Trong điều kiện nước ta hiện nay, những tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương vẫn còn có ý nghĩa, điều này được thể hiện rõ nét trong việc chú trọng phát triển thương nghiệp (bao gồm nội thương và ngoại thương) nhằm tạo tiềm lực về vốn cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy vậy, việc vận dụng tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương phải được kết hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước nhằm đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế đất nước.
21 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 8583 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương – ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Tiểu Luận
Tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương – ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa trọng thương ra đời tuy còn nhiều hạn chế, nhưng với tư cách là học thuyết kinh tế đầu tiên cũng đã đưa ra những lý luận cơ bản trong quá trình phát triển của chủ nghĩa Tư bản, tạo tiền đề cho nền sản xuất hàng hoá phát triển, và giải quyết được vấn đề cấp bách về vốn trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa Tư bản.
Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, đó là một nhiệm vụ rất khó khăn và trải qua quá trình lâu dài. Một trong những tiền đề để hoàn thành nhiệm vụ đó là thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó vấn đề về tạo dựng và tích luỹ vốn đóng vai trò quan trọng.
Phát triển Thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế là một kênh thu hút nguồn vốn quan trọng của đất nước. Do vậy, coi trọng sự phát triển của hoạt động thương nghiệp là việc làm cần thiết, tuy nhiên cần phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Trong điều kiện thực tế nước ta hiện nay, phát triển thương nghiệp vẫn còn có thể vận dụng những tư tưởng kinh tế của Chủ nghĩa trọng thương, tuy nhiên, việc nắm bắt và nhận thức những tư tưởng đó phải có chọn lọc, phù hợp với lịch sử và tình hình thực tế cũng như tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cụ thể nhằm mang lại hiệu quả cao nhất, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.Vỡ những lý do trên, tụi đã chọn đề tài “Tư tưởng kinh tế của Chủ nghĩa trọng thương – ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta” làm bài tiểu luận của mình.
Vì thời gian và hiểu biết có hạn, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cỏc cụ và các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, bài viết gồm 2 phần:
Phần 1: Tư tưởng kinh tế của Chủ nghĩa trọng thương
Phần 2: Ý nghĩa tư tưởng kinh tế của Chủ nghĩa trọng thương đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
PHẦN 1: TƯ TƯỞNG KINH TẾ CỦA
CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
1.1. Khái niệm và những tư tưởng kinh tế chủ yếu của học thuyết kinh tế trọng thương
1.1.1. Khái niệm
CNTT là hệ thống quan điểm tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, mà trước hết là tầng lớp tư sản thương nghiệp. Nó ra đời trong thời kì tan ra của PTSX phong kiến. Đó là thời kì chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa hay còn gọi là thời kì tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, khi kinh tế hàng hoá và ngoại thương đã phát triển.
Chủ nghĩa trọng thương là một trào lưu tư tưởng kinh tế học chính trị tư sản và chính sách kinh tế của nhiều nước Châu Âu các thế kỷ XV- XVIII, phản ánh lợi ích của giai cấp tư sản mới ra đời có tham vọng tích luỹ nhiều vàng bạc. Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa trọng thương: lợi nhuận được sáng tạo ra trong lĩnh vực lưu thông; tiền tệ là của cải của dân tộc, xuất khẩu tiền ra nước ngoài làm cho của cải ít đi, ngược lại nhập khẩu tiền thì của cải tăng lên.
Chủ nghĩa trọng thương chỉ là một nhóm nhỏ có nguồn gốc từ phong trào và chiến lược mở rộng tài sản, mà tài sản đầu tiên là của các thương gia, thứ hai là của chính phủ tư bản trong những năm đầu. Phong trào và chiến lược đó bắt đầu từ thế kỷ XVI và kéo dài sang thế kỷ XVIII và một phần của thế kỷ XIX
Hầu hết những người trong chủ nghĩa trọng thương chính họ cũng là thương gia hay là những người trong bộ máy chính phủ và các bài viết của họ đều ảnh hưởng đến khát vọng gia tăng lợi nhuận kinh doanh và các hỗ trợ tài chính cho chính phủ thông qua việc đánh thuế trên tài sản được tạo ra để bảo vệ cho chớnh cỏc lợi ích này. Đây là thời kỳ nổi bật của các tiểu bang trong một nước và các chính phủ của một nước mà trong đó họ đóng vai trò duy nhất trong việc huy động lợi nhuận cho các thương gia.
Trong những năm đầu của thời kỳ tư sản, khi đó nhu cầu thực sự của hầu hết mọi người đều bị giới hạn do đồng lương thấp, các thương gia gấp rút đi tìm thị trường và tài sản ở nước ngoài và cái họ cần là chính phủ phải tiên phong trong việc mở rộng các thị trường này và ủng hộ thương nghiệp cũng như cú cỏc chính sách tiền tệ có lợi cho họ.
Học thuyết kinh tế trọng thương là những chính sách, cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản thương nghiệp Châu Âu trong thời kỳ tích luỹ vốn ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Những chính sách, cương lĩnh này nhằm kêu gọi thương nhân tận dụng ngoại thương, buôn bán để cướp bóc các nước thuộc địa và nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản đang hình thành.
Học thuyết kinh tế trọng thương là học thuyết đầu tiên của giai cấp tư sản. Tuy chưa phải là một học thuyết kinh tế thật sự khoa học, nhưng đã phản ánh một cách nổi bật những tiến bộ mới trong đời sống kinh tế Châu Âu lúc bấy giờ.
1.1.2. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu
Đồng nhất tiền tệ với của cải: Tiền là một nội dung căn bản của của cải, là tài sản thực sự của một quốc gia. Tất cả các chính sách kinh tế phải nhằm một mục đích là làm gia tăng khối lượng tiền tệ. Hàng hoá chỉ là phương tiện để đạt đến cỏc đớch cuối cùng là tiền tệ.
Quan điểm về ngành nghề: Những người theo chủ nghĩa trọng thương đã đứng trên quan điểm coi tiền là đại biểu duy nhất của của cải, là tiêu chuẩn để đánh giá mọi hình thức nghề nghiệp. Những hoạt động nào mà không dẫn đến tích luỹ tiền tệ là những hoạt động tiêu cực, không có lợi. Hoạt động nghề công nghiệp làm ra sản phẩm về mặt vật chất, không phải là tiền. Không những thế lại mất tiền để mua nguyên liệu, là ngành tiêu cực, tuy nhiên trừ ngành công nghiệp khai thác vàng, bạc. Hoạt động nghề nông nghiệp cũng tạo ra sản phẩm về vật chất, tuy nhiên không mất tiền mua nguyên liệu (có thể khai thác từ tự nhiên), nhưng không làm ra tiền, đây là ngành trung gian giữa tiêu cực và tích cực, chỉ có hoạt động ngoại thương mới là nguồn gốc thật sự của của cải. Khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương. Trong hoạt động ngoại thương phải thực hiện chính sách xuất siêu (xuất nhiều, nhập ít).
Lợi nhuận thương nghiệp: Là kết quả của những trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt, cướp bóc giống như chiến tranh. Nội thương: khối lượng của cải tiền tệ quốc gia không tăng, giống như hành vi móc túi lẫn nhau. Muốn gia tăng khối lượng của cải tiền tệ của quốc gia phải bằng ngoại thương. Dân tộc này giàu lên phải bằng sự hy sinh dân tộc khác. Muốn dành phần thắng trong quan hệ ngoại thương thì phải xuất siêu. Đại biểu Montechretien (Pháp) coi nội thương là hệ thống ống dẫn, còn ngoại thương như là chiếc máy bơm. Muốn tăng của cải thì phải có ngoại thương nhập và dẫn của cải thông qua nội thương.
Không biết đến quy luật giá trị: Đặc điểm lý luận của chủ nghĩa trọng thương là họ chưa biết và không thừa nhận quy luật kinh tế. Thay vào đó, họ đánh giá cao chính sách kinh tế của Nhà nước, coi chính sách kinh tế nhà nước giữ vai trò quyết định. Đặt nền móng cho học thuyết sự can thiệp của nhà nước đối với nền kinh tế sau này.
1.2. Hoàn cảnh, điều kiện lịch sử ra đời của chủ nghĩa trọng thương.
1.2.1. Nền sản xuất hàng hoá phát triển
Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào cuối Thời đại Nguyờn thuỷ, đầu Chế độ Chiếm hữu nô lệ. Ở thời kỳ này, phân công lao động xã hội đã phát triển làm xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, tạo điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá. Nhưng mãi đến cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội mới làm cho nền sản xuất phát triển mạnh mẽ. Do đó việc sản xuất để trao đổi đã lôi kéo mọi tầng lớp trong xã hội, kể cả những người tiểu thương và tiểu nông. Các nhà kinh tế đã từng nói: nền sản xuất hàng hoá vào cuối thời đại phong kiến đã phát triển tới trình độ cổ điển, tức là tới trình độ mà hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Vì lúc này nền sản xuất hàng hoá tạo ra những tiền đề nhất định cho sự ra đời của tư bản.
Việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển là nguồn gốc cho việc ra đời của tiền tệ. Tiền tệ xuất hiện tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá và làm cho thị trường được mở rộng, do đó lại có tác dụng thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn, không chỉ trong phạm vi của quốc gia mà cũn trờn phạm vi toàn thế giới.
Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đã làm cho địa tô tiền xuất hiện thay thế cho địa tô lao dịch và địa tô hiện vật. Đó cũng là tiền đề cho sự ra đời của tư bản.
Việc phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoỏ cũn phá vỡ nền kinh tế tự cung tự cấp, đưa xã hội loài người thoát khỏi thời kỳ mông muội, thúc đẩy sản xuất phát triển và làm cho kinh tế hàng hoá dần dần mang tính chất phổ biến và thống trị trên toàn xã hội. Bên cạnh đú, nú cũn đẩy nhanh quá trình phõn hoỏ giàu nghèo, từ đó hình thành nên hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản đó là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
1.2.2. Có nhiều phát kiến địa lý
Cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, đến cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI đã có nhiều phát kiến địa lý để tỡm cỏc vựng đất mới, nhờ đó thị trường thế giới được mở rộng. Tiêu biểu cho thời kỳ này là việc tìm ra hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, vì đây là hai nước có nền sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển nhất lúc bấy giờ.
Những phát kiến địa lý đã tạo tiền đề làm giàu nhanh cho Tư bản thương nhân Châu Âu. Vì những phát kiến địa lý này đưa tới việc buôn bán nô lệ giữa các châu lục, tìm ra các mỏ vàng ở châu Mỹ, đưa tới việc xâm chiếm thuộc địa và hình thành các công ty buôn bán lớn như: Công ty Đông Ấn của Anh (1600-1858), Công ty Đông Ấn Hà Lan (1602- 1798), Công ty Đông Ấn Pháp (1664- 1793),… Các công ty này là những công cụ quan trọng trong chính sách thuộc địa của các nước Châu Âu. Của cải do các công ty này đem lại đã làm loá mắt những người trọng thương, khiến họ dựa vào đó để giải thích nguồn gốc của lợi nhuận và kêu gọi thương nhân đẩy mạnh ngoại thương để bóc lột các nước thuộc địa, nhằm tạo ra nguồn vốn ban đầu cho chủ nghĩa tư bản.
1.2.3. Về chính trị- tư tưởng
Đặc điểm nổi bật về chính trị - tư tưởng ở Châu Âu lúc bấy giờ là giai cấp phong kiến vẫn là giai cấp nắm địa vị thống trị, nhưng đang trong thời kỳ suy tàn, cũn giai cấp tư sản tuy chưa nắm quyền thống trị nhưng lại là giai cấp đang phát triển và tiên tiến hơn, có những cơ sở kinh tế tương đối mạnh. Do vậy, trên lĩnh vực tư tưởng kinh tế chứa đựng đầy mâu thuẫn, nó vừa phản ánh cơ sở kinh tế cũ, vừa phản ánh cơ sở kinh tế mới đang hình thành; vừa phản ánh lợi ích kinh tế của giai cấp địa chủ, phong kiến, vừa phản ánh lợi ích của giai cấp tư sản.
Học thuyết kinh tế trọng thương ra đời đã giải quyết được mâu thuẫn trờn, vỡ nú đại diện cho giai cấp tiên tiến, đó là giai cấp tư sản. Nhưng đây chưa phải là giai cấp tcư sản công nghiệp mà là giai cấp tư sản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản.
1.3. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa trọng thương:
Học thuyết kinh tế trọng thương là hình thái đầu tiên của hệ tư tưởng tư sản trong lĩnh vực kinh tế, nó phản ánh xu thế đi lên của giai cấp tư sản đang hình thành và phát triển trong lòng xã hội phong kiến. Do vậy, quá trình hình thành của chủ nghĩa trọng thương được chia làm các giai đoạn:
Từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVI: Các nhà kinh tế học như A. Xeria, Staford đồng nhất của cải với tiền tệ. Quan hệ giữa lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ chưa được hiểu rõ. Tư tưởng trung tâm của các tác phẩm kinh tế là "Bảng cân đối tiền tệ." Bảng này được sử dụng làm cơ sở cho các chính sách kinh tế như gia tăng của cải, tiền tệ, gìn giữ cho khối lượng tiền hiện có không bị chuyển ra nước ngoài, tập trung buôn bán vào những vựng cú kho tàng để nhà nước dễ kiểm soát, bắt thương nhân nước ngoài khi đến buôn bán phải dùng toàn bộ số tiền mà họ để mua hàng mang về nước, qui định tỷ giá trao đổi, cấm đổi cho người nước ngoài khối lượng tiền tệ lơn hơn mức qui định của nhà nước.
Từ giữa thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII: Các nhà kinh tế học như Thomas Mun (1571-1641) người Anh, Antoine Montchretien (1575-1629) và Jean Batiste Colbert (1618-1683) người Pháp... đã nhìn nhận của cải là số sản phẩm dư thừa được sản xuất trong nước sau khi đã thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, song phải được chuyển thành tiền thông qua thị trường nước ngoài. Tư tưởng trung tâm của các tác phẩm kinh tế là "Bảng cân đối thương mại." Buôn bán thương mại phải đảm bảo xuất siêu để có chênh lệch, tăng tiền tích lũy cho ngân khố quốc gia. "Bảng cân đối xuất siêu" được gọi bằng tên "Bảng cân đối tích cực."
Để xuất siêu, các nhà kinh tế khuyến nghị chỉ xuất thành phẩm chứ không xuất nguyên liệu; thực hiện thương mại trung gian, mang tiền ra nước ngoài để mua rẻ ở nước này và bán đắt ở nước khác; thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ nhằm kiểm soát hàng hóa nhập khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
Từ cuối thế kỷ XVII: Trường phái Trọng thương bắt đầu có mâu thuẫn với các tầng lớp doanh nhân trong công nghiệp, nông nghiệp và nội thương. Bên trong nền kinh tế bắt đầu xuất hiện tư tưởng cổ vũ tự do thương mại, xóa bỏ độc quyền.
Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa trọng thương đều cùng một mục đích là tích luỹ tiền tệ cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Các giai đoạn chỉ khác nhau về phương pháp và thủ đoạn để đạt được mục đích đó mà thôi.
1.4. Đặc điểm của học thuyết kinh tế trọng Thương:
1.4.1. Học thuyết Kinh tế trọng thương xuất hiện một cách độc lập:
Học thuyết kinh tế trọng thương không phải là một học thuyết kinh tế thuần nhất có tính chất phổ biến đối với tất cả các nước, mà trong các nước khác nhau có học thuyết kinh tế trọng thương khác nhau và phản ánh sự phát triển kinh tế khác nhau.
1.4.2. Học thuyết Kinh tế trọng thương mang tính chất không triệt để:
Học thuyết kinh tế trọng thương là trào lưu kinh tế tư sản, nhưng trong thực tế, ở nhiều nước, giai cấp quý tộc đã lợi dụng để phục vụ cho lợi ích của mình và để cứu vãn cho sự suy tàn của xã hội Phong kiến. Vì vậy cơ sở giai cấp của chủ nghĩa trọng thương không phải chỉ có giai cấp tư sản mà còn bao gồm cả giai cấp quý tộc.
1.4.3. Học thuyết kinh tế trọng thương rất ít tính lý luận nhưng lại rất thực tiễn:
Thời kỳ đầu của Chủ nghĩa Tư bản, nhiệm vụ trung tâm của giai cấp tư sản là tạo ra nguồn vốn ban đầu, nghĩa là phải tích luỹ được nhiều tiền. Muốn có nhiều tiền phải dựa vào nhà nước để thực hiện các biện pháp phi kinh tế chứ không dựa trên sự vận động của các quy luật kinh tế. Chính vì vậy mà học thuyết kinh tế trọng thương có tính lý luận hết sức thô sơ, nông cạn và giản đơn. Tuy nhiên, học thuyết kinh tế trọng thương đã đứng trên hiện thực lịch sử để khái quát những kinh nghiệm thành những quy tắc, cương lĩnh, chính sách nhằm giải quyết vấn đề cấp bách lúc bấy giờ là tích luỹ vốn ban đầu.
1.5. Thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa trọng thương:
1.5.1. Thành tựu của chủ nghĩa trọng thương:
Khởi đầu cho sự phát triển mới về kinh tế: Tư tưởng kinh tế thời kỳ trung cổ bảo vệ kinh tế tự nhiên, bảo vệ sự chiếm hữu ruộng đất của phong kiến, cấm lưu thông buôn bán và duy trì sự nô dịch con người. Ngược lại, học thuyết kinh tế trọng thương ra đời đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển, xoá bỏ kinh tế tự nhiên, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đặc biệt đề cao thương nghiệp, ngoại thương, coi đó là đòn bẩy mạnh mẽ để tích luỹ vốn ban đầu cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Đây là học thuyết kinh tế đầu tiên trong lịch sử các học thuyết kinh tế: Các tư tưởng kinh tế xuất hiện rất sớm và phát triển qua thời kỳ cổ đại và trung đại và mãi tới trọng thương, các tư tưởng kinh tế mới được coi là một học thuyết. Mặc dù học thuyết kinh tế này còn dừng lại ở cương lĩnh, chính sách, song nó vẫn được coi là học thuyết kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản nhằm khái quát hoá những vấn đề thực tiễn lúc bấy giờ và bắt đầu nghiên cứu một số vấn đề lý luận của chủ nghĩa tư bản như: Vai trò của tư bản thương nghiệp; về nguồn gốc và lợi nhuận thương nghiệp; về lưu thông tiền tệ; về vai trò của tiền tệ;….
Nhận thấy được vai trò của phát triển công nghiệp: Tư tưởng cơ bản của học thuyết kinh tế trọng thương là coi trọng ngoại thương, buôn bán, coi đây là đòn bẩy mạnh mẽ nhất để làm giàu. Nhưng sang giai đoạn hai họ đã nhận ra rằng, muốn cho thương nghiệp, ngoại thương phát triển, có lợi trong cạnh tranh thì phải phát triển sản xuất, giảm chi phí sản xuất. Do đó có nhiều nước đã hướng vào phát triển công trường thủ công trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá xuất khẩu, tiêu biểu là Anh, Pháp và Nga,…..
Xa rời với cách lý giải bằng đạo lý và tôn giáo: Trong thời kỳ trung cổ người ta lý giải tất cả mọi sự việc, hiện tượng trong xã hội bằng những lời giáo huấn, luân lý và bằng những lời trích trong kinh thánh, nghĩa là trên cơ sở duy tâm. Nhưng khi học thuyết kinh tế trọng thương ra đời với những cương lĩnh, chính sách kinh tế để thúc đẩy sản xuất phát triển, nú đó đoạn tuyệt hoàn toàn với cách lý giải bằng đạo lý và tôn giáo. Lần đầu tiên trong lịch sử những người trọng thương đã xuất phát từ cơ sở kinh tế, từ hiện thực của xã hội để lý giải các sự việc và các hiện tượng trong đời sống kinh tế- xã hội.
Như vậy, trong điều kiện lịch sử vào cuối thế kỷ XVI, khi chế độ phong kiến đang suy tàn và chủ nghĩa tư bản đang hình thành thì những cương lĩnh, chính sách của học thuyết chủ nghĩa trọng thương là hoàn toàn hiện thực và tiến bộ.
Tuy nhiên, chúng ta không nên đánh giá quá cao những thành tựu lý luận của chủ nghĩa trọng thương vì bên cạnh đó chủ nghĩa trọng thương còn nhiều hạn chế sau:
1.5.2. Hạn chế
Mới nghiên cứu trên lĩnh vực lưu thông: Quá trình sản xuất là quá trình thống nhất giữa hai mặt: sản xuất và lưu thông, trong đó sản xuất giữ vai trò quyết định. Song những người theo chủ nghĩa trọng thương chưa thấy vai trò của sản xuất vì những khoản lợi nhuận khổng lồ do ngoại thương đem lại đã làm át lợi nhuận do các công trường thủ công thu được. Nên họ chỉ thấy vai trò của lưu thông, do đó chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu trên lĩnh vực lưu thông. Đánh giá về chủ nghĩa trọng thương, C. Mác viết: “Cụng trỡnh nghiên cứu lý luận đầu tiên về phương thức sản xuất hiện đại- tức học thuyết trọng thương- nhất định phải xuất phát từ những hiện tượng bề ngoài của quá trình lưu thông, khi những hiện tượng đó trở thành độc lập trong sự vận động của tư bản thương nghiệp. Vì vậy, học thuyết đó chỉ nắm cái vỏ bên ngoài của những hiện tượng. Cái đó một phần do tư bản thương nghiệp là hình thái tồn tại tự do đầu tiên của tư bản nói chung,…khoa học thực sự của nền kinh tế hiện đại, chỉ bắt đầu từ lúc mà việc nghiên cứu lý luận chuyển từ quá trình lưu thông sang quá trình sản xuất”.
Thành tựu lý luận nhỏ bé, giản đơn: Do phương pháp luận thiếu khoa học và do điều kiện lịch sử quy định, nên học thuyết chủ nghĩa trọng thương mới đề cập đến một vài phạm trù kinh tế và chưa có khái niệm về quy luật kinh tế. Những phạm trù kinh tế mà họ nêu ra cũng chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, chứ chưa đi vào phân tích nội dung bên trong, nên chưa hiểu được bản chất của các phạm trù kinh tế đó.
Như vậy, những người theo chủ nghĩa trọng thương chưa đưa ra được một hệ thống lý luận khoa học, về phương pháp luận chủ yếu dựa trên cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa. Họ chỉ nghiên cứu hình thức bên ngoài, ở lĩnh vực lưu thông chứ không đi vào nghiên cứu quá trình sản xuất để tìm ra bản chất và nội dung bên trong của các phạm trù, các quy luật kinh tế.
PHẦN 2: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG KINH TẾ CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
2.1. Kinh tế thị trường và thực trạng KTTT ở Việt Nam
2.1.1. Kinh tế thị trường và các đặc trưng của nền KTTT
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường, tức là gắn chặt chẽ với quan hệ hàng hoá - tiền tệ và quan hệ cung cầu...
Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hóa. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hóa, hay ít nhất thì cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hóa như mắt khâu trung gian.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường:
- Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
- Hàng hoỏ trờn thị trường rất đa dạng.
- Các hoạt động mua bán trao đổi hàng hoỏ trờn thị trường được thực hiện thông qua giá cả.
- Cạnh tranh là cơ sở tồn tại của kinh tế thị trường. Cạnh tranh kích thích cải nhà sản xuất cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí lao động cá nhân để tăng lợi nhuận siêu ngạch.
- Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở.
Trong cơ chế thị trường, nhà nước tác động vào nền kinh tế không bằng hệ thống pháp lệnh mà bằng một hệ thống công cụ và luật pháp như:
+ Kế hoạch hóa không phải là chỉ giao chỉ tiêu thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án. Kế hoạch hóa là công cụ duy nhất để Chính phủ có thể chuyển tải nội dung đường lối, chính sách.
+ Quản lý kinh tế vĩ mô bằng pháp luật: Pháp luật có vai trò cực kỳ quan trọng trong quản lý kinh tế, tạo ra hành lang an toàn cho các hoạt động kinh tế từ việc xác lập quyền sở hữu tự liệu sản xuất, đến việc bỏ vốn đầu tư sản xuất - kinh doanh và điều tiết thu nhập.
+ Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế: giúp Nhà nước có thể điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp, hướng dẫn các doanh nghiệp hành động một cách phù hợp với lợi ích toàn xã hội.
Các đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Đại hội IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoỏ đúi giảm nghèo.
- Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.
- Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”. - Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
2.1.2. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
a/ Nền kinh tế Việt Nam trước khi đổi mới: là nền kinh tế Kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp. Kinh tế kém phát triển, Sản xuất thua lỗ, đình đốn; lạm phát, tham nhũng tăng nhanh, đời sống nhân dân khổ cực. Nguyên nhân sâu xa là do sai lầm trong đường lối chính sách của Đảng:
Phủ nhận sự tồn tại của nền kinh tế thị trường, cho rằng nền kinh tế thị trường chỉ tồn tại trong chế độ TBCN và là sản phẩm riờng cú trong chế độ TBCN.
Tập trung phát triển công nghiệp nặng trong điều kiện kỹ thuật lạc hậu, nguồn vốn nghèo nàn, trình độ dân trí thấp. Điều nay vi phạm quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Việc quản lý nền kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo, không động viên khuyến khích sự sáng tạo của người dân lao động…
b/ Nền kinh tế Việt Nam sau đổi mới:
Đại hội VI của đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đó cú những bước phát triển tột bậc: GDP tăng 3 lần trong gần 20 năm qua. Thu nhập bình quân đầu người từ 200 USD/năm tăng lên gần 500 USD/năm, gấp 2,5 lần. Điều quan trọng là nền kinh tế thực sự hoạt động theo tín hiệu của thị trường. Tỷ trọng nông nghiệp trong các ngành kinh tế giảm xuống, nhưng những phân ngành theo nhu cầu của thị trường được phát triển nhanh như đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản, cây thực phẩm, cây công nghiệp... Công nghiệp và xây dựng, thương mại và dịch vụ phát triển có tỷ trọng không ngừng tăng trong nền kinh tế. Riêng xuất khẩu đến nay đã chiếm khoảng 50% GDP
Nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển nhanh và bền vững là do Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức đúng đắn về kinh tế thị trường, nhìn nhận thẳng thắn sai lầm trong tư duy, phát huy sáng tạo cơ sở của kinh tế thị trường TBCN, và điều quan trọng nhất là nhận ra và giải quyết được mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2.2. Ý nghĩa của tư tưởng kinh tế chủ nghĩa trọng thương đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương vẫn còn đúng đối với thực tế nước ta bởi vì nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá, mở cửa và hội nhập với kinh tế thế giới, phải phát triển thương mại, đặc biệt là ngoại thương để tiêu thụ hàng hoá nhằm thực hiện giá trị và giá trị thặng dư trong hàng hóa để tích luỹ tiền tệ và để tranh thủ các nguồn lực từ nước ngoài nhất là vốn và công nghệ tiên tiến của các nước đi trước góp phần vào quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập.
Việt Nam xuất phát từ nước kinh tế lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh nên thương mại nước ta không tăng (cả về nội thương lẫn ngoại thương). Đó cú thời kỳ, do sai lầm trong tư duy, nhận thức, Đảng, Nhà nước ta đã thực hiện chính sách đóng cửa nền kinh tế, mọi hoạt động của nền kinh tế chỉ xoay vần trong biên giới nhỏ hẹp. Chính điều này đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước, làm cho kinh tế tụt hậu quá xa so với thế giới. Chúng ta đã duy trì nền kinh tế chỉ huy theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, trong thời gian đầu mô hình kinh tế này phù hợp tình hình Việt Nam nhưng dần dần nó kìm hãm sự phát triển kinh tế, làm cho thương mại kém phát triển cả về nội thương và ngoại thương. Đến đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) nhà nước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa ra đòi hỏi phải tăng mạnh thương mại cả về nội thương lẫn ngoại thương. Tính đến nay, sau hơn 20 năm đổi mới đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng, chứng tỏ quan điểm trọng thương cũn đỳng đắn đối với Việt Nam trong tình hình hiện nay, phải có giao lưu với nước ngoài mới có điều kiện sản xuất trong nước, tăng tích lũy vốn để đầu tư tái sản xuất. Trong thời gian vừa qua, Chính phủ, đặc biệt có vai trò quan trọng của bộ thương mại, và các phương tiện thông tin đại chúng đã tạo ra một làn sóng thông tin tích cực và đa chiều nâng cao nhận thức của cộng đồng về WTO, về thương mại. Tuy nhiên, bên cạnh những biểu hiện tích cực ban đầu đó còn tồn tại rất nhiều hành động đi ngược với tư duy đúng, gây cản trở cho thương mại. Chính sách ưu tiên phát triển thương mại trong nước chưa được đi vào thực tế. Nhiều địa phương vì chạy theo thành tích thu hút đầu tư, đã ưu tiên các địa điểm kinh doanh đẹp cho các dự án thương mại nước ngoài, thay vì phải ưu tiên cho trong nước. Nâng cấp các cửa hàng tạp hóa lờn cỏc hình thức bán lẻ hiện đại hơn là một việc làm sống còn, cần được khuyến khích, nhưng trên thực tế các cửa hàng dạng này ngay lập tức phải chịu áp một mức thuế cao hơn. Xét về tổng thể, ngành thương mại vô cùng lẻ loi, không được sự phối hợp, giúp sức, cộng hưởng hiệu quả từ các ngành văn hóa, ngoại giao, giáo dục và đào tạo, khoa học, nghệ thuật. Những biểu hiện thiếu nhất quán như trên còn tồn tại rất nhiều.
Cần thống nhất tư duy mới về thương mại để hoạch định nên chiến lược cho thương mại nội địa và thương mại quốc tế, cũng như mô hình và các nguồn lực để thực thi. Với thương mại nội địa, trước sức ép ngày càng lớn của sự cạnh tranh, chúng ta phải đề ra những giải pháp để ổn định hệ thống trong nước trước sự tấn công của hàng hoỏ cỏc nước trên thế giới. Dù theo lộ trình cam kết, Việt Nam vẫn còn một khoảng thời gian cho đến thời điểm mở cửa hoàn toàn ngành bán lẻ, nhưng với thực trạng yếu kém, manh mún, phân tán (đối với bán lẻ truyền thống) và thiếu tính công nghệ, thiếu kinh nghiệm (đối với bán lẻ hiện đại) như hiện nay, nếu chúng ta không đoàn kết và quyết liệt thực thi những giải pháp chuyển đổi, nâng cấp hệ thống hiện tại thì chắc chắn chúng ta không thể cạnh tranh được với ngành thương mại .
Cần ưu tiên cho thương mại quốc tế với tư tưởng "lấy công làm thủ", bởi chiến thắng trong cạnh tranh của sân chơi WTO dành cho những ai có thể khai thác nhiều thị trường hơn trong tổng thể thị trường thế giới. Chúng ta phải trăn trở với tình trạng "càng xuất khẩu càng thua thiệt" như đại đa số các hàng hóa của chúng ta hiện nay, đặc biệt là các hàng hóa nông sản, khoáng sản. Chúng ta phải tạm thời chấp nhận nghịch lý này vì nền kinh tế có điểm xuất phát thấp khi bước vào cạnh tranh, nhưng phải nhanh chóng và kiên quyết thay đổi, tham gia vào các phân khúc tạo giá trị gia tăng cao hơn nếu chúng ta không muốn mãi mãi bị tụt hậu so với thế giới.
Tóm lại, phát triển thương nghiệp, đặc biệt là tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới đối với hàng hoá sản xuất trong nước là điều kiện tiên quyết để từng bước tích luỹ vốn, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng và phát triển ngành thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương, cần phải hoạt động trên cơ sở củng cố vững chắc những điều kiện hiện có của đất nước, chú trọng phát triển các ngành có khả năng xuất khẩu cao và có nhiều lợi thế tuyệt đối nhằm thu hút được nhiều vốn nhất nhưng vẫn phải đảm bảo công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh, theo thông lệ quốc tế.
Cuối cùng, cần đổi mới việc xúc tiến thương mại, có tầm nhìn và hiệu quả, không bao cấp, không hoạt động đơn lẻ. Hợp tác với các đối tác hàng đầu trên thế giới là cần thiết, nhưng luôn phải giữ vững thế tự chủ để tránh bị kiểm soát và bị thôn tính.
Tóm lại: Trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế hiện nay, việc phát triển thương mại (nội thương và ngoại thương) là rất cần thiết đối với các nước nói chung, đặc biệt là ở một nước kém phát triển như nước ta nói riêng. Nó không chỉ là phương thức để phát huy lợi thế của nền kinh tế, mà còn là cầu nối giữa các nguồn lực trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh nền kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, thương mại không phải là con đường làm giàu duy nhất, do đó việc tuyệt đối hoá vai trò của thương mại sẽ dẫn đến những sai lầm trong đường lối phát triển.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện nước ta hiện nay, những tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương vẫn còn có ý nghĩa, điều này được thể hiện rõ nét trong việc chú trọng phát triển thương nghiệp (bao gồm nội thương và ngoại thương) nhằm tạo tiềm lực về vốn cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy vậy, việc vận dụng tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương phải được kết hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước nhằm đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mỏc- Lờnin- NXB Chính Trị Quốc Gia- Hà Nội 2002
2. Giáo trình Lịch sử học thuyết kinh tế- NXB Thống Kê- Hà Nội 2003
3. Lịch sử các học thuyết kinh tế- NXB Chính Trị Quốc Gia- Hà Nội 2004
4. Tìm hiểu môn học Lịch sử học thuyết kinh tế- NXB Lý luận chính trị- Hà Nội 2006
5.
6.
7.
8.
TƯ TƯỞNG KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG - Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_tuong_kinh_te_cua_chu_nghia_trong_thuong_y_nghia_doi_voi_su_phat_t_.doc