Tìm hiểu kỹ thuật vi bao trong công nghệ thực phẩm và ứng dụng của nó

LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết, dân số ngày càng tăng trong khi đó tài nguyên thiên nhiên dần dần càng kiệt, bên cạnh đó những biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên thì ngày một diễn ra, khủng hoảng kinh tế thì vẫn đang tiếp tục, tất cả những yếu tố đó đã tạo nên sức ép cho con người, đòi hỏi con người phải có những sáng chế để giúp chính chúng ta đứng vững trong cuộc sống. Vì vậy, chính con người đã không ngừng đưa ra những phát minh mới vào phục vụ đời sống. Và một trong những lĩnh vực được con người áp dụng rộng rãi đó là ngành công nghệ thực phẩm. Năm 2011, thực phẩm đi theo hai khuynh hướng đó là ứng dụng công nghệ Nano và quan tâm tới vấn đề an ninh lương thực với mục đích mang lại cho nhân loại những giá trị tốt đẹp nhất, chẳng hạn như chúng ta đã ứng dụng thành công công nghệ GMO, công nghệ Probiotic, công nghệ vi bao, kĩ thuật sấy phun, kĩ thuật ép đùn ., chính những thành tựu đó đã mở ra cho nghành Công nghệ thực phẩm một bước ngoặt mới, tạo ra bước đột phá trong việc đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho con người. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn nữa những tính mới trong nghành thực phẩm, nhóm chúng em xin được chọn đề tài : “Tìm hiểu kỹ thuật vi bao trong công nghệ thực phẩm và ứng dụng của nó” . MỤC LỤC Chương I TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ VI BAO I.1 Vi bao là gì? 3 I.2 Lịch sử ngành công nghệ vi bao 4 Chương II PHƯƠNG PHÁP VÀ CÔNG NGHỆ II.1 Các phương pháp vi bao 6 II.1.1 Phương pháp hóa học 6 II.1.2 Phương pháp vật lý 8 II.2 Công nghệ và thiết bị sử dụng trong kỹ thuật vi bao 9 Chương III ỨNG DỤNG CỦA CÔNG NGHỆ VI BAO II.1 Ứng dụng trong các nhành công nghệ 11 III.1.1 Ứng dụng trong ngành in 11 III.1.2 Ứng dụng trong ngành dệt 12 III.1.3 Ứng dụng trong nông nghiệp 12 III.1.4 Ứng dụng trong dược phẩm 12 III.1.5 Ứng dụng trong sinh học 12 III.2 Ứng dụng trong thực phẩm 16 KẾT LUẬN 23 TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3780 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu kỹ thuật vi bao trong công nghệ thực phẩm và ứng dụng của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TPHCM VIỆN CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM-SINH HỌC    Tp. Hồ Chí Minh 3/ 2011 LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết, dân số ngày càng tăng trong khi đó tài nguyên thiên nhiên dần dần càng kiệt, bên cạnh đó những biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên thì ngày một diễn ra, khủng hoảng kinh tế thì vẫn đang tiếp tục, tất cả những yếu tố đó đã tạo nên sức ép cho con người, đòi hỏi con người phải có những sáng chế để giúp chính chúng ta đứng vững trong cuộc sống. Vì vậy, chính con người đã không ngừng đưa ra những phát minh mới vào phục vụ đời sống. Và một trong những lĩnh vực được con người áp dụng rộng rãi đó là ngành công nghệ thực phẩm. Năm 2011, thực phẩm đi theo hai khuynh hướng đó là ứng dụng công nghệ Nano và quan tâm tới vấn đề an ninh lương thực với mục đích mang lại cho nhân loại những giá trị tốt đẹp nhất, chẳng hạn như chúng ta đã ứng dụng thành công công nghệ GMO, công nghệ Probiotic, công nghệ vi bao, kĩ thuật sấy phun, kĩ thuật ép đùn…., chính những thành tựu đó đã mở ra cho nghành Công nghệ thực phẩm một bước ngoặt mới, tạo ra bước đột phá trong việc đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho con người. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn nữa những tính mới trong nghành thực phẩm, nhóm chúng em xin được chọn đề tài : “Tìm hiểu kỹ thuật vi bao trong công nghệ thực phẩm và ứng dụng của nó” . MỤC LỤC Chương I TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ VI BAO I.1 Vi bao là gì? 3 I.2 Lịch sử ngành công nghệ vi bao 4 Chương II PHƯƠNG PHÁP VÀ CÔNG NGHỆ II.1 Các phương pháp vi bao 6 II.1.1 Phương pháp hóa học 6 II.1.2 Phương pháp vật lý 8 II.2 Công nghệ và thiết bị sử dụng trong kỹ thuật vi bao 9 Chương III ỨNG DỤNG CỦA CÔNG NGHỆ VI BAO II.1 Ứng dụng trong các nhành công nghệ 11 III.1.1 Ứng dụng trong ngành in 11 III.1.2 Ứng dụng trong ngành dệt 12 III.1.3 Ứng dụng trong nông nghiệp 12 III.1.4 Ứng dụng trong dược phẩm 12 III.1.5 Ứng dụng trong sinh học 12 III.2 Ứng dụng trong thực phẩm 16 KẾT LUẬN 23 TÀI LIỆU THAM KHẢO 24 Chương I TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ VI BAO I.1 Vi bao là gì? Quá trình vi bao có thể được định nghĩa là quá trình bao phủ một chất trong một chất khác trên một quy mô rất nhỏ, năng suất khác nhau từ viên nang nhỏ hơn một micromet đến vài trăm micromet. Nang siêu nhỏ có thể hình cầu có hình dạng, với một lớp vỏ bao bao quanh nhân, một số khác là có hình dạng không đối xứng hoặc đa hình dạng. Tất cả ba trạng thái của vật chất (rắn, chất lỏng, và khí) đều được dùng trong vi bao. Điều này cho phép vật liệu lỏng và khí được xử lý dễ dàng hơn là chất rắn. Vi bao có thể đạt được bởi vô số các kỹ thuật để đạt được nhiều mục đích. Các chất có thể được vi bao với ý định là vật liệu nhân được giới hạn trong lớp vỏ của viên trong một khoảng thời gian cụ thể. Ngoài ra, vật liệu nhân có thể được đóng gói được giải phóng hoặc là dần dần đi qua các lớp vỏ viên nang, được gọi là sự giải phóng hoặc khuếch tán có kiểm soát, hoặc khi điều kiện bên ngoài kích hoạt các vỏ nang bị vỡ, tan chảy, hoặc phân hủy. Các chất được đóng gói có thể được gọi là vật liệu nhân, thành phần hoạt chất hoặc tác nhân, chất nhồi, hạt nhân, hoặc pha nội. Các vật liệu dùng để bao gói được gọi là lớp phủ, màng, vỏ, hoặc vật liệu vách. Các vi nang có thể có một lớp hoặc nhiều lớp vỏ sắp xếp theo tầng lớp có độ dày khác nhau xung quanh lõi. Vi bao ma trận Vi bao đa nhân hoặc đa lõi Túi đơn hoặc đa phiến mỏng Mixen Hạt gel Hydro Vi bao rỗng hoặc màng bao Các dạng vi bao: T.M.S. Chang I.2 Lịch sử ngành công nghệ vi bao: 1964: vi bao lần đầu tiên được mô tả bởi 1980: Một phạm vi nhỏ vi bao đuợc biết đến như tuyến tụy nhân tạo sinh học được thực hiện bởi F.Lim và M.Sun * Lịch sử của vi bao trong cấy ghép: Kể từ 1980-2005: Những cải thiện về: tính ổn định, tính thấm, khả năng tương thích sinh học. Những cải tiến kỹ thuật: sự tinh khiết vật liệu. Sự cấy ghép: Tạo hình dị mô, mô hình động vật lớn hơn, liệu pháp điều trị thử nghiệm. Những tính chất quan trọng của việc bao gói: tính ổn định, tính thấm,kích cỡ, khả năng tương thích sinh học. Tính chất của alginat phụ thuộc vào thành phần cấu tạo của alginat: tính hình thành gel alginat với cation hóa trị II phụ thuộc vào hàm lượng G cũng như liên kết đặc hiệu giữa G với ion hóa trị II. Chương II PHƯƠNG PHÁP VÀ CÔNG NGHỆ II.1 Các phương pháp vi bao: Phương pháp vi bao thường được phân loại thành hai nhóm: phương pháp hóa học và phương pháp cơ học hoặc vật lý. Tuy nhiên, cách phân loại này có thể không hoàn toàn chính xác vì một số phương pháp được phân loại như cơ học có thể có hoặc thậm chí dựa trên một phản ứng hóa học và một vài kỹ thuật hóa học đôi khi chỉ dựa trên các thông số vật lý. Một dấu hiêu rõ ràng hơn để phân loại một phương pháp bao là có hoặc không có vi nang được sản xuất trong thùng chứa hoặc hoặc lò phản ứng có chất lỏng, như trong phương pháp hoá học, trái với phương pháp cơ học hoặc vật lý, nó có sử dụng pha khí như một phần của quá trình bao và chủ yếu dựa trên các thiết bị có giá trị cao để tạo ra vi bao. II.1.1 Phương pháp hóa học: Viên nang cho giấy phi cacbon và cho nhiều ứng dụng khác được sản xuất bởi kỹ thuật hóa học được gọi là sự tạo giọt phức tạp. Phương pháp bao này lợi dụng phản ứng của các phân tử polyme (-) và (+) dạng dung dịch như gelatin và gum Arabic. Các polymer hình thành một trạng thái cô đặc được gọi là giọt phức tạp. Giọt này tồn tại ở trạng thái cân bằng với pha loãng nỗi trên bề mặt. Khi hỗn hợp vật liệu nhân và nước được đưa vào hệ thống, màng mỏng của những giọt polymer này phủ lên các giọt nhân đã được phân tán. Lớp màng mỏng này sau đó được làm đặc lại để tạo thành vi nang. Interfacial polymerization (IFP) là một phương pháp hóa học khác của vi bao. Kỹ thuật này được đặc trưng bởi sự hình thành vách qua sự trùng hợp nhanh của các monome trên bề mặt của các giọt nhỏ hoặc các hạt nhân đã được phân tán. Một monome đa chức năng được hòa tan trong vật liệu nhân, và dung dịch này sẽ phân tán trong một pha có nước. Một chất phản ứng với đơn phân được thêm vào pha nước, và sự trùng hợp nhanh chóng xảy ra trên bề mặt lõi của các giọt nhỏ, hình thành nên màng vi nang. IFP có thể sẵn sàng được sử dụng cho các vi bao lớn hơn, nhưng quá trình sản xuất các vi nang nhỏ hơn trong phạm vi khoảng 20 – 30 µm thì có giá trị thương mại hơn, sử dụng cho thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu, hay thậm chí là có đường kính nhỏ hơn 3-6 µm đối với mực in giấy carbon. Polymer – polymer không tương thích cũng được gọi là sự phân chia pha, thường được nhóm chung với các kỹ thuật bao hóa học khác, mặc dù thực tế thường không có phản ứng hóa học tham gia vào quá trình này. Phương pháp này sử dụng hai polymer hòa tan trong một dung môi phổ biến nhưng không kết hợp với nhau trong dung dịch. Những  polyme có hai pha riêng biệt, một phần trong polyme tham gia vào quá trình hình thành màng vi nang, những phần khác có trong polyme  polymer không tương thích dùng để tạo ra sự tách biệt của hai pha. Các polymer thứ hai không có xu hướng để trở thành một phầncủa màng vi bao hoàn chỉnh. mặc dù một số có thể bị giữ lại bên trong vỏ nang và giữ lại như là một chất không tinh khiết. Hỗn hợp polyme hóa là  kỹ thuật bao hóa học rất giống với polyme hóa giữa hai bề mặt phân cách. Đặc điểm phân biệt của hỗn hợp trùng hợp là không có chất phản ứng chứa trong nhân. Tất cả  các trùng hợp  xảy ra trong pha liên tục, hơn là  trên cả hai mặt của bề mặt phân cách  giữa pha liên tục và vật liệu nhân. Ví dụ về phương pháp này bao gồm hệ thống bao urê-formaldehyde (UF) và formaldehyde melamine (MF)…. Quá trình ly tâm đã được phát triển từ những năm 1940 để bao các loại dầu cá và vitamin,  khỏi quá trình oxy hóa. Trong phương pháp này một hệ nhũ tương dầu và nước được ép qua các lỗ nhỏ trong một cốc quay bên trong một bể dầu. Phần nước của nhũ tương có nhiều trong trùng hợp nước hòa tan, giống như gelatin khi được làm lạnh. Những giọt thu được được làm lạnh để hình thành những hạt ma trận-polyme hóa gel chứa những giọt dầu  phân tán mà đã được sấy khô để tách riêng. Tương tự như quá trình ly tâm, quá trình sử dụng ống phun ngập để sản xuất vi nang khi vật liệu dầu trong nhân được ép với gelatin thông qua một vòi phun hai chất lỏng. Những giọt dầu sẽ được bọc trong gelatin khi chúng được ép qua vòi. Sau đó, các viên nang  được làm mát để làm đông tụ màng , trước khi được thu lại và sấy khô. II.1.2 Phương pháp vật lý Sấy phun là một phương pháp vi bao cơ học được phát triển vào những năm 1930. Một nhũ tương được chuẩn bị bằng cách phân tán vật liệu nhân, thường là một loại dầu hoặc thành phần hoạt chất trộn lẫn với nước, cho vào một dung dịch vật liệu vỏ bao đậm đặc cho đến khi các giọt dầu đạt được kích thước mong muốn. Nhũ tương được phun vào các giọt bằng cách bơm chất lỏng thông qua một đĩa quay vào trong khoang đốt nóng của máy sấy phun. Các viên thu được thông qua quá trình xả liên tục từ buồng sấy phun. Fluid bed coating, một phương pháp đóng gói cơ học, bị hạn chế để đóng gói vật liệu nhân rắn, bao gồm cả chất lỏng thấm vào chất rắn xốp. Kỹ thuật này được sử dụng rộng rãi để đóng gói dược phẩm. Các hạt rắn được lơ lửng trên một luồng phun không khí và sau đó được phủ bằng một lớp sơn vật liệu lỏng. Các viên này sau đó được chuyển đến một nơi mà vỏ của họ là kiên cố hóa bằng cách làm lạnh hoặc làm bốc hơi dung môi. Quá trình lơ lửng, phun, và làm mát được lặp lại cho đến khi vỏ ngoài của các viên nang có độ dày mong muốn. Quá trình này được gọi là quá trình Wurster khi vòi phun được đặt ở dưới cùng của tầng sôi của các hạt. Cả hai phương pháp fluidized bed coating và quá trình Wurster là biến thể của phương pháp pan coating. Trong pan coating, các hạt rắn được trộn lẫn với một vật liệu sơn khô và nhiệt độ được nâng lên để các vật liệu sơn tan chảy và bao bọc các hạt nhân, và sau đó làm rắn bằng cách làm lạnh. Quá trình phun ly tâm thường sản xuất viên nang có kích thước lớn hơn, từ 250 micrometi một đường kính vài milimet. Các vật liệu nhân và vỏ không nên để lẫn với nhau, được đẩy qua một máy quay chất lỏng hai vòi. Chuyển động này tạo thành một sợi dây không đứt đoạn mà tự nhiên chia thành những giọt tròn ngay sau khi ra khỏi vòi phun. Các lớp vỏ được củng cố bằng cách làm lạnh hoặc tẩm gel, tùy thuộc vào thành phần và tính chất của vật liệu lớp phủ. Một quá trình bao gói cơ học khác là phân đĩa phương pháp kéo sợi. Pha nhân phân tán vào trong các nguyên liệu vỏ dạng lỏng và hỗn hợp được nâng lên một đĩa quay. Giọt vật liệu vỏ được ném ra khỏi vành của đĩa quay cùng với các hạt rời rạc của vật liệu nhân nằm trong một lớp vật liệu vỏ. Sau khi đã được làm rắn bằng cách làm lạnh sẽ thu thập được các vi nang rời rạc nhau. II.2 Công nghệ và thiết bị sử dụng trong kỹ thuật vi bao: Phương pháp nhỏ giọt Máy cắt tia Quá trình tạo vi bao nhũ tương ‘ Công nghệ sấy phun Chương III ỨNG DỤNG CỦA CÔNG NGHỆ VI BAO Có rất nhiều ứng dụng đối với công nghệ vi bao. Công nghệ vi bao được sử dụng trong nông nghiệp, dược phẩm, thực phẩm, mỹ phẩm và nước hoa, giấy dệt may, sơn, keo dán, in ấn , và các ngành công nghiệp khác… III.1 Ứng dụng trong các ngành công nghệ: III.1.1 Ứng dụng trong ngành in: Trong lịch sử, giấy phi carbon là sản phẩm tiêu dùng đầu tiên sử dụng màng vi bao. Một lớp màng vi bao không màu được áp dụng cho các tờ đầu tiên và tiếp tục được áp dụng cho các tờ tiếp theo. Khi viết tạo ra một áp lực, các viên nang phá vỡ và mực phản ứng với thuốc tráng để tạo ra màu đen cho bản sao. III.1.2 Ứng dụng trong ngành dệt: Ngày nay, ngành công nghiệp dệt may sử dụng các vật liệu vi bao để tăng năng suất sản phẩm. Một ứng dụng ngày càng được sử dụng là sự kết hợp những vật liệu thay đổi lớp vi bao (PCMs). Những vật liệu thay đổi này hấp thụ và giải phóng nhiệt để thích ứng với những thay đổi nhiệt độ môi trường. Khi nhiệt độ tăng lên, các vật liệu thay đổi tan ra, hấp thụ nhiệt quá mức, và trở nên mát hơn. Ngược lại, khi nhiệt độ giảm, PCM giảm nhiệt để đông đặc lại, trở nên ấm hơn . Vì vậy, sử dụng các vật liệu thay đổi lớp vi bao có thể được ứng dụng để làm tăng mức độ thoải mái cho người sử dụng dụng cụ thể thao, thiết bị quân sự, giường, quần áo, vật liệu xây dựng, và các sản phẩm tiêu dùng khác. Vi bao PCMs thậm chí còn được sử dụng trong các hệ thống bảo vệ bằng nhiệt NASA cho tàu vũ trụ. III.1.3 Ứng dụng trong nông nghiệp: Thuốc trừ sâu được bao sẽ phát tán theo thời gian, cho phép nông dân sử dụng thuốc trừ sâu ít hơn thay vì đòi hỏi nồng độ rất cao và có thể ứng dụng các chất độc ban đầu bằng cách sử dụng lặp đi lặp lại để chống lại sự mất hiệu quả do rửa trôi, bay hơi, và suy thoái. Bảo vệ khỏi việc nhiễm thuốc trừ sâu đến các yếu tố làm giảm các nguy cơ đối với môi trường và những người tiếp xúc với các hoá chất và đưa ra kế hoạch kiểm soát dịch hại hiệu quả hơn. III.1.4 Ứng dụng trong dược phẩm: Có nhiều loại thuốc uống và tiêm được vi bao để kéo dài thời gian và cố định vị trí trong cơ thể. Ví dụ, như Aspirin,có thể gây ra viêm loét dạ dày vàchảy máu nếu dùng nhiều cùng một lúc. Vì vậy thuốc viên aspirin thường được sản xuất bằng cách nén các viên nang siêu nhỏ lại và sau đó nó sẽ dần dần sẽ giải phóng các aspirin thông qua lớp vỏ , giảm nguy cơ tổn thương dạ dày. III.1.5 Ứng dụng trong sinh học: A - Nghiên cứu về “Sự giải phóng acid ascorbic vi bao trong ống nghiệm và ảnh hưởng của nó đến giá trị sinh học của sắt” Các nghiên cứu này được thực hiện để kiểm tra sự ổn định của acid ascorbic vi bao trong dạ dày và đường ruột mô phỏng trong ống nghiệm và hiệu quả của acid ascorbic đối với giá trị sinh học của sắt. Vật liệu lớp phủ được sử dụng là polyglycerol monostearate (PGMS) và triacylglycerol chuỗi trung bình (MCT), và nhân bên trong  là L- acid ascorbic  và sắt amoni sulfat. Khi acid ascorbic được vi bao bởi MCT, mức độ giải phóng acid ascorbic là 6,3% ở pH=5 và 1,32% ở pH=2 trong dịch dạ dày  mô phỏng trong thời gian 60 phút. Khi acid ascorbic được vi bao bởi PGMS, các acid ascorbic được giải phóng nhiều hơn, khoảng 9,5-16,0%. Tương tự, lượng acid ascorbic giải phóng ra tăng lên đáng kể khoảng 94,7% và 83,8% khi được bao bởi MCT và PGMS cũng với 60 phút nuôi cấy trong dung dịch ruột mô phỏng. Với các nghiên cứu tiếp theo về kiểm tra xem acid ascorbic có làm tăng giá trị sinh học của sắt hay không. Kết quả thu được cho thấy, thành phần và độ bão hòa sắt huyết thanh tăng lên đáng kể khi đối tượng tiêu thụ sữa có chứa cả sắt vi bao và acid ascorbic vi bao, so với những đối tượng tiêu thụ sắt không bao gói hoặc sắt được bao gói mà không có acid ascorbic. Do đó, các dữ liệu hiện tại cho thấy rằng acid ascorbic được vi bao với cả hai loại PGMS và MCT là phương pháp hiệu quả để bổ sung acid ascorbic vào sữa và tăng cường giá trị sinh học của sắt. Sữa là thực phẩm thông dụng và bổ dưỡng, tuy nhiên, nó có chứa một hàm lượng sắt rất thấp (Hegenauer et al, 1979.). Theo các cuộc điều tra dinh dưỡng gần đây, thiếu máu do thiếu sắt là một vấn đề rất phổ biến và đáng quan tâm, nguyên nhân do không đủ lượng sắt, đặc biệt là ở trẻ em, thanh thiếu niên, và phụ nữ  trong độ tuổi có kinh trên toàn thế giới (Hanes, 1974; Dinh dưỡng Canada 1973 ). Gần đây, các bác sĩ nhi khoa và các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo nên bổ sung sắt vào công thức chế biến thực phẩm để cải thiện tình trạng thiếu máu (Hegenauer và cộng sự, 1979). Tuy nhiên, việc tăng cường sắt trong chế biến thực phẩm là rất khó khăn do sự ôxi hóa tiềm ẩn các vị lạ, sự biến đổi màu sắc, sự lắng cặn và vị kim loại (Jackson và Lee, 1991) cũng có thể là do kết quả của sự ôi hóa lipid của chất béo có trong sữa (Edmonson et al, 1971.). Axit Ascorbic được biết đến là tham gia vào việc trao đổi chất của sắt trong động vật (NRC, 1993). Ascorbic acid giúp tăng cường hấp thu sắt từ ruột bằng cách đưa sắt III về sắt II, một dạng hòa tan nhiều hơn để dễ hấp thu hơn (Monsen, 1982). Axit Ascorbic cũng tham gia với adenosine triphosphate (ATP) trong việc giải phóng và làm giảm sắt III trong ferritin (phức sắt - protrein), và sau đó hợp nhất với protein, apoferritin và transferrin, vào ferritin mô (Lim và cộng sự năm 2000.). Tuy vậy, acid ascorbic rất không ổn định và dễ dàng bị phá hủy trong quá trình chế biến bởi nhiệt độ, pH, oxy, tia UV… Để khắc phục một số hạn chế của axit ascorbic, kỹ thuật vi bao có thể là một ứng dụng tốt. Vi bao cho thấy tiềm năng như là một chất mang trong hệ thống thực phẩm, có thể là một phương pháp tốt cho việc bổ sung acid ascorbic, sắt vào các sản phẩm chế biến từ sữa (Jackson và Lee, 1991; Berseneva và cộng sự năm 1990.). Hiện tại, đã có sự quan tâm đáng kể trong việc phát triển các hương vị và các enzym được bao lại . Uddin và cộng sự (2001) chỉ ra rằng acid ascorbic vi bao có thể ngăn cản sự biến đổi màu sắc do acid ascorbic, làm chậm tốc độ giải phóng ra của nó, và làm át đi vị acid. Ngoài ra, sắt còn được biết đến là chất xúc tác cho quá trình oxy hóa lipid gây ôi hóa với mùi và vị khó chịu. Lý do quan trọng nhất của việc sử dụng sắt vi bao là để củng cố cho sản phẩm sữa bị oxi hóa tiềm ẩn do vị lạ (Jackson và Lee, 1991), có lẽ do sự tiền oxi hóa lipid của sữa (Edmonson, 1971). Nói chung, sự hấp thu về mặt dinh dưỡng từ vi nang là có hiệu quả, nhưng một số vấn đề cần được giải quyết: Các viên nang phải chứa nhiều dinh dưỡng nhất có thể và phải chịu được các chất dịch dạ dày và đường ruột nơi có thể bị các enterocyte giải phóng vào hệ tuần hoàn máu ức chế. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là để kiểm tra sự ổn định của acid ascorbic vi bao trong dạ dày, acid đường ruột mô phỏng trong ống nghiệm, và ảnh hưởng của acid ascorbic vi bao trên giá trị của sắt. B – Vật liệu và phương pháp: VẬT LIỆU Đối với việc vi bao của acid ascorbic và sắt, triacylglycerol chuỗi trung bình (MCT) và monostearate polyacylglycerol (PGMS) được sử dụng làm vật liệu bao. Những vật liệu này được mua từ  Công ty TNHH chất nhũ hóa II-Shin (Seoul, Hàn Quốc). Làm vật liệu nhân là acid L- ascorbic và phức sắt hòa tan trong nước, sulfat amoni sắt (FeNH4 (SO4) 2-4H20), được mua từ Sigma Chemical Co, (St. Louis, MO, USA) và Công ty Hóa chất Shinyo Co . LTD. (Osaka, Nhật Bản), tương ứng, và đã được học lớp thực phẩm. PHƯƠNG PHÁP Chuẩn bị vi bao Vi bao của acid ascorbic được thực hiện bởi MCT hoặc PGMS. Đối với MCT, các tỷ lệ khác nhau của lớp phủ với nhân là 5:1, 10:1, 15:1, và 20:1 (w / w) để tối đa hóa hàm lượng nhân và sự ổn định của các viên nang siêu nhỏ, và khuấy trộn 1.200 vòng / phút trong một phút với máy khuấy. Đối với PGMS, 50 ml nước cất cho vào 5g PGMS vì PGMS độ nhớt cao.Hỗn hợp PGMS và nước cất được đun nóng đến 55oC trong 20 phút, và khuấy với vận tốc 1.200 vòng / phút trong 30 giây để phun. Các tỷ lệ khác nhau của lớp phủ vật liệu nhân là 5:50:1 (w / v / w), 10:50:1, 15:50:1 và 20:50:1. Các khâu tiếp theo giống như MCT. Còn đối với vi bao sắt thì sử dụng PGMS. Đối với phun, một máy phun sơn chân không (W-300, Wagner Spray Tech Co,Markdorf, Đức.) phun hỗn hợp nhũ tương bên trong – vật liệu bao bên ngoài vào một thiết bị chứa hình trụ có chứa dung dịch polyethylene Sorbitan monostearate 0,05% ở 50C. Đường kính của lỗ vòi phun là 0,4 mm. Các chất lỏng làm lạnh đã được ly tâm ở 450xg trong 10 phút, tách riêng các vi nang được hình thành như lipid hóa rắn trong dịch ướp lạnh. Tính ổn định của vi nang trong ống nghiệm Để xác định sự ổn định trong dạ dày và ruột, như phương pháp gián tiếp,  dịch ruột mô phỏng được chuẩn bị như sau:  1) Dịch dạ dày được chuẩn bị trong mẫu có chứa pepsin (pH 1.2) và mô phỏng thành 4 dịch khác nhau với PH=2, 3, 4 và 5 sử dụng bởi 2 NHCl và NaOH 2) Dịch đường ruột đã được chuẩn bị trong hệ đệm 0.1M PBS (100 ml, pH 3.4) có chứa 20 mg pancreatin, 5 mg lipase, 10 mM axit cholic và 10 mM axit deoxycholic, và mô phỏng thành 3 dung dịch khác nhau trong ruột với PH = 6, 7 và 8. Trong cả hai dịch dạ dày và đường ruột, các vi bao của acid ascorbic trong nước cất (có chứa axit ascorbic: 100 ppm) đã được ủ ở 370C với tập hợp các mẫu trong thời gian 0, 20, 40 và phút 60. Các mẫu đã được xử lý được đem đi ly tâm và gạn, sau đó được phân tích để xác định hàm lượng axit ascorbic giải phóng ra từ vi nang. Tất cả các thí nghiệm được lập lại 3 lần. Xác định khả năng sinh học của sắt Mười lăm nữ sinh tình nguyện khỏe mạnh, tuổi từ 20 đến 25 năm, đã được lựa chọn từ trường đại học Sejong, Seoul, Hàn Quốc. Một số người uống các thức uống như cà phê và trà xanh, các thức uống đóng vai trò như một chất ức chế hấp thu sắt, việc này đã bị cấm. Vì thế, ba mẫu sữa khác nhau đã sử dụng để thử nghiệm  với khoảng cách là 2 giờ: đầu tiên, mẫu sữa thương mại không bổ sung chất nào khác (100 ml) được cho thử để xác định tình trạng sắt của họ, thứ hai, 100 ppm sắt  không vi bao đã được thêm vào sữa được cho thử, thứ ba, 100 ppm sắt vi bao được thêm vào sữa, và cuối cùng, 100 ppm sắt vi bao và 250 ppm acid ascorbic vi bao với MCT. 5ml máu của người tình nguyện nhịn ăn sáng được hút ra làm maaux cơ sở và sau 1 giờ khi họ đã nhận được 5 mẫu sữa khác nhau. Máu đã được hút ra bằng bơm tiêm nhựa với kim thép không gỉ, sau đó được cho vào  ống nhựa không nhiễm kim loại  và  được ly tâm một cách nhanh chóng  để tách tế bào màu đỏ từ huyết tương. Sắt huyết thanh, dung lượng sắt liên kết trong huyết thanh và độ bão hòa dịch chuyển được xác định bằng Sigma kit (Sigma Co, StLouis, MO, Mỹ) với quang phổ. Acid ascorbic giải phóng ra trong dịch dạ dày mô phỏng C- Kết quả Nghiên cứu này được tiến hành để xác định xem liệu các vi nang đã giải phóng sắt trong điều kiện dạ dày và đường ruột mô phỏng. Trong dịch dạ dày mô phỏng, việc giải phóng sắt cho thấy một hướng tương tự trong mỗi PH (2, 3, 4 và 5). Với sự thay đổi pH 2-5, việc giải phóng axit ascorbic trở nên ít hơn tại mỗi điểm của thời gian ủ, cho thấy rằng có sự ổn định cao hơn của vi nang ở pH cao hơn. Ngoài ra, có một lượng acid ascorbic được giải phóng ra tăng đáng kể trong khoảng 20 phút đầu tiên. Với vi bao được làm bởi MCT, 12,5% sắt đã được giải phóng ra từ các vi nang ở 20 phút, và tăng nhẹ đến 13,2% ở 60 phút ở pH=2 (Hình 1). Ủ tại PH=3 và 4 ở 370C thì 9,9% và 6,8% sắt giải phóng ra trong 20 phút và 9,3 và 11,1% ở 60phút. Tại pH=5, việc giải phóng acid ascorbic là không đáng kể trong thời gian ủ, và cũng có thể là thấp nhất trong các phương pháp xử lý cụ thể là 4,7% ở 20phút, và 6,3% ở 60 phút. Vì PGMS là một dạng chất rắn tại nhiệt độ phòng, một quy trình bổ sung được áp dụng dựa trên phương pháp được mô tả như sau: trước hết, quá trình gia nhiệt đã được áp dụng để dễ phun; thứ hai, nước cất được thêm vào đển làm giảm độ nhớt của dung dịch phun cho axit L-ascorbic và / hoặc sắt vi bao (Kwak và cộng sự, 2001). Từ nghiên cứu trước đây của chúng tôi (Kwak và cộng sự 2001), 50 ml nước cất là thích hợp để phun, do đó, chúng tôi đã kiểm tra ảnh hưởng của các tỷ lệ khác nhau của lớp bao so với vật liệu bên trong với 50 ml nước cất thêm vào trên hiệu quả của acid ascorbic vi bao. Khi acid ascorbic được vi bao bởi PGMS, ascorbic acid giải phóng ra nhiều hơn ở tất cả các PH và thời gian ủ (Hình 2). Tuy nhiên, cách giải phóng ra không khác so với MCT. Tại pH=2, 13,5% sắt được giải phóng ra từ các vi nang ở 20 phút, và hơi tăng lên đến 16,0% ở 60 phút. Ủ tại PH=3 và 4 ở 370C thì có 12,2 và 10,1%giải phóng ra ở 20 phút, và tương ứng 14,5 và 13,2% ở 60phút. Tại pH=5,việc giải phóng acid ascorbic là tương tự như các phương pháp khác đó là 8,5% ở 20 phút, và 10,0% ở 60 phút. Các kết quả hiện tại cho thấy rằng việc giải phóng các acid ascorbic từ vi nang được làm bởi MCT mang lại một sự ổn định cao hơn rất nhiều trong dịch dạ dày mô phỏng, so với vi nang làm bởi PGMS. Hơn nữa, tỷ lệ axit ascorbic giải phóng ra nhiều hơn ở PH thấp hơn có thể  là do môi trường có tính axit cao, do viên nang vỡ ra. Nghiên cứu tương tự được tiến hành với sắt vi nang làm bởi PGMS (Kwak và cộng sự, 2003). Trong nghiên cứu của họ, hầu hết sắt đã được giải phóng ra trong vòng 20 phút ở mỗi PH (3, 4, 5 và 6), đạt trong khoảng 13,0-14,7%. III.2 Ứng dụng trong thực phẩm: Thành phần trong thực phẩm được bao gói với nhiều lý do. Hầu hết các hương liệu dễ bay hơi, do vậy bao gói thực phẩm nhằm kéo dài thời gian bảo quản bằng cách giữ lại mùi vị của g để ổn định sản phẩm mà không ảnh hưởng hương vị tự nhiên của sản phẩm. Ngoài rathực phẩm. Một số thành phần được bao gói để giữ lại vị, chẳng hạn như các chất dinh dưỡng được bổ sun, hương vị đôi khi được bao gói để làm tăng tính dai dẻo của sản phẩm, như trong kẹo cao su. Lượng hương liệu dạng rắn được bao gói ít hơn hương dạng lỏng, vì hương liệu lỏng dễ bị mất và khó thu lại trong suốt quá trình nhai. Hương liệu gồm hai thành phần tương tác với nhau, thì được bao gói riêng, có thể được thêm vào các sản phẩm đã hoàn thành một cách riêng biệt để không phản ứng và tạo hương vị sớm. Một số hương liệu cũng phải được bảo vệ để tránh quá trình oxy hóa hoặc các phản ứng khác do tiếp xúc với ánh sáng. Nghiên cứu màng vi bao tế bào vi khuẩn lactococcal lactis trong sản xuất protein : qui trình phân tích thử nghiệm Tóm tắt : Bài báo này cho thấy được tiềm năng của việc chế tạo màng vi bao vi khuẩn Lactococcal lactis như là một trung gian trong việc phân phối những protein có tác dụng điều trị. Sử dụng màng alginat-poly-l-lysin-alginat ( APA) bao vi khuẩn L.lactis với chất mang là những enzym nuclease từ tụ cầu khuẩn Staphylococcal aureus , chúng ta có thể so sánh khả năng tồn tại và bao bọc kín protein giữa 2 loại tế bào tự do và được giữ cố định. Sau 12h, màng vi bao với mật độ tế bào là 4.8x105CFU/ml phát triển đến 2.2x108CFU/ml và giải phóng 0.24AU/ml và bọc được lượng nhân là 0.21 AU/ml. Hơn thế nữa, những tế bào vi bao ở nật độ 4.4x107CFU/ml lên đến 2.2x1010CFU/ml trong 12h bọc được số lượng nhân là 15.3AU/ ml trong khi đó từ mật độ 3.1x107CFU/ml những tế bào tự do phát triển đến 2.3x109 CFU/ml và giải phóng 5.6 AU/ml nhân. Chúng ta thấy được tính ổn định của màng vi bao được duy trì trong suốt quá trình bảo quản ở 40C trong hơn 8 tuần. Lời giới thiệu: Vi khuẩn Lactococcal lactis đã trở thành một loài vi khuẩn được khẳng định có giá trị vô giá. Chúng là những vi khuẩn sản xuất acid lactis từ thực phẩm, có tính phổ biến cao được sử dụng sản xuất các loại thực phẩm lên men, mang lại một cuộc cách mạng trong hệ thống sản xuất protein. Vi khuẩn L.lactis được sản xuất bằng cách bọc trong những màng protein khác nhau thích hợp cho y học như những vacxin bao gồm cytokines và những gen đối kháng. Quá trình nghiên cứu thử nghiệm sẽ cho thấy được khả năng có nên sản xuất những protein này chăng, và hiệu ứng trong điều trị các rối loạn đường ruột có kết quả tốt không, qua đó ước lượng hiệu quả trong phép điều trị qua đường miệng các hội chứng thuộc dạ dày ruột. Trong khi kết quả của sự điều trị tế bào sống dựa trên khả năng sống của tế bào , sự tồn tại của những tế bào là thấp khi ở trong dạ dày và những cơ quan ở vật chủ khác ngoài cơ thể được xem là những hạn chế lớn được chú trọng. Màng vi bao được chế tạo để làm dịu đi sự cản trở cũng như kiềm hãm những vi sinh vật khi được giải phóng bằng cách bọc cố định những vi sinh vật trong lớp màng polyme. Đặc biệt, lớp màng APA cho thấy hiệu quả khi bọc tế bào vi khuẩn sống để phân phối qua miệng. Lớp màng bao quanh cho phép quá trình khuếch tán thuận nghịch của các phân tử nhỏ, phân tử cơ chất, chất dinh dưỡng, sản phẩm và các chất thải trong khi đó nó ngăn chặn sự khuếch tán của những phân tử lớn. Trong quá trình nghiên cứu này, lớp màng APA sẽ được tạo ra ở vi mô phòng thí nghiệm. Sử dụng sức căng bề mặt của nisin-inducible để bọc những phân tử nhân protein của Staphylococcal aureus, 19- kDa những kết quả đạt được sẽ đáp ứng cho việc đánh giá sơ bộ tính khả thi cũng như cung cấp những hiểu biết cơ bản cho quá trình thực hiện sau này. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP : Quá trình cấy tế bào: Loại màng được chế tạo cho vi khuẩn L.Lactis là nisin-inducible ( L.lactis NZ9000)[ pSEC: LEISSTCDA:Nuc] được Dr.Philip Langella ( National Institue for Agricultural Research ) tìm ra. Những tế bào vi khuẩn được cấy vào môi trường M17 ở 300C có bổ sung 0.5% glucose và 10 QUOTE g chloramphenicol là chất chọn lọc kháng sinh. Những kích ứng ở tế bào được biễu diễn bởi 1ng nisin/ ml ( Sigma) Tiến hành thí nghiệm: Những tế bào được lấy ra từ kho đông được cấy qua đêm sau đó chia thành những mẫu nhỏ khoảng 2% mẫu để đạt mật độ (OD)600 là 0.4-0.6. cho tế bào tương tác với nisin trong 1h, sau đó ly tâm ( 8000xg, 10p) để thu sinh khối, làm sạch sinh khối 3 lần trong dung dịch nước muối sinh lý (PS) 0.85% trước khi dùng làm mẫu thử nghiệm. Quá trình nghiên cứu những vi khuẩn tự do, chúng được giữ trên băng trong dung dịch PS để ghi nhận những phản ững xảy ra trong quá trình tạo màng để cố định tế bào vi khuẩn. Màng vi bao của những tế bào: Màng vi bao được chế tạo từ kỹ thuật Inotech Encapsulator IER-20. Ngâm các tế bào trong dung dịch đồng nhất natri alginat ( độ nhớt thấp, Sigma) để ép dịch từ vỏ bao thành những giọt nhỏ sau đó khuấy với dung dịch CaCl2 (0.1M) để nhũ hóa chúng , màng alginat được hình thành. Sau 30p tạo màng gel, thì chúng được lấy ra. Sau khi được làm sạch trong dung dịch PS, màng alginat được phủ lên 0.1% poly-l-lysin trong 10p, làm sạch lần nữa rồi phủ lên 0.1% dung dịch natri alginat trong 6p, màng vi bao APA được hình thành và chúng sẽ được sử dụng ngay sau đó. Quá trình xác định khả năng tồn tại của tế bào: Màng vi bao chỉ chứa một lượng tế bào và những vi khuẩn tự do tương ứng với khả năng phát triển của những tế bào được cấy vào ở 300C. Sau khi chiết mẫu, màng được định lượng, được nghiền nhỏ và thả nổi trong dung dịch PS. Qúa trình hòa tan từ từ của những tế bào và thể vi khuẩn tự do được ước lượng cho khả năng tồn tại của tế bào qua những bản agar bọc dung dịch GM17 bên trong, sử dụng chlorophamnicol ( 10 QUOTE  /ml ) làm chất kháng sinh chọn lọc, ủ ấm ở 300C trong 48h. Khả năng tồn tại của tế bào ở màng vi bao được ước lượng là số đơn vị CFU / ml tế bào vi bao và CFU/ml tế bào tự do. Quá trình xác định mức độ giải phóng của nhân tụ cầu khuẩn Staphylococcal aureus : Cấy một lượng vừa đủ màng vi bao và những tế bào tự do thành những mẫu thử, ly tâm ở 8000xg, 10p và thu sinh khối, bảo quản ở -200C cho tới khi thử nghiệm. Nhân được giải phóng vào trong dịch nổi trên mặt, lớp nhũ trên mặt được định lượng dựa trên hoạt tính DNAse của chính nó. Hoạt tính enzyme của protein được dùng để đo lường khả năng tiêu hóa DNA thành những mạch oligonucleotit acid hòa tan, qua phép đo quang phổ ở bước song 260nm ta dò ra được chúng , điều này là kết quả thử nghiệm của Henis và những cộng sự. 5 mg/ ml ( Sigma ) DNA trong tinh dịch của cá hồi được sử dụng làm cơ chất DNA và những mẫu thử nhũ . hoạt tính của enzyme nuclease được biểu thị bởi đơn vị AU/g với trường hợp những tế bào vi bao và AU/ ml tế bào thể vẫn với trường hợp những tế bào tự do. Một đơn vị AU được hiểu là kết quả chuyển đổi của một đơn vị OD của cơ chất DNA ở bước sóng 260nm ở 370C. Kết quả và thảo luận: Khả năng tồn tại của vi khuẩn Lactococcal lactis tự do và được vi bao : Hệ thống phân phối protein có khả năng tồn tại và còn hoạt tính được tạo ra bởi màng vi bao vi khuẩn L.lactis. thực hiện phép thử ở 2 mật độ tế bào khác nhau ( 3-5x105 và 3-5x107 CFU/ml) khả năng tồn tại của các tế bào vi khuẩn ở màng bao và tự do được đưa ra để so sánh, kết quả được tóm lược ở bảng 1. ,màng vỏ bao được dung để kiểm soát và biểu thị sự phát triển của những tế bào. Bằng phép so sánh quá trình phát triển ở những tế bào tự do và màng vi bao, có một điều rõ rang là màng vi bao không gây trở ngại đến tốc độ phát triển hay năng lực tăng sinh của tế bào. Thật vậy, ở nồng độ tế bào cao, ta quan sát thấy màng vi bao hơn những tế bào tự do trước đó sự tăng trưởng là từ 7.6-10.4 log10 CFU/ml và sau 12h là 7.5-9.4 log10 CFU/ml, ở nồng độ tế bào thấp sự khác nhau thì không có ý nghĩa với tế bào vi nang phát triển từ 5.7-8.3 log10 CFU/ml và những tế bào tự do là 5.5- 8.3 log10CFU/ml. Ta nhận thấy rằng có thể tạo ra những điều kiện kích thích quá trình tăng sinh tế bào của màng vi bao vi khuẩn. cầu nối tế bào xuyên qua sản phẩm bên ngoài có vai trò tác động đến sự phát triển của L.lactis và có thể khác khi ở trong một vi môi trường cố định đối với thể khuẩn tự do. Những nghiên cứu khác cho thấy rằng, sự phát triển của nhữn vi khuẩn kị khí không bắt buộc thì chịu tác động bất lợi khi có mặt oxy. Những tế bào được bọc bởi màng vi bao sự tiếp xúc với oxy được giảm bớt, đặc biệt phía bên trong lớp vỏ sự xuyên qua của oxy là thấp nhất, chất này được xem là nhân tố cho sự phất triển của tế bào. Một ảnh hưởng nổi trội của những nhân tố này được nhận thấy ở mật độ tế bào cao hơn và đòi hỏi quá trình nghiên cứu kĩ hơn trước khi đưa ra kết luận có thể làm không. Sự bài tiết enzyme của những tế bào vi khuẩn L.lactis tự do và được vi bao : Những mẫu thử nhũ từ quá trình cấy được mang đi phân tích bằng phương pháp điện di trong gel natri dodexyl sunphat polyacrylamide ( SDS- PAGE) trên những gel này được nhuộm màu bạc để phát hiện ra tổng số protein được bọc trong màng và lượng nhân chứa trong đó. Trong số những mẫu đó, mẫu chứa nhân của vi khuẩn Staphylococcal aureus có thể dò ra như là một protein trọng yếu, độ chừng 20kDa. Quan sát có 2 dải yếu ớt trong quá trình tạo ra và kiểm soát mẫu thử vi khuẩn L.lactis tương ứng với kích cỡ 50-55 kDa. Đây là những chất mang để hình thành nên Usp45, một loại protein chưa biết chức năng, điều này chỉ dò ra được tính tự nhiên của protein ẩn chứa trong đó bởi vi khuẩn L.lactis. Những nghiên cứu sẽ mang lại quyết định có không một lớp màng vi bao bọc một lượng vừa phải những protein khác nhau thành một hệ thống những tế bào có hiệu ứng như những tế bào tự do. Xu hướng bọc những tế bào vào trong được thực hiện cho thấy có tồn tại khả năng sống của tế bào. Sau 12h, ở những tế bào tự do bọc được 0.21AU/ml và màng vi bao giải phóng 0.24 AU/ml. Tại mật độ tế bào cao hơn lúc ban đầu những protein được giữ bởi những tế bào của màng vi bao gần như tương đương với những tế bào tự do. Tuy nhiên, vượt quá 10h nuôi cấy nhận thấy sự khác biệt rất lớn về mức độ bọc những protein vào trong. Sau 12h, những mẫu vi bao sản sinh ra 15.3 AU/ml, thay vào đó những tế bào tự do thì sản sinh ra 5.6 AU/ml gần như là 3 lần . Điều chủ yếu ở đây là sự lệch này có thể là kết quả từ việc sử dụng nồng độ cao lượng tế bào vi bao và là kết quả so sánh tốc độ phát triển chậm ở những tế bào tự do trong giai đoạn này. Thời điểm phát triển phù hợp với sự của logarit ở pha lag được ghi nhận giữa 2 loại tế bào tự do và vi bao. Trong tất cả những mẫu thử nghiệm, giai đoạn logarit phát triển xảy ra sau 2-4h nuôi cấy, mặc dù có một sự gia tăng ứng với sự có mặt của nhân được dò ra chỉ sau 6-8h. Sự phù hợp của những kết quả này không gợi ra bất kỳ sự sai nghịch nào ở những mẫu thử được vi bao bởi vì giới hạn khếch tán của những chất dinh dưỡng mà cũng không có khoảng không gian cho sự phát triển của vi khuẩn. Màng vi bao APA chứa những phân tử tiên phong được cắt thành đoạn có khối lượng khoảng 50-70kDa cho phép thực hiện quá trình đa dạng hóa những protein có tác dụng trị liệu từ L.lactis kích cỡ và giá cả cho quá trình phân phối prtein sẽ ảnh hưởng đến mức lan truyền của chính nó và theo đó là tốc độ giải phóng protein, điều này có thể bị thay đổi như điều tất yếu bởi việc hiệu chỉnh thuộc tính lớp màng cũng như tính xốp và kích cỡ của lớp vỏ bao. Hình thái học của màng vi bao: Những thuộc tính của màng vi bao được nghiên cứu trong suốt quá trình thử nghiệm. Thể cầu đồng nhất được bọc trong lớp màng APA được chế ra có đường kính trung bình 625±91µm. Những thuộc tính vật lý rất quan trọng cho quá trình thăm dò thử nghiệm. Mặc dầu, L.lactis không có tính cạnh tranh và an toàn, quá trình áp dụng những sinh vật chuyển gen hay các gen kháng kháng sinh cho mục đích lâm sàng vẫn có thể sinh ra một số vấn đề liên quan. Vấn đề liên quan được liệt kê đó là khả năng lan rộng của gen hay là những gen kháng kháng sinh và ảnh hưởng của chúng lên hệ vi khuẩn ở thực vật. Những tế bào được cố định lên màng APA như là đường ranh cho tác dụng có lợi khi các tế bào được bọc trong trung thể, đi vào cơ thể chúng được giữ lại thông qua màng APA trước khi bị đào thải ra ngoài. Tính ổn định của màng vi bao trong quá trình bảo quản : Chúng ta khảo sát sự tồn tại của những tế bào vi khuẩn L.lactis được bọc trong màng vi bao trong suốt quá trình bảo quản trong dung dịch GM17/PS (1:10) ở 40C. Những chuẩn bị cho màng vi bao lý giải khả năng tồn tại của chúng để duy trì sự tồn tại của tế bào trên 8 tuần. Trong 2 tuần đầu, khả năng sống của tế bào xuất hiện tăng dần. Thực hiện thêm những thí nghiệm ta thấy điều này sớm hơn nữa, quá trình phát triển diễn ra tự phát trong suốt 4 ngày đầu của quá trình bảo quản để chuẩn bị cho những tế bào sơ khai khi cung cấp một lượng dưỡng chất ít có lẽ mang lại kết quả. Những phân tích hiển vi cho thấy cấu trúc của những màng vi bao này, không tìm thấy sự thay đổi kích cỡ, hình dạng hoặc mật độ tế bào. Những lý giải này khẳng định màng vi bao APA là một phương pháp có hiệu quả cho việc duy trì khả năng tồn tại của vi khuẩn L.lactis trong một thời gian dài ở nhiệt độ lạnh. Kết luận : Ngược với quá trình sử dụng vi khuẩn L.lactis sống để tạo ra protein được phân phối qua miệng được chứng thực là thành công sử dụng màng vi bao là con đường mang lại một cuộc cách mạng cho những hạn chế ở hiện tại. Thực hiện những thử nghiệm để chúng minh rằng ta có thể so sánh sự phát triển của tế bào giữa tế bào tự do và được vi bao. Trong quá trình thực hiện này, những tế bào được giữ ở bên trong mạng lưới polyme cũng như duy trì được tính chất vật lý của vỏ bao. Những thuận lợi nổi từ màng vi bao đó là làm mới hệ thống những protein khác nhau được phân phối qua miệng, điều này có thể còn được thử nghiệm thêm nữa trên động vật để cho những kết quả lâm sàng có ý nghĩa. KẾT LUẬN Nhìn lại chặng đường đã qua, khoa học công nghệ Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã có những bước tiến vượt bậc đáp ứng phần nào đời sống vật chất và tinh thần cho nhân loại. Công nghệ nano mang đến những ứng dụng tuyệt vời trong ngành công nghệ thông tin cũng như sản xuất những vật liệu mới sử dụng trong bao gói thực phẩm. Thực phẩm probiotic cung cấp cho hệ đường ruột lượng vi khuẩn có lợi giúp hệ ruột ngày càng khỏe mạnh. Thực hành sản xuất tốt (GAP) đem đến nguồn thực phẩm dồi dào không có chất gây bệnh góp phần ổn định nguồn lương thực cho quốc gia và còn rất nhiều những công nghệ mới nữa mà hằng ngày các kỹ sư đang tìm tòi nghiên cứu trong đó quá trình nghiên cứu màng vi bao cũng được ghi nhận với những đóng góp tích cực. Ở Việt Nam, màng vi bao đang được nghiên cứu sử dụng trong nhiều ngành khác nhau như dược phẩm, thực phẩm, công nghệ vật liệu… Mặc dù việc ứng dụng còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết tìm lực của màng nhưng nó cũng giúp giải quyết đáng kể nhu cầu sử dụng các loại hương liệu dễ bay hơi trong công nghệ thực phẩm cũng như các loại dược phẩm cấp thiết cần bổ sung cho cơ thể. Hy vọng trong tương lai, màng vi bao sẽ được sử dụng ngày càng phổ biến hơn, có những nghiên cứu sâu sắc hơn nhằm mang lại những sản phẩm chất lượng và bổ ích cho con người. TÀI LIỆU THAM KHẢO  HYPERLINK ""   HYPERLINK ""   HYPERLINK ""   HYPERLINK ""   HYPERLINK ""   HYPERLINK "" 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu kỹ thuật vi bao trong công nghệ thực phẩm và ứng dụng của nó.doc
Luận văn liên quan