5.3. Hạn chế của nghiên cứu và gợi ý cho nghiên cứu tiếp theo
5.3.1. Hạn chế của nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu mới chỉ được thực hiện tại Hà Nội. Một số vùng miền khác như
miền trung, miền nam với những văn hóa khác nhau thì nghiên cứu có thể sẽ có kết quả
khác biệt, những nhân tố tác động tới cam kết của nhân viên có thể sẽ khác nhau và mức độ
tác động cũng có thể khác nhau. Đây sẽ mở ra một hướng nghiên cứu mới trong tương lai.
- Dịch vụ là một ngành rộng, nghiên cứu chưa đi sâu vào từng ngành dịch vụ để có
thêm được những nhận định về các yếu tố tác động tới ba thành tố cam kết ở từng ngành
như thế nào. Nghiên cứu này chưa đủ độ sâu để kiến nghị theo từng ngành.
5.3.2. Gợi ý cho nghiên cứu tiếp theo
Từ kết quả nghiên cứu của luận án, các nghiên cứu tiếp theo có thể đi theo các hướng:
- Mở rộng phạm vi nghiên cứu trên phạm vi địa lý rộng hơn như nghiên cứu các nhân
tố tác động tới cam kết của nhân viên trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành dịch vụ tại
miền trung/miền nam ;
- Có thể nghiên cứu sâu các nhân tố tác động tới cam kết của nhân viên ở một ngành
đặc thù nào đó như ngành tài chính ngân hàng, y tế giáo dục (khu vực dịch vụ công) xem
có gì khác biệt hay không;
- Có thể nghiên cứu đến những hệ quả khác của cam kết tổ chức như “chia sẻ tri thức”
trong ngành dịch vụ hoặc nghiên cứu về sự “thỏa mãn của khách hàng”; hoặc nghiên cứu về
mối quan hệ giữa cam kết tổ chức và “chất lượng của dịch vụ”.
- Ngoài ra, các nghiên cứu tiếp theo có thể đề cập đến phân tích mối quan hệ giữa các
nhân tố tác động tới cam kết của nhân viên (mối quan hệ giữa chính các nhân tố ở biến độc
lập có tác động với nhau như thế nào – mối quan hệ tuyến tính).
13 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu [Tóm tắt] Luận án Các nhân tố tác động tới cam kết với tổ chức của nhân viên tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành dịch vụ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Giá trị sig của nhân tố Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức < 0,05 do đó có thể chấp
nhận giả thuyết H4. Do đó có thể kết luận rằng Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức có tác
động thuận chiều tới Cam kết dựa trên cảm xúc.
Mối quan hệ giữa biến phụ thuộc thứ nhất và các biến độc lập được thể hiện trong
phương trình hồi quy tuyến tính sau:
AC = 1,155+0,069TN + 0,126GI + 0,418CV1 + 0,301CV2 – 0,601KN1 – 0,394KN2 +
0,458LS + 0,141PS + 0,065POF
AC: Cam kết dựa trên cảm xúc; TN: Thu nhập; GI: Giới; CV1: Chức vụ 1; CV2: Chức
vụ 2; KN1: Kinh nghiệm 1; LS: Phong cách lãnh đạo; PS: Sự hài lòng với chế độ chi trả
lương/thưởng; POF: Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức.
Phương trình hồi quy cho thấy các hệ số Beta chuẩn hóa của các biến độc lập đều > 0 cho
thấy các biến độc lập tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên cảm xúc. Như vậy theo phương
trình trên thì khi 1 đơn vị Cam kết dựa trên cảm xúc tăng lên thì theo đó phải có sự cộng hưởng
dương của 0,458 Phong cách lãnh đạo, 0,141 Sự hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng,
0,065 Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức.
Đánh giá độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội thứ nhất là mô hình gồm tất
cả các biến kiểm soát tác động tới cam kết dựa trên tính toán.
Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh là 0,113. Điều này cho thấy sự
tương thích của mô hình với biến kiểm soát là hợp lý. Như vậy các biến kiểm soát có ý
nghĩa giải thích được 11,3% sự biến động của Cam kết dựa trên cảm xúc.
Kết quả kiểm định F cho thấy giá trị F = 13.961, giá trị sig = 0,000. Như vậy, mối
quan hệ này đảm bảo độ tin cậy với mức độ cho phép là 5%. Do đó, có thể kết luận các biến
kiểm soát có tác động đến Cam kết dựa trên tính toán và mô hình hồi quy tuyến tính bội phù
hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến cho thấy hệ số phóng đại phương sai VIF
của các biến kiểm soát được đưa vào phân tích ở mô hình thứ nhất đều có giá trị < 2. Như
vậy tính đa cộng tuyến của các biến kiểm soát không đáng kể và các biến trong mô hình
được chấp nhận.
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy ba biến kiểm soát giới, chức vụ, kinh nghiệm ảnh
hưởng đến Cam kết dựa trên tính toán vì có giá trị Sig < 0,05. Biến kiểm soát thu nhập và
tuổi không tác động tới Cam kết dựa trên tính toán.
Đánh giá độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội thứ hai là mô hình bao gồm
các biến độc lập, các biến kiểm soát tác động tới Cam kết dựa trên tính toán.
14
Kết quả cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 2 là 0,429. Điều này cho thấy
sự tương thích của mô hình với biến kiểm soát là hợp lý. Như vậy các biến độc lập có ý
nghĩa cùng các biến kiểm soát có ý nghĩa giải thích được 42,9% sự biến động của Cam kết
dựa trên tính toán.
So sánh mô hình 2 với mô hình 1 ta thấy các biến kiểm soát nếu đứng riêng giải thích
được 11,3% sự thay đổi của biến phụ thuộc, nếu kết hợp cùng với các biến độc lập thì giải
thích được 42,9% của biến phụ thuộc. Điều này cho thấy các biến độc lập được đưa vào
mô hình nghiên cứu là có ý nghĩa và giúp giải thích thêm 31,6% sự thay đổi của Cam kết
dựa trên tính toán. Thêm vào đó giá trị Fchange là 113,312 có sig = 0,000. Như vậy việc
thêm các biến độc lập vào mô hình hai là có ý nghĩa.
Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Kết quả kiểm định F của mô hình 2 cho thấy giá trị F = 52,247, giá trị sig = 0,000.
Như vậy, mối quan hệ này đảm bảo độ tin cậy với mức độ cho phép là 5%. Do đó, có thể
kết luận các biến độc lập và kiểm soát có tác động đến Cam kết dựa trên tính toán và mô
hình hồi quy tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến của mô hình 2 cho thấy hệ số phóng đại
phương sai VIF của các biến kiểm soát và độc lập được đưa vào phân tích ở mô hình này
đều có giá trị < 2. Như vậy tính đa cộng tuyến của các biến kiểm soát không đáng kể và các
biến trong mô hình được chấp nhận.
Kết quả phân tích hồi quy cũng cho thấy:
- Giá trị sig của Phong cách lãnh đạo< 0,05 do đó có thể chấp nhận giả thuyết H5. Như
vậy có thể khẳng định Phong cách lãnh đạo có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên
tính toán.
- Giá trị sig của nhân tố Môi trường làm việc < 0,05 do đó có thể chấp nhận giả thuyết
H6. Như vậy có thể khẳng định rằng Môi trường làm việc tác động thuận chiều tới cam kết
dựa trên tính toán.
- Giá trị sig của nhân tố Sự hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng < 0,05 do đó có
thể khẳng định giả thuyết H7. Như vậy có thể khẳng định rằng Sự hài lòng với chế độ chi
trả lương/thưởng có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên tính toán.
- Giá trị sig của nhân tố Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức < 0,05 do đó có thể chấp
nhận giả thuyết H8. Do đó có thể kết luận rằng Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức có tác
động thuận chiều tới Cam kết dựa trên tính toán.
Mối quan hệ giữa biến phụ thuộc thứ hai và các biến độc lập được thể hiện trong
phương trình hồi quy tuyến tính sau:
CC = 1,147 + 0,055TN - 0,178GI - 0,115CV2 + 0,200KN1 – 0,239KN2 + 0,132LS +
0,112WE + 0,141PS + 0,239POF
CC: Cam kết dựa trên tính toán; TN: Thu nhập; GI: Giới; CV2: Chức vụ 2; KN1: Kinh
nghiệm 1; KN2: Kinh nghiệm 2; LS: Phong cách lãnh đạo; WE: Môi trường làm việc; PS:
Sự hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng; POF: Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức.
Phương trình hồi quy cho thấy các hệ số Beta chuẩn hóa của các biến độc lập đều > 0
cho thấy các biến độc lập tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên tính toán. Như vậy theo
phương trình trên thì khi 1 đơn vị Cam kết dựa trên tính toán tăng lên thì theo đó phải có sự
cộng hưởng dương của 0,132 Phong cách lãnh đạo, 0,112 Môi trường làm việc, 0,141 Sự
hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng, 0,239 Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức.
Đánh giá độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội thứ nhất là mô hình gồm tất
cả các biến kiểm soát tác động tới Cam kết dựa trên chuẩn mực.
Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh là 0,057. Điều này cho thấy sự
tương thích của mô hình với biến kiểm soát là hợp lý. Như vậy các biến kiểm soát có ý
15
nghĩa giải thích được 5,7% sự biến động của Cam kết dựa trên chuẩn mực.
Kết quả kiểm định F cho thấy giá trị F = 7,165, giá trị sig = 0,000. Như vậy, mối quan
hệ này đảm bảo độ tin cậy với mức độ cho phép là 5%. Do đó, có thể kết luận các biến kiểm
soát có tác động đến Cam kết dựa trên chuẩn mực và mô hình hồi quy tuyến tính bội phù
hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến cho thấy hệ số phóng đại phương sai VIF
của các biến kiểm soát được đưa vào phân tích ở mô hình thứ nhất đều có giá trị < 2. Như
vậy tính đa cộng tuyến của các biến kiểm soát không đáng kể và các biến trong mô hình
được chấp nhận.
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy bốn biến kiểm soát thu nhập, giới, chức vụ, kinh
nghiệm ảnh hưởng đến Cam kết dựa trên chuẩn mực vì có giá trị Sig < 0,05. Biến kiểm soát
tuổi không tác động tới Cam kết dựa trên chuẩn mực.
Đánh giá độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội thứ hai là mô hình bao gồm các
biến độc lập, các biến kiểm soát tác động tới Cam kết dựa trên chuẩn mực
Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 2 là 0,472. Điều
này cho thấy sự tương thích của mô hình với biến kiểm soát là hợp lý. Như vậy các biến độc
lập có ý nghĩa cùng các biến kiểm soát có ý nghĩa giải thích được 47,2% sự biến động của
Cam kết dựa trên chuẩn mực.
So sánh mô hình 2 với mô hình 1 ta thấy các biến kiểm soát nếu đứng riêng giải thích
được 5,7% sự thay đổi của biến phụ thuộc, nếu kết hợp cùng với các biến độc lập thì giải
thích được 47,2% của biến phụ thuộc. Điều này cho thấy các biến độc lập được đưa vào
mô hình nghiên cứu là có ý nghĩa và giúp giải thích thêm 41,5% sự thay đổi của Cam kết
dựa trên chuẩn mực. Thêm vào đó giá trị Fchange là 159,768 có sig = 0,000. Như vậy việc
thêm các biến độc lập vào mô hình hai là có ý nghĩa.
Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Kết quả kiểm định F của mô hình 2 cho thấy giá trị F = 61,783, giá trị sig = 0,000.
Như vậy, mối quan hệ này đảm bảo độ tin cậy với mức độ cho phép là 5%. Do đó, có thể
kết luận các biến độc lập và kiểm soát có tác động đến Cam kết dựa trên chuẩn mực và mô
hình hồi quy tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến của mô hình 2 cho thấy hệ số phóng đại
phương sai VIF của các biến kiểm soát và độc lập được đưa vào phân tích ở mô hình này
đều có giá trị < 2. Như vậy tính đa cộng tuyến của các biến kiểm soát không đáng kể và các
biến trong mô hình được chấp nhận.
Kết quả phân tích hồi quy cũng cho thấy:
- Giá trị sig của Phong cách lãnh đạo < 0,05 do đó có thể chấp nhận giả thuyết H9.
Như vậy có thể khẳng định Phong cách lãnh đạo có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa
trên chuẩn mực.
- Giá trị sig của nhân tố Môi trường làm việc < 0,05 do đó có thể chấp nhận giả thuyết
H10. Như vậy có thể khẳng định rằng Môi trường làm việc tác động thuận chiều tới Cam
kết dựa trên chuẩn mực.
- Giá trị sig của nhân tố Sự hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng < 0,05 do đó có
thể khẳng định giả thuyết H11. Như vậy có thể khẳng định rằng Sự hài lòng với chế độ chi
trả lương/thưởng có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên chuẩn mực.
- Giá trị sig của nhân tố Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức < 0,05 do đó có thể chấp
nhận giả thuyết H12. Do đó có thể kết luận rằng Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức có tác
động thuận chiều tới Cam kết dựa trên chuẩn mực.
Mối quan hệ giữa biến phụ thuộc thứ ba và các biến độc lập được thể hiện trong
phương trình hồi quy tuyến tính sau:
16
NC = 0,107TN + 0,120GI -0,851T1 -0,544T2 + 0,255LS + 0,097WE + 0,396PS +
0,125POF
NC: Cam kết dựa trên chuẩn mực; TN: Thu nhập; GI: Giới; T1: Tuổi 1; T2 Tuổi 2; LS:
Phong cách lãnh đạo; WE: Môi trường làm việc; PS: Sự hài lòng với chế độ chi trả
lương/thưởng; POF: Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức.
Phương trình hồi quy cho thấy các hệ số Beta chuẩn hóa của các biến độc lập đều > 0
cho thấy các biến độc lập tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên chuẩn mực. Như vậy
theo phương trình trên thì khi 1 đơn vị Cam kết dựa trên tính toán tăng lên thì theo đó phải
có sự cộng hưởng dương của 0,255 Phong cách lãnh đạo, 0,097 Môi trường làm việc, 0,396
Sự hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng, 0,125 Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức.
Đánh giá độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội thứ hai là mô hình bao gồm các
biến độc lập, các biến kiểm soát tác động tới Cam kết dựa trên chuẩn mực
Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 2 là 0,472. Điều
này cho thấy sự tương thích của mô hình với biến kiểm soát là hợp lý. Như vậy các biến độc
lập có ý nghĩa cùng các biến kiểm soát có ý nghĩa giải thích được 47,2% sự biến động của
Cam kết dựa trên chuẩn mực.
So sánh mô hình 2 với mô hình 1 ta thấy các biến kiểm soát nếu đứng riêng giải thích
được 5,7% sự thay đổi của biến phụ thuộc, nếu kết hợp cùng với các biến độc lập thì giải
thích được 47,2% của biến phụ thuộc. Điều này cho thấy các biến độc lập được đưa vào
mô hình nghiên cứu là có ý nghĩa và giúp giải thích thêm 41,5% sự thay đổi của Cam kết
dựa trên chuẩn mực. Thêm vào đó giá trị Fchange là 159,768 có sig = 0,000. Như vậy việc
thêm các biến độc lập vào mô hình hai là có ý nghĩa.
Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Kết quả kiểm định F của mô hình 2 cho thấy giá trị F = 61,783, giá trị sig = 0,000.
Như vậy, mối quan hệ này đảm bảo độ tin cậy với mức độ cho phép là 5%. Do đó, có thể
kết luận các biến độc lập và kiểm soát có tác động đến Cam kết dựa trên chuẩn mực và mô
hình hồi quy tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến của mô hình 2 cho thấy hệ số phóng đại
phương sai VIF của các biến kiểm soát và độc lập được đưa vào phân tích ở mô hình này
đều có giá trị < 2. Như vậy tính đa cộng tuyến của các biến kiểm soát không đáng kể và các
biến trong mô hình được chấp nhận.
Kết quả phân tích hồi quy cũng cho thấy:
- Giá trị sig của Phong cách lãnh đạo < 0,05 do đó có thể chấp nhận giả thuyết H9.
Như vậy có thể khẳng định Phong cách lãnh đạo có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa
trên chuẩn mực.
- Giá trị sig của nhân tố Môi trường làm việc < 0,05 do đó có thể chấp nhận giả thuyết
H10. Như vậy có thể khẳng định rằng Môi trường làm việc tác động thuận chiều tới Cam
kết dựa trên chuẩn mực.
- Giá trị sig của nhân tố Sự hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng < 0,05 do đó có
thể khẳng định giả thuyết H11. Như vậy có thể khẳng định rằng Sự hài lòng với chế độ chi
trả lương/thưởng có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên chuẩn mực.
- Giá trị sig của nhân tố Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức < 0,05 do đó có thể chấp
nhận giả thuyết H12. Do đó có thể kết luận rằng Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức có tác
động thuận chiều tới Cam kết dựa trên chuẩn mực.
Mối quan hệ giữa biến phụ thuộc thứ ba và các biến độc lập được thể hiện trong
phương trình hồi quy tuyến tính sau:
NC = 0,107TN + 0,120GI -0,851T1 -0,544T2 + 0,255LS + 0,097WE + 0,396PS +
0,125POF
17
NC: Cam kết dựa trên chuẩn mực; TN: Thu nhập; GI: Giới; T1: Tuổi 1; T2 Tuổi 2; LS:
Phong cách lãnh đạo; WE: Môi trường làm việc; PS: Sự hài lòng với chế độ chi trả
lương/thưởng; POF: Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức.
Phương trình hồi quy cho thấy các hệ số Beta chuẩn hóa của các biến độc lập đều > 0
cho thấy các biến độc lập tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên chuẩn mực. Như vậy
theo phương trình trên thì khi 1 đơn vị Cam kết dựa trên tính toán tăng lên thì theo đó phải
có sự cộng hưởng dương của 0,255 Phong cách lãnh đạo, 0,097 Môi trường làm việc, 0,396
Sự hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng, 0,125 Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức.
Đánh giá độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội thứ nhất là mô hình gồm tất
cả các biến kiểm soát tác động tới Cam kết tổ chức.
Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh là 0,179. Điều này cho thấy sự
tương thích của mô hình với biến kiểm soát là hợp lý. Như vậy các biến kiểm soát có ý
nghĩa giải thích được 17,9% sự biến động của Cam kết tổ chức.
Kết quả kiểm định F cho thấy giá trị F = 23.275, giá trị sig = 0,000. Như vậy, mối
quan hệ này đảm bảo độ tin cậy với mức độ cho phép là 5%. Do đó, có thể kết luận các biến
kiểm soát có tác động đến Cam kết tổ chức và mô hình hồi quy tuyến tính bội phù hợp với
tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến cho thấy hệ số phóng đại phương sai VIF
của các biến kiểm soát được đưa vào phân tích ở mô hình thứ nhất đều có giá trị < 2. Như
vậy tính đa cộng tuyến của các biến kiểm soát không đáng kể và các biến trong mô hình
được chấp nhận.
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy ba biến kiểm soát giới, chức vụ, kinh nghiệm ảnh
hưởng đến Cam kết tổ chức vì có giá trị Sig < 0,05. Biến kiểm soát thu nhập và tuổi không
tác động tới Cam kết tổ chức.
Đánh giá độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội thứ hai là mô hình bao gồm
các biến độc lập, các biến kiểm soát tác động tới Cam kết tổ chức.
Kết quả phân tích cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 2 là 0,714. Điều
này cho thấy sự tương thích của mô hình với biến kiểm soát là hợp lý. Như vậy các biến độc
lập có ý nghĩa cùng các biến kiểm soát có ý nghĩa giải thích được 71,4% sự biến động của
Cam kết tổ chức.
So sánh mô hình 2 với mô hình 1 ta thấy các biến kiểm soát nếu đứng riêng giải thích
được 17,9% sự thay đổi của biến phụ thuộc, nếu kết hợp cùng với các biến độc lập thì giải
thích được 71,4% của biến phụ thuộc. Điều này cho thấy các biến độc lập được đưa vào mô
hình nghiên cứu là có ý nghĩa và giúp giải thích thêm 53,5% sự thay đổi của Cam kết tổ
chức. Như vậy việc thêm các biến độc lập vào mô hình hai là có ý nghĩa.
Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Kết quả kiểm định F của mô hình 2 cho thấy giá trị F = 171,123, giá trị sig = 0,000.
Như vậy, mối quan hệ này đảm bảo độ tin cậy với mức độ cho phép là 5%. Do đó, có thể
kết luận các biến độc lập và kiểm soát có tác động đến Cam kết tổ chức và mô hình hồi quy
tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến của mô hình 2 cho thấy hệ số phóng đại
phương sai VIF của các biến kiểm soát và độc lập được đưa vào phân tích ở mô hình này
đều có giá trị < 2. Như vậy tính đa cộng tuyến của các biến kiểm soát không đáng kể và các
biến trong mô hình được chấp nhận.
Kết quả phân tích hồi quy cũng cho thấy:
- Giá trị sig của Phong cách lãnh đạo < 0,05 do đó có thể chấp nhận giả thuyết H16.
Như vậy có thể khẳng định Phong cách lãnh đạo có tác động thuận chiều tới Cam kết tổ
chức.
18
- Giá trị sig của nhân tố Môi trường làm việc < 0,05 do đó có thể chấp nhận giả thuyết
H17. Như vậy có thể khẳng định rằng Môi trường làm việc tác động thuận chiều tới Cam
kết tổ chức.
- Giá trị sig của nhân tố Sự hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng < 0,05 do đó có
thể khẳng định giả thuyết H18. Như vậy có thể khẳng định rằng Sự hài lòng với chế độ chi
trả lương/thưởng có tác động thuận chiều tới Cam kết tổ chức.
- Giá trị sig của nhân tố Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức < 0,05 do đó có thể chấp
nhận giả thuyết H19. Do đó có thể kết luận rằng Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức có tác
động thuận chiều tới Cam kết tổ chức.
Mối quan hệ giữa biến phụ thuộc thứ hai và các biến độc lập được thể hiện trong
phương trình hồi quy tuyến tính sau:
OC = 0,110TN - 0,323T1 - 0,269T2 + 0,081CV1 – 0.055KN1 -0,131KN2 + 0,367 LS
+ 0,094 WE + 0,355 PS + 0,173 POF
OC: Cam kết tổ chức; TN: Thu nhập; T1: Tuổi 1; T2: Tuổi 2; CV1: Chức vụ 1; KN1:
Kinh nghiệm 1; KN2: Kinh nghiệm 2; LS: Phong cách lãnh đạo; WE: Môi trường làm việc;
PS: Sự hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng; POF: Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức.
Phương trình hồi quy cho thấy các hệ số Beta chuẩn hóa của các biến độc lập đều > 0
cho thấy các biến độc lập tác động thuận chiều tới Cam kết tổ chức. Như vậy theo phương
trình trên thì khi 1 đơn vị Cam kết tổ chức tăng lên thì theo đó phải có sự cộng hưởng dương
của 0,367 Phong cách lãnh đạo, 0,094 Môi trường làm việc, 0,355 Sự hài lòng với chế độ
chi trả lương/thưởng, và 0,173 Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức.
Kiểm định giả thuyết và phân tích hồi quy của nghiên cứu hệ quả Cam kết tổ chức – Ý
định rời bỏ tổ chức
Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình là 0,421. Điều
này cho thấy sự tương thích của mô hình với biến kiểm soát là hợp lý. Như vậy các biến độc
lập có ý nghĩa giải thích được 42,1% sự biến động của Ý định rời bỏ tổ chức.
Kết quả kiểm định F của mô hình được thể hiện trong Bảng 4.26 cho thấy giá trị F =
199,396, giá trị sig = 0,000. Như vậy, mối quan hệ này đảm bảo độ tin cậy với mức độ cho
phép là 5%. Do đó, có thể kết luận các biến độc lập có tác động đến Ý định rời bỏ tổ chức
và mô hình hồi quy tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến của mô hình cho thấy hệ số phóng đại
phương sai VIF của các biến độc lập được đưa vào phân tích ở mô hình này đều có giá trị <
2. Như vậy tính đa cộng tuyến của các biến độc lập không đáng kể và các biến trong mô
hình được chấp nhận.
Kết quả phân tích hồi quy cũng cho thấy:
- Giá trị sig của nhân tố Cam kết dựa trên cảm xúc < 0,05 do đó có thể chấp nhận giả
thuyết H13. Như vậy có thể khẳng định Cam kết dựa trên cảm xúc có tác động ngược chiều
tới Ý định rời bỏ tổ chức.
- Giá trị sig của nhân tố Cam kết dựa trên tính toán < 0,05 do đó có thể chấp nhận giả
thuyết H14. Như vậy có thể khẳng định rằng Cam kết dựa trên tính toán có tác động ngược
chiều tới Ý định rời bỏ tổ chức.
- Giá trị sig của nhân tố Cam kết dựa trên chuẩn mực > 0,05 do đó có thể bác bỏ giả
thuyết H15. Như vậy chưa có cơ sở để khẳng định rằng Cam kết dựa trên chuẩn mực có tác
động ngược chiều tới Ý định rời bỏ tổ chức.
Mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập được thể hiện trong phương trình
hồi quy tuyến tính sau:
TI = 6,476 - 0,443AC - 0,748CC
TI: Ý định rời bỏ tổ chức; AC: Cam kết dựa trên cảm xúc; CC: Cam kết dựa trên tính
19
toán.
Phương trình hồi quy cho thấy các hệ số Beta chuẩn hóa của các biến độc lập đều < 0
cho thấy các biến độc lập tác động ngược chiều tới Ý định rời bỏ tổ chức. Như vậy theo
phương trình trên thì khi 1 đơn vị Ý định rời bỏ tổ chức tăng lên thì theo đó phải có sự cộng
hưởng âm của 0,443 Cam kết dựa trên cảm xúc và 0,748 Cam kết dựa trên tính toán.
Kết quả trên đây đã trả lời cho câu hỏi nghiên cứu về mối quan hệ giữa Cam kết tổ
chức và Ý định rời bỏ tổ chức, chiều hướng và mức độ tác động. Kết quả khẳng định trong 3
thành phần về Cam kết tổ chức được nghiên cứu thì Cam kết dựa trên cảm xúc và Cam kết
dựa trên tính toán được khẳng định là tác động ngược chiều tới Ý định rời bỏ tổ chức.
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Kết quả nghiên cứu xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến cam kết tổ chức như
sau:
- Phong cách lãnh đạo; Sự hài lòng về mức độ chi trả lương/thưởng; và Sự phù hợp
giữa cá nhân với tổ chức có tác động tới Cam kết dựa trên cảm xúc. Môi trường làm việc
không tác động tới Cam kết dựa trên cảm xúc.
- Phong cách lãnh đạo; Môi trường làm việc; Sự hài lòng về mức độ chi trả
lương/thưởng; và Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức đều tác động tới Cam kết dựa trên
tính toán.
- Phong cách lãnh đạo; Môi trường làm việc, Sự hài lòng về mức độ chi trả
lương/thưởng; và Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức có tác động tới Cam kết dựa trên
chuẩn mực.
- Trong mô hình hệ quả, các biến độc lập được xem xét là Cam kết dựa trên cảm xúc,
Cam kết dựa trên tính toán, Cam kết dựa trên chuẩn mực. Biến phụ thuộc trong mô hình này
là Ý định rời bỏ tổ chức. Kết quả nghiên cứu của mô hình hệ quả như sau:
- Cam kết dựa trên cảm xúc và Cam kết dựa trên tính toán có tác động tới Ý định rời
bỏ tổ chức.
(2) Kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu như sau:
- Giả thuyết nghiên cứu thứ nhất (H1) được chấp nhận khẳng định Phong cách lãnh
đạo có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên cảm xúc.
- Giả thuyết thứ hai (H2) bị bác bỏ như vậy chưa có cơ sở để khẳng định Môi trường
làm việc tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên cảm xúc.
- Giả thuyết thứ ba (H3) được chấp nhận khẳng định Sự hài lòng với chế độ chi trả
lương/thưởng có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên cảm xúc.
- Giả thuyết thứ tư (H4) được chấp nhận khẳng định Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ
chức có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên cảm xúc.
- Giả thuyết thứ năm (H5) được chấp nhận khẳng định Phong cách lãnh đạo có tác
động thuận chiều tới Cam kết dựa trên tính toán.
- Giả thuyết thứ sáu (H6) được chấp nhận khẳng định Môi trường làm việc có tác động
thuận chiều tới Cam kết dựa trên tính toán.
- Giả thuyết thứ bảy (H7) được chấp nhận khẳng định Sự hài lòng với chế độ chi trả
lương/thưởng có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên tính toán.
- Giả thuyết thứ tám (H8) được chấp nhận khẳng định Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ
chức có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên tính toán.
- Giả thuyết nghiên cứu thứ chín (H9) được chấp nhận khẳng định Phong cách lãnh
đạo có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên chuẩn mực.
- Giả thuyết thứ mười (H10) được chấp nhận khẳng định Môi trường làm việc tác động
20
thuận chiều tới Cam kết dựa trên chuẩn mực.
- Giả thuyết thứ mười một (H11) được chấp nhận khẳng định Sự hài lòng với chế độ
chi trả lương/thưởng có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên chuẩn mực.
- Giả thuyết thứ mười hai (H12) được chấp nhận khẳng định Sự phù hợp giữa cá nhân
với tổ chức có tác động thuận chiều tới Cam kết dựa trên tính toán.
- Giả thuyết thứ mười ba (H13) được chấp nhận khẳng định Cam kết dựa trên cảm xúc
có tác động ngược chiều tới Ý định rời bỏ tổ chức
- Giả thuyết thứ mười bốn (H14) được chấp nhận khẳng định Cam kết dựa trên tính
toán có tác động ngược chiều tới ý định rời bỏ tổ chức
- Giả thuyết thứ mười lăm (H15) bị bác bỏ như vậy chưa có cơ sở để khẳng định Cam
kết dựa trên chuẩn mực có tác động ngược chiều tới Ý định rời bỏ tổ chức.
- Giả thuyết thứ mười sáu (H16) được chấp nhận khẳng định Phong cách lãnh đạo tác
động thuận chiều đến Cam kết tổ chức.
- Giả thuyết thứ mười bảy (H17) được chấp nhận khẳng định Môi trường làm việc tác
động thuận chiều đến Cam kết tổ chức.
- Giả thuyết thứ mười tám (H18) được chấp nhận khẳng định Sự hài lòng với chế độ
chi trả lương/thưởng tác động thuận chiều đến Cam kết tổ chức.
- Giả thuyết thứ mười chín (H19) được chấp nhận khẳng định Sự phù hợp giữa cá nhân
với tổ chức tác động thuận chiều đến Cam kết tổ chức.
(3) Chiều hướng tác động của các nhân tố nghiên cứu tới Cam kết tổ chức đều là thuận
chiều do các hệ số β của các biến độc lập trong phương trình hồi quy đều có giá trị > 0. Như
vậy khi các nhân tố này tăng lên thì cam kết của nhân viên với tổ chức càng tăng lên.
Đối với biến phụ thuộc Cam kết dựa trên cảm xúc thì Phong cách lãnh đạo tác động
nhiều nhất và Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức tác động nhỏ nhất. Đối với biến phụ
thuộc Cam kết dựa trên tính toán thì cả bốn biến độc lập có mức độ tác động tương đối đồng
đều trong đó có Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức tác động lớn hơn cả. Đối với biến phụ
thuộc Cam kết dựa trên chuẩn mực thì Sự hài lòng với chế độ chi trả lương/thưởng tác động
lớn nhất và Môi trường làm việc tác động nhỏ hơn cả.
Kết quả nghiên cứu tác động của Cam kết tổ chức tới Ý định rời bỏ tổ chức khẳng định
trong 3 nhân tố về Cam kết tổ chức được nghiên cứu, Cam kết dựa trên cảm xúc và Cam kết
dựa trên tính toán được khẳng định là tác động ngược chiều tới Ý định rời bỏ tổ chức với
mức độ ảnh hưởng của Cam kết dựa trên tính toán là lớn hơn.
(4) Khi so sánh Cam kết tổ chức giữa các nhóm khác nhau trong cùng một biến kiểm soát
bằng hồi quy và kiểm định nhóm, luận án đưa ra kết luận sau đây:
- Hồi quy với biến giả dummy giữa biến kiểm soát Giới tính và biến phụ thuộc Cam
kết tổ chức cho kết luận có sự khác biệt về Cam kết dựa trên cảm xúc, Cam kết dựa trên tính
toán và Cam kết dựa trên chuẩn mực giữa nhóm Nam và nhóm Nữ của biến kiểm soát Giới
tính.
- Kiểm định Anova giữa biến kiểm soát Thu nhập và biến phụ thuộc Cam kết tổ chức
cho kết luận là có sự khác biệt về phương sai giữa các nhóm thu nhập được nghiên cứu do
đó không thể sử dụng kết quả phân tích Anova.
- Kiểm định Anova giữa biến kiểm soát Tuổi và biến phụ thuộc Cam kết tổ chức cho
kết luận là có sự khác biệt về phương sai giữa các nhóm tuổi được nghiên cứu do đó không
thể sử dụng kết quả phân tích Anova.
- Kiểm định Anova giữa biến kiểm soát chức vụ và biến phụ thuộc Cam kết tổ chức
cho kết quả có sự khác biệt giữa trung bình Cam kết dựa trên cảm xúc giữa các nhóm khác
nhau về chức vụ. Giá trị trung bình Cam kết dựa trên cảm xúc của nhóm nhân viên là
4.0380, Nhóm quản lý cấp trung là 3.8014, của nhóm lãnh đạo là 3.2947. Về kết quả so sánh
21
nhóm chức vụ tác động tới biến Cam kết dựa trên tính toán cũng thấy sự khác biệt về trung
bình giữa các nhóm. Giá trị trung bình Cam kết dựa trên tính toán của nhóm nhân viên là
3.2852, Nhóm quản lý cấp trung là 3.0341, của nhóm lãnh đạo là 2.8705. Riêng đối với
Cam kết dựa trên chuẩn mực cho thấy có sự khác biệt về phương sai giữa các nhóm chức
vụ. Như vậy không thỏa mãn giả định của kiểm định One way Anova do đó không thể kết
luận có sự khác nhau về Cam kết dựa trên chuẩn mực giữa các nhóm của biến kiểm soát
chức vụ.
- Kiểm định Anova giữa biến kiểm soát kinh nghiệm và biến phụ thuộc Cam kết tổ
chức cho kết luận là có sự khác biệt về phương sai giữa các nhóm kinh nghiệm được nghiên
cứu do đó không thể sử dụng kết quả phân tích Anova.
5.2. Một số đề xuất và kiến nghị
5.2.1. Một số đề xuất cho các nhà quản trị
(i) Để tăng cường cam kết dựa trên cảm xúc của nhân viên với tổ chức, các nhà
quản trị cần:
- Có chính sách lương thưởng phù hợp để khuyến khích và tạo động lực cho nhân
viên; tạo cho nhân viên cảm giác yên tâm về các chế độ lương thưởng và phúc lợi để có
những gắn kết và đóng góp cho công ty. Tiền lương luôn được coi là một trong những vấn
đề quan trọng để thu hút và giữ được nhân tài. Mức lương cũng có thể là thước đo về giá trị
của nhân viên trên thị trường. Tiền lương có thể ảnh hưởng đến hành vi và nó đóng một vai
trò quan trọng trong quá trình thực hiện công tác nhân sự. Tuy nhiên, không hẳn là lương
cao, hấp dẫn mới khuyến khích được nhân viên; sự hài lòng với mức độ chi trả
lương/thưởng ở đây chính là sự hài lòng với một chế độ chi trả minh bạch, đúng cam kết về
thời điểm chi trả, công bằng về chế độ, về cơ sở thanh toán với tất cả mọi người, một chế độ
phúc lợi phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp nhưng rõ ràng và chuẩn mực thì người lao
động sẽ có niềm tin vào doanh nghiệp và sẽ gắn bó với doanh nghiệp. Trên thực tế, bản thân
lương không phải là yếu tố then chốt và là yếu tốt tiên quyết giữ chân được nhân viên. Trả
lương thấp đồng nghĩa với việc tiễn nhân viên ra khỏi tổ chức nhưng không nhất thiết phải
trả lương cao để giữ chân họ. Doanh nghiệp cần chú trọng các giá trị khác cao hơn mà công
việc đó tạo ra để hỗ trợ cuộc sống của nhân viên như các sáng kiến về cân bằng cuộc sống -
công việc và các cách sắp xếp công việc linh hoạt cũng đóng vai trò quan trọng không kém.
Đó là những lợi ích ngoài lương, những phần thưởng tinh thần và chúng đóng vai trò quan
trọng góp phần tạo nên sự hài lòng với tiền lương. Khen thưởng cũng là một trong những
yếu tố thuộc chế độ lương/thưởng. Nhân viên có xu hướng ở lại với tổ chức khi họ cảm thấy
khả năng của mình, nỗ lực và sự đóng góp của họ được công nhận và đánh giá cao. Nhân
viên sẽ ở lại nếu họ được khen thưởng và ghi nhận kịp thời và đúng cách. Khen thưởng ở
đây không hẳn là ý nghĩa vật chất, bởi với quy mô và điều kiện của doanh nghiệp vừa và
nhỏ, rất khó cho doanh nghiệp để xây dựng một quỹ khen thưởng như các doanh nghiệp lớn
khác có nguồn vốn ổn định hơn. Khen thưởng ở đây là mang yếu tố tinh thần. Nhân viên
cần được khen thưởng kịp thời ngay khi có sáng kiến nào đó hoặc khi thực thi tốt/xuất sắc
một nhiệm vụ được giao. Khen thưởng kịp thời là quan trọng song cũng cần yếu tố nữa là
khen đúng cách trên các kênh thông tin phù hợp. Doanh nghiệp cần truyền thông kịp thời và
hiệu quả để làm nổi bật những tấm gương nhân viên suất sắc. Ngoài tác dụng khuyến khích,
động viên nhân viên, đây cũng là giải pháp gia tăng tỷ lệ quy hồi vốn của các khoản đầu tư
cho nguồn vốn con người của tổ chức đó. Nếu không làm được như vậy sẽ dẫn đến tình
trạng hiệu suất làm việc của nhân viên suy giảm hoặc nhân viên chủ chốt sẽ rời bỏ tổ chức.
Khen thưởng nếu được thực hiện tốt sẽ trợ giúp cho công tác quản lý nhân tài. Và đây chính
là cách để tăng cường cam kết dựa trên tình cảm của nhân viên với tổ chức.
- Doanh nghiệp cần có những phương thức chuyển tải định hướng phát triển của công
22
ty tới người lao động một cách minh bạch và tại những thời điểm phù hợp để người lao
động hiểu rõ được định hướng phát triển của công ty và xây dựng được định hướng phát
triển cho bản thân tại tổ chức đó. Mục tiêu phát triển nghề nghiệp của nhân viên gắn liền với
mục tiêu phát triển của doanh nghiệp thì người lao động sẽ gắn kết hơn với tổ chức. Đây
chính là yếu tạo nên sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức. Nó còn thể hiện ở niềm tin của cá
nhân với tổ chức. Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức chính là tinh thần sẵn sàng hợp tác
và sự cam kết của một cá nhân trong một tổ chức. Sự phù hợp này cần được xem xét ngay
từ lúc đánh giá đầu tiên trong quá trình tuyển dụng và lựa chọn nhân sự. Doanh nghiệp cần
xem xét sự phù hợp giữa con người với công việc, thể hiện ở việc xem xét trình độ, bằng
cấp và đánh giá các kiến thức, kĩ năng hoặc khả năng, và nhận diện các đặc điểm của cá
nhân ứng viên xem các yếu tố đó có phù hợp với vị trí công việc sẽ được tuyển dụng hay
không. Đặc biệt trong ngành dịch vụ, cam kết thể hiện ngay ở thái độ phục vụ. Nó quyết
định đến chất lượng cung cấp dịch vụ của nhân viên. Thái độ công việc là vô cùng quan
trọng. Nếu người lao động thiếu kỹ năng, kinh nghiệm thì doanh nghiệp hoàn toàn có thể
đào tạo họ phát triển được, nhưng người nào có thái độ không phù hợp thì sẽ khó để tác
động họ thay đổi được thái độ và hành vi. Trong ngành dịch vụ, đa phần các vị trí cần người
lao động có đặc điểm là phải biết tương tác, có khả năng giao tiếp tốt và một thái độ ham
học hỏi, tích cực. Công tác tuyển chọn nhân viên cần phải xem xét đến tính phù hợp giữa
các giá trị của ứng viên với văn hóa của tổ chức. Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức có vai
trò quan trọng trong việc tạo nên sự hài lòng trong công việc của nhân viên. Vì vậy, những
người không phù hợp với công việc hoặc tổ chức thường có nhiều khả năng rời bỏ tổ chức
hơn những ai phù hợp khăng khít giữa con người và công việc, cá nhân và tổ chức. Các tổ
chức không nên chỉ điều hòa phù hợp giữa các yêu cầu công việc với kiến thức, kĩ năng và
năng lực của cá nhân mà còn nên cẩn trọng điều hòa cho phù hợp giữa các đặc điểm và giá
trị cá nhân với các giá trị và văn hóa của tổ chức. Hiện nay, vì mức độ phức tạp của công
việc ngày càng gia tăng, các tổ chức cần sử dụng nhiều phương pháp tuyển chọn khác nhau
để có thể nắm bắt được năng lực nào của ứng viên phù hợp với vị trí công việc. Việc chú
trọng tới sự phù hợp giữa cá nhân và tổ chức là một yếu tố khiến cho nhân viên luôn cảm
thấy họ thuộc về tổ chức này, tổ chức này thực sự có ý nghĩa đối với họ và từ đó họ gắn kết
hơn với tổ chức. Do đó, ngay từ khâu tuyển dụng, tuyển chọn, nhà quản trị cần phải chú
trọng tới yếu tố này để giúp sàng lọc những người có thái độ và mục tiêu phát triển phù hợp
với định hướng và đặc điểm của doanh nghiệp ngành dịch vụ.
- Doanh nghiệp cần chú trọng tới những chương trình đào tạo phù hợp nâng cao kỹ
năng quản lý cho các cán bộ quản lý cấp trung trở lên. Các cán bộ quản lý và lãnh đạo cần
nhận thức được vai trò của mình, có ý thức trở thành người biết truyền cảm hứng, biết dẫn
dắt nhân viên dưới quyền đạt được mục tiêu chung của tổ chức. Người quản lý cần tin tưởng
nhân viên, biết trao quyền cho nhân viên để nhân viên được chủ động trong công việc nhằm
thực thi công việc một cách hiệu quả nhất. Khi nhân viên được trao quyền, họ sẽ luôn cảm
thấy vấn đề của tổ chức này chính là vấn đề của họ, họ sẽ hành động có trách nhiệm hơn và
đây chính là tăng cường cam kết dựa trên tình cảm của nhân viên với tổ chức. Ngoài ra,
người lãnh đạo trong doanh nghiệp cần phải có tầm ảnh hưởng tới nhân viên và đặc biệt
phải đảm bảo sự thống nhất xuyên suốt trong cách ra quyết định của mình. Người lãnh đạo
như đầu tàu kéo toàn bộ các toa đi đúng đường ray và đạt tới đích một cách hiệu quả và an
toàn nhất. Người lãnh đạo cần thể hiện được rõ vai trò của một minh chủ, biết dẫn dắt toàn
bộ nhân viên và trao quyền cho nhân viên thực thi công việc trong phạm quyền hạn và trách
nhiệm của mình. Người lãnh đạo tôn trọng cảm xúc của mỗi cá nhân và hơn nữa phải luôn
biết phát triển tinh thần và thái độ làm việc nhóm cho nhân viên. Khi người lãnh đạo tạo
được sự ảnh hưởng tích cực tới các nhân viên, nó sẽ có ảnh hưởng tới các kết quả tổ chức,
23
cụ thể là ý định rời bỏ tổ chức giảm đi và hành vi tổ chức tăng lên và điều này dẫn đến sự
gắn bó với tổ chức chặt chẽ hơn. Do đó, có thể thấy rằng các hành vi lãnh đạo tác động theo
chiều hướng tích cực đến sự gắn bó của nhân viên với tổ chức và thay đổi các ý định rời bỏ
tổ chức. Đây chính là cách để tăng cường cam kết dựa trên tình cảm của nhân viên với tổ
chức.
(ii) Để tăng cường cam kết dựa trên tính toán và cam kết dựa trên chuẩn mực cho nhân
viên, các nhà quản trị cần chú trọng tới cả bốn nhân tố là Phong cách lãnh đạo; Sự hài lòng
về mức độ chi trả lương/thưởng; Sự phù hợp giữa cá nhân với tổ chức và Môi trường làm
việc.
- Tại Việt Nam, môi trường làm việc là một trong những yếu tố có ảnh hưởng quan
trọng và tích cực tới cam kết của nhân viên. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt
và với nội lực còn nhiều khó khăn (đặc biệt là vấn đề vốn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ),
doanh nghiệp cần chú trọng tới cạnh tranh bằng những yếu tố vô hình khác như môi trường
làm việc. Doanh nghiệp cần tạo nên một môi trường làm việc mà ở đó người lao động được
cảm thấy được tôn trọng và thoải mái nhất để phát huy năng lực của bản thân, đóng góp cho
sự phát triển của doanh nghiệp. Một môi trường lành mạnh và là nơi mà nhân viên có thể
chủ động thực hiện công việc bằng sự phán xét của cá nhân họ trong phạm vi quyền hạn của
họ sẽ thúc đẩy hiệu quả cao. Một môi trường làm việc lành mạnh, thân thiện, cân bằng,
trong đó mỗi nhân viên đều được đối xử tôn trọng, họ luôn cảm thấy mình chính là một
thành viên trong gia đình, họ sẽ có trách nhiệm đóng góp cho sự phát triển của doanh nghiệp
đó. Đó chính là cách tăng cường cam kết dựa trên tính toán và cam kết dựa trên chuẩn mực
của nhân viên với tổ chức. Nhân viên ở lại với tổ chức bởi vì họ được tham gia, được theo
đuổi những gì họ đam mê, được thử thách bởi chính công việc; đó là những cái khiến họ gắn
kết với tổ chức hơn.
- Ngoài ra, môi trường làm việc ở đây là cách doanh nghiệp nhìn nhận, đánh giá nhân
viên một cách công bằng và minh bạch. Khi người lao động được ghi nhận những đóng góp
và được đối xử đúng mức, công bằng, người lao động sẽ không muốn rời bỏ tổ chức đó, bởi
họ tìm thấy sự hài lòng trong công việc, những công sức họ bỏ ra là xứng đáng và đó chính
là gia tăng cam kết dựa trên tính toán của người lao động với tổ chức.
- Như đã phân tích ở trên, một doanh nghiệp có đội ngũ quản lý và lãnh đạo có tầm
nhìn, biết truyền cảm hứng cho những người khác bằng kế hoạch của họ trong tương lai và
dẫn dắt người khác bởi hành động chứ không phải lời nói, nhân viên sẽ có được niềm tin
vào tổ chức. Khi đó, mặc dù họ rất muốn rời bỏ tổ chức này nhưng họ sẽ thấy thực sự khó
khăn. Họ tự thấy cần phải có nghĩa vụ để duy trì công việc với tổ chức hiện tại. Họ tự cảm
nhận được rằng doanh nghiệp này xứng đáng với lòng trung thành của họ. Đây chính là cam
kết dựa trên tính toán và cam kết dựa trên chuẩn mực của nhân viên với tổ chức. Do đó,
doanh nghiệp cần thúc đẩy những phong cách lãnh đạo như thế.
- Khi doanh nghiệp có được chính sách lương thưởng và phúc lợi phù hợp, ổn định,
người lao động thấy được lợi ích của họ trong đó, đây chính là giải pháp tăng cường cam kết
dựa trên tính toán của nhân viên với tổ chức, đồng thời cũng tăng cường cam kết dựa trên
chuẩn mực của nhân viên với tổ chức bởi vì nhân viên cảm thấy họ đang nợ tổ chức một
điều gì đó, họ sẽ thấy khó khi rời bỏ tổ chức này bởi vì có thể doanh nghiệp khác không có
được sự ổn định và minh bạch về chế độ cũng như các chính sách khích lệ, động viên nhân
viên như ở tổ chức này.
- Bằng cách để cho nhân viên hiểu và nắm được những mục tiêu phát triển của mình,
doanh nghiệp cũng sẽ tạo ra sự gắn kết dựa trên tính toán và cam kế dựa trên chuẩn mực của
nhân viên với tổ chức. Cụ thể là khi đó, nhân viên sẽ nghĩ rằng chuẩn mực giá trị của họ phù
hợp với tổ chức này. Nhân viên sẽ thấy nếu họ rời bỏ tổ chức này họ sẽ có ít cơ hội nghề
24
nghiệp cho mình.
Tóm lại, với đặc điểm quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, đặc
biệt trong ngành dịch vụ, nguồn nhân lực đặc biệt là đội ngũ nhân tài đóng vai trò vô cùng
quan trọng đối với sự thành bại của tổ chức đó. Vì vậy, các doanh nghiệp cần tìm ra những
biện pháp phù hợp và hữu hiệu để thu hút, phát triển và giữ chân những người có tài năng
để đảm bảo sự duy trì và phát triển của mình. Có rất nhiều yếu tố tác động đến việc thu hút
và giữ chân người có tài năng, trong đó Phong cách lãnh đạo là một trong những yếu tố
quan trọng nhất. Ngoài ra, việc lựa chọn đúng người, bố trí đúng vị trí công việc đảm bảo sự
phù hợp giữa tổ chức và con người, giữa con người và công việc; có chế độ trả lương và
khen thưởng thích đáng với năng lực, trình độ và những đóng góp của cá nhân đối với tổ
chức; đào tạo, phát triển nghề nghiệp của các cá nhân trong tổ chức; và tạo cơ hội để mỗi cá
nhân, đặc biệt là những người có năng lực (người tài) được cơ hội thử sức mình với những
việc làm khó, đầy thách thức, v.v là những yếu tố quan trọng trong nhóm yếu tố nguồn
nhân lực mà các tổ chức cần quan tâm. Đồng thời, doanh nghiệp cần tạo ra một môi trường
làm việc phù hợp là những điều kiện cực kỳ quan trọng đối với việc thu hút, giữ chân những
người có tài năng mà các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý trong quá trình xây dựng và phát
triển.
5.3.2. Một số kiến nghị vĩ mô
- Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế, ngoài những
kì vọng đây sẽ là bước đệm giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ
hội thương mại và đầu tư cho các doanh nghiệp Việt Nam, sẽ có những thay đổi từ môi
trường bên ngoài và sẽ tác động không nhỏ tới nền kinh tế trong nước. Để giúp các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động và sản xuất kinh doanh ổn định,
trước hết, Chính phủ cần phải xây dựng khung pháp lý cho hoạt động đầu tư và sản xuất,
kinh doanh phù hợp với thông lệ quốc tế. Các giải pháp cho đề xuất này đó là Nhà nước cần
(i) thực hiện tốt các giải pháp hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp phát triển; (ii) đồng bộ và nhất quán các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, hiện thực hóa các chính sách bằng các chương trình hành động cụ thể; (iii) tăng
cường hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến doanh nghiệp với mục tiêu tạo
hành lang pháp lý minh bạch, thông thoáng cho doanh nghiệp phát triển. Tất cả những điều
này sẽ tạo môi trường kinh doanh minh bạch và thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư tham gia vào thị trường. Khi Doanh nghiệp phát triển ổn định
và bền vững thì sẽ giúp cho người lao động yên tâm làm việc và cống hiến hơn. Doanh
nghiệp có hướng đi rõ ràng, thể hiện định hướng cho xã hội, người lao động thấy những
hoạt động của doanh nghiệp có ý nghĩa với xã hội, đem lại những giá trị cho xã hội thì họ sẽ
tăng cường cam kết của họ và đây chính là cam kết dựa trên chuẩn mực và cam kết dựa trên
tình cảm.
- Bên cạnh những cơ hội và những thuận lợi như vậy, có không ít những khó khăn và
sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp trên thương trường. Do đó, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ cần phải chủ động tái cơ cấu hoạt động doanh nghiệp mình nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động, từng bước nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp; cụ thể như các doanh
nghiệp cần ưu tiên ổn định sản xuất, tập trung vào lĩnh vực chính, lĩnh vực cốt lõi và giảm
các hoạt động đầu tư đa ngành, tránh kiểu đầu tư dàn trải, tập trung phát triển chiến lược
trọng tâm, tránh kiểu “chiến lược quả mít” - thấy doanh nghiệp khác đầu tư gì cũng “bắt
chước” hoặc “thử nghiệm” theo. Khi các doanh nghiệp phát triển ổn định và bền vững và có
định hướng chiến lược rõ ràng, người lao động sẽ yên tâm và có những mục tiêu lâu dài gắn
kết với doanh nghiệp đó. Đây chính là vấn đề cốt lõi để thu hút và tăng cường cam kết dựa
trên tính toán và cam kết dựa trên chuẩn mực cho người lao động làm việc trong khối doanh
25
nghiệp vừa và nhỏ. Bản thân người lao động nhận thấy rằng định hướng phát triển của
doanh nghiệp phù hợp với mục tiêu phát triển của họ, những chi phí họ đã bỏ ra với doanh
nghiệp là có ý nghĩa và đem lại giá trị thì họ sẽ gắn kết hơn và cống hiến hơn cho doanh
nghiệp.
- Một trong những chính sách có tác động và ảnh hưởng lớn nữa đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đó là Luật Bảo hiểm xã hội. Chi phí đóng BHXH, BHYT, BHTN cho
người lao động chiếm một phần không nhỏ trong chi phí của doanh nghiệp, nó trở thành
gánh nặng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện tượng các Doanh nghiệp, đặc biệt các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chậm đóng hoặc không đóng bảo hiểm cho người lao động đã
ngày càng trở nên phổ biến hơn. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp tới người lao động, tới
quyền lợi của họ. Nhà nước cần có cơ chế và chính sách để giám sát chặt chẽ việc các doanh
nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho người lao động từ đó đảm bảo được lợi
ích và quyền lợi cho người lao động. Điều này không chỉ tốt cho người lao động mà còn tốt
cho chính doanh nghiệp khi tạo được niềm tin và hình ảnh với người lao động để giúp cho
người lao động thấy chế độ phúc lợi của họ ổn định, họ có lợi ích và họ sẽ gắn bó với doanh
nghiệp hơn. Đây chính là thúc đẩy cam kết dựa trên tính toán của người lao động.
- Hiện nay có rất nhiều chính sách của chính phủ khuyến khích phát triển các chương
trình khởi nghiệp. Đây là dấu hiệu tốt cho sự phát triển các ý tưởng sáng tạo, những phát
minh ứng dụng mang tính thực tiễn trong đời sống và thúc đẩy những nhà quản trị trẻ tài
năng. Tuy nhiên, số lượng những nhà quản trị tài năng tương lai sẽ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong
hàng trăm nghìn lao động khác. Không phải ai sinh ra cũng trở thành người lãnh đạo, người
quản lý. Ngoài việc đào tạo kiến thức, đào tạo về kỹ năng cho các sinh viên và người lao
động, Chính phủ và Doanh nghiệp cần có những chương trình đào tạo (có thể đưa vào các
chương trình giáo dục cấp đại học, hay đào tạo nghề, hoặc đào tạo tại chỗ ở các doanh
nghiệp) để xây dựng và phát triển nhân viên có ý thức trở thành một nhân viên tốt, nhân
viên giỏi, một kỹ sư lành nghề; cần đào tạo về thái độ trong công việc, thái độ gắn kết và
đóng góp cho công ty, một thái độ nghề nghiệp chuẩn mực. Đây là một khoảng trống lớn
trong công tác đào tạo nguồn nhân lực ở mọi cấp. Nhân viên cần được đào tạo ý thức biết
cống hiến hết mình, biết “cho đi” rồi mới “nhận”, biết “đừng hỏi tổ quốc làm gì cho ta” mà
hãy hành động và trả lời câu hỏi “ta sẽ làm gì cho tổ quốc”! Một nhân viên có thái độ tốt sẽ
đem lại những giá trị vô hình cho doanh nghiệp. Một trong những nhận định thực tế thấy
rằng một nhân viên có kinh nghiệm và trình độ kém một chút, người ta có thể đào tạo được,
nhưng một nhân viên có thái độ tồi thì rất khó để đào tạo họ thay đổi được hành vi. Khi
nhân viên được phát triển trở thành một nguồn lực quan trọng mang tính cốt lõi, góp phần
tạo ra giá trị cho tổ chức thì doanh nghiệp sẽ đạt được những mục tiêu của mình. Bản thân
người lao động cũng thấy họ là một phần không thể thiếu trong tổ chức đó, họ “nợ” tổ chức
đó bởi họ đã được đầu tư trở thành những nhân viên cốt lõi, những người thợ lành nghề.
Điều này sẽ thúc đẩy cam kết dựa trên tình cảm, cam kết dựa trên tính toán và cam kết dựa
trên chuẩn mực. Khuyến nghị này cũng rất phù hợp với doanh nghiệp ở quy mô vừa và nhỏ,
khi mà nguồn lực doanh nghiệp còn hạn chế thì việc đầu tư vào đào tạo thái độ nghề nghiệp
chuẩn mực cho nhân viên thông qua công việc, thông qua những hoạt động mang tính xây
dựng văn hóa doanh nghiệp thì sẽ giảm chi phí hơn là đầu tư vào trang thiết bị, cơ sở vật
chất hay một chế độ lương thưởng hấp dẫn để thu hút và giữ chân nhân viên.
- Hơn thế, trong ngành dịch vụ, cam kết của nhân viên đem lại sự phát triển ổn định
của doanh nghiệp. Việc nhân viên có cam kết thể hiện ở ngay thái độ phục vụ, mối quan hệ
với khách hàng trực tiếp và ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ của ngành. Những lợi ích
ngắn hạn mà doanh nghiệp được hưởng thể hiện ngay ở việc chất lượng cung cấp dịch vụ
của nhân viên. Đặc biệt trong quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc đầu tư để phát triển
26
cho nhân viên đem lại lợi ích trước mắt và lâu dài nhưng không tốn kém bằng những chi phí
để tuyển đi tuyển lại một nhân viên mới thay thế, chi phí về thời gian và công sức để tuyển
dụng, chưa kể là những chi phí khác mà doanh thu bị ảnh hưởng trong quá trình tuyển dụng
người thay thế.
5.3. Hạn chế của nghiên cứu và gợi ý cho nghiên cứu tiếp theo
5.3.1. Hạn chế của nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu mới chỉ được thực hiện tại Hà Nội. Một số vùng miền khác như
miền trung, miền nam với những văn hóa khác nhau thì nghiên cứu có thể sẽ có kết quả
khác biệt, những nhân tố tác động tới cam kết của nhân viên có thể sẽ khác nhau và mức độ
tác động cũng có thể khác nhau. Đây sẽ mở ra một hướng nghiên cứu mới trong tương lai.
- Dịch vụ là một ngành rộng, nghiên cứu chưa đi sâu vào từng ngành dịch vụ để có
thêm được những nhận định về các yếu tố tác động tới ba thành tố cam kết ở từng ngành
như thế nào. Nghiên cứu này chưa đủ độ sâu để kiến nghị theo từng ngành.
5.3.2. Gợi ý cho nghiên cứu tiếp theo
Từ kết quả nghiên cứu của luận án, các nghiên cứu tiếp theo có thể đi theo các hướng:
- Mở rộng phạm vi nghiên cứu trên phạm vi địa lý rộng hơn như nghiên cứu các nhân
tố tác động tới cam kết của nhân viên trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành dịch vụ tại
miền trung/miền nam;
- Có thể nghiên cứu sâu các nhân tố tác động tới cam kết của nhân viên ở một ngành
đặc thù nào đó như ngành tài chính ngân hàng, y tế giáo dục (khu vực dịch vụ công) xem
có gì khác biệt hay không;
- Có thể nghiên cứu đến những hệ quả khác của cam kết tổ chức như “chia sẻ tri thức”
trong ngành dịch vụ hoặc nghiên cứu về sự “thỏa mãn của khách hàng”; hoặc nghiên cứu về
mối quan hệ giữa cam kết tổ chức và “chất lượng của dịch vụ”.
- Ngoài ra, các nghiên cứu tiếp theo có thể đề cập đến phân tích mối quan hệ giữa các
nhân tố tác động tới cam kết của nhân viên (mối quan hệ giữa chính các nhân tố ở biến độc
lập có tác động với nhau như thế nào – mối quan hệ tuyến tính).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_nhan_to_tac_dong_toi_cam_ket_voi_to_chuc_cua_nhan_vien_tai_cac_doanh_nghiep_vua_va_nho_nganh_dic.pdf