Nghị quyết về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của Chính phủ ban hành ngày 15/6/2000 chỉ rõ:
“Phát triển đàn lợn phù hợp với nhu cầu của thị trường tiêu dùng trong nước, một số vùng chăn nuôi lợn chất lượng cao để xuất khẩu. Phát triển chăn nuôi bò theo hướng thâm canh có năng suất cao, phấn đấu trong 10 năm tới có 200.000 con bò sữa, trong đó 100.000 con bò cái vắt sữa với sản lượng 300.000 tấn sữa tươi/năm. Phát triển đàn gia cầm chủ yếu là gà vịt.”
Từ định hướng phát triển chung nói trên, em xin nêu ra định hướng phát triển chăn nuôi trâu, bò của tỉnh Bình Định như sau:
Cải tiến phương thức chăn nuôi truyền thống ở các nông hộ, đồng thời xây dựng các cơ sở chăn nuôi bò thịt, bò sữa hiện đại.
Tiếp tục Zêbu hóa đàn bò. Nhập một số giống bò chuyên dụng sữa, chuyên dụng thịt năng suất cao. Tiến hành lai tạo đàn bò chuyên dụng sữa, chuyên dụng thịt với bò đã được Zêbu hóa.
47 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4232 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu và đánh giá một số mô hình chăn nuôi đại gia súc trên địa bàn tỉnh Bình Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thức ăn cho gia súc,…
Chăn nuôi là nguồn cung cấp sức kéo cho canh tác, khai thác lâm sản, đi lại, vận chuyển hàng hóa trên các vùng núi cao, đặc biệt hiểm trở nhiều dốc.
Chăn nuôi là nguồn cung cấp phân bón cho trồng trọt, thức ăn cho nuôi trồng thủy sản. Trong sản xuất nông nghiệp hướng tới canh tác bền vững không thể không kể đến vai trò của phân bón hữu cơ từ chăn nuôi. Phân chuồng với tỷ lệ N:P:K khá cao và cân đối có ý nghĩa lớn trong cải tạo đất trồng trọt, nâng cao năng suất cây trồng. Phân gia súc sau khi xử lý có thể là thức ăn tốt cho cá và các đối tượng vật nuôi thủy sản khác.
Bảng 1. Thành phần và số lượng phân nguyên chất của một số vật nuôi
Loại phân
Nước
N
%
P
%
K
%
N.P.K
%
Sản lượng phân cả năm (kg)
Tổng lượng NPK (kg) (*)
Trâu
82
0,313
0,162
0,129
1,604
3650
58,54
Bò
73,8
0,380
0,284
0,992
1,622
2190
36,59
Lợn
83
0,537
0,930
0,984
2,453
700
17,17
Gà
16
2,461
1,710
-
-
-
-
Vịt
17
1,528
1,030
-
-
-
-
(*) Trâu, bò chỉ tính lượng phân nhận được trong chuồng; lợn tính cho một đời lợn thịt
Chăn nuôi là một mắt xích quan trọng trong sản xuất nông ngiệp bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo. Với lợi thế thời gian cho sản phẩm nhanh (lợn thịt 6 tháng/lứa, gà thịt 8 tuần/lứa), khả năng sinh sản nhanh (gà đẻ trứng cho 280- 300 quả/năm), sử dụng các phụ phẩm từ trồng trọt, chế biến giá trị dinh dưỡng thấp để tạo ra những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Vì vậy, các đối tượng vật nuôi được xem là đối tượng quan tâm phát triển, đáp ứng yêu cầu quay vòng vốn vay xóa đói giảm nghèo. Chăn nuôi tận dụng được phụ phẩm của trồng trọt và thủy sản tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp V.A.C hoặc V.A.C.R có hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ môi trường sống. Tận dụng nguồn lao động ở các vùng nông thôn tham gia vào quá trình sản xuất chăn nuôi, tạo thêm sản phẩm cho xã hội , tăng nguồn thu và mức sống cho mỗi gia đình.[ 5]
1.5. Tình hình chăn nuôi đại gia súc trên thế giới và ở Việt Nam
1.5.1. Trên thế giới
Trên thế giới, tình hình chăn nuôi rất phát triển. Các nước có nền nông nghiệp phát triển cũng đồng thời là những nước có ngành chăn nuôi phát triển. Điển hình là các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Hoa Kỳ,…theo số liệu thống kê cuả FAO năm 2000 thì sản lượng thịt bình quân/người/năm là 25,82 kg/người/năm, sản lượng sữa bình quân/người/năm là 92,26 lít.Trong đó sản lượng thịt bò và thịt heo chiếm tỷ lệ cao hơn so với các nhóm còn lại.
Bảng 2. Số liệu về người, đầu gia súc (x1000), sản lượng thịt (x1000kg) và sản lượng sữa (x1000 tấn)
Chỉ tiêu
Thế giới
Hoa Kỳ
Úc
Trung Quốc
Ấn Độ
Thái Lan
Việt Nam
Dân số
6.056.710
278.357
18.882
1.284.958
1.013.662
61.399
78.137
Bò
1.343.794
98.048
25.550
104.582
218.800
6.100
4.137
Trâu
165.803
0
0
22.598
93.772
2.100
3.000
Cừu
1.064.377
7.215
116.900
131.095
57.900
42
0
Dê
715.297
1.350
180
148.400
123.000
130
461
Heo
909.486
59.337
2.364
437.551
16.005
7.682
19.584
Thịt bò
57.136.263
12.311.000
1.988.000
5.022.960
1.442.000
170.000
190.000
Thịt trâu
2.988.544
0
0
361.403
1.421.400
54.395
92.450
Thịt dê
3.713.001
79.830
3.625
1.204.153
467.000
525
4.665
Thịt cừu
7.596.470
103.400
648.000
1.450.000
229.200
240
0
Thịt heo
91.030.043
8.532.000
363.000
43.052.600
542.500
425.864
1.318.196
Sữa bò
484.746.595
76.294.000
11.283.000
7.838.255
30.900.000
468.543
261.808
Sữa trâu
61.833.173
0
0
2.450.000
39.000.000
0
30.000
Sữa dê
12.066.038
0
0
232.912
3.200.000
0
0
(Nguồn: FAO 2000)
Bảng 3. Sản lượng thú sản sản xuất trung bình/người/năm
Sản phẩm
Thế giới
Hoa Kỳ
Úc
Trung Quốc
Ấn Độ
Thái Lan
Việt Nam
Thịt bò
9,44
44,23
105,29
44
1,42
2,77
1
Thit trâu
0,49
-
-
0
1,4
0,89
1
Thịt dê
0,61
-
0,19
1
0,46
0,01
0
Thịt cừu
0,24
1,05
34,32
14
0,23
0
-
Thịt heo
15,03
30,65
19,22
34
0,54
6,94
17
Cộng thịt
25,82
75,93
159,02
93
4,05
10,6
19
Sữa bò
80,06
274,09
597,55
6,1
30,48
7,63
0,56
Sữa trâu
10,21
-
-
1,91
38,47
-
0,38
Sữa dê
1,99
-
-
0,18
3,16
-
-
Cộng sữa
92,26
274,09
597,55
8,19
72,11
7,63
0,94
(Nguồn: FAO 2000)
1.5.2. Ở Việt Nam
1.5.2.1. Tình hình chung
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới, ngành chăn nuôi đại gia súc đã đạt được những kết quả đáng kể.
Năm 1990, đàn trâu 2,58 triệu con; đàn bò 3,12 triệu con (bò sữa 11.000 con); đàn dê 372.800 con. Năm 1999, đàn trâu 2,95 triệu con, bò 9,06 triệu con (bò sữa 29.400 con), đàn dê 516.000 con. Năm 2003, đàn trâu có xu hướng giảm chỉ còn hơn 2,8 triệu con, các đối tượng gia súc khác tiếp tục tăng: đàn bò đạt 4,4, triệu con (bò sữa 80.000 con),…
Bảng 4. Số lượng gia súc cả nước qua các năm giai đoạn 1990 - 2004
Năm
Trâu
(1000 con)
Tổng số bò (1000 con)
Bò sữa (con)
Lợn
(1000 con)
Dê
(con)
1990
2854,4
3120,8
11000
12260,5
372800
1994
2971,1
3466,7
16500
15569,4
422802
1995
2963,1
3638,7
18700
16037,4
550174
1999
2955,7
4063,5
29401
18885,7
516000
2000
2897,2
4127,9
34982
20193,7
543860
2001
2818,3
3899,1
41241
21765,9
569152
2002
2814,4
4062,9
55800
23210,0
621013
2003
2834,9
4397,3
80000
25461,1
780331
2004
2870,0
4910,0
95800
26140,0
1020200
Bảng 5. Sản phẩm chăn nuôi gia súc qua các năm
(Thịt hơi các loại, đơn vị tính: tấn)
Năm
Tổng số
Thịt trâu bò
Sữa
Thịt lợn
Thịt gia cầm
Trứng (1000 quả)
1990
1007900
111900
9300
729000
167900
1896400
1995
1322097
118064
20925
1006918
197084
2825025
2000
1835923
140449
52172
1408961
286513
3708605
2001
1989291
153410
64703
1513279
322602
4161844
2002
2146300
154200
95000
1653600
338400
4530000
2003
2300000
160600
96600
1795400
372720
4854000
Bảng 6. Sản phẩm chăn nuôi sản xuất bình quân/đầu người/năm
Năm
Sản phẩm
1995
1997
2003
Kg
%
Kg
%
Kg
%
Thịt hơi các loại
Trong đó:
+ Thịt trâu bò hơi
+ Thịt lợn hơi
+ Thịt gia cầm hơi
17,746
13,51
2,64
1,58
100
76,1
14,8
8,9
19,589
15,04
2,95
1,6
100
76,8
15,1
8,1
22,4
17,25
3,36
1,79
100
77,0
15,0
8,0
Trứng (quả)
37,9
41,3
45,0
Sữa (ml)
280,8
407,6
500,0
Tốc độ tăng đàn gia súc trong 10 năm qua tính trung bình 3,0-6,0%, trong đó đàn lợn tăng 6,77%; bò tăng 4,1% (bò sữa tăng mạnh 48,06%) riêng đàn trâu không tăng và ở một số vùn có xu hướng giảm (-0,04%).
Nhìn chung trâu bò là các loại vật nuôi ăn cỏ, có thể lợi dụng tốt đồng cỏ và các phụ phẩm nông nghiệp-công nghiệp để tạo thành thịt, sữa và cung cấp sức kéo. Đàn bò phân bố ở nhiều vùng sinh thái khác nhau nhưng tập trung ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (45,5% tổng đàn), 5 vùng sinh thái còn lại chiếm 54,5%, riêng Tây Nguyên đất đai rộng, điều kiện thuận lợi nhưng đàn bò chỉ chiến 10,8%. Đàn trâu tập trung ở miền trung du phía Bắc (52%), tiếp đó là khu 4 cũ (22%). Đàn trâu bò phần lớn nuôi trong nông hộ (2-3 con/ hộ) theo phương thức quảng canh và bán thâm canh. Bò sữa được quan tâm phát triển mạnh trong những năm gần đây chủ yếu ven các thành phố lớn: Hà Nội, Hồ Chí Minh và được nuôi thâm canh.
Thịt trâu, bò chiếm 8% tổng lượng thịt các loại, lượng sữa sản xuất ra còn ít, chỉ mới chiếm 8,6% lượng sữa tiêu thụ ở Việt Nam. Một số vùng trâu bò được dùng để cày kéo nhưng nhu cầu cung cấp sức kéo (đặt biệt ở trâu) ngày càng giảm. Cơ cấu giống bò chủ yếu vẫn là bò nội (bò vàng Việt Nam) chiếm 85% tổng đàn với tầm vóc nhỏ, năng suất thịt sữa đều thấp. Khối lượng bò cái trưởng thành 180-200 kg/con, bò đực 210-250 kg/con, tỉ lệ thịt xẻ 40-45%, bò lai Zeebu chiếm 14,4%, các giống bò cao sản nhập nội mới chiếm 0,5% tổng đàn bò.
1.5.2.2. Tình hình chăn nuôi ở Bình Định
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loại gia súc (trâu, bò, dê) được chăn nuôi phổ biến ở tỉnh Bình Định.
- Trâu Việt Nam
- Các giống bò: bò Vàng Việt Nam, lai Sind, Red Sindhi, Brahma.n.
- Các giống dê: dê Bách Thảo, dê Boer.
Các mô hình chăn nuôi gia súc có triển vọng phát triển của tỉnh.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng chăn nuôi và biến động đàn gia súc của tỉnh Bình Định.
Đánh giá tiềm năng và hạn chế của các mô hình hiện có trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, góp phần hoàn thiện các mô hình, làm tăng hiệu quả chăn nuôi gia súc.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin, bao gồm:
- Thu thập tất cả các tài liệu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề nghiên cứu. Các tài liệu như: giáo trình, sách chuyên khảo, hướng dẫn phổ biến khoa học kỹ thuật, các công trình nghiên cứu liên quan.
- Thu thập thông tin bằng các nguồn khác như: báo nông nghiệp, mạng internet, điều tra thực tế.
Phương pháp lý luận: phân tích, đánh giá và xử lý thông tin để đưa ra các kết luận về vấn đề nghiên cứu.
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tình hình chăn nuôi của tỉnh Bình Định giai đoạn 2005 - 2009
3.1.1. Tổng đàn gia súc của tỉnh Bình Định các năm 2005 - 2009
Tỉnh Bình Định nằm ở vùng Duyên hải miền Trung có điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi trong việc phát triển chăn nuôi các loại gia súc. Địa hình có ba vùng: miền núi, trung du, đồng bằng, mỗi vùng đều có thế mạnh về các mặt như: nguồn nước, nguồn thức ăn, kinh nghiệm con người trong sản xuất kinh doanh các loại cây trồng, vật nuôi. Hiện nay, đàn bò của tỉnh trên 280.000 con, đàn trâu trên 18.000 con, đàn lợn thường xuyên trên 640.000 con, đàn gia cầm trên 3 triệu con.
Trong những năm qua, mặc dù thiên nhiên khắc nghiệt: bão lũ, hạn hán, các loại dịch bệnh như cúm gia cầm, lở mồm long móng ở trâu, bò, heo. Bệnh tai xanh ở heo, bệnh nhiệt thán ở trâu, bò…đã ảnh hưởng đến tâm lý người chăn nuôi. Tổng đàn gia súc các loại có giảm nhưng ở mức độ nhỏ.
Bảng 7. Số lượng đàn gia súc của tỉnh Bình Định giai đoạn 2005 - 2009
(Đơn vị tính: con)
Năm
Trâu
Bò
Dê
Ngựa
Tổng số
Cày kéo
Tổng số
Cày kéo
Bò lai Sind
Bò sữa
2005
19267
10561
289151
70476
96560
2626
11751
160
2006
19276
10231
340028
76280
131535
1245
13975
149
2007
20150
10847
335618
78624
126726
1001
15816
147
2008
19217
-
307477
-
157967
864
15148
127
2009
18936
-
282372
-
165474
414
12930
62
(Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bình Định)
3.1.2. Biến động đàn gia súc của Bình Định
Bảng 8. Biến động đàn bò của Bình Định giai đoạn 2005-2009
(Đơn vị tính: Con)
Năm
Tổng số
Chia theo huyện, thành phố
Quy Nhơn
An Lão
Hoài Nhơn
Hoài Ân
Phù Mỹ
Vĩnh Thạnh
Phù Cát
Tây Sơn
An Nhơn
Tuy Phước
Vân Canh
2005
289.151
7.106
6.090
24.122
17.601
58.905
13.539
58.605
40.698
29.403
18.229
14.853
2006
340.028
8.848
7.029
30.026
21.259
65.837
15.571
62.140
51.652
38.180
26.224
13.262
2007
335.618
8.997
8.065
29.095
20.166
60.536
14.265
61.208
54.745
38.734
26.121
13.686
2008
307.477
8.125
7.983
27.083
18.052
55.105
14.730
59.135
50.826
29.380
22.841
2009
288.372
7.878
6.724
25.229
16.297
53.630
13.520
57.488
45.923
30.050
18155
13.478
Bảng 9. Biến động đàn trâu của Bình Định giai đoạn 2005-2009
(Đơn vị tính: Con)
Năm
Tổng số
Chia theo huyện, thành phố
Quy
Nhơn
An
Lão
Hoài
Nhơn
Hoài
Ân
Phù
Mỹ
Vĩnh
Thạnh
Phù
Cát
Tây
Sơn
An
Nhơn
Tuy
Phước
Vân
Canh
2005
19.267
159
2.283
3.321
2.271
4.522
812
2.513
625
1.400
1.238
123
2006
19.276
399
2.358
3.233
2.729
4.511
857
1.990
862
1.123
1.106
108
2007
20.150
390
2.668
3.297
2.750
4.613
880
1.990
958
1.275
1.204
125
2008
19.217
335
2.711
2.856
2.457
4.764
910
1.998
928
1.054
1056
2009
18.936
342
2.765
2.840
2.209
4.647
946
1.947
920
1.065
1.103
152
Bảng 10. Biến động đàn dê của Bình Định giai đoạn 2005-2009
(Đơn vị tính: Con)
Năm
Tổng số
Chia theo huyện, thành phố
Quy Nhơn
An Lão
Hoài Nhơn
Hoài Ân
Phù Mỹ
Vĩnh Thạnh
Phù Cát
Tây Sơn
An Nhơn
Tuy Phước
Vân Canh
2005
15.816
1.437
250
285
127
760
3.045
2.614
2.742
600
2.456
1.500
2006
13.975
1.250
-
285
115
685
3.013
2.614
1.884
550
2.289
1.290
2007
11.751
500
-
285
100
580
2.347
2.540
1.956
450
1.873
1.120
2008
15.148
1.417
274
640
128
1.047
1.541
4.330
2.186
995
1.279
1.311
2009
12.930
943
218
486
35
609
845
4.253
1.992
792
1.268
1.489
3.2. Một số mô hình chăn nuôi gia súc
3.2.1. Mô hình vỗ béo bò
* Đặt vấn đề
Bình Định là tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó có ngành chăn nuôi khá phát triển, đặc biệt là chăn nuôi bò lai. Tỷ lệ đàn bò lai của tỉnh từ 18% (năm 1998) so với tổng đàn 45% (năm 2005) và hiện nay (năm 2009) là 57%, Bình Định trở thành một trong những tỉnh có phong trào lai cải tạo đàn bò và phát triển chăn nuôi bò lai dẫn đầu cả nước.
Trong tỉnh hiện nay nhiều địa phương có phong trào chăn nuôi bò lai phát triển mạnh như các huyện An Nhơn, Tuy Phước, Tây Sơn,… Nhiều xã có tỷ lệ bò lai đạt gần 100% như Nhơn Lộc, Nhơn Hậu, Nhơn Mỹ, Nhơn Hưng,… Tuy nhiên phương thức chăn nuôi chưa được cải thiện nên hiệu quả còn chưa cao. Nhất là bà con chưa có thói quen vỗ béo bò trước khi bán thịt để có hiệu quả kinh tế cao hơn. Do đó, việc thực hiện mô hình vỗ béo bò thịt nhằm chuyển giao cho người chăn nuôi tiến bộ vỗ béo bò , tăng khối lượng và cải thiện chất lượng thịt trong thời gian ngắn để khai thac tốt hiệu quả kinh tế từ chăn nuôi bò thịt là rất cần thiết.
3.2.1.1. Mục đích của mô hình
Mục đích của vỗ béo bò là làm tăng thịt xẻ, tăng thịt tinh và tăng chất lượng thịt trong một thời gian ngắn. Do vậy khi bán thịt sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn, tăng thu nhập trên đơn vị vật nuôi, tăng sản phẩm cho xã hội, giải quyết việc làm cho nông dân.
3.2.1.2. Các hình thức vỗ béo bò, những yếu tố ảnh hưởng đến vỗ béo và các đối tượng bò cần vỗ béo
3.2.1.2.1. Các hình thức vỗ béo
Vỗ béo bằng chăn thả: cách vỗ béo này rất kinh tế, vì bò được chăn thả nhiều giờ trên đồng cỏ cho nên tận dụng được nhiều cỏ mà không tốn công cắt và vận chuyển về chuồng cho ăn.
Vỗ béo tại chuồng có kết hợp chăn thả: Hình thức vỗ béo này thường áp dụng ở vùng có đồng cỏ hẹp hoặc ở xung quanh khu công nghiệp, thành phố. Thức ăn của bò chủ yếu là cỏ tươi cắt về cho ăn tại chuồng. Riêng mùa đông chủ yếu là cỏ khô, thức ăn ủ tươi và bổ sung một ít thức ăn tinh.
Vỗ béo tại chuồng: Thức ăn phụ phẩm công nghiệp (như bã rượu, bã bia, rỉ đường, bã mía), ngoài ra vẫn phải cho ăn thêm cỏ, rơm, thức ăn ủ tươi, ngọn mía, thân cây ngô.
3.2.1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến vỗ béo
Tuổi bò lúc vỗ béo: Con vật non thường có tốc độ lớn nhanh, do đó bò càng non thì khả năng tăng trọng càng cao.
Loại hình thức ăn: Thức ăn có đủ số lượng và thành phần dinh dưỡng cao thì ảnh hưởng tốt đến kết quả vỗ béo của bò.
Giống và loại hình của bò: Đây là yếu tố di truyền có ý nghĩa quan trọng quyết định hiệu quả của quá trình vỗ béo. Thông thường các giống bò lai thuôc nhóm Zêbu cho kết quả vỗ béo tốt hơn so với giống bò địa phương.
Số lần cho ăn trong ngày và sự chăm sóc bò trong khi vỗ béo: Số lần cho ăn và lượng thức ăn hợp lý giúp bò phát triển tốt. Vệ sinh chuồng trại và cơ thể bò thường xuyên cũng là một phần trong biện pháp kỹ thuật giúp bò tăng trọng nhanh và tăng sức đề kháng, phòng tránh các bệnh truyền nhiễm.
3.2.1.2.3. Đối tượng bò để vỗ béo
Những bò lý tưởng để nuôi vỗ béo là bò trưởng thành, có bộ khung cơ thể càng lớn càng tốt, loại bò như vậy sẽ đạt được tốc độ tăng trọng nhanh. Tất cả các loại bò từ một năm tuổi trở lên trước khi bán thịt đều cần phải vỗ béo. Nếu mua bò để vỗ béo bán thịt, ta nên chọn bò gầy để đạt kết quả vỗ béo cao. Bò trên năm tuổi có thời gian vỗ béo ngắn hơn và hiệu quả cao hơn so với bò tơ. Chọn bò gầy nhưng phàm ăn và không có bệnh để vỗ béo sẽ có lợi nhuận cao hơn bò béo.
Giống bò nào cũng có thể vỗ béo tốt. Tuy nhiên, bò lai gầy sẽ cho tăng trọng nhanh hơn giống bò địa phương. Nên chọn bò đực vì bò đực phát triển nhanh hơn bò cái. Không nên chọn bò quá già, không còn răng, bò không có biểu hiện bệnh, ăn uống lơ là, bò quá hung hăng hoặc nhút nhát, bò đang mang thai, bò đang nuôi con.
3.2.1.3. Các biện pháp kỹ thuật áp dụng trong mô hình
3.2.1.3.1. Xác định trọng lượng bò
Trước khi đưa vào vỗ béo cần xác định trọng lượng bò. Mục đích của việc xác định trọng lượng bò ban đầu là nhằm xác định liều lượng thuốc tẩy nội ký sinh trùng; xác định lượng thức ăn khi vỗ béo; xác định đươc tăng trọng khi kết thúc vỗ béo.
Cách xác định trọng lượng của bò (P) bằng phương pháp gián tiếp dựa vào các chiều đo gồm: Vòng ngực (VN), dài thân chéo (DTC) theo công thức sau:
P(kg) = (VN) x (VN) x (DTC) x 90
Đơn vị tính: mét
Ngoài ra, người ta cũng có thể xác định trọng lượng bò bằng cách tra từ bảng có sẵn.
3.2.1.3.2. Tiêm phòng và tẩy nội, ngoại ký sinh trùng trước khi vỗ béo
Tiêm phòng bệnh tụ huyết trùng (nếu chưa tẩy)
Tẩy sán lá gan, có thể dùng các loại thuốc (liều dùng theo hướng dẫn của NSX)
+ Fasciosanid
+ Fasinex
+ Dovenix
+ Fasiolid
Tẩy giun đường ruột: có thể dùng các loại thuốc (theo hướng dẫn của NSX)
+ Levamisol (dạng bột)
+ Levamisol (dạng nước)
+ Hanmectin-25 (thuốc tiêm dưới da): tác dụng tẩy ký sinh trùng đường ruột và ký sinh trùng ngoài da.
Ngoài các loại thuốc trên, có thể thay thế bằng các loại thuốc khác có tác dụng tương tự trên thị trường.
3.2.1.3.3. Khẩu phần thức ăn vỗ béo bò và phương pháp cung cấp thức ăn
Bảng 11. Một số công thức (CT) thức ăn hỗn hợp vỗ béo bò
Nguyên liệu
CT1
CT2
CT3
- Bột sắn (mì)
85
65
45
- Bột bắp
-
25
50
- Khô dầu lạc, khô dầu đậu nành, bột cá lạt
10
5
-
- Urê
3
3
3
- Muối ăn
1
1
1
- Bôt xương
1
1
1
Tổng cộng
100
100
100
Lưu ý: Dựa vào giá trị nguyên liệu thức ăn gia súc, nên chọn công thức nào có giá thành rẻ nhất nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu cho việc vỗ béo.
*Phương pháp trộn thức ăn tinh cho bò
Nguyên liệu có số lượng nhiều nhất trong khẩu phần được trải ra trước để làm nền, tiếp theo là các nguyên liệu có số lượng nhỏ hơn.
Đối với các nguyên liệu có số lượng nhỏ cần được trộn trước với 3-4 kg bột sắn hoặc bột ngô. Tất cả các nguyên liệu được trải đều thành từng lớp, đảo đống thức ăn từ bên này sang bên kia, từ trên xuống dưới, đảo như vậy từ 3-4 lần cho đến khi hỗn hợp thức ăn được trộn lẫn vào nhau thật đều. Nếu trong khẩu phần có thêm rỉ mật thì tốt nhất dùng rỉ mật trộn với thức ăn khi cho gia súc ăn hằng ngày.
* Cung cấp thức ăn
Để bò có được tốc độ tăng trọng cao thì cần cung cấp lượng thức ăn tinh vào khoảng 1,7-2% trọng lượng cơ thể. Lượng thức ăn được cho ăn tăng dần. Dựa vào trọng lượng lúc đưa vào vỗ béo, tính nhu cầu thức ăn tinh, thức ăn thô xanh/con/ngày.
+ Thức ăn tinh: Bò mới đưa vào vỗ béo, tập cho bò làm quen với thức ăn tinh và sau đó 3-7 ngày tăng dần lượng thức ăn đến khẩu phần vỗ béo, đảm bảo đúng định mức và nhu cầu, nên cho ăn 4-5 lần/ ngày. Lượng thức ăn tinh/con/ngày tối thiểu phải đạt 1,7% trọng lượng bò.
+ Thức ăn thô xanh (cỏ tươi): Dựa vào trọng lượng bò tính nhu cầu thức ăn thô xanh: tối thiểu phải đạt 10% trọng lượng cơ thể.
+ Nước uống: Mỗi con phải có máng uống riêng và luôn luôn có nước sạch trong máng.
Sau khi kết thúc vỗ béo phải bán mổ thịt ngay.
3.2.1.3.4. Một số bệnh thường gặp trong thời kỳ vỗ béo
» Bệnh chướng hơi dạ cỏ
Nguyên nhân: do bò ăn quá nhiều thức ăn tinh hoặc ăn nhiều thức ăn tinh đột ngột.
Triệu chứng: bò mệt mỏi, bỏ ăn, phân lỏng, màu xám, trường hợp nặng bò hôn mê và có thể chết.
Điều trị: cho uống 110g Sodium Bicarbonate hòa tan trong 600ml nước. Sau 2-3 giờ cho uống thêm liều như trên.
» Bệnh ngộ độc Urê
Nguyên nhân: Do thức ăn cho bò trộn urê không đều hoặc cho bò uống nước có urê hòa tan.
Triệu chứng: Bò có biểu hiện đau bụng, thở nhanh, miệng chảy nhiều nước dãi. Trường hợp nặng bò co giật và có thể chết.
Điều trị: Cho uống 600-1200ml giấm + 600ml nước + 1kg đường. Sau 1-2 giờ cho uống tiếp liều lượng như trên.
3.2.1.4. Quy mô thực hiện và kết quả của mô hình
Mô hình được triển khai rộng trong tỉnh Bình Định với các huyện như An Nhơn, Tuy Phước, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Vĩnh Thạnh. Với tổng số hô tham gia 372 (hộ) với tổng số bò được vỗ béo là 650 con. Đây là một mô hình có thể áp dụng rộng rãi với những địa phương có phong trào chăn nuôi bò phát triển, đặc biệt đối với các huyên có tiềm năng như An Nhơn, Vĩnh Thạnh, Hoài Ân,…
Mô hình bước đầu đã mang lại những kết quả đáng kể, đủ sức thuyết phục người chăn nuôi. Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật thực tế của mô hình đều đạt và vượt yêu cầu đề ra.
Bảng 12. Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật đạt được của mô hình
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Đợn vị thực hiện (huyện)
Vĩnh Thạnh
An Nhơn (N.Hòa)
Hoài Ân
Hoài Nhơn
An Nhơn (N.Mỹ)
Tuy Phước
01
Số con
con
110
115
100
100
100
90
02
Sồ hộ tham gia
hộ
75
75
79
50
50
53
03
Bình quân (BQ) trọng lượng ban đầu
kg/con
248,3
227,2
191,9
168,6
272,8
239,6
04
BQ trọng lượng sau 3 tháng vỗ béo
kg/con
313,5
301
260,58
238,8
339,7
302,7
05
BQ tăng trọng sau 3 tháng vỗ béo
kg/con
65,2
73,3
68,68
70,7
67
63,1
06
Tăng trọng BQ/ngày
g/con/ ngày
724,4
814,4
763
789
744
701
07
Tổng chi phí (BQ/con)
nghìn đồng/con
1.562
1.636
1.170
776
210
255
08
BQ giá trị tăng lên khi kết thúc vỗ béo
nghìn đồng/con
2.347
2.597
2.500
1.283
930
875
09
Lợi nhuận thu được sau khi vỗ béo
nghìn đồng/con
785
961
1.330
569
1.133
1.130
3.2.1.5. Đánh giá mô hình
Dựa vào kết quả của mô hình được tổng hợp ở bảng 12 ta có nhận xét như sau:
3.2.1.5.1. Ưu điểm
Mô hình đạt các yêu cầu kinh tế kỹ thuật đặt ra, lợi nhuận kinh tế cao (sau 3 tháng vỗ béo trên 550.000đồng/con), khả năng nhân rộng của mô hình cao.
Mô hình không những đem lại hiệu quả kinh tế cao mà còn giúp cho người chăn nuôi thay đổi tập quán chăn nuôi truyền thống trước đây như: không tẩy nội ngoại ký sinh trùng trước khi vỗ béo; thức ăn thường cho ăn lỏng, thường nấu chín và thiếu khoáng đa lượng và vi lượng nên bò chậm phát triển đưa đến lợi nhuận thấp. Nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng phương pháp chăn nuôi thâm canh trong mô hình đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, tăng năng suất và chất lượng thịt.
Thông qua mô hình người chăn nuôi đã biết lựa chọn đối tượng để vỗ béo, biết cách xác định trọng lượng bò trước vỗ béo, tính toán lựa chọn công thức phối trộn thức ăn phù hợp tại từng thời điểm để đầu tư hợp lý và có hiệu quả cao nhất.
Hiện nay thị trường trong nước giá cả thịt bò tương đối cao và ổn định, đặc biệt là các giống bò trong nhóm bò Zêbu nên mô hình này dễ triển khai và dễ nhân rộng.
3.2.1.5.2. Những mặt còn tồn tại
Một số bò trong mô hình có tuổi và trọng lượng ban đầu nhỏ nên hiệu quả vỗ béo chưa rõ nét.
Nông dân lần đầu tiên áp dụng mô hình còn lúng túng trong việc sử dụng thức ăn tinh dạng khô nên thời gian tập vật nuôi sử dụng cũng như cách thức tập ăn chưa hợp lý, dẫn đến việc thay đổi thành phần , định mức ăn làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của bò. Một số hộ tham gia mô hình chưa đầu tư đúng mức phần thức ăn tinh đối ứng theo yêu cầu của mô hình, vì vậy bò chưa tăng trọng đúng mức.
Mô hình thực hiện với hình thức chăn nuôi nông hộ là chủ yếu, mô hình phân bố dàn trải, chưa tập trung, do đó việc kiểm tra và đánh giá của cán bộ kỹ thuật gặp nhiều khó khăn.
3.2.2. Mô hình cải tạo giống bò theo hướng chuyên thịt
* Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, cơ cấu đàn bò của tỉnh Bình Định có những thay đổi đáng kể. Đàn bò lai của tỉnh phát triển nhanh chóng, đạt 57% tổng đàn bò trong tỉnh (năm 2009). Kết quả này cho thấy tuy việc lai tạo đàn bò bước đầu đạt kết quả tốt nhưng tỷ lệ đàn bò địa phương vẫn còn ở mưc cao, chiếm 43%. Với ưu điểm thích nghi tốt với điều kiện thời tiết và phương thức chăn nuôi truyền thống của người dân địa phương nhưng khả năng sản xuất còn hạn chế so với các giống bò lai, điển hình là nhóm bò Zêbu (gồm các giống Red Sindhi, Sahiwal, Brahman, bò lai Sind). Vì vậy, công tác cải tạo giống bò theo hướng chuyên thịt ngày càng có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong thời kỳ đổi mới, sản xuất hàng hóa chất lượng cao ở nước ta hiện nay.
3.2.2.1. Mục đích của mô hình
Trong chăn nuôi giống là tiền đề để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Làm tốt công tác giống cho phép tăng nhanh số lượng đàn gia súc, tạo những tiền đề hết sức quan trọng nhằm nâng cao phẩm chất đàn gia súc, năng suất và chất lượng sản phẩm chăn nuôi.
Mô hình cải tạo giống bò theo hướng chuyên thịt nhằm nâng cao chất lượng đàn bò địa phương. Giống bò nội nói chung có tầm vóc nhỏ, trọng lượng thấp, năng suất thịt không cao. Do đó, phương hướng cải tạo giống bò thịt trước hết là cho lai tạo rộng rãi bò trong nước với giống bò gốc nhiệt đới (nhóm bò Zêbu) trong một thời gian nhất định để cải thiện tầm vóc và trọng lượng của đàn bò địa phương. Sau đó tiếp túc cho lai tạo với giống bò chuyên thịt (Limousine, Charoliar) đế tạo giống bò thịt của ta.
Với phương thức phối giống bằng phương pháp nhảy trực tiếp, mô hình có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao chất lượng đàn bò ở vùng sâu, vùng xa, miền núi chưa đủ điều kiện lai tạo giống bò bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo. Trên cơ sở đó tạo ra đàn cái nền đạt phẩm chất giống tốt, tiếp tục cho công tác lai tạo đàn bò theo hướng thịt chuyên dụng có giá trị hàng hóa cao, phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Đồng thời, mô hình cũng giúp cho người chăn nuôi tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật về công tác giống, chăm sóc nuôi dưỡng bò, làm quen với phương thức chăn nuôi bán thâm canh, thâm canh trong lĩnh vực chăn nuôi bò ở quy mô hộ gia đình.
3.2.2.2. Đối tượng nghiên cúu
3.2.2.2.1. Giống bò địa phương: Bò Vàng Việt Nam
Bò địa phương Việt Nam có nguồn gốc từ bò Zêbu Ấn Ðộ (Bos Indicus) và bò không u Trung Quốc. Phân bố tương đối tập trung ở các vùng có yêu cầu sức kéo trên đất cát nhẹ, vùng Duyên Hải miền Trung, miền Núi và Trung Du phía Bắc Tây nguyên và Ðồng bằng Sông Hồng. Còn ở một số vùng khác phân bố rãi rác và không nhiều. Bò có sắc lông màu nâu-vàng, đậm hay nhạt tùy từng quần thể ở từng vùng, gọi chung là Bò Vàng, phía trong đùi và yếm có màu hơi vàng nhạt. Bò cái phía trước thấp, sau cao nhưng bò đực thì ngược lại. Bò Vàng có nhược điểm là chậm thành thục, sinh sản muộn, bắt đầu phối giống lúc 15-18 tháng tuổi.
3.2.2.2.2. Giống bò lai nhiệt đới (nhóm Zêbu)
» Bò Red Sindhi
Là giống bò Zebu (bò u) phổ biến ở Ấn Ðộ và Pakistan, có cùng nguồn gốc với bò ta (Bos Indicus). Giống bò Red Sindhi được nhập vào nước ta từ những năm 20, là giống bò Ấn Ðộ có khả năng chống chịu tốt với điều kiện môi trường của nước ta. Giống Red Sindhi có sản lượng sữa khá, giống bò Red Sindhi từ 1400-2100 kg/chu kỳ cho sữa. Màu lông nổi bật là màu đỏ cánh dán, tai to và cụp, con đực có u vai nổi cao, trán gồ, yếm dài, thõng xuống, Bò đực giống Red Sindhi thuần, khi nhập vào nước ta có khối lượng 500-550 kg, bò cái sinh sản 350-400 kg, sản lượng sữa (theo tài liệu của Ấn Ðộ) 1400-2100 kg/chu kỳ vắt sữa, tỷ lệ mỡ sữa trên 5%. Nhiều nước, nhất là những nước nhiệt đới, dùng bò Red Sindhi để cải tạo bò địa phương, hoặc dùng bò giống này làm nền cho lai với các giống chuyên dụng sữa, thịt để tạo thành các giống bò cho sữa, cho thịt phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi nước.
» Bò Brahman
Bò Brahman được nhập vào nước ta từ Cu Ba, hiện nay có nuôi ở các tỉnh Ninh Bình, Hà Tây, Bình Ðịnh và một số nơi khác. Lông bò có màu trắng bạc hoặc trắng xám, đầu hơi dài, trán dô, tai to rủ đưa ra phía sau, u to. Yếm rộng, nhiều nếp gấp, ngực sâu nhưng hơi lép, chân cao, đuôi dài. Khối lượng sơ sinh 24 kg/con, lúc 12 tháng tuổi bò đực nặng 211 kg; bò cái 177 kg/con. Lúc trưởng thành, bò đực nặng 800 kg/con, bò cái 450 kg/con. Tuổi đẻ lứa đầu khá muộn vào lúc 40 tháng. Thời gian mang thai 286 ngày; khoảng cách lứa đẻ là 18 tháng. Thuộc loại giống bò thịt.
» Bò lai Sind
Trong những năm 1923-1924 một số bò Red Sindhi được nhập vào nước ta ở cả hai miền đất nước, quá trình lai tự nhiên giữa bò đực giống Red Sindhi với bò ta tạo thành nhóm bò lai Sind. Bò lai Sind càng có nhiều tỷ lệ máu Red Sindhi thì khả năng cho thịt càng nhiều hơn, sức cày kéo khỏe hơn và khả năng cho sữa cũng cao hơn. Do vậy, luôn có xu hướng lai thêm máu bò Red Sindhi, quen gọi là Sind hóa. Hiện nay, bò lai Sind có ở khắp các tỉnh trong cả nước. Bò lai Sind có nhiều đặc điểm gần giống như bò Red Sindhi: đầu dài, trán dô, lông màu vàng cánh dán, tai cụp, yếm phát triển, u vai cao (nhất là con đực), chân cao, mình ngắn, bầu vú phát triển vừa phải, âm hộ có nhiều nếp nhăn. Bò đực lai Sind (với độ máu Red Sindhi khá) cân nặng 400 - 450 kg. Bò cái sinh sản nặng 250-320 kg, bê sơ sinh nặng 18-25 kg. Lượng sữa bình quân đạt khoảng 800-1200 kg/ chu kỳ vắt sữa 240 ngày. Tỷ lệ bơ sữa rất cao: 5,1-5,5 %. Bò cái lai Sind đã khắc phục được nhược điểm của Bò Vàng, đã tập trung được những đặc điểm quí của cả hai giống Bò Vàng và Red Sindhi. Bò cái lai Sind đủ điều kiện để phối với đực các giống chuyên sữa, chuyên thịt cao sản, tạo ra con lai có khả năng cho sữa, cho thịt cao hơn.
3.2.2.3. Biện pháp kỹ thuật áp dụng trong mô hình
3.2.2.3.1. Chọn bò cái sinh sản làm giống
Chọn những con đẻ sớm và khoảng cách giữa hai lứa đẻ ngắn. Đẻ sớm là bò đẻ lứa đầu trung bình ở khoảng 27-30 tháng, bò động dục lần đầu ở khoảng 18-21 tháng tuổi. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ tốt nhất là 12-14 tháng đẻ một con.
Về ngoại hình: có dáng thanh nhẹ, da mỏng, lông thưa, thuần tính, hiền lành, các phần đầu, cổ, thân và vai kết hợp hài hòa.đầu thanh nhẹ, mõm rộng, mũi to, hàm răng đều đặn, trắng bóng, cổ dài vừa phải và thanh, da cổ có nhiều nếp nhăn. Ngực sâu và rộng, xương sườn rộng mở, cong về phía sau, bụng to nhưng không sệ, bốn chân thẳng và mảnh, móng khít mông nở, ít dốc. bầu vú phát triển về phía sau, 4 núm vú đều, dài vừa phải, không có vú kẹ, da vú mỏng, đàn hồi, tĩnh mạch vú nổi rõ, phân nhánh ngoằn ngoèo.
3.2.2.3.2. Phương pháp phối giống (phối trực tiếp)
Là phương pháp cho con đực trực tiếp giao phối với con cái, gồm các hình thức:
Phối đơn: khi con cái động dục, cho một đực giao phối một lần, phương pháp này được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất vì đơn giản, rẻ tiền, dễ áp dụng, nhưng đòi hỏi phải theo dõi chặt chẽ thì tỉ lệ thụ thai mới cao.
Phối lặp: khi con cái động dục, cho một đực giao phối hai lần cách nhau từ 12-18 giờ. Phương pháp giao phối này có tỉ lệ thụ thai cao,số con nhiều, sức sống cao, nhưng ảnh hưởng tới sức khỏe và tuổi thọ của đực giống.
Phối kép: khi con cái động dục cho hai đực giao phối hai lần cách nhau vài phút. Phương pháp giao phối này tăng được số con đẻ trong một lứa và sức sống đời con nhưng tốn kém nhiều đực giống.
Phối nhiều lần: khi con cái động dục, cho nhiều đực, mỗi đực giao phối nhiều lần, có tác dụng kích thích sự rụng trứng, khắc phục tình trạng khó chửa, đẻ của gia súc cái. Phương pháp giao phối này thường áp dụng chữa bệnh khó chữa đẻ của gia súc cái.
3.2.2.4. Quy mô thực hiện và kết quả của mô hình
Bảng 13. Quy mô, địa điểm triển khai và các yêu cầu kỹ thuật
Năm
Địa điểm triển khai (huyện)
Quy mô
Yêu cầu kỹ thuật
Vân Canh
Vĩnh Thạnh
Hoài Ân
An Lão
Đực giống
(con)
Bò cái
có chửa
(con)
Bò đực giống
Tỷ lệ thụ thai
%
P. bê sơ sinh
(kg)
Tỷ lệ sống sau 6 tháng
(%)
2006
x
x
x
x
10
400
Giống lai F1-F2 Redsin -Bratman
59,75
-bò cái nội:≥18kg
-bò cái lai: ≥20
≥ 90
2007-2008
x
x
x
-
7
280
Giống lai ≥F2 Redsin -Bratman
≥ 85
-bò cái nôi:≥18kg
-bò cái lai: ≥20kg
≥ 95
Như vậy, mô hình đã được thực hiện ở Bình Định trong 3 năm liên tiếp từ 2006-2008 chủ yếu triển khai ở các huyện miền núi của tỉnh.
Quy mô mô hình trong năm 2006
- Thời gian thực hiện mô hình từ ngày 1/1/2006-4/12/2006, tại thời điểm này chỉ mới thống kê được kết quả thụ thai của một số bò cái giống, do đó con số này mới chỉ đạt 59,75%. Tuy nhiên trên thực tế thì tỷ lệ thụ thai cao hơn nhiều.
- Số hộ tham gia mô hình là 10 hộ ở 4 huyện: Vân Canh, Vĩnh Thạnh, Hoài Ân, An Lão. Trong đó, mỗi mô hình có một con đực giống lai (F1- F2) Redsin và Bratman.
Quy mô mô hình trong năm 2007-2008
- Thời gian thực hiện từ tháng 5/2007 đến tháng 10/2008.
- Số hộ tham gia là 7 hộ ở 3 huyện Vân Canh, Vĩnh Thạnh, Hoài Ân.
- Yêu cầu kỹ thuật: tỷ lệ thụ thai trên 85%, khối lượng sơ sinh trên 18kg đối với bò cái nội và trên 20kg đối với bò cái lai, tỷ lệ sống đến 6 tháng tuổi trên 95%.
Bảng 14. Kết quả phối giống (năm 2007 – 2008)
STT
Địa chỉ (xã)
Số hiệu đực giống
Tổng số phối giống
Kết quả kiểm tra có thai
Tỷ lệ thụ thai
(%)
Con
Lần
01
Vĩnh Quang
KN 01
40
40
40
100
02
Vĩnh Quang
KN 02
40
40
40
100
03
Vĩnh Hiệp
KN 03
40
40
40
100
04
Vĩnh Hảo
KN 05
40
40
40
100
05
Canh Vinh
KN 06
40
40
40
100
06
Ân Nghĩa
KN 02
40
40
40
100
07
Ân Tường Tây
KN 04
40
41
40
97,5
Tổng cộng
280
281
280
99,6
Thẩm định hộ chăn nuôi bò cái nền để tham gia mô hình gồm 264 hộ, phối giống 280 bò cái có thai. Tỷ lệ phối giống thụ thai đạt cao: 99,6%
Bảng 15. Kết quả sinh sản và sức sống của bê con
STT
Địa chỉ (xã)
Bò cái lai
Bò cái nội
Nuôi sống đến 6 tháng tuổi
Tổng bê sinh ra (con)
P.sơ sinh BQ
(kg/con)
Tổng bê sinh ra (con)
P.sơ sinh BQ
(kg/con)
Số bê (con)
Tỷ lệ (%)
01
Vĩnh Quang
28
21,1
12
18,4
39
97,5
02
Vĩnh Quang
31
20,6
9
18,3
40
100
03
Vĩnh Hiệp
27
20,7
13
18,4
40
100
04
Vĩnh Hảo
29
21,2
11
19,4
39
97,5
05
Canh Vinh
6
21,7
34
19,1
38
95
06
Ân Nghĩa
5
21,8
35
18,7
40
100
07
Ân Tường Tây
1
21
39
18,4
39
97,5
Tổng cộng
127
20,9
153
18,7
275
98,2
- Tổng số bê sinh ra từ đàn bò cái nền lai là 127 con (chiếm 45,4%), trọng lượng bê sơ sinh bình quân là 20,9kg.
- Tổng số bê sinh ra từ đàn bò cái nền địa phương là 153 con (chiếm 54,6%), trọng lượng bê sơ sinh bình quân là 17,8kg.
- Bê sinh ra đạt về trọng lượng, có ngoại hình đẹp, thể hiện tốt ưu thế lai, thích nghi với khí hậu tại địa phương và được người chăn nuôi ưa chuộng.
- Bê sinh trưởng, phát triển tốt, số bê nuôi sống đến 6 tháng tuổi là 275 con, chiếm tỷ lệ 98,2%.
3.2.2.5. Đánh giá mô hình
3.2.2.5.1. Ưu điểm
Chương trình cải tạo giống bò theo hướng chuyên thịt bằng phương pháp nhảy trực tiếp thật sự thiết thực với người chăn nuôi bò, đặc biệt là các xã thuộc huyện miền núi, rất thuận lợi cho công tác phối giống, tỉ lệ thụ thai đạt cao 99,6%. Hiện nay với 7 con bò đực giống được chuyển giao hỗ trợ trên đã giao phối giống có chửa cho trên 500 con bò cái.
Các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật về chất lượng bò đực giống, tỉ lệ thụ thai, khối lượng bê sơ sinh, tỉ lệ nuôi sống đến 6 tháng tuổi,…đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Thông qua mô hình giúp cho người chăn nuôi nâng cao kiến thức về kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng, từng bước chuyển từ chăn nuôi quản canh sang chăn nuôi bán thâm canh đạt hiệu quả cao.
3.2.2.5.2. Tồn tại của mô hình
Do sử dụng đực giống bằng phương pháp nhảy trực tiếp nên hạn chế một phần khả năng sản xuất của đực giống so với phương pháp thụ tinh nhân tạo. Tỷ lệ ghép đực/cái là khoảng 1/40.
Đồng thời chất lượng phối giống phụ thuộc rất lớn vào tình trạng sức khỏe và chế độ lao động của con đực giống.
Chi phí đầu tư nuôi dưỡng đực giống lai rất cao, do đó không phải người chăn nuôi nào cũng có thể chấp nhận được. Đây cũng là điểm hạn chế của mô hình.
3.2.3. Mô hình cải tạo giống dê theo hướng chuyên thịt
* Đặt vấn đề
Nghề chăn nuôi dê ở nước ta đã có từ lâu đời, nhưng hầu hết nuôi theo phương thức quảng canh chăn thả tận dụng. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 1999, tổng đàn dê cả nước có 530.000 con, trong đó: 72,5% phân bố ở miền Bắc; 27,5% ở miền Nam (Tây Nguyên chiếm 12,3%, duyên hải miền Trung 8,9%, Đông và Tây Nam Bộ chỉ chiếm 2,1% và 3,85%); đến năm 2006 đạt 1.525.300 con. Năm 2007, theo tính toán sơ bộ của Tổng cục thống kê cả nước đã có 1.777.600 con, trong đó đàn dê ở vùng núi phía Bắc chiếm 48% tổng đàn dê cả nước và chiếm 67% tổng đàn dê của miền Bắc.
Trong những năm gần đây, tình hình chăn nuôi trong tỉnh nói chung luôn gặp những khó khăn nhất định như giá cả các loại thức ăn và thuốc thú y phục vụ cho chăn nuôi tăng cao, nhiều dịch bệnh trên gia súc và gia cầm diễn biến phức tạp và gây thiệt hại cho người chăn nuôi, đầu ra của sản phẩm bấp bênh,…Trong tình hình đó, con dê là một đối tượng vật nuôi truyền thống của người nông dân, đến lúc này dê thể hiện nhiều ưu thế so với các vật nuôi khác như: ít bị ảnh hưởng bởi giá các loại thức ăn tăng cao, dê ít chịu ảnh hưởng của các loại dịch bệnh, giá dê hơi có xu hướng tăng trong và năm tới. Tuy nhiên, giống dê địa phương (còn gọi là dê Bách Thảo) nuôi lấy thịt có tầm vóc nhỏ bé, kỹ thuật chăn nuôi dê cũng chưa được phổ biến rộng rãi, chất lượng con giống chưa tốt vì trong một thời gian dài nghề chăn nuôi dê chỉ là tự phát, đặc biệt là công tác giống ở địa phương hầu như chưa được tiến hành một cách có hệ thống dẫn đến tình trạng đồng huyết - thoái hoá về giống; thức ăn không đủ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, tỷ lệ sống thấp…dẫn đến hiệu quả chăn nuôi không cao, không phát huy được tiềm năng phát triển
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn sản xuất, mô hình “Cải tạo đàn dê theo hướng chuyên thịt” có ý nghĩa lớn.
3.2.3.1. Mục đích của mô hình
Nhằm nâng cao tầm vóc, tăng khả năng sản xuất thịt của giống dê địa phương, nâng cao khối lượng, tỷ lệ thịt xẻ, phẩm chất thịt, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi.
Giúp cho người chăn nuôi tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật về công tác giống, chăm sóc, nuôi dưỡng, làm quen với phương thức thâm canh và bán thâm canh trong lĩnh vực chăn nuôi dê ở quy mô hộ gia đình, tạo ra nhiều con giống giúp các hộ chăn nuôi tăng tổng đàn.
3.2.3.2. Đối tượng nghiên cứu
3.2.3.2.1. Giống dê lai Boer
Dê Boer là giống dê chuyên thịt có nguồn gốc ở châu Phi và nuôi nhiều ở châu Mỹ, giống dê này lông có màu trắng, quanh cổ và đầu có màu nâu vàng, tai to, dài và cụp. Trọng lượng trưởng thành con cái 80-100 kg, con đực 120-140 kg. Dê có cơ bắp rất đầy đặn, phát triển, có tốc độ sinh trưởng nhanh, năng suất sữa 1,2-1,8 kg/ngày, sản lượng sữa bình quân đạt 140-160 kg/chu kỳ cho sữa 120 ngày.
3.2.3.2.2. Giống dê địa phương (dê Bách Thảo)
Dê Bách Thảo có nguồn gốc lâu đời tại Ninh Thuận. Dê có màu lông đen đốm trắng, lông mượt, có hai dải đốm trắng chạy song song trên mặt, bốn chân và bụng. Hầu hết có sừng nhỏ và chết về phía sau. Tai to, dài cụp xuống. Khối lượng sơ sinh 2,5-2,8kg/con. Dê đực trưởng thành nặng 65-80kg, con cái 45-50kg.
3.2.3.3. Biện pháp kỹ thuật áp dụng trong mô hình
3.2.3.3.1. Thức ăn cho dê
Thức ăn tinh: Loại thức ăn này cung cấp protein và năng lượng cao. Trong giai đoạn nuôi vỗ béo và dê nuôi con nên bổ sung thức ăn tinh để tăng hiệu quả sản xuất.
Thức ăn khoáng: Gồm bột khoáng canxi, bột xương, bột vỏ sò, muối ăn,…Có thể làm thành tảng liếm hoặc cho vào ống tre có đục lỗ nhỏ phía dưới treo lên thành chuồng để dê liếm. Biện pháp này có thể hạn chế dê uống các nguồn nước bị ô nhiễm.
Thức ăn thô xanh và thức ăn củ, quả: Cách chế biến là cắt thành lát mỏng, không nên nghiền nát. Đối với chăn nuôi dê, thức ăn thô xanh chiếm một vị trí rất quan trọng, khoảng 60-80% trong khẩu phần ăn của dê.
Nhu cầu nước uống: Thông thường vào mùa mưa, độ ẩm cao khi dê ăn lá, cỏ chứa 70-80% nước thì dê không đòi hỏi nhiều nước. Đối với dê cho sữa hoặc mang thai và vào mùa khô thì nhu cầu nước lại rất cần thiết. Thường tính nhu cầu nước bằng bốn lần nhu cầu vật chất khô hằng ngày.
3.2.3.3.2. Chăm sóc, nuôi dưỡng dê cái sinh sản
Chu kỳ động dục của dê cái là 21 ngày (dao động 18-23 ngày), thời gian mang thai biến động 145-157 ngày. Vì vậy phải chuẩn bị đỡ đẻ cho dê trước 140 ngày. Khi có thai nhu cầu dinh dưỡng của dê tăng dần lên nhất là tháng hai tháng cuối, thời gian này dê cái tìm thức ăn nhiều hơn, phàm ăn hơn nên dê tăng cân và lông mượt. Cần phải đảm bảo đủ số lượng và chất lượng thức ăn để dê nuôi thai tốt và có nhiều sữa sau khi đẻ. Không nên chăn thả dê chửa ở giai đoạn cuối quá xa chuồng, tránh đánh đập và không được nhốt chung chuồng với dê cái chửa.
3.2.3.3.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng dê đực giống
Chuồng trại phải nhốt tách riêng với dê cái. Có thể nhốt vào ô cuối của chuồng để tạo tính hăng của chúng. Chuồng trại phải đảm bảo khô ráo, sạch sẽ. Bổ sung thức ăn công nghiệp tại chuồng 0,2-0,3 kg/ngày. Tránh cho dê đực giao phối cùng dê cái đồng huyết. Khi hiệu quả phối giống của dê dưới 60% hoặc quá 6 năm tuổi thì nên loại thải.
3.2.3.4. Quy mô thực hiện và kết quả
Bảng 16. Quy mô thực hiện và kết quả của mô hình
Năm
Địa điểm (xã)
Quy mô
Kết quả đạt được
Đực (con)
Cái (con)
Dê cái có chửa
%
P. dê sơ sinh (kg)
Đực lai
Đực nội
2008
Phước Mỹ
01
30
-
>90%
2,7
2,5
Nhơn Lý
01
30
-
>90%
2,7
2,1
2009
Canh Vinh
02
40
40
100
2,41
2,3
Nhơn Lý
01
20
20
100
2,4
2,2
Ân Nghĩa
02
40
31
77,5
2,43
2,21
Trung bình
>80%
2,528
2,262
(Nguồn: Trung tâm khuyến nông Bình Định)
Nhận xét:
Các chỉ tiêu sinh trưởng và sinh sản của dê cái sau được phối giống từ dê đực lai Boer đều vượt trội hơn so với dê địa phương, cụ thể như sau:
Tỷ lệ phối giống có thai cao hơn 80%, đạt và vượt yêu cầu đề ra.
Trọng lượng sơ sinh bình quân của dê lai là 2,528 kg, của dê địa phương là 2,262 kg.
3.2.3.5. Đánh giá mô hình
3.2.3.5.1. Ưu điểm
Trong thời điểm hiện nay, nuôi dê có nhiều ý nghĩa tích cực. Nhu cầu thịt dê trong nước ngày càng gia tăng, giá trị dinh dưỡng của thịt dê ngày càng được nghiều người quan tâm. Giá thịt dê ổn định và ít biến động. Chăn nuôi dê góp phần tích cực vào xóa đói, giảm nghèo, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân nông thôn, đặc biệt cho các vùng có địa hình đồi núi, bãi chăn thả. Chăn nuôi dê có một số lợi thế so sánh so với bò như: vốn đầu tư ban đầu thấp, sinh sản nhanh hơn bò, cần ít thức ăn hơn, thích nghi ở những vùng khí hậu khô nóng, đồi núi.
Những năm gần đây ngành chăn nuôi dê nước ta đã tăng cả về mặt số lượng và chất lượng, thịt dê được xem là loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, hàm lượng cholesterol thấp rất tốt cho sức khỏe của con người. Sự tăng giá thịt dê hơi trên thị trường do nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng trong nước đang ngày càng tăng, năm 1996 giá thịt hơi chỉ 8000 đ/kg, đến năm 2003 đã tăng lên 23.000đ/kg (cao hơn gần gấp đôi so với thịt lợn (11.000 - 12.000 đ/kg thịt hơi) và đến năm 2005 giá thịt dê lên đến 35.000 đ/kg. Tập quán sử dụng sản phẩm từ chăn nuôi dê (thịt, sữa) đã được hình thành. Đây là động lực mới và mạnh thúc đẩy nhanh tiến trình cải tạo đàn, tăng quy mô đàn, số lượng đàn và công nghệ chế biến sản phẩm.
3.2.3.5.2. Những tồn tại của mô hình
Yêu cầu của một mô hình là một con dê đực và 20 dê cái, người chăn nuôi phải có khả năng về tài chính đối ứng để thực hiện mô hình do đó không phải người chăn nuôi nào cũng có thể thụ hiện được nếu không có sự hỗ trợ và đầu tư của nhà nước.
Do thời gian chăn thả dê chiếm 70-80%, chủ hộ không có điều kiện theo dõi chính xác thời gian phối giống, một số dê cái đến lúc sinh ra không được theo dõi, chăm sóc kịp thời nên một số con chết lúc mới sinh ra.
Mạng lưới thú y cơ sở còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng; cơ số và chất lượng thuốc đặc hiệu với dê chưa đủ nên việc phòng bệnh và trị bệnh cho dê chưa được kịp thời. Công tác vệ sinh phòng bệnh chưa được chú trọng; hiệu quả công tác tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm theo định kỳ đạt chưa cao.
Chuồng trại chưa được xây đúng kỹ thuật; phân, rác thải chưa được xử lý tốt. Mặt khác, chăn nuôi dê hiện nay còn chăn thả tập trung với nhiều loài gia súc khác trên cùng một bãi chăn thả nên dẫn đến hiện tượng cảm nhiễm ký sinh trùng lây lan từ loài này sang loài khác. Dê chủ yếu mắc bệnh tụ huyết trùng, viêm ruột, lở mồm long móng, đậu dê.
3.3. Định hướng phát triển ngành chăn nuôi trong tương lai
3.3.1. Định hướng phát triển chăn nuôi đại gia súc đến năm 2015
Nghị quyết về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của Chính phủ ban hành ngày 15/6/2000 chỉ rõ:
“Phát triển đàn lợn phù hợp với nhu cầu của thị trường tiêu dùng trong nước, một số vùng chăn nuôi lợn chất lượng cao để xuất khẩu. Phát triển chăn nuôi bò theo hướng thâm canh có năng suất cao, phấn đấu trong 10 năm tới có 200.000 con bò sữa, trong đó 100.000 con bò cái vắt sữa với sản lượng 300.000 tấn sữa tươi/năm. Phát triển đàn gia cầm chủ yếu là gà vịt.”
Từ định hướng phát triển chung nói trên, em xin nêu ra định hướng phát triển chăn nuôi trâu, bò của tỉnh Bình Định như sau:
Cải tiến phương thức chăn nuôi truyền thống ở các nông hộ, đồng thời xây dựng các cơ sở chăn nuôi bò thịt, bò sữa hiện đại.
Tiếp tục Zêbu hóa đàn bò. Nhập một số giống bò chuyên dụng sữa, chuyên dụng thịt năng suất cao. Tiến hành lai tạo đàn bò chuyên dụng sữa, chuyên dụng thịt với bò đã được Zêbu hóa.
Đối với chăn nuôi dê, đây là ngành mới được quan tâm, người chăn nuôi hầu hết là người nghèo ở trung du đồi núi, tập quán chăn thả chủ yếu là quảng canh, tận dụng rừng, gò đồi, công lao động và vốn nhàn rỗi, chưa phát huy đúng tiềm năng của nó là ngành chăn nuôi quan trọng tạo nguồn thu nhập và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Việc thực hiện các quy trình kỹ thuật như quản lý phối giống, thay đổi đực giống, chuồng trại, thú y, chăm sóc nuôi dưỡng còn nhiều khó khăn về kinh phí, trình độ kỹ thuật và quản lý còn thấp, phát triển thị trường còn nhiều hạn chế. Kinh nghiệm, tài liệu, các hình thức chia sẻ, tập huấn kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác quản lý và chỉ đạo phát triển chăn nuôi dê còn nhiều bất cập, chưa được quan tâm đúng mức. Công tác giống và quản lý giống ít được quan tâm Bên cạnh đó công tác nghiên cứu về thức ăn, chăm sóc nuôi dưỡng, phòng trị bệnh tật, chuồng trại hầu như chưa tương xứng với nhu cầu và tốc độ tăng trưởng của nghề chăn nuôi dê.
Vì vậy, cần có chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích phát triển ngành nuôi dê. Tiếp tục lai cải tạo đàn dê theo hướng nâng cao chất lượng hàng hóa (thịt, sữa) và cải thiện phương thức chăn nuôi truyền thống sang áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
3.4. Đề xuất biện pháp khắc phục những hạn chế của mô hình
Nhìn chung, để thực hiện hiệu quả các mô hình nêu trên thì cần phải đầu tư đúng mức cho các khoản đầu vào như nguồn vốn, con giống và kỹ thuật chăn nuôi và đầu ra của sản phẩm. Do đó cần có sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan quản lý nhà nước, nhà kinh tế, nhà khoa học và bà con nông dân để kết quả mô hình chăn nuôi mang lại thực sự có ý nghĩa.
Hiện nay vấn đề thú y trong chăn nuôi ngày càng đóng vai trò quan trọng, trước tình hình diễn biến phức tạp của các bệnh truyền nhiễm (tụ huyết trùng, phó thương hàn, lở mồm long móng,…), bệnh ký sinh trùng (sán lá gan), các bệnh nội khoa và các bệnh sản khoa khác đã gây tổn thất không nhỏ cho ngành chăn nuôi. Do đó cần làm tốt công tác thú y, vệ sinh phòng chống dịch bệnh, vệ sinh chuồng trại và thường xuyên kiểm tra vệ sinh định kỳ để phòng và điều trị bệnh kịp thời.
Cần phải có biện pháp khắc phục những tác động xấu của chăn nuôi đối với môi trường nhằm duy trì một nền sản xuất bền vững.
Chương 4. KẾT LUẬN VÀ ĐÊ NGHỊ
4.1. Kết luận
Qua quá trình tìm hiểu về tình hình chăn nuôi gia súc của tỉnh Bình Định, với những kiến thức lý luận được trang bị trong nhà trường và đứng dưới góc độ là người bắt đầu làm quen với thực tiễn sản xuất, em có một số kết luận như sau:
1. Chăn nuôi gia súc có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tế. Ở Bình Định, chăn nuôi gia súc khá phát triển, tổng đàn gia súc qua các năm đều ở mức cao, đặt biệt cơ cấu về giống, các giống lai năng suất, chất lượng cao đang dần thay thế cho các giống địa phương.
2. Các mô hình chăn nuôi gia súc trong thời gian qua của tỉnh, gồm: Mô hình vỗ béo bò thịt, mô hình cải tạo giống bò theo hướng chuyên thịt (cho các huyện miền núi), mô hình cải tạo giống dê theo hướng chuyên thịt bước đầu đạt những kết quả rất đáng khích lệ. Khả năng nhân rộng và triển vọng phát triển của những mô hình này là rất lớn.
4.2. Đề nghị
1. Tiếp tục triển khai các mô hình chăn nuôi trên trong những năm tiếp theo nhằm khẳng định hiệu quả của mô hình, đồng thời nâng cao lợi ích kinh tế cho người chăn nuôi.
2. Các cơ quan chuyên môn như Trung tâm Khoa học kỹ thuật giống vật nuôi Bình Định, trung tâm khuyến nông - khuyến ngư Bình Định, khoa Sinh – KTNN, Trường Đại học Quy Nhơn cần có những nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực chăn nuôi nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp của Bình Định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chi cục thú y Bình Định, “Công tác tiêm phòng bệnh lở mồm long móng cho đàn gia súc”.
2. Cục chăn nuôi, “Mục tiêu, định hướng và giải pháp phát triển của ngành chăn nuôi Việt Nam giai đoạn 2006 – 2015”.
3. Cục thống kê tỉnh Bình Định, Bảng thống kê Số lượng và sản phẩm gia súc, gia cầm và chăn nuôi khác của Bình Định, các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009.
4. Đào Lệ Hằng, Hỏi đáp kỹ thuật chăn nuôi bò ở hộ gia đình, NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ,2008.
5. Nguyễn Đức Hưng, Giáo trình chăn nuôi đại cương, Đại học nông lâm Huế, 2006.
6. Nguyễn Thị Lan, Phạm Tiến Dũng, Giáo trình phương pháp thí nghệm, Đại học nông nghiệp I Hà Nội, 2005.
7. Phạm Thị Kim Vân, Bài giảng Hệ thống nông nghiệp và phương pháp khuyến nông, Đại học Quy Nhơn, 2008.
8. Tạp chí hoạt động khoa học, Một số kinh nghiệm từ mô hình cải tạo đàn bò theo hướng chuyên thịt năm 2007 tại các tỉnh phía Nam (15/01/2009).
9. Tạp chí Khoa học và Đời sống, chuyên đề Nông thôn – Dân tộc thiểu số và Miền núi, các số: 303 (trang 7), số 304 (trang13), số 273 (trang 11), số 311 (trang 8-9), số 312 (trang 24), số 253 (trang 26).
10. Trần Văn Bình, Bệnh quan trọng của trâu, bò, dê và biện pháp phòng trị, NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 2008.
11. Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Bình Định, Báo cáo tổng kết mô hình khuyến nông ngành chăn nuôi, 2009.
12 Trung tâm Khoa học kỹ thuật giống vật nuôi Bình Định, Tài liệu hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi bò thịt, 2009.
13. Trung tâm khoa học kỹ thuật giống vật nuôi Bình Định, Báo cáo tổng kết đề tài “Du nhập giống dê Boer”, 2008.
14. Võ Văn Toàn, Nguyễn Văn Ban, Trần Thanh An, Giáo trình chăn nuôi, tập 1, 2, Đại học Quy Nhơn,
15. Chăn nuôi thú nhai lại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài- Tìm hiểu và đánh giá một số mô hình chăn nuôi đại gia súc trên địa bàn tỉnh Bình Định.doc