Tình hình lạm phát và thất nghiệp

Việc áp dụng nguyên lý cung cầu vào thị trường lao động giúp lí giải tỉ lệ thất nghiệp cũng như giá cả lao động. Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới chỉ ra rằng tỉ lệ thất nghiệp ở các nước đang phát triển lớn hơn so với các nước đang phát triển nhiều lần. Mức thất nghiệp thường là điển hình của một nền kinh tế gặp khó khăn, nơi cung ứng lao động vượt xa nhu cầu sử dụng lao động. Khi một nền kinh tế đã thất nghiệp cao, không sử dụng nguồn lực kinh tế của nó theo cách tốt nhất có thể. Một trong những sai lầm lớn của cuộc Đại khủng hoảng ở Anh được rằng chính phủ cắt giảm trợ cấp thất nghiệp (năm 1931). Những lo lắng về tăng mức vay của chính phủ để trợ cấp thất nghiệp bị cắt giảm. Tất nhiên điều này làm giảm tổng cầu hơn nữa và gây ra một cuộc suy thoái sâu hơn. (Cũng như bất bình đẳng ngày càng tăng)

docx10 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3016 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình lạm phát và thất nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3. Thất nghiệp 3.1. Các khái niệm cơ bản 3.1.1. Lực Lượng Lao Động: Là dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, chưa có việc làm hay không có việc làm và đang tìm việc làm. Số người trong độ tuổi lao động Số người ngoài độ tuổi lao động Dân số Thất nghiệp Nguồn nhân lực Có khả năng lao động Không có khả năng lao động Lực lượng lao động Ngoài lực lượng lao động Có việc làm làm 3.1.2. Thất nghiệp:là tình trạng người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, chưa có việc làm và đang tìm việc làm. Một khái niệm liên quan là Những người lao động bất mãn (Discouraged Workers). Một người có khả năng làm việc nhưng không muốn làm hay không đi tìm một công việc thì được hiểu là người lao động bất mãn. Những người lao động bất mãn không được tính vào lực lượng lao động và vì thế cũng không giải thích cho các số liệu về thất nghiệp. Vì thế tình trạng thất nghiệp thực tế có thể còn tồi tệ hơn là số liệu được mô tả bằng các số liệu thất nghiệp chính thức. Tỷ lệ thất nghiệp là số công nhân thất nghiệp chia cho tổng số lao động dân sự, mà bao gồm cả người thất nghiệp và những người có công ăn việc làm (tất cả những người sẵn sàng và có khả năng làm việc cho thanh toán). Tỷ lệ thất nghiệp= Số người thất nghiệp Lực lượng lao động Trong thực tế, đo lường số lượng công nhân thất nghiệp tìm kiếm công việc thực sự là rất khó khăn. Có nhiều phương pháp khác nhau để đo lường số lượng công nhân thất nghiệp. 3.1.3. Nguyên nhân thất nghiệp: Các học thuyết kinh tế giải thích tình trạng thất nghiệp theo nhiều các khác nhau: Với LS là cung lao động & LD là cầu lao động Keneys nhấn mạnh rằng cầu tiêu dùng yếu dẫn đến cắt giảm sản lượng, sa thải công nhân (thất nghiệp chu kỳ ). LD LS Thất nghiệp Lương Chủ nghĩa Mác giải thích thất nghiệp thực tế là giúp duy trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Q1 Q2 Q3 a b W1 W2 Số lượng LĐ Trong ngắn hạn, thất nghiệp và lạm phát đúng là có sự chuyển dịch ngược chiều nhau, do hai yếu tố này bị tăng trưởng kinh tế tác động theo hai hướng khác nhau. Khi nền kinh tế bước vào giai đoạn phục hồi hoặc tăng trưởng cao, nhu cầu thuê mướn công nhân tăng làm tỷ lệ thất nghiệp giảm, trong khi tổng cầu tăng gây ra lạm phát. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, tổng cầu giảm khiến lạm phát giảm, đồng thời làm tăng tỷ lệ thất nghiệp  Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo từng giai đoạn khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về thực trạng thất nghiệp. Việc áp dụng nguyên lý cung cầu vào thị trường lao động giúp lí giải tỉ lệ thất nghiệp cũng như giá cả lao động. Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới chỉ ra rằng tỉ lệ thất nghiệp ở các nước đang phát triển lớn hơn so với các nước đang phát triển nhiều lần. Mức thất nghiệp thường là điển hình của một nền kinh tế gặp khó khăn, nơi cung ứng lao động vượt xa nhu cầu sử dụng lao động. Khi một nền kinh tế đã thất nghiệp cao, không sử dụng nguồn lực kinh tế của nó theo cách tốt nhất có thể. Một trong những sai lầm lớn của cuộc Đại khủng hoảng ở Anh được rằng chính phủ cắt giảm trợ cấp thất nghiệp (năm 1931). Những lo lắng về tăng mức vay của chính phủ để trợ cấp thất nghiệp bị cắt giảm. Tất nhiên điều này làm giảm tổng cầu hơn nữa và gây ra một cuộc suy thoái sâu hơn. (Cũng như bất bình đẳng ngày càng tăng) Lịch sử của thất nghiệp là lịch sử của công nghiệp hóa. Nó đã không được coi là một vấn đề trong khu vực nông thôn, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp “trá hình "của người lao động nông thôn có ít để làm, đặc biệt là trong điều kiện của nạn nhân bất mãn. Q1 Q2 Số lượng Lđ Ý nghĩa: Tỷ lệ thất nghiệp mang ý nghĩa chi phí xã hội. Những người không thể tìm thấy công việc thường xuyên phải dựa vào lợi ích đối với thu nhập: nếu họ đã có cam kết tài chính hoặc gia đình, điều này có thể làm cho cuộc sống vô cùng khó khăn. Hơn nữa, cảm giác chán nản, thất bại và từ chối rằng đang thất nghiệp có thể tạo ra có hậu quả thực sự xã hội. Các nghiên cứu đã liên tục liên kết với tội phạm gia tăng thất nghiệp và tỷ lệ tự sát và suy giảm sức khỏe. Theo sơ đồ tiền lương được ban đầu quá cao và vì vậy tỷ lệ thất nghiệp của các kết quả ab (cung cấp lớn hơn nhu cầu). Để thoát khỏi tình trạng thất nghiệp này và rõ ràng mức lương thị trường sẽ giảm. Phía cung thất nghiệp cũng có thể xảy ra bởi vì không có nghề nghiệp Nó có thể xảy ra vì có thông tin nghèo nàn về cơ hội việc làm. Điều này sẽ dẫn đến người dùng một thời gian dài tìm kiếm việc làm, tăng mức độ thất nghiệp. 3.2. Các dạng thất nghiệp 3.2.1. Thất nghiệp tạm thời Là loại thất nghiệp xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian tìm kiếm một nơi làm phù hợp hơn hoặc những người mới bước vào thị trường lao động đang chờ việc…  Loại thất nghiệp này tồn tại ngay cả khi thị trường lao động cân bằng Vì sao luôn có tình trạng thất nghiệp tạm thời? Các loại hàng hóa mà doanh nghiệp và các hộ gia đình có nhu cầu thường thay đổi theo thời gian. Khi nhu cầu về hàng hóa thay đổi, nhu cầu lao động về những hàng hóa đó cũng thay đổi theo. Sự thay đổi trong cơ cấu nhu cầu giữa các ngành (hoặc vùng) được gọi là sự dịch chuyển giữa các ngành. Sự dịch chuyển này thường xuyên xảy ra, vì lao động cần có thời gian để thay đổi ngành nghề của mình nên thất nghiệp tạm thời luôn tồn tại. 3.2.2. Thất nghiệp cơ cấu  Là loại thất nghiệp xảy ra khi có mất cân đối về mặt cơ cấu giữa cung và cầu lao động. Sự mất cân đối này do 2 nguyên nhân: - Người lao động thiếu kỹ năng - Khác biệt về nơi cư trú Một cuộc suy thoái có thể góp phần hướng tới một sự gia tăng thất nghiệp cơ cấu Ví dụ, trong cuộc suy thoái này, tài chính đòi hỏi một sự thay đổi trong lao động với các ngành khác. Điều này có thể đòi hỏi một sự thay đổi địa lý và nghề nghiệp đáng kể. Tụt hậu tố. Nó có thể là quá sớm để đánh giá về sự thay đổi trong tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu. Thất nghiệp thường là yếu tố chậm. Ví dụ như các công ty cố gắng tránh làm dư thừa trong quá trình suy thoái, nhưng sau đó không muốn mất công nhân trong việc thu hồi. Xu hướng dài hạn trong nền kinh tế toàn cầu đối với một hỗn hợp của kỹ năng nghề nghiệp cao (ví dụ như y tế và pháp lý) và rất ít công ăn việc làm ngành dịch vụ có kỹ năng (ví dụ như làm sạch). Hiện đã có một sự suy giảm công ăn việc làm ổn định trong sản xuất với kỹ năng trung cấp. Những xu hướng dài hạn không đặt áp lực tăng tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu. Sự không phù hợp các kỹ năng trong thị trường lao động có thể được gây ra bởi: Thay đổi cơ cấu nền kinh tế: Sự suy giảm của các mỏ than do thiếu khả năng cạnh tranh có nghĩa là thợ mỏ than nhiều người thất nghiệp và họ có thể tìm thấy nó khó khăn hơn để có được việc làm trong ngành công nghiệp mới như máy tính. Bất động nghề nghiệp. Có thể có công ăn việc làm có tay nghề có sẵn, nhưng nhiều người lao động có thể không có những kỹ năng liên quan. Đôi khi các doanh nghiệp có thể đấu tranh để tuyển dụng trong thời gian thất nghiệp cao. Điều này là do các bất động nghề nghiệp. Bất động địa lý: Công việc có thể có sẵn ở London, nhưng, công nhân thất nghiệp có thể không có khả năng di chuyển ở đó do khó khăn trong việc có được nhà ở vv Công nghệ thay đổi: nếu một nền kinh tế đi qua thay đổi công nghệ, một số ngành công nghiệp sẽ suy giảm. Ví dụ, công nghệ mới (năng lượng hạt nhân) có thể làm cho các mỏ than đóng cửa để lại nhiều thợ mỏ thất nghiệp. Ví dụ:Những năm 1980, công nghệ thép Mỹ giảm sút vì tiêu dùng có nhu cầu ít ô tô hơn và muốn ô tô nhẹ hơn. Đồng thời việc xây dựng nhà cao tốc và nhà cửa cũng chậm lại. Trong bối cảnh ấy, hơn 300 000 công nhân đã bị mất việc, hầu hết những công nhân này có ít nhất 10 năm kinh nghiệm và kỹ năng thích hợp. Mặc dù thị trường lao động còn đủ chỗ trống, song những công nhân này không thể đảm nhận được công việc đó. Thất nghiệp cơ cấu giống như trò chơi xếp ghế cho buổi hòa nhạc, đã có đủ ghế cho mọi người nhưng 1 số ghế quá nhỏ không thể ngồi được. 3.2.3. Thất nghiệp chu kỳ Thất nghiệp chu kỳ (thất nghiệp theo lý thuyết Keynes) là loại thất nghiệp được tạo ra trong tình trạng nền kinh tế suy thoái. Thất nghiệp chu kỳ giống như trò chơi xếp ghế với số chiếc ghế < số người chơi. Cuộc đại suy thoái là một ví dụ tiêu biểu. Việc tăng đột ngột về tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu vào năm 1930 không phải do bất cứ sự gia tăng nào trong sự giai dẳng hoặc sự giảm sút đột ngột về kỹ năng của nhân công. Thay vào đó, tỷ lệ thất nghiệp cao giai dằng trong một thập kỷ là do sự giảm sút đột ngột về nhu cầu hàng hóa và dịch vụ. Điều này xảy ra trong một giai đoạn suy thoái hoặc tăng trưởng rất thấp. Nếu có nhu cầu tổng hợp chưa đầy đủ, các công ty sẽ cắt giảm sản lượng. Nếu họ cắt giảm sản lượng sau đó họ sẽ sử dụng lao động ít hơn. Các công ty hoặc là sẽ cắt giảm việc tuyển dụng hay sa thải công nhân. Càng suy thoái, nhu cầu thiếu hụt nhiều hơn sẽ có tỷ lệ thất nghiệp. Điều này thường là nguyên nhân lớn nhất của tình trạng thất nghiệp, đặc biệt là trong suy thoái. Nhà kinh tế cổ điển từ chối quan điểm này vì họ cho rằng tiền lương trong thời gian dài nên giảm để khuyến khích nhu cầu tăng lên đối với lao động và cân bằng sẽ trở lại Tuy nhiên các nhà kinh tế Keynes phản đối vì: Công nhân không sẵn sàng chấp nhận một mức lương giảm Nếu tiền lương bị giảm sau đó có một sự giảm trong tiêu dùng chi tiêu này gây ra một sự giảm sút trong AD, do đó điều này làm cho tình hình thất nghiệp tồi tệ hơn. Điều này nói rằng nếu tiền lương bị cắt giảm công nhân trở thành chán nản và làm việc ít đi dẫn đến sản lượng thấp hơn. Vì tin rằng sẽ suy thoái kinh tế thấp và các công ty không muốn chi tiền sử dụng lao động nhiều hơn, ngay cả ở mức lương thấp hơn. Keynes cho biết trong tiền lương lâu dài có thể điều chỉnh, nhưng về lâu dài chúng ta đều chết. Trong những năm 1930 thất nghiệp đại chúng tiếp tục cho đến khi chiến tranh thế giới thứ hai, đã chứng minh quan điểm này. 3.4 . Ảnh hưởng của thất nghiệp 3.4.1: Ảnh hưởng tích cực Một tỷ lệ thất nghiệp vừa phải sẽ giúp cho cả người lao động và chủ sử dụng lao động. Người lao động có thể tìm 1 cơ hội việc làm khác phù hợp với khả năng ,mong muốn và điều kiện cư trú. Do đó, ở một chừng mực nào đó đưa đến tăng năng suất lao động và tăng lợi nhuận. Có những lợi ích kinh tế của thất nghiệp từ chuyển đổi nghề đối với mỗi cá nhân và xã hội. Những công nhân trẻ đang trải qua thất nghiệp sẽ cố gắng tìm kiếm những công việc phù hợp với khả năng và lợi ích của họ. Lợi ích của kết quả do thay đổi công việc làm thỏa mãn hơn và làm việc có hiệu quả hơn. Lợi ích xã hội do thay đổi công việc kèm theo với quá trình tìm kiếm công việc cho phép người lao động tìm kiếm được những công việc mà họ làm hiệu quả hơn. Do đó, tổng sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế tăng lên, mặt khác các công nhân thất nghiệp theo cơ cấu đòi hỏi phải học tập nâng cao trình độ để có được việc làm. Thực tế này có nghĩa là một chi phí cơ hội đối với người lao động và xã hội. Những công nhân thất nghiệp do cấu trúc không có việc làm theo nhiều giai đoạn. Những lao động này chiếm một chi phí lớn trong việc cơ cấu lại nền kinh tế, mặc dù xã hội thu được lợi ích về dài hạn trong việc chuyển đến ngành mới này. Giải pháp của thị trường để giải quyết loại thất nghiệp này khuyến khích tư nhân đào tạo lại. Các biện pháp của chính phủ bao gồm trợ cấp đào tạo lại, trợ giúp việc phân bố theo vùng. 3.4.2. Ảnh hưởng tiêu cực Khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, các nền kinh tế có hiệu lực ném đi những hàng hóa và dịch vụ mà các công nhân thất nghiệp có thể đã được sản xuất. Các tổn thất kinh tế trong giai đoạn thất nghiệp cao là những tài liệu chất thải lớn nhất trong nền kinh tế hiện đại. Có lớn hơn nhiều lần ước tính từ chất thải không hiệu quả kinh tế vi mô do độc quyền hoặc hơn chất thải gây ra bởi thuế quan và hạn ngạch. Trong số các dân số độ tuổi lao động, một trong những tác nhân gây thiệt hại nhiều nhất là thất nghiệp.. Nhiều nghiên cứu trước đây đã xác nhận những tác động tàn phá của cá nhân thất nghiệp ngày hạnh phúc, cả bằng tiền và không bằng tiền. Sử dụng dữ liệu từ Cộng đồng châu Âu điều tra hộ gia đình Panel, bài báo này xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến thất nghiệp của người lao động phúc lợi đối với tình huống của họ trong hoạt động nghề nghiệp của họ chính, thu nhập, nhà ở, thời gian giải trí và y tế ở châu Âu.. Nghiên cứu thấy rằng tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể mức độ hài lòng của một cá nhân với hoạt động dạy nghề của mình và tài chính, trong khi nó làm tăng đáng kể mức độ hài lòng của mình với thời gian nghỉ. Đối với sức khỏe, nó có hiệu ứng tiêu cực nhỏ. Thời gian thất nghiệp cũng có một tác động nhỏ, tiêu cực cũng như các cá nhân được, cho thấy tỷ lệ thất nghiệp có hiệu ứng kéo dài và tình tiết tăng nặng trong suốt đợt thất nghiệp, mâu thuẫn với lý thuyết về thích ứng. Đối với xã hội: -Sản lượng nền kinh tế giảm sút. Theo định luật Okun: “Khi tỷ lệ thất nghiệp tăng thêm 1% thì sản lượng thực tế giảm đi 2% so với sản lượng tiềm năng". -Chính phủ phải tăng chi tiêu cho trợ cấp -Tệ nạn xã hội, tội phạm gia tăng. Chi phí kinh tế của thất nghiệp -Tổn thất thu nhập cho người thất nghiệp - Những người đang thất nghiệp sẽ khó khăn hơn để có được công việc trong tương lai (điều này được gọi là hiệu ứng trễ) -Căng thẳng và các vấn đề y tế bị thất nghiệp -thu nhập sẽ giảm bởi vì có ít người nộp thuế thu nhập và thuế GTGT.. Ngoài ra các chính phủ sẽ phải chi tiêu nhiều hơn về trợ cấp thất nghiệp. Ví dụ: Robet Davis đã viết trên tờ USA Today ngày 16/10/1992 như sau: “Cái giá của khoa học, cuộc sống có thể giết chết chúng ta. Một cuộc nói chuyện mới đây ở 30 Thành phố cho biết. Thomas Cottle, một giáo viên trường y khoa Havard đã tuyên bố thẳng thắn rằng: “Giờ đây, tôi tin rằng nạn thất nghiệp là một căn bệnh giết người ở đất nước này. Nó phải chịu trách nhiệm về bệnh đánh vợ, sự cằn cỗi, thậm chí cả bệnh sâu răng”. Và một nghiên cứu của Quốc hội Mỹ đã dự tính: Cứ tăng 1 điểm kéo dài trong tỷ lệ thất nghiệp quốc gia, giả dụ 6-7% thì sẽ dẫn đến trung bình 920 vụ tử tự, 648 vụ giết người, 20240 vụ trụy tim hoặc đau tim, 495 vụ chết vì xơ gan, 4227 ca phải vào bệnh viện tâm thần, 3340 trường hợp phải vào tù. 3.5. Các giải pháp Đối với thất nghiệp chu kỳ: - Thực hiện chính sách tài khóa mở rộng - Thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng - Cuối cùng tăng Tổng cầu Đối với thất nghiệp tự nhiên: - Phát triển thị trường lao động  - Đào tạo - Tạo thuận lợi trong việc cư trú - Chuyển dịch CCKT nông nghiệp và nông thôn Hạ lãi suất, giảm chi phí vay khuyến khích chi tiêu và đầu tư. Hạ lãi suất, giảm chi phí của các khoản thanh toán thế chấp cho chủ nhà thêm thu nhập dùng một lần và do đó làm tăng chi tiêu. Do đó, lãi suất thấp hơn sẽ giúp tăng chi tiêu tiêu dùng và đầu tư. Nếu có khả năng dự phòng trong nền kinh tế, sẽ có sự gia tăng tăng trưởng kinh tế và do đó công ty sẽ yêu cầu người lao động nhiều hơn nữa.. Điều này sẽ giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp do thiếu nhu cầu. Tuy nhiên: Lãi suất thấp có thể không tăng chi tiêu của người tiêu dùng nếu tự tin là rất thấp. (Ví dụ: trong suy thoái, người dân có thể không muốn vay để đầu tư, ngay cả khi lãi suất rất thấp) Giảm lãi suất sẽ chỉ giải quyết nhu cầu thiếu hụt thất nghiệp Nó sẽ không làm giảm tỷ lệ thất nghiệp phía cung - tỷ lệ tự nhiên Đầu tư dài hạn trong giáo dục và đào tạo - điều này thực sự là một-ghi ý tưởng chậm, mà tài nguyên nhiều hơn vào giáo dục và đào tạo học sinh nơi làm việc sẽ làm tăng vốn con người của lực lượng lao động và giúp thu hẹp khoảng cách kỹ năng với các nước khác. Một chính sách gần đây là các khoản phụ cấp bảo trì giáo dục cho học sinh ở lại trong giáo dục.. Thuế và lợi ích cải cách - trong những năm gần đây chính phủ đã bắt đầu giới thiệu một mức giá thấp hơn thuế thu nhập và cải cách phúc lợi như trong công việc lợi ích (Các gia đình làm việc thuế tín dụng) được thiết kế để tăng cường khuyến khích để tìm kiếm và tìm việc làm có trả tiền. Mức lương tối thiểu quốc gia cũng là một cố gắng để khuyến khích mọi người để có một công việc mà người ta có sẵn. Một lần nữa, hiệu ứng này chính xác rất khó xác định - nhưng mục đích chính là để tăng lợi ích tài chính của các hoạt động trái với lợi ích phúc lợi còn lại trên nhà nước Ví dụ: Trước nguy cơ thất nghiệp gia tăng làm nảy sinh tình trạng bất ổn xã hội, chính phủ các nước đã liên tiếp đưa ra các giải pháp khác nhau để giải quyết việc làm và trợ cấp xã hội cho người lao động. Hội nghị cấp cao G20 được tổ chức tại Pittsburgh hi vọng sẽ đem lại 11 triệu việc làm thế giới. “Các chính phủ nên tận dụng cơ hội này để đầu tư vào lực lượng lao động, thông qua các hình thức như đào tạo kỹ năng, y tế và bảo trợ xã hội”. Để sớm giải quyết nạn thất nghiệp toàn cầu, ILO đề nghị chính phủ các nước tiếp tục đẩy mạnh các chính sách trợ cấp và bảo hiểm thất nghiệp, tái đào tạo lao động dư thừa, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nhà cửa, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.            Đứng trước khó khăn về việc làm, OECD đã yêu cầu các chính phủ phải "nhanh chóng đánh giá lại, điều chỉnh thị trường lao động và các chính sách xã hội nhằm hạn chế mất việc dài hạn". OECD nhấn mạnh tất cả các nước thành viên phải nỗ lực để tránh phải đối mặt với "một cuộc khủng hoảng lâu dài trong lĩnh vực lao động". Giải quyết thất nghiệp là điều kiện tiên quyết để thoát khỏi khủng hoảng.            Tại châu Á, các nước đã liên tiếp đưa ra các biện pháp để chống thất nghiệp. Các chính phủ đang cố gắng tạo việc làm ở nông thôn, với hy vọng những dự án đầu tư mới vào đây có thể giúp giảm áp lực về việc làm. Nhiều quốc gia cũng đã có những giải pháp tích cực để tạo việc làm mới cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Ủy ban châu Âu (EC) vừa đề xuất các biện pháp đối phó với tình trạng thất nghiệp, tạo việc làm và nâng cao kỹ năng lao động với ngân sách 19 tỷ Euro lấy từ Quỹ Xã hội châu Âu trong năm 2009 và 2010. Tại Mỹ, việc kiềm chế số người thất nghiệp được coi là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Ngày 17/2/2009, Mỹ đã ký ban hành luật tái đầu tư và khôi phục, với trị giá  787 tỷ USD. Gói kích thích này sẽ giúp tạo ra và bảo vệ 3,5 triệu việc làm trong hai năm tới, với 90% việc làm nằm trong khu vực tư nhân. Lo ngại trước tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, Chính phủ Trung Quốc vừa yêu cầu chính quyền các địa phương tạm dừng việc tăng lương tối thiểu; hạ phí bảo hiểm y tế và tai nạn lao động để giảm sức ép có thể dẫn doanh nghiệp đến việc cắt giảm nhân công. Kể từ ngày 1-12-2010, hơn 3.700 loại hàng hóa xuất khẩu - tương đương 27,9% tổng số loại hàng xuất khẩu của Trung Quốc sẽ được tăng hoàn thuế.  Đây là chính sách để hỗ trợ các doanh nghiệp đang bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Mặt khác, Trung Quốc cũng tăng cường chính sách để bảo vệ người lao động. Một số địa phương có nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như tỉnh Sơn Đông, Hồ Bắc… đã quy định các doanh nghiệp muốn cho nghỉ việc từ 40 đến 50 lao động trở lên phải được sự cho phép của sở lao động và bảo hiểm xã hội địa phương. Các nền kinh tế Anh đã được hưởng nhiều hơn một thập kỷ giảm thất nghiệp mà đã để lại nó với một trong những tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất ghi nhận trong số các quốc gia OECD hàng đầu.Việc làm hiện đang ở mức cao kỷ lục và ở một số vùng của một quốc gia đầy đủ tình hình việc làm có hiệu quả đã đạt được. Ví dụ: Nước Anh đã chứng kiến sự giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên từ những năm 1980 (ngay cả khi tốc độ tăng trưởng là 5% vào năm 1988 thất nghiệp là 1,6 triệu USD) và giải thích bằng cách: Tăng thị trường lao động linh hoạt Tư nhân đã giúp tăng khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp hàng đầu cho thị trường lao động linh hoạt hơn Giáo dục và đào tạo tốt hơn Các kinh tế mới đã làm cho nó khó khăn hơn để ở lại trên lợi ích Duy trì tăng trưởng của sản lượng quốc gia thực - nền kinh tế đã đạt được liên tiếp năm mươi phần tư tăng trưởng GDP thực tế tích cực. Và tỷ lệ tăng trưởng hàng năm đã đủ mạnh để tạo đủ việc làm mới để hấp thụ số lượng ngày càng tăng của người đến vào thị trường lao động. Mặc dù Vương quốc Anh đã trải qua một sự suy giảm trong 2002-2003, tăng trưởng vẫn tích cực và việc làm tiếp tục mở rộng. Gia tăng việc làm khu vực công - một sự tăng trưởng nhanh chóng của chi tiêu chính phủ thực sự trong lĩnh vực ưu tiên như giáo dục và y tế đã dẫn đến sự gia tăng trong khu vực nhà nước tuyển dụng - việc làm trong ngành y tế khu vực tư nhân và công cộng đã tăng lên bởi hơn 500.000 từ năm 1993. 4. Thất nghiệp tự nhiên Mức lương thực tế LS 4.1. Khái niệm: Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ thất nghiệp khi thị trường lao động đang ở trong trạng thái cân bằng. LD LF LD: nhu cầu của các hãng về lao động E LF: lực lượng lđ ở mỗi mức lương thực tế F L LS: số người chấp nhận làm việc tại một mức lương thực tế Lượng lao động N1 N O EF: tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên 4.2. Yếu tố quyết định đến tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên M. Freidman cho rằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ được xác định bởi các yếu tố thể chế như: Sẵn có của các thông tin việc làm. Các kỹ năng và giáo dục: chất lượng giáo dục và đề án đào tạo lại sẽ ảnh hưởng đến mức độ phù hợp nghề nghiệp. Mức độ dịch chuyển lao động Tính linh hoạt của thị trường lao động Ví dụ như ngành nghề mạnh mẽ các công đoàn có thể hạn chế việc cung cấp lao động cho thị trường lao động nhất định Trễ: sự tăng thất nghiệp do suy thoái kinh tế có thể gây ra tỷ lệ tự nhiên của tình trạng thất nghiệp gia tăng. Điều này là bởi vì khi người lao động bị thất nghiệp trong một khoảng thời gian họ trở nên mất kỹ năng và hứng thú và ít có khả năng kiếm được việc làm mới. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên gây ra bởi các yếu tố bên cung cấp. Vì vậy ngay cả khi nền kinh tế vĩ mô là hữu dụng vẫn còn có thể được thất nghiệp, thất nghiệp này là tỷ lệ tự nhiên. Do đó, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là không được xác định bởi sự thiếu hụt của AD. Hai yếu tố khác tác động đến tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên: - Tiền lương cứng nhắc: Khi nghành đóng tàu gặp khủng hoảng,chủ doanh nghiệp sẽ đứng trước hai lựa chọn một là giảm tiền lương(vì lúc này nhiều công nhân nghành đóng tàu bị sa thải cung lớn hơn cầu doanh nghiệp có thể giảm tiền lương xuống mức cân bằng) hai là giảm số công nhân làm việc. Vì các hợp đồng lao động đã quy định mức tiền lương và đã được ký kết nên ngay lập tức DN ko thể chọn cách một các DN chọn cách hai và cách này làm tăng tỷ lệ TNTN,giả sử doanh nghiệp chọn cách thứ nhất thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ điều chỉnh dần về tỷ lệ TNTN vì tiền lương dần tiến về mức cân bằng. - Tiền lương hiệu quả: trong thực tế thì thường cung lao động luôn lớn hơn cầu lao động(lượng thất nghiệp luôn dương) dứng ở phía doanh nghiệp thì sẽ chọn một trong hai cách là trả lương cho công nhân ở mức cân bằng hai là trả lương cho công nhân ở mức trên mức cân bằng để thu hút công nhân có chất lượng cao và tạo ra mục tiêu để công nhân tăng năng suất lao động(ai cũng muốn làm một công việc có lương cao và sẽ cố gắng làm việc để giữ công việc đó). Điều này làm tăng khoảng cách giữa cung và cầu lao động làm tăng tỷ lệ TNTN.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTiểu luận phần Thất Nghiệp.docx
Luận văn liên quan