. 10 Khoản 2. Mỗi nước Thành viên phải loại bỏ các TRIMs đã thông báo theo khoản 1 trong vòng hai năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực đối với các Thành viên phát triển, trong vòng 5 năm đối với Thành viên đang phát triển và trong vòng 7 năm đối với Thành viên kém phát triển. Khoản 3. Khi được yêu cầu, Hội đồng thương mại hàng hoá có thể kéo dài thời hạn quá độ để loại bỏ TRIMs đã thông báo theo khoản 1 đối với Thành viên đang phát triển (bao gồm cả nước kém phát triển) nếu những nước này có thể chứng tỏ là đang gặp phải những khó khăn đặc biệt trong quá trình thực thi Hiệp định này. Trong quá trình xem xét các yêu cầu trên, Hội đồng thương mại hàng hoá sẽ tính đến nhu cầu phát triển, tài chính và thương mại của Thành viên đang được xem xét. Khoản 4. Trong thời kỳ quá độ, một Thành viên không được phép sửa đổi nội dung TRIMs đã thông báo theo Khoản 1, khác với nội dung đã áp dụng trước ngày Hiệp định WTO để làm tăng thêm mức độ không phù hợp với các qui định của Điều 2. TRIMs được đưa ra trong vòng 180 ngày trước ngày Hiệp định WTO có hiệu lực sẽ không được hưởng thời gian quá độ qui định tại Khoản 2. Khoản 5. Cho dù có các qui định tại Điều 2, một Thành viên có thể áp dụng trong thời kỳ quá độ TRIMs tương tự cho các dự án đầu tư mới nhằm mục đích không tạo bất lợi cho các doanh nghiệp đã được thành lập trước đây đã phải tuân thủ qui định của TRIMs được thông báo theo Khoản 1 trong các trường hợp sau: (i) Các sản phẩm của dự án đầu tư mới là các sản phẩm tương tự với các sản phẩm của doanh nghiệp đã được thành lập; và (ii) Khi cần thiết áp dụng để tránh bóp méo, làm sai lệch các điều kiện cạnh tranh giữa các dự án đầu tư mới và các doanh nghiệp đã được thành lập. Bất kỳ TRIMs nào được áp dụng cho các dự án đầu tư mới đều phải được thông báo cho Hội đồng thương mại hàng hoá. Nội dung của TRIMs này phải có ảnh hưởng tương đương với nội dung áp dụng cho doanh nghiệp đã được thành lập và TRIMs này sẽ phải được loại bỏ đồng thời. Điều 6: Minh bạch hóa Khoản 1. Đối với các TRIMs, các Thành viên khẳng định lại cam kết thực hiện nghĩa vụ về minh bạch hóa và thông báo tại Điều X của GATT 1994, về việc thực thi "Thông báo" qui định tại Bản Diễn giải về thông báo, tham vấn, giải quyết tranh 11 chấp và giám sát được thông qua ngày 28 tháng 11 năm 1979 và tại Quyết định của các Bộ trưởng về các thủ tục thông báo thông qua ngày 15 tháng 4 năm1994. Khoản 2. Mỗi Thành viên phải thông báo cho Ban Thư ký về các ấn phẩm trong đó có thể tìm thấy các biện pháp TRIMs, bao gồm cả các biện pháp được chính quyền khu vực hoặc chính quyền địa phương áp dụng tại địa phương mình. Khoản 3. Mỗi Thành viên sẽ xem xét một cách thân thiện các yêu cầu về thông tin và dành cơ hội tham vấn như nhau liên quan đến các vấn đề phát sinh từ Hiệp định này khi một Thành viên khác đưa ra. Phù hợp với Điều X của GATT 1994, không Thành viên nào bị yêu cầu công bố các thông tin nếu việc công bố đó có thể ngăn cản việc thực thi pháp luật hoặc vi phạm lợi ích công cộng hoặc gây phương hại đến lợi ích thương mại hợp pháp của một số doanh nghiệp nhất định, dù doanh nghiệp đó là doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp quốc doanh. Điều 7:Uỷ ban về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại Khoản 1. Uỷ ban về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (trong Hiệp định này được gọi là "Uỷ ban") được thành lập theo Hiệp định và sẽ để ngỏ cho tất cả các Thành viên tham gia. Uỷ ban sẽ bầu ra Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban và sẽ họp ít nhất mỗi năm một lần và họp trong trường hợp có yêu cầu của bất kỳ Thành viên nào. Khoản 2. Uỷ ban sẽ thực thi các trách nhiệm do Hội đồng thương mại hàng hoá giao phó và tạo cơ hội cho các nước Thành viên được tham vấn về bất kỳ vấn đề nào liên quan đến hoạt động và thực thi Hiệp định này. Khoản 3. Uỷ ban sẽ giám sát quá trình hoạt động và thực thi Hiệp định này và sẽ báo cáo định kỳ hàng năm cho Hội đồng thương mại hàng hoá. Điều 8: Tham vấn và giải quyết tranh chấp Các qui định của Điều XXII và Điều XXIII Hiệp định GATT 1994 được chi tiết hóa và áp dụng tại Bản Diễn giải về giải quyết tranh chấp sẽ được áp dụng cho việc tham vấn và giải quyết những tranh chấp phát sinh từ Hiệp định này. Điều 9: Rà soát của Hội đồng Thương mại hàng hoá 12 Không muộn hơn 5 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, Hội đồng thương mại hàng hoá sẽ rà soát lại quá trình hoạt động của Hiệp định này và nếu cần thiết sẽ đề nghị lên Hội nghị Bộ trưởng sửa đổi văn bản của Hiệp định này. Trong quá trình rà soát, Hội đồng thương mại hàng hoá sẽ xem xét liệu có cần bổ sung thêm vào Hiệp định này các qui định về chính sách đầu tư và chính sách cạnh tranh hay không. III) LIÊN HỆ VIỆT NAM: 1. Cam kết của Việt Nam đối với Hiệp định TRIMs Việc thực hiện TRIMs đã đặt ra nhiều thách thức lớn cho các nước đang phát triển khi tham gia WTO, trong đó có Việt Nam. Đối với các nước đang phát triển, thời hạn đó là 5 năm, các nước chậm phát triển là 7 năm. Tuy nhiên, thời gian này thường vẫn không đủ để các quốc gia hoàn thành việc xóa bỏ những chính sách đi ngược lại TRIMs. Khó khăn là ở chỗ nhiều nước không đủ khả năng để xác định đâu là các biện pháp không phù hợp với TRIMs, nên không thể hoàn thành việc xóa bỏ như TRIMs quy định đúng thời hạn. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO từ 1/2007 và chúng ta đã cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định trong TRIMs kể từ thời điểm gia nhập.Và hiện nay, chúng ta vẫn chưa thực hiện các biện pháp trong Hiệp định như chính sách nội địa hóa, yêu cầu cân đối ngoại tệ… do chúng ta có thời gian quá độ 5 năm theo quy định của TRIMs. Đối với Việt Nam, các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIMs không phải là điều mới mẻ. Trong Hiệp định Thương mại song phương ký với Hoa Kỳ (BTA), Việt Nam về cơ bản đã cam kết thực hiện đầy đủ các quy định như của Hiệp định TRIMs, theo đó sẽ loại bỏ dần các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại không phù hợp với WTO (ví dụ tỷ lệ nội địa hóa, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước …) trong 5 năm, và các TRIMs khác (yêu cầu xuất khẩu sản phẩm) trong khung thời gian tương tự. Trong gần 05 năm thực hiện BTA, hệ thống pháp luật Việt Nam đã liên tục được hoàn thiện nhằm đáp ứng hầu hết các nghĩa vụ theo BTA. Đặc biệt, Luật Đầu tư năm 2005, có hiệu lực từ 1/7/2006, đã nội luật hóa đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong BTA. Theo đó, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường, đầu tư liên quan đến thương mại, không bắt buộc nhà đầu tư thực hiện các yêu cầu như: (i) ưu tiên mua, sử dụng 13 hàng hóa, dịch vụ trong nước hoặc phải mua hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ trong nước; (ii) xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định, hạn chế số lượng, giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu hoặc sản xuất, cung ứng hàng hóa trong nước;(iii) nhập khẩu hàng hóa với số lượng và giá trị tương ứng với số lượng và giá trị hàng hóa xuất khẩu hoặc phải tự cân đối ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu;(iv) đạt được tỷ lệ nội địa hóa nhất định trong hàng hóa sản xuất. Việt Nam đã cam kết tuân thủ hoàn toàn Hiệp định TRIMs ngay khi trở thành viên chính thức của WTO, cam kết xoá bỏ các rào cản về đầu tư, với mục tiêu tổng thể để tăng cường tính hấp dẫn, thông thoáng và minh bạch của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhìn chung mức độ cam kết đối với TRIMs trong WTO cao hơn nhiều so với cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Việc thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Hiệp định TRIMs góp phần xóa bỏ các rào cản đối với đầu tư nước ngoài, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam trong thu hút nguồn này, đặc biệt là đầu tư trong các ngành trước nay vẫn phải thực hiện các yêu cầu nói trên (như công nghiệp lắp ráp, sản xuất ô tô, xe máy, hàng điện tử, chế biến đường mía, dầu thực vật, sữa, gỗ...). Mặt khác, việc xóa bỏ những yêu cầu về cân đối thương mại và cân đối ngoại tệ cũng tạo điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất, chế biến các sản phẩm có lợi thế xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, việc thực hiện Hiệp định này cũng không đòi hỏi phải điều chỉnh phải Luật Đầu tư cũng như các Luật có liên quan. Tuy nhiên, để duy trì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, cũng cần nghiên cứu áp dụng một số biện pháp mới thay thế cho các biện pháp trước đây theo nguyên tắc bảo đảm mục tiêu phát triển nhưng vẫn phù hợp với quy định của WTO. Chính phủ đang nghiên cứu áp dụng một số biện pháp thay thế, trong đó có việc thay tiêu chí xuất khẩu (để được hưởng ưu đãi) bằng các tiêu chí khác (về sử dụng lao động, về địa bàn đầu tư ..); khuyến khích các dự án đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, khuyến khích đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và vùng nguyên liệu tập trung, nhất là ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để hỗ trợ nguyên liệu cho các dự án nuôi trồng, chế biến các sản phẩm nông, lâm nghiệp v.v… Từ thực tế thực hiện TRIMs ở các nước đang phát triển và kinh nghiệm sau hơn bốn năm gia nhập WTO, Việt Nam cần phải rút ra cho mình những bài học quý giá. Trước hết chúng ta cần tạo lập một môi trường đầu tư đồng bộ và tốt hơn, tích cực xây dựng năng lực, từ nguồn nhân lực đến cơ sở vật chất và tài chính, nhằm đảm bảo năng lực đàm phán và thực thi hiệu quả những cam kết kinh tế đa phương. 14 Việt Nam cũng cần tranh thủ tối đa những lợi thế và cơ hội trong vai trò là thành viên chính thức của WTO trong thời gian một năm còn lại, cũng như đặt ra một lộ trình để thực hiện thành công những biện pháp cần thiết nhằm tạo dựng cho mình một nội lực mạnh về kinh tế, đảm bảo đủ khả năng thực hiện TRIMs một cách thành công. 2. Tình hình thực hiệp định TRIMS tại Việt Nam và vấn đề đặt ra: Thực tế cho thấy, TRIMs (các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại) thường được áp dụng tại các nước đang phát triển, những nước mà trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được quan tâm hàng đầu. Đặc điểm cơ bản của các nước này là nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp, công nghệ sản xuất lạc hậu và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém. Xuất phát từ nhận thức cần phải tránh những hạn chế do hoạt động của các MNCs gây ra, vì sự phát triển của đất nước, bảo vệ và tăng cường khả năng cạnh tranh của các Công ty nội địa, đồng thời để đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, Chính phủ các nước đang phát triển thường áp dụng TRIMs. Đó là những công cụ quan trọng và cần thiết đối với nền kinh tế của các nước này, mặc dù chúng có những ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại và đầu tư quốc tế. Khi gia nhập WTO, các nước phải cam kết loại bỏ TRIMs, điều này đồng nghĩa với việc các nước phải tìm các biện pháp vừa tuân thủ các quy định của WTO, nhưng đồng thời vẫn tạo cơ hội phát triển cho các ngành công nghiệp trong nước. Việt Nam đã có một quá trình áp dụng TRIMs với các mục tiêu cơ bản là vừa thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước. Các biện pháp Việt Nam đã sử dụng trong thời gian qua là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, yêu cầu cân đối ngoại tệ, yêu cầu phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước và yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc. Trong đó, biện pháp được tập trung áp dụng nhiều nhất là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá trong các ngành sản xuất, lắp ráp ôtô và phụ tùng ôtô; sản xuất, lắp ráp xe máy và phụ tùng xe máy; sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh và phụ tùng thuộc ngành điện tử, cơ khí-điện. Ngoài ra, các dự án chế biến gỗ, sữa, dầu thực vật, đường mía cũng thuộc đối tượng các ngành phải thực hiện chương trình nội địa hoá nhằm phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Song, do tính đặc thù nên phần lớn các dự án thuộc ngành này được xây dựng với mục đích sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ, sẵn có trong nước. Do vậy, các nhà đầu tư sẽ tự nguyện thực hiện chính sách nội địa hoá, kể cả trong trường hợp không được khuyến khích hoặc ưu đãi. 3. Các biện pháp thích nghi của Việt Nam. 3.1)Nhóm giải pháp liên quan đến đầu vào của các ngành công nghiệp: Thứ nhất, xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành kinh tế. 15 Điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng quan trọng đến chi phí và rủi ro của các hoạt động đầu tư. Để có thể phát triển cơ sở hạ tầng, Việt Nam cần một lượng vốn rất lớn. Muốn huy động đủ vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng cần có quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, đa dạng hoá các nguồn vốn trong đó cần cố gắng giảm vốn nhà nước, tăng các nguồn vốn từ các thành phần khác như vốn nước ngoài, vốn tư nhân (PPI – Private Participation Infrastrycture) theo phương thức BOT, BT…. Đối với nguồn vốn nhà nước dùng cho phát triển cơ sở hạ tầng, cần tuân thủ nghiêm ngặt quy chế đấu thầu nhằm tránh thất thoát, lãng phí vốn đầu tư và nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở. Thứ hai, phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực tế cho thấy, phát triển các khu công nghiệp và công nghệ cao tỏ ra rất có hiệu quả trong thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư trong các khu vực này, các nhà đầu tư không những được đáp ứng cơ sở hạ tầng kỹ thuật chuyên dụng, dịch vụ thuận lợi… mà sản phẩm của họ còn được tiêu thụ ở thị trường nội địa. Khi đầu tư có quy mô tăng lên thì yêu cầu phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao của Việt Nam cần được quy hoạch và có những chính sách thu hút đầu tư hợp lý cả về xây dựng cơ sở hạ tầng lẫn đầu tư vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao từ đó làm giảm giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thứ ba, Việt Nam cần có chiến lược khuyến khích chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và ứng dụng nhằm nâng cao năng lực công nghệ quốc gia. Trong điều kiện tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, khả năng tài chính của các doanh nghiệp trong nước còn hạn hẹp, việc đầu tư vốn đổi mới công nghệ ở quy mô lớn rất khó thực hiện. Do đó, việc hướng đến kỹ thuật và công nghệ từ đầu tư nước ngoài trở thành yêu cầu tất yếu cho quá trình phát triển, nhất là việc tiếp cận công nghệ nguồn từ các nước phát triển. Qua nghiên cứu Hiệp định TRIMs, có thể nhận thấy việc khuyến khích hoặc yêu cầu chuyển giao công nghệ không bị cấm. Do đó, Việt Nam cần phải triệt để khai thác khía cạnh này. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tạo ra nhu cầu rất lớn về các sản hạn, trung gian hoặc sản phẩm phụ trợ. Đây là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ sẵn sàng chuyển giao các công nghệ nếu việc chuyển giao đem lại lợi nhuận cho họ và được bảo vệ các lợi ích chính đáng. Điều này đòi hỏi cần phải có các quy định hợp lý, rõ ràng về quyền lợi mà họ được hưởng, đồng thời, chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phải được thực thi 16 nghiêm ngặt, vì các yêu cầu này thường dễ bị phản ứng bởi các nhà đầu tư. Thứ tư, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Đây là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của môi trường đầu tư cũng như là điều kiện cần thiết cho việc chuyển giao công nghệ và cải tiến kỹ thuật. Việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và đội ngũ kỹ sư có trình độ cao, có khả năng ứng dụng và cải tiến công nghệ cao là vấn đề cấp bách đặt ra đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục – đào tạo hiện nay. Thứ năm, quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu Quy hoạch vùng nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình vận hành và các dự án đầu tư. Do đó, Việt Nam cần có quy hoạch phát triển ngành, vùng căn cứ vào các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của ngành, vùng đó. Trong quy hoạch cần xác định rõ quy mô các vùng nguyên liệu để từ đó đề ra các giải pháp đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu phù hợp. Sớm khắc phục triệt để tình trạng “quy hoạch treo”, “đền bù treo”, đặc biệt là khắc phục tình trạng quy hoạch mang tính chủ quan, dàn trải…. như thời gian qua, làm kém hiệu qua đầu tư nói riêng, phát triển kinh tế xã hội nói chung. 3.2) Nhóm giải pháp liên quan đến phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ Thứ nhất, xây dựng quy hoạch phát triển cho các ngành, trong đó định hướng sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Chẳng hạn, khi xây dựng quy hoạch cho ngành sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy, Việt Nam cần có chính sách khuyến khích, định hướng phát triển các doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện; các nhà máy sản xuất phôi thép, thép tấm, thép lá; nhà máy sản xuất các chế phẩm từ cao su tự nhiên. Thứ hai, nhà nước tạo điều kiện cho công nghiệp phụ trợ phát triển bằng cách tạo các điều kiện về đầu vào như đất đai và nguyên vật liệu, hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực, cung cấp thông tin công nghệ, tham gia triển lãm sản phẩm; không phân biệt đối xử doanh nghiệp trong nước với nước ngoài, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Thứ ba, xây dựng các trung tâm đào tạo kinh doanh và công nghệ cũng như các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ tư, đối với các doanh nghiệp trong nước, cần tạo dựng các sản phẩm chủ đạo, nổi trội. Bên cạnh đó, cần tạo dựng hình ảnh sản phẩm của mình nhằm thu hút các nhà đầu tư (người mua) như xây dựng thương hiệu, khuếch trương sản 17 phẩm. Một giải pháp quan trọng nữa là cần nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý cho ngang tầm với các doanh nghiệp nước ngoài cùng loại. 3.3) Nhóm giải pháp liên quan đến quản lý vĩ mô và chiến lược của doanh nghiệp Thứ nhất, tăng cường hơn nữa tính minh bạch và chiến lược của doanh nghiệp. Để tăng cường tính minh bạch và khả năng dự đoán của pháp luật, ngoài việc công khai lộ trình cam kết gia nhập WTO, Việt Nam cần công bố các chương trình luật pháp có liên quan cho tất cả các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong lập kế hoạch xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, cần cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng giảm thiểu, tiến tới xoá bỏ các rào cản trái với quy định của WTO. Thứ hai, xây dựng quy chế phê duyệt và quản lý dự án đầu tư thông thoáng đơn giản và hiệu quả. Quá trình thực hiện Hiệp định TRIMs khi gia nhập WTO đòi hỏi cần cải cách mạnh mẽ hành chính, nâng cao năng lực của các cơ quan có thẩm quyền liên quan, tạo dựng môi trường pháp lý ổn định ràng buộc trách nhiệm của cả cơ quan chức năng và nhà đầu tư… từ đó giảm được tối đa các rào cản hành chính và cũng đồng thời làm giảm chi phí đầu tư, tận dụng được các cơ hội đầu tư thuận lợi, nâng cao hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư. Thứ ba, các doanh nghiệp trong nước cần chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để đáp ứng yêu cầu của các đối tác nước ngoài nói riêng và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Hội nhập là con đường phát triển tất yếu nhưng không dễ dàng, bằng phẳng. Để hội nhập thành công, các doanh nghiệp phải chuẩn bị tốt về mọi mặt. Các chính sách biện pháp hỗ trợ (nếu có) của Chính phủ chỉ đóng vai trò là chất “xúc tác”, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Bản thân mỗi doanh nghiệp mới thực sự là người đóng vai trò quyết định đối với sự thành bại của chính mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp cần xác định đúng đắn chiến lược đầu tư phát triển của mình phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế nói chung của nền kinh tế. Trước hết, cần chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực, đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ sản xuất, thay thế kịp thời các thiết bị công nghệ lạc hậu, tạo nên bước đột phá về chất 18 lượng và giá cả sản phẩm, nânng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đáp ứng tốt yêu cầu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất từ đó phát huy được lợi thế cạnh tranh và có thể tồn tại bền vững trong điều kiện hội nhập.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhhf_3452.pdf
Luận văn liên quan