Thứ nhất, luận án đã tổng quan được về mặt lý luận và thực tiễn từ các công
trình nghiên cứu trước đây cho thấy về các yếu tố tác động đến thương mại nội
ngành. Hầu hết các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành ở cấp quốc gia, ở
các ngành nghiên cứu khác nhau, phạm vi giữa các nước, khu vực khác nhau.
Nghiên cứu các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành ở Việt Nam còn ít, đặc
biệt trong lĩnh vực hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC.
Thứ hai, phương pháp phân tích định lượng phổ biến được sử dụng trong
nghiên cứu các yếu tố tác động đến IIT, HIIT, VIIT hàng nông sản là mô hình
trọng lực với dữ liệu mảng. Luận án đã tính toán các chỉ số IIT hàng nông sản
giữa Việt Nam và APEC theo chỉ số Grubel – Lloyd và phân tách IIT hàng nông
sản thành HIIT và VIIT theo phương pháp của Kandogan (2003).
Thứ ba, luận án đã đánh giá thực trạng khối lượng và mức độ IIT, HIIT và
VIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên của APEC, đánh giá tập
trung vào mức độ IIT các mặt hàng nông sản chủ yếu giữa Việt Nam với một số
nước, trong đó trình bày chi tiết về mức độ IIT về các mặt hàng cụ thể trong
nhóm hàng nông sản theo giữa Việt Nam và một số nước chủ yếu thuộc APEC.
Qua đó chỉ ra những thành tựu và hạn chế tồn tại trong phát triển thương mại nội
ngành hàng nông sản.
Thứ tư, luận án đã xây dựng câu hỏi nghiên cứu, hệ thống chỉ tiêu phân tích
làm cơ sở cho việc tiến hành các phương pháp định lượng các yếu tố tác động đến
IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. Phương pháp phân tích được sử
dụng trong luận án gồm phương pháp so sánh, phương pháp trung bình động,
phương pháp phân tích định lượng gồm thống kê mô tả, ma trận hệ số tương quan
và phân tích hồi quy. Đặc biệt trong phân tích hồi quy, luận án đưa ra ba mô hình
phân tích với các yếu tố tác động đến IIT, HIIT và VIIT.
Thứ năm, luận án sử dụng mô hình trọng lực để xây dựng khung phân tích
và thiết kế mô hình các yếu tố tác động đến IIT, HIIT và VIIT hàng nông sản
giữa Việt Nam và các thành viên của APEC. Từ đó luận án chủ yếu tập trung vào
sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để xác định các yếu tố
tác động đến IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các đối tác thương mại thuộc
APEC trong giai đoạn 1997 -2014. Trong đó trình bày các kết quả kiểm định, mô
tả các biến trong mô hình, ma trận hệ số tương quan và kết quả ước lượng của mô
hình. Mô hình hồi quy sử dụng dữ liệu mảng và áp dụng phương pháp REM.
Thứ sáu, luận án đã chỉ ra chiều hướng tác động và mức độ tác động của các
yếu tố tác động đến IIT, HIIT và VIIT hàng nông sản giữa Việt Nàm và APEC24
gồm có: (i) Quy mô của nền kinh tế, (ii) Sự khác biệt về quy mô kinh tế, (iii) thu
nhập bình quân đầu người, (iv) Sự khác biệt về mức thu nhập bình quân đầu
người, (v) Khoảng cách địa lý, (vi) Quy mô dân số, (vii) Độ mở nền kinh tế,
(viii) Diện tích đất nông nghiệp, (ix) Đường biên giới chung và (x) Tham gia hiệp
định thương mại tự do song phương giữa Việt Nam với các đối tác thương mại. Các
kết quả thực nghiệm phần lớn đã đúng với lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu.
Thứ bảy, để thúc đẩy thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam
và APEC đến năm 2020, một số giải pháp chính sách phát triển thương mại nội
ngành phù hợp với bối cảnh của sự thay đổi sâu sắc của kinh tế thế giới là: (i)
Đẩy mạnh tăng trưởng quy mô kinh tế của Việt Nam; (ii) Phát triển sản xuất nông
sản hàng hóa gắn với phát triển kinh tế và cải thiện thu nhập cho người dân; (iii)
Đẩy mạnh mức độ IIT dựa vào yếu tố về khoảng cách địa lý; (iv) Nâng cao chất
lượng nông sản chế biến; (v) Tăng cường tham gia Hiệp định thương mại song
phương; (vi) Mở cửa thị trường và tăng cường hợp tác đầu tư trong nông nghiệp;
(vii) Đẩy mạnh tập trung ruộng đất cho sản xuất hàng nông sản; (viii) Đa dạng
hóa nông sản nhập khẩu phục vụ thị trường tiêu dùng nội địa.
Thứ tám, luận án sẽ hoàn thiện hơn nếu bổ sung phần nội dung đánh giá các
yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và
APEC thông qua bộ số liệu sơ cấp về khảo sát lấy ý kiến của các chuyên gia. Đây
có thể là phần hạn chế của luận án và mở ra hướng nghiên cứu tiếp theo. Khi đó
mô hình sẽ là một cách tiếp cận mới cho các nghiên cứu xa hơn vì nó sẽ cung cấp
ý nghĩa sâu rộng hơn và thực tế hơn về các yếu tố tác động đến thương mại nội
ngành hàng nông sản. Sự sửa đổi này sẽ làm cho mô hình gần với thực tế hơn.
27 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 905 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược tính toán theo công thức sau:
( )
i i i i
i
i i
X M X M
IIT GL
X M
Trong đó:IIT là thương mại nội ngành của ngành hàng i
Xi là giá trị xuất khẩu của ngành hàng i
Mi là giá trị nhập khẩu của ngành hàng i
Công thức chỉ ra mức độ IIT trong tổng giá trị thương mại của một
ngành hàng, chỉ số IIT nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Khi giá trị xuất khẩu bằng
giá trị nhập khẩu, chỉ số này có giá trị bằng 1, toàn bộ giá trị thương mại là
thương mại nội ngành, khi giá trị xuất khẩu hoặc nhập khẩu bằng 0, chỉ số này có
giá trị bằng 0 thì IIT bằng 0 hay chỉ có thương mại một chiều.
c) Phân loại thương mại nội ngành
Trên phương diện lý thuyết, IIT được phân tách thành hai phần là IIT theo
chiều ngang (HIIT) và IIT theo chiều dọc (VIIT). Lancaster (1980), Krugman
(1981), Helpman (1981) nghiên cứu cho rằng HIIT là chỉ mức độ những sản
phẩm tương tự được xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời tại cùng một giai đoạn của
quá trình sản xuất và chủ yếu là do đặc tính của sản phẩm khác nhau, liên quan
đến phong cách và sở thích khác nhau của người tiêu dùng. Theo Linder (1961)
5
cho rằng cơ cấu về nhu cầu được quyết định bởi thu nhập bình quân đầu người và
việc trao đổi thương mại về hàng hoá sẽ diễn ra giữa các quốc gia có cùng mức
thu nhập. Chúng ta đều kỳ vọng người tiêu dùng có mức thu nhập tương đồng sẽ
có nhu cầu về các sản phẩm giống nhau về chất lượng nhưng khác biệt về mẫu
mã. Do đó, HIIT sẽ xảy ra khi có một mức độ thu nhập trùng lặp cao hơn giữa các
đối tác thương mại.
Trên phương diện nghiên cứu thực nghiệm, có hai cách tiếp cận nhằm
phân tách HIIT và VIIT. Cách tiếp cận thứ nhất của Greenaway (1994) dựa trên
tỷ lệ giá đơn vị xuất khẩu và nhập khẩu. Sự khác biệt giữa HIIT và VIIT dựa trên
phân cấp chất lượng thể hiện bởi giá đơn vị, bởi giá cả phản ánh chất lượng sản
phẩm. Giả định quan trọng đối với phương pháp này là chất lượng sản phẩm được
phản ánh trong giá đơn vịsản phẩm. Những sản phẩm được bán với mức giá cao
thì có chất lượng cao hơn. Mức chênh lệch tỷ lệ giá đơn vị xuất khẩu và nhập
khẩu của sản phẩm trong một khoảng nào đó (thường chọn là 0,15%). Nếu tỷ lệ
giá đơn vị xuất khẩu và nhập khẩu nằm ngoài khoảng giá trị này thì đó là VIIT.
Cách tiếp cận thứ hai dựa trên phân cấp hàng hóa theo Kandogan (2003) đề xuất
phân tách HIIT và VIIT.
1.1.2. Lý luận về thương mại nội ngành hàng nông sản
Trong phần này luận án đã phân tích và làm rõ Khái niệm, phân loại và đặc
điểm hàng nông sản, khái niệm, cách đo lường và phân loại thương mại nội ngành
hàng nông sản
1.1.2.1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm hàng nông sản
a, Khái niệm hàng nông sản
Hàng nông sản được hiểu là hàng hoá có nguồn gốc từ hoạt động nông
nghiệp, là tập hợp các mặt hàng khác nhau từ các sản phẩm chưa chế biến tới các
sản phẩm đã qua chế biến, (không bao gồm sản phẩm của ngành lâm nghiệp và
ngư nghiệp). Vì vậy để phù hợp với nội dung nghiên cứu, luận án tập trung nghiên
cứu là các sản phẩm liệt kê từ nhóm SITC0, SITC1, SITC2, SITC4 trong Hệ thống
Danh mục SITC. Tuy nhiên trong nhóm SITC0 không tính SITC 03 (cá và các chế
phẩm từ cá), nhóm SITC2 không tính SITC 27 (Phân bón thô/khoáng sản) và
SITC28 (Quặng kim loại/kim loại phế liệu) do không phù hợp với quan điểm về
nông sản của WTO.
b, Phân loại hàng nông sản theo tiêu chuẩn ngoại thương SITC
Với các phân loại này, danh mục hàng nông sản xuất nhập khẩu theo tiêu
chuẩn ngoại thương mã cấp 0 - 4 chữ số (SITC – REV.3).
Nhóm 0: Phân loại hàng hóa là động thực vật sống và các sản phẩm từ động thực vật
6
Nhóm 1: Phân loại hàng hóa là thực phẩm chế biến; đồ uống, rượu mạnh và giấm;
thuốc lá và các nguyên liệu thay thế thuốc lá đã chế biến
Nhóm 2: Nguyên vật liệu dạng thô, không dùng để ăn, trừ nhiên liệu
Nhóm 4: Phân loại hàng hóa là mỡ và dầu động vật hoặc thực vật và các sản phẩm
tách từ chúng; mỡ ăn được đã chế biến; các loại sáp động vật hoặc thực vật
1.1.2.2. Khái niệm, cách đo lường IIT hàng nông sản
a, Khái niệm: IIT hàng nông sản định nghĩa là hoạt động của thương mại quốc tế,
là việc đồng thời xuất khẩu và nhập khẩu các sản phẩm trong cùng một nhóm
hàng nông sản dựa trên phân cấp hàng hóa theo tiêu chuẩn phân loại hàng hóa
quốc tế.
b) Cách đo lường
Theo cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu của luận án, hàng nông sản xuất
nhập khẩu được phân loại theo danh mục tiêu chuẩn quốc tế (SITC), phiên bản 3.
Chỉ số Grubel và Lloyd (1975) được sử dụng để đo lường khối lượng và mức độ
IIT. Trong luận án này sẽ sử dụng phương pháp được đề xuất bởi Kandogan
(2003) để phân rã HIIT và VIIT bằng việc sử dụng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu
ở hai mức độ tập trung khác nhau. Mức độ tập trung cao hơn phản ánh cho ngành
hàng nông sản (ở mức 2 chữ số SITC phiên bản 3) và mức độ tập trung thấp hơn
phản ánh cho các sản phẩm khác nhau ở ngành hàng nông sản (ở mức 4 chữ số
SITC phiên bản 3).
1.1.2.3. Lợi ích của thương mại nội ngành hàng nông sản
- IIT mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng hàng nông sản của một nước
- Các nước có nền kinh tế quy mô nhỏ có lợi khi tham gia vào IIT
- Mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu hàng nông sản
- IIT hàng nông sản góp phần thúc đẩy phát triển ngành nông nghiệp nói riêng
và kinh tế quốc gia nói chung
- IIT hàng nông sản vừa góp phần vừa giải quyết sản phẩm đầu ra,vừa là nơi
cung cấp đầu vào, thúc đẩy cùng nhau phát triển
- Đẩy mạnh hoạt động IIT hàng nông sản góp phần thúc đẩy quá trình hội
nhập, tạo điều kiện đẩy mạnh CNH- HĐH nông nghiệp Việt Nam
- Góp phần phân bố lại quá trình sản xuất trên phạm vi toàn cầu
- Góp phần thúc đẩy vào quá trình phân công lao động quốc tế.
1.1.2.4. Các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản
a) Quy mô kinh tế
Đối với nông sản là mặt hàng thiết yếu nên hầu hết các quốc gia sẽ coi trọng
mặt hàng này để phục vụ nhu cầu cơ bản thiết yếu của người dân. Do đó quốc gia
sẽ tập trung để gia tăng sản lượng và nâng cao chất lượng nông sản trong nước,
7
vừa có khả năng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu nông sản. Đồng thời khi thị trường
có dung lượng lớn sẽ có thể hấp thụ một khối lượng lớn nông sản, do đó lượng hàng
hóa nhập khẩu nông sản vào thị trường sẽ tăng lên. Do vậy yếu tố quy mô kinh tế
của một quốc gia tác động cùng chiều đến IIT, HIIT và VIIT hàng nông sản.
b) Sự khác nhau về quy mô kinh tế
Nếu quy mô kinh tế của các đối tác thương mại tương tự nhau, họ có khả
năng thực hiện giao dịch thương mại song phương với nhau nhiều hơn. Tuy nhiên
sự khác nhau về quy mô kinh tế phản ánh các nguồn lực vốn khác nhau giữa các
đối tác thương mại sẽ khuyến khích trao đổi hàng hóa cùng loại nhưng khác nhau
về chất lượng nên tác động cùng chiều với VIIT. Do đó, việc đưa ra giả thuyết về
mối quan hệ giữa sự khác biệt trong quy mô kinh tế tác động ngược chiều với IIT
và HIIT và tác động cùng chiều với VIIT.
c) Thu nhập bình quân đầu người
Grubel và Lloyd (1975) nghiên cứu về lý thuyết và thực nghiệm IIT giữa
các nước phát triển có mức độ dồi dào các yếu tố sản xuất tương tự nhau đã đưa
ra một kết luận rằng mức độ gia tăng IIT do yếu tố thu nhập đầu người sẽ tạo ra
sự khác nhau trong nhu cầu của người tiêu dùng, yêu cầu về chất lượng sản phẩm
khác nhau và dẫn đến tính đa dạng về thị hiếu tiêu dùng. Qua các kết quả thực
nghiệm ủng hộ cho giả thuyết rằng thu nhập đầu người cao sẽ đóng góp cho sự tăng
lên của IIT. Điều này có nghĩa là việc tăng thu nhập sẽ dẫn đến việc đa dạng hóa
trong nhu cầu tiêu dùng. Việc tăng thị hiếu tiêu dùng các sản phẩm dẫn đến việc
thúc đẩy IIT giữa các nước.
d, Sự khác nhau về thu nhập bình quân đầu người
Theo Linder (1961) cho rằng cơ cấu cầu được quyết định bởi thu nhập bình
quân đầu người, IIT sẽ diễn ra giữa các quốc gia có cùng mức thu nhập tương
đồng. Chúng ta đều kỳ vọng người tiêu dùng có thu nhập tương đồng sẽ có nhu cầu
về các sản phẩm giống nhau về chất lượng nhưng khác biệt về mẫu mã sản phẩm.
Do đó, HIIT sẽ cao hơn khi một quốc gia có mức độ thu nhập tương đương với đối
tác thương mại.
Theo Krugman (1979), Lancaster (1980) cho rằng các sản phẩm được phân
biệt theo chiều ngang và người tiêu dùng luôn luôn thích có càng nhiều những sản
phẩm khác nhau sẽ càng tốt (phương pháp tiếp cận sự đa dạng về sở thích). Trong
các mô hình này, mỗi nhóm sản phẩm được sản xuất với chi phí giảm dần và khi
các quốc gia mở cửa thị trường, sự giống nhau về nhu cầu sẽ dẫn đến IIT. Mức độ
HIIT sẽ lớn hơn với nhiều khả năng xảy ra giữa các quốc gia có nguồn lực sản
xuất tương tự nhau.
8
Theo Falvey & Kierzkowski (1987), Flam &Helpman (1987) nhận thấy rằng
VIIT có thể được giải thích bằng lý thuyết lợi thế so sánh. Theo đó, một quốc gia
dồi dào về tư bản sẽ chuyên môn hóa và xuất khẩu các sản phẩm chất lượng cao,
trong khi đó, một quốc gia dồi dào về lao động sẽ chuyên môn hóa và xuất khẩu
sản phẩm có chất lượng thấp. Đồng thời nghiên cứu đã đưa ra một kết luận rằng
nhu cầu về chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào thu nhập của khách hàng. Khi thu
nhập càng tăng thì đòi hỏi chất lượng càng cao. Martin-Montaner & Rios (2002)
Durkin (2000) đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa sự khác biệt về nguồn lực các
yếu tố sản xuất được đo lường bằng sự khác biệt về thu nhập đầu người và mức
độ VIIT.
e) Khoảng cách về địa lý giữa các đối tác thương mại
Khoảng cách địa lý là một rào cản thương mại tự nhiên, là một trong những
yếu tố tác động đến IIT. Theo Grubel và Lloyd (1975) cho rằng chi phí vận
chuyển và thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc xác định vị trí để sản xuất
sản phẩm. Chi phí vận chuyển trong quá trình phân phối từ người cung ứng đến
người tiêu dùng tăng thì sẽ làm tăng giá thành sản phẩm. Nếu giá bán sản phẩm
trong nước cao hơn nước ngoài sẽ kích thích người tiêu dùng mua sản phẩm nước
ngoài. Theo nghiên cứu của Krugman (1979) khoảng cách giữa hai quốc gia càng
gần nhau, đặc biệt là có đường biên giới chung thì chi phí về thông tin và chi phí
vận tải càng giảm, do đó sẽ càng làm tăng mức độ IIT. Ngoài ra, trong rất nhiều
trường hợp, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu cầu của các quốc gia gần nhau thường
giống nhau hơn là các quốc gia có khoảng cách xa nhau về mặt địa lý do có sự
tương đồng về văn hóa và sở thích tiêu dùng.
f) Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là bộ phận quan trọng của tài
khoản vốn. Việc gia tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài có tác dụng bù đắp thâm
hụt cán cân thương mại. Thu hút FDI vào trong nước cho phép các quốc gia sử
dụng công nghệ của nước đầu tư đồng thời đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan
đến chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia thông qua nhập khẩu. Do đó FDI
góp phần tăng chủng loại các mặt hàng, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa
của các quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư và có thể xuất khẩu hàng hóa sang nước
đầu tư. Do vậy thương mại song phương giữa nước xuất khẩu và nhập khẩu đồng
thời gia tăng Helpman và Krugman (1985) đã nghiên cứu lý thuyết IIT với sự có
mặt của yếu tố FDI từ các công ty đa quốc gia (MNCs) và lập luận về mặt lý
thuyết rằng FDI đã đóng góp tích cực vào khối lượng IIT. Tuy nhiên các kết quả
này mới dừng ở mặt lý thuyết và chưa qua thử nghiệm thực tiễn. Marusen và
9
Venables (1998) đã tiếp tục mở rộng lý thuyết IIT và kiểm tra sự hiện diện đóng
góp tích cực của FDI đến IIT.
g) Độ mở nền kinh tế
Trong các nghiên cứu của Leamer (1988), Li và cộng sự (2003), Chemspipong
và cộng sự (2005), Zhang và Li (2006) nghiên cứu cho rằng yếu tố độ mở nền
kinh tế càng lớn thì khối lượng thương mại trao đổi và phân loại sản phẩm càng
đa dạng hơn. Trên phương diện lý thuyết độ mở của nền kinh tế tác động cùng
chiều với IIT. Caves (1981) cho rằng khi một nước hội nhập sâu vào nền kinh tế
thế giới, giảm dần các rào cản thương mại quốc tế sẽ làm cho quá trình này diễn
ra thuận lợi hơn và làm gia tăng mức độ IIT.
- Mức độ mất cân bằng thương mại: Theo Aquino (1978), Leitão và Faustino
(2009) cho rằng mức độ mất cân bằng thương mại là một trong yếu tố giải thích
trong việc ước lượng các yếu tố tác động đến IIT. Đây là yếu tố đo mức độ mất
cân đối trong thương mại sẽ làm giảm thương mại hai chiều giữa hai quốc gia.
- Hàng rào thương mại: Hàng rào thương mại là yếu tố phản ánh mức độ bảo hộ
của một nền kinh tế, mức độ cam kết và thực hiện các cam kết tự do hóa thương mại
và hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi nước. Mức độ bảo hộ càng thấp, mức độ tự do
hóa thương mại càng cao sẽ khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu. Khi Việt
Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, các hàng rào thương mại sẽ giảm dần và
chính điều này sẽ góp phần cải thiện mức độ IIT hàng nông sản.
h) Sự biến động tỷ giá hối đoái
Theo nghiên cứu của Serlega và Shin (2007), Rault và cộng sự (2007) cho
thấy sự biến động về tỷ giá hối đoái càng cao thì mức độ IIT của quốc gia đó sẽ
càng giảm. Điều đó phản ánh sự biến động của tỷ giá hối đoái có tương quan
ngược chiều với IIT. Khi nghiên cứu mức độ IIT của hàng nông sản, khi tỷ giá
biến động sẽ tác động đến cả xuất khẩu và nhập khẩu hàng nông sản. Vì vậy kỳ
vọng có mối tương quan ngược chiều giữa sự biến động của tỷ giá hối đoái với
IIT, HIIT và VIIT.
k) Quy mô dân số của nước xuất khẩu và nhập khẩu
Quy mô dân số càng lớn phản ánh nguồn lực lao động của mỗi quốc gia
càng lớn. Đồng thời quy mô dân số càng lớn thì đòi hỏi thị trường tiêu thụ sản
phẩm càng lớn. Thêm vào đó là sự đa dạng hóa trong nhu cầu tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa sẽ góp phần thu hút sản phẩm nhập khẩu từ các quốc gia khác. Chính
điều này cho thấy quốc gia có quy mô dân số càng lớn thì khả năng xảy ra mức
độ IIT hàng nông sản sẽ càng lớn.
m) Diện tích đất nông nghiệp
10
Diện tích đất nông nghiệp là nguồn lực quan trọng của ngành nông nghiệp
có ảnh hưởng đến IIT hàng nông sản. Theo nghiên cứu về lý thuyết của Jambor
(2014) chỉ ra rằng quốc gia có quy mô đất nông nghiệp càng lớn thì càng góp
phần gia ra tăng mức độ IIT hàng nông sản.
n) Việc tham gia các hiệp định thương mại giữa VN và đối tác thuộc APEC
Việc Việt Nam tham gia kí kết các hiệp định thương mại tự do, theo đó các
nước sẽ tiến hành lộ trình cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan cũng như phi
thuế quan nhằm tiến tới một khu vực mậu dịch tự do. Các nước tham gia hiệp
định lần lượt cắt giảm thuế trong từng giai đoạn cho tới mức 0%. Các nước như
vậy đã thực hiện các biện pháp làm giảm hoặc loại bỏ các hàng rào thương mại và
chi phí giao dịch khi tham gia thương mại quốc tế. Đây có thể là yếu tố tích cực
tác động đến IIT hàng nông sản.
1.2. Cơ sở thực tiễn về thƣơng mại nội ngành và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam
Thứ nhất, khi hai quốc cùng tham gia vào thị trường quốc tế vào cùng ngành
hàng với nhiều hãng tham gia đạt lợi thế theo quy mô thì sản lượng chung của hai
quốc gia gia tăng. Đối với mỗi nước, số lượng hãng tham gia nhiều hơn, sản
lượng mỗi hãng cũng tăng lên với mức giá thấp hơn, thị trường được mở rộng
cũng giúp cho hàng hóa đa dạng hơn. Do đó người tiêu dùng cần nhiều sự lựa
chọn hơn và gia tăng lợi ích của mình. Vì vậy hội nhập kinh tế chặt chẽ giữa đối
tác thương mại thúc đẩy cường độ IIT.
Thứ hai, xây dựng chính sách mở cửa thị trường thích hợp để thu hút đầu tư
mạnh mẽ của nước ngoài vào phát triển nông nghiệp, nhằm tăng quy mô sản xuất
nông sản, phong phú thêm về chủng loại và nâng cao giá trị hàng nông sản xuất
khẩu, nâng cao thu nhập cho người sản xuất. Điều này sẽ góp phần gia tăng mức
độ phát triển IIT.
Thứ ba, chỉ số IIT cao ở các nước có nền công nghiệp chế biến thực phẩm
phát triển như Thái Lan, Trung Quốc. Do IIT có thể xảy ra ở các giai đoạn của
chu kỳ sống sản phẩm với các mức chất lượng khác nhau. Do việc ưu tiên phát
triển công nghiệp chế biến thực phẩm sẽ nâng cao giá trị gia tăng cho hàng nông
sản, nhằm góp phần thúc đẩy mức độ IIT.
Thứ tư, đẩy mạnh xu hướng chuyển dịch sản xuất các mặt hàng nông sản
dựa vào tài nguyên và lao động sang sản xuất các nông sản khác biệt, nông sản
chế biến công nghệ cao. Ngoài ra mức độ IIT phát triển với các nước gần nhau về
mặt địa lý, thuận lợi trong giao dịch thương mại.
11
Chƣơng 2
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Làm thế nào để đo lường mức độ IIT, HIIT và VIIT hàng nông sản giữa Việt
Nam và APEC?
Những yếu tố nào tác động đến IIT, HIIT và VIIT hàng nông sản giữa Việt
Nam và APEC? Mức độ tác động của các yếu tố đó đến IIT hàng nông sản
như thế nào?
Những giải pháp gì để cải thiện IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và
APEC?
2.2. Phƣơng pháp tiếp cận và khung phân tích
2.2.1. Phương pháp tiếp cận
Tiếp cận hệ thống
Tiếp cận định tính và định lượng
Tiếp cận ngành hàng nông nghiệp
2.2.2. Khung phân tích
Khung phân tích cho IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC theo
hướng 3 nhóm nhân tố như sau:
Các yếu tố thuộc bên cung (thuộc nước XK nông sản): Quy mô kinh tế,
sự khác biệt quy mô kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, quy mô dân số nước
xuất khẩu, diện tích đất nông nghiệp
Các yếu tố thuộc bên cầu (thuộc nước NK nông sản): Thu nhập bình
quân đầu người, sự khác biệt về thu nhập bình quân đầu người, quy mô dân số
nước nhập khẩu
Các yếu tố cản trở hay hấp dẫn: Khoảng cách địa lý, độ mở nền kinh tế,
sự biến động tỷ giá hối đoái, mức độ mất cân bằng thương mại, hàng rào thương
mại, Tham gia khu vực mậu dịch tự do.
.
2.3. Phƣơng pháp thu thập thông tin
2.3.1. Cách thức thu thập và nguồn dữ liệu
Luận án sử dụng hoàn toàn dữ liệu thứ cấp, mô hình tập trung nghiên cứu
thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và 19 nền kinh tế thành viên
trừ Đài Loan do thông tin về các mặt hàng xuất nhập khẩu không đầy đủ trong
giai đoạn nghiên cứu. Dữ liệu thương mại song phương được thu thập từ
UNCOMTRADE để đo lường IIT nông sản ở mức 2 chữ số SITC giữa Việt Nam
và các đối tác thuộc APEC từ 1997 - 2014. Dữ liệu IIT ở mức 4 chữ số được thu
12
thập từ 2000 - 2014 để đo lường HIIT và VIIT. Ngoài ra dữ liệu về kim ngạch
xuất nhập khẩu của các thành viên APEC, dữ liệu GDP, PCI, FDI, tỷ giá hối đoái
và quy mô dân số được thu thập từ IMF và W . Khoảng cách về mặt địa lý giữa
Việt Nam và các đối tác thương mại của Việt Nam được lấy từ websiteIndo.com.
Dữ liệu diện tích đất nông nghiệp được tích từ báo cáo số liệu chính thức của FAO.
Để tính toán chỉ số IIT giữa Việt Nam với các nước thành viên APEC,
tác giả sử dụng chỉ số G-L (Grubel và Lloyd, 1975). Trong luận án này tác giả sử
dụng dữ liệu mảng giữa Việt Nam và từng đối tác thương mại thuộc APEC. Mô
hình kinh tế lượng được trình bày trong luận án này ược xây dựng dựa trên 3 mô
hình riêng biệt: IIT, HIIT và VIIT.
2.3.2 Tổng hợp dữ liệu
Phân tổ dữ liệu
ảng thống kê
Đồ thị thống kê
2.3.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp so sánh
Phương pháp trung bình động
Phương pháp nghiên cứu định lượng
Phương pháp thống kê mô tả
Ma trận hệ số tương quan
Phương pháp phân tích hồi quy
Mô hình phân tích
Mô hình 1: Các yếu tố tác động đến IIT hàng nông sản
Mô hình 2: Các yếu tố tác động đến HIIT hàng nông sản
Mô hình 3: Các yếu tố tác động đến VIIT hàng nông sản
Phƣơng pháp ƣớc lƣợng
Lựa chọn mô hình tác động
Đối với mô hình REM, phương pháp nhân tử Lagrange với kiểm định reusch
– Pagan được sử dụng để kiểm chứng sự phù hợp của ước lượng của mô hình là
REM hay OLS. Sử dụng kiểm định Hausman để kiểm định vấn đề các tác động
không quan sát được phụ thuộc đối tượng có tương quan với một hay một số biến
giải thích trong mô hình.
13
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG THƢƠNG MẠI NỘI NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN
GIỮA VIỆT NAM VÀ APEC
3.1. Thực trạng thƣơng mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và các
thành viên APEC
3.1.1. Khái quát về thương mại nội ngành hàng nông sản
IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC có xu hướng
ngày càng phát triển theo thời gian. Tuy nhiên mức độ thương mại hàng nông sản
còn khá khiêm tốn và không đồng đều giữa các quốc gia và trong từng giai đoạn
khác nhau. Có những nước IIT với Việt Nam có chỉ số IIT nhỏ nhưng khối lượng
IIT lớn như Mỹ, Nhật ản, Hàn Quốc. Việt Nam có mức độ IIT hàng nông sản
lớn nhất với các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Úc.
Singapore, Malaisia. Việt Nam có mức độ IIT cao hơn với các nước trong khu vực
do có sự tương đồng, ít sự khác biệt hơn về quy mô kinh tế và thu nhập so với các
thành viên khác trong APEC, thuận lợi về khoảng cách địa lý và cùng tham gia khu
vực mậu dịch tự do ASEAN. Do vậy Việt Nam cần đẩy mạnh IIT hàng nông sản
của Việt Nam trong thời gian tới.
3.1.2. Mức độ HIIT hàng nông sản
Mức độ HIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC ở
mức thấp, chiếm khoảng dưới 10% và tương đối ổn định qua giai đoạn 2000 –
2014. Mức độ phát triển HIIT không đồng đều giữa các quốc gia.Chỉ số HIIT
hàng nông sản giữa Việt Nam và Thái Lan, Indonesia, Malaysia có mức độ IIT có
dấu hiệu ổn định và phát triển hơn so với các đối tác khác trong khu vực
APEC.Đồng nghĩa với mặt hàng nông sản được trao đổi giữa Việt Nam và các
nước này đa dạng về chủng loại với chất lượng hàng hóa tương tự nhaugiúp
người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn. Có được kết quả trên là do Việt Nam
với các nước trên đều nằm trong khu vực Đông Nam Á nên có sự tương đồng về
quy mô kinh tế và thu nhập bình quân hơn so với các thành viên khác trong
APEC, thuận lợi về khoảng cách địa lý và cùng tham gia khu vực mậu dịch tự do
ASEAN. Do vậy Việt Nam cần đẩy mạnh HIIT hàng nông sản của Việt Nam
trong thời gian tới.HIIT có xu hướng tăng lên ở giai đoạn đầu và giảm ở giai đoạn
sau cho đến nay thể hiện hàng nông sản của Việt Nam đang bị cạnh tranh trên thị
trường sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Do vậy Việt Nam cần nâng cao giá trị
cho nông sản, đặc biệt là nông sản chế biến. Thúc đẩy tham gia kí kết các Hiệp
định thương mại song phương giữa các nước. Đồng thời thâm nhập thị trường
xuất nhập khẩu nông sản vào các thị trường mới, tiếp tục mở rộng cơ cấu mặt
14
hàng xuất nhập khẩu. Làm được điều này mới có khả năng thức đẩy IIT giữa các
nước trong APEC.
3.1.3. Mức độ VIIT hàng nông sản
Nhìn tổng thể giai đoạn 2000 – 2014 có thể thấy mức độ VIIT hàng nông
sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC có mức độ lớn hơn HIIT. Tuy nhiên
mức độ VIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC có xu hướng
ngày càng giảm. Từ năm 2000 đến 2008, IIT hàng nông sản chủ yếu là VIIT, bởi
vì trong giai đoạn đó thì trình độ sản xuất và chế biến nông sản của Việt Nam còn
khiêm tốn và công nghệ chế biến nông sản chưa cao nên chất lượng sản phẩm làm
ra chưa cạnh tranh được các nước khác. Do vậy Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sản
phẩm chất lượng thấp và nhập khẩu về các nông sản có chất lượng cao. Điều này
khẳng định tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam đang
phát triển, chủ yếu vẫn là nông sản thuộc cùng phân nhóm SITC nhưng khác nhau
về chất lượng. Tuy nhiên mức độ phát triển VIIT không đồng đều giữa các quốc
gia. Tập trung chủ yếu với các nước gần về khoảng cách địa lý, nằm trong khu
vực FTA, có quy mô kinh tế tương đồng hơn so với các nước khác trong khối.
Các mặt hàng xuất khẩu nông sản của nước ta chủ yếu là xuất khẩu nông sản thô,
hạn chế về chủng loại và mẫu mã nên có giá trị xuất khẩu chưa cao. Các nông sản
mới qua quá trình sơ chế và chế biến đơn giản làm sản phẩm có giá trị gia tăng
thấp. Hàng nông sản chất lượng cao còn ít, phần lớn chưa bảo đảm đầy đủ các
tiêu chuẩn quốc tế. Ngược lại Việt Nam lại nhập khẩu các mặt hàng nông sản đã
qua chế biến có giá trị gia tăng cao như sữa, các chế phẩm từ ngũ cốc, nguyên
liệu làm thức ăn chăn nuôi gia xúc nên dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Nhưng
trong vài năm trở lại đây thì chỉ số HIIT ở một số quốc gia lại chiếm tỷ lệ cao hơn
như Philippin, Thái Lan, Singapore.. nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng nông
sản của Việt Nam được dần được nâng cao lên ngang bằng với các nước khác,
nên tính khác biệt hóa sản phẩm theo chiều ngang được chú trọng hơn để tạo nên
tính cạnh tranh hơn cho nông sản Việt Nam. Đồng thời, nhiều mặt hàng nông sản
của các nước đã có mặt trên thị trường Việt Nam và được người tiêu dùng Việt
Nam ưa chuộng sử dụng.
3.2. Phân tích các yếu tố tác động đến IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC
3.2.1. Thống kê mô tả
Khi ước lượng mô hình hồi quy do đặc trưng của số liệu mảng là chỉ
nhận những quan sát có đầy đủ dữ liệu theo cả chiều ngang và chiều dọc, vì vậy
mẫu sử dụng để ước lượng mô hình hồi quy trong các trường hợp: i) mô hình IIT
15
chỉ còn 253 quan sát, ii) mô hình HIIT chỉ còn 196 quan sát và iii) mô hình VIIT
chỉ còn 214 quan sát.
3.2.2. Ma trận tương quan giữa các biến số
Các biến giải thích có tương quan đáng kể tới biến phụ thuộc IIT,HIIT và
VIIT. Tương quan của các biến khoảng cách địa lý, mức độ mất cân bằng trong
thương mại của Việt Nam và các đối tác thương mại có tương quan ngược chiều
với cả IIT, HIIT và VIIT. Các biến sự khác biệt quy mô kinh tế, Sự khác biệt về
thu nhập bình quân đầu người có tương quan ngược chiều với IIT và HIIT nhưng
tương quan cùng chiều với VIIT. Các biến khác có tương quan cùng chiều với
IIT, HIIT và VIIT. Hầu hết mức độ tương quan giữa các biến giải thích trong mô
hình IIT, HIIT và VIIT là khá nhỏ, tức mô hình không xảy ra hiện tượng đa cộng
tuyến hoàn hảo.
3.2.3. Kết quả ước lượng mô hình
Qua các kết quả kiểm định trên cho biết mô hình luận án áp dụng phương
pháp REM cho toàn bộ quá trình ước lượng của các mô hình IIT, HIIT và VIIT.
Trong mô hình có sử dụng hồi quy Robust nhằm kiểm soát khuyết tật Phương sai
sai số thay đổi và Tự tương quan. Ngoài ra tương quan tuyến tính giữa một số
biến giải thích cao hơn 0,7 nên mô hình có đa cộng tuyến cao nhưng không phải
đa cộng tuyến hoàn hảo, các kết quả ước lượng vẫn đảm bảo tính LUE (tuyến
tính, không chệch, tốt nhất). Mặt khác, số quan sát của mô hình lớn hơn 100 quan
sát nên theo quy luật số lớn phân phối của mẫu có thể được coi là phân phối
chuẩn. Ngoài ra, trong mô hình không có biến chễ là biến phụ thuộc đóng vai trò
là biến độc lập nên mô hình không xảy ra hiện tượng nội sinh. Kết quả ước lượng
các yếu tố tác động đến IIT, HIIT và VIIT của Việt Nam với các thành viên
APEC giai đoạn 1997 – 2014. Cho thấy các hệ số hồi quy đều có ý nghĩa thống
kê ở mức ý nghĩa 10%, trừ nhân tố mức độ mất cân bằng trong thương mại, FDI
và biến động tỷ giá hối đoái. Điều đó có nghĩa tất cả các nhân tố đều có tác động
đến IIT hàng nông sản của Việt Nam với các thành viên APEC chỉ trừ nhân tố
mức mất cân bằng trong thương mại, FDI và biến động tỷ giá hối đoái.
Qua mô hình phân tích cho thấy các yếu tố quyết định của IIT hàng nông
sản giữa Việt Nam và các đối tác thương mại thuộc APEC trong giai đoạn 1997 -
2014 bao gồm: Quy mô của nền kinh tế, sự khác biệt về quy mô kinh tế, thu nhập
bình quân đầu người, sự khác biệt về mức thu nhập bình quân đầu người, khoảng
cách địa lý, quy mô dân số và độ mở nền kinh tế, diện tích đất nông nghiệp,
đường biên giới chung và cùng tham gia hiệp định thương mại tự do song phương
giữa Việt Nam với các đối tác thương mại, còn lại các yếu tố về mức độ mất cân
16
bằng thương mại, FDI, biến động tỷ giá hối đoái là không có ảnh hưởng đến IIT
hàng nông sản. Chiều hướng tác động của các nhân tố lên IIT, HIIT, VIIT phần
lớn là đúng lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu.
3.3. Đánh giá chung về IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC
Những ưu điểm
Khối lượng và cường độ IIT giữa Việt Nam và các đối tác thương mại thuộc
APEC ngày càng gia tăng trong giai đoạn 1997 – 2014 và có xu hướng chiếm thị
phần lớn trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên mức độ phát triển IIT không đồng
đều giữa các quốc gia. Trong mỗi quốc gia cũng chỉ tập trung IIT vào một nhóm
mặt hàng nhất định. Do đó, mức độ của cả HIIT và VIIT đều ở mức thấp. Tuy
nhiên, mức độ của VIIT cao hơn HIIT giữa Việt Nam và các đối tác thương mại
trong khoảng thời gian nghiên cứu. Xu hướng này được thể hiện rõ thông qua các
chỉ số của HIIT và VIIT giữa Việt Nam và các nước phát triển như Úc, Hoa Kỳ,
New Zealand, Mehico Điều này cho thấy rằng, xu hướng trao đổi thương mại
hai chiều của Việt Nam về các mặt hàng khác nhau với chất lượng khác nhau xảy
ra nhiều hơn thương mại về các sản phẩm giống nhau, chỉ khác nhau về mẫu mã.
Điều này có thể là do sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, sự khác biệt thu
nhập bình quân đầu người giữa Việt Nam và các đối tác thương mại.
Trong các đối tác thương mại lớn, Việt Nam đã đạt được mức độ IIT cao
nhất chủ yếu với các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á. Có được kết
quả này một phần là do Việt Nam có lợi thế hơn về khoảng cách địa lý, có nét văn
hóa tương đồng tạo nên xu hướng tiêu dùng giống nhau, chi phí vận chuyển và
thông tin giảm hơn so với các nước khác trong khối APEC. Do đó Việt Nam cần
tận dụng các lợi thế này để góp phần ổn định và phát triển về IIT hàng nông sản.
Trong những năm gần đây mức độ HIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và
thành viên APEC được cải thiện so với với mức độ VIIT. Một mặt là do chất
lượng nông sản chế biến của Việt Nam được dần được cải thiện, tính khác biệt hóa
sản phẩm theo chiều ngang được chú trọng để tạo nên tính cạnh tranh hơn cho nông
sản Việt Nam. Mặt khác, nhiều mặt hàng nông sản của các nước khác đã được nhập
khẩu, tiêu thụ trên thị trường và được người tiêu dùng Việt Nam lựa chọn sử dụng.
Chính điều này sẽ góp phần cải thiện mức độ IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và
các nước APEC.
Qua mô hình phân tích cho thấy các yếu tố quyết định của IIT hàng nông
sản giữa Việt Nam và các đối tác thương mại thuộc APEC trong giai đoạn 1997 -
2014 bao gồm: Quy mô của nền kinh tế, sự khác biệt về quy mô kinh tế, thu nhập
bình quân đầu người, sự khác biệt về mức thu nhập bình quân đầu người, khoảng
17
cách địa lý, quy mô dân số và độ mở nền kinh tế, diện tích đất nông nghiệp,
đường biên giới chung và cùng tham gia hiệp định thương mại tự do song phương
giữa Việt Nam với các đối tác thương mại, còn lại các yếu tố về mức độ mất cân
bằng thương mại, FDI, biến động tỷ giá hối đoái là không có ảnh hưởng đến IIT
hàng nông sản.
Một số hạn chế
Nhìn chung, Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng
hóa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế giới thấp,
chất lượng chưa đồng đều và ổn định. Việt Nam chưa hình thành được các vùng
chuyên canh sản xuất hàng tươi sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà
máy chế biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Gạo của Việt Nam chưa đảm
bảo độ đồng nhất về quy cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói
kém hấp dẫn và chưa có nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì.
Điều đó làm cho giá xuất khẩu của nông sản Việt Nam thấp hơn các nước khác.
Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có năng
suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới. Trên địa bàn cả nước
chưa hình thành được một hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản
xuất, từ giống tác giả, giống nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết
người nông dân đã tự sản xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước
hoặc mua giống trên thị trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng,
đặc biệt là giống các loại cây ăn quả, cây lương thực, cây rau Năng suất lúa của
Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và thấp thua nhiều so với
lúa của Nhật ản, Italia, Mỹ. Năng suất cà chua của ta chỉ bằng 65% năng suất cà
chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt năng suất 1,1 tấn/ha, so với năng suất thế
giới là 1,5 - 1,8 tấn/ha - thấp hơn tới 30-40%.
So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu,
chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó
tính như Nhật ản, EU, ắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận
chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản, nhất là hàng tươi sống rất
yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh. Những hạn
chế trong quá trình chế biến nông sản của Việt Nam. Chế biến nông sản đang là
một lĩnh vực còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển xuất khẩu
hàng nông sản của Việt Nam. Trong thời gian qua, hoạt động chế biến hàng nông
sản xuất khẩu chủ yếu được thực hiện với phương tiện chế biến lạc hậu, chưa có
nhiều nông sản có thương hiệu, qua nhiều khâu trung gian nên có năng suất thấp.
Hoạt động này chưa được thực hiện một cách đồng bộ, dẫn đến hiệu quả chưa
18
cao, sản phẩm đầu ra thường có phẩm cấp thấp do lẫn tạp chất nhiều, mẫu mã
chưa hấp dẫn. Mặc dù tại nhiều địa phương đã áp dụng quy trình sản xuất nông
nghiệp tốt (GAP) và quy trình chế biến tốt (GMP) để đảm bảo chất lượng và an
toàn vệ sinh nhưng khâu vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ không hợp lý,
chưa đúng cách đã làm cho chất lượng nhiều nông sản bị giảm sút.
Nguyên nhân tồn tại
Công nghệ chế biến: Một trong những nguyên nhân về sự kém phát triển IIT
chính là việc sử dụng hạn chế công nghệ tiên tiến trong sản xuất, được thể hiện ở
nguồn lực các yếu tố sản xuất. Với kỹ thuật lạc hậu, Việt Nam không có khả năng
nâng cao chất lượng nông sản chế biến và theo đó xuất khẩu chủ yếu của quốc gia
là hàng hóa có giá trị gia tăng thấp, thâm dụng lao động cao. Những yếu kém
trong khâu chế biến được xem là nổi cộm hiện nay và là một trong những nguyên
nhân làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Điều này phản ánh qua
mức độ IIT hàng nông sản tập trung cao ở các mặt hàng nhóm 04, 05, 07 là rau
quả, cà phê, chè và nhóm 23 và 24 là cao su và gỗ.
Chất lượng nông sản: Một thực tế là hàng nông sản Việt Nam thường thua
kém các nước khác từ 15-50% về giá trị do những chênh lệch về chất lượng, hàng
nông sản của Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, đặc biệt là
tại các thị trường khó tính. Một số sản phẩm có giá thành sản xuất cao nhưng sức
cạnh tranh kém như đường, muối Trong quá trình chế biến và bảo quản, nhiều
sản phẩm tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất lượng hiện vẫn đang còn
rất lớn, như lúa gạo hao hụt khoảng 11-13 %; rau quả khoảng 20-25%... làm tăng
giá thành sản xuất nguyên liệu và sản phẩm, giảm chất lượng và giá bán sản phẩm
Chủng loại hàng hóa: Nông sản xuất khẩu của Việt Nam đa dạng hơn
nhưng các mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng
loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực,
truyền thống như gạo, cà phê, cao su, mà phần lớn chúng đều tiềm ẩn nguy cơ tăng
trưởng chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như diện tích, năng
suất, khả năng khai thác có hạn và khả năng cạnh tranh ngày càng giảm dần.
Ngoài ra còn kể đến nguyên nhân là thiếu các hiệp định thương mại song
phương. Minh chứng cụ thể như hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã thúc đẩy
mạnh thương mại giữa hai nước. Kể từ khi ký hiệp định, xuất khẩu nông sản của
Việt Nam sang Mỹ đã tăng lên nhanh chóng. Điều này cho thấy những lợi thế từ
việc ký kết các hiệp định thương mại tạo hành lang thông thoáng cho nông sản
Việt Nam xâm nhập vào các thị trường nước ngoài.
19
Chƣơng 4
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THƢƠNG MẠI NỘI NGÀNH
HÀNG NÔNG SẢN GIỮA VIỆT NAM VÀ APEC
4.1. Xu hƣớng thị trƣờng tiêu dùng nông sản và dự báo IIT hàng nông sản
giữa Việt Nam và APEC đến năm 2020
APEC sẽ là khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới có sức
mua lớn với trên 3 tỷ người với thị trường hàng hóa ngày càng trở nên đa dạng,
ranh giới thị trường giữa các nước sẽ dần xóa bỏ trong xu thế hội nhập quốc tế.
Đồng thời với xu hướng tiêu dùng nông sản ngày càng đa dạng, sử dụng nhiều
thực phẩm đóng gói tăng cao, ưa chuộng sử dụng thực phẩm hữu cơ và thực
phẩm có lợi cho sức khỏe, hướng tới tiêu dùng thực phẩm chất lượng cao với sự
phát triển ngành mạnh mẽ của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, ứng dụng
công nghệ cao sản xuất thực phẩm. Chính điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển mạnh
của IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC trong thời gian tới. Căn cứ vào
xu thế phát triển IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC giai đoạn 2000 -
2014 cho thấy xu hướng IIT bình quân Việt Nam và APEC tăng từ khoảng 8%
đến gần 15%, xu hướng VIIT bình quân Việt Nam và APEC tăng đạt khoảng từ
5% đến gần 10%, xu hướng HIIT bình quân Việt Nam và APEC tăng ít hơn đạt
khoảng từ 3% đến gần 5%. Dựa vào phương pháp dự báo trung bình động, kỳ vọng
thị phần IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC sẽ có xu hướng gia tăng trung
bình đạt khoảng 15% - 25% đến năm 2020, trong đó VIIT đóng góp tăng thêm
trung bình khoảng 8% - 15%, HIIT tăng thêm đạt trung bình khoảng 5% - 10%.
4.2. Định hƣớng xuất nhập khẩu nông sản của VN đến năm 2020
4.3. Những lợi thế và bất lợi trong phát triển IIT hàng nông sản giữa VN và APEC
4.3.1. Những lợi thế
Quan điểm coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu
Tiềm năng sản xuất hàng nông sản ở Việt Nam
Việt Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực
4.3.2. Những bất lợi
Quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ, manh mún
Nền nông nghiệp có xuất phát điểm ở trình độ thấp
Những hạn chế trong quá trình chế biến nông sản của Việt Nam
Xuất nhập khẩu hàng nông sản thiếu bền vững
Các rào cản thương mại trong hội nhập quốc tế
Nguy cơ gia tăng áp lực từ môi trường tự nhiên
20
4.4. Giải pháp phát triển IIT hàng nông sản giữa VN và APEC
4.4.1. Tăng trưởng bền vững về quy mô kinh tế của Việt Nam
Việt Nam cần chú trọng mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững hướng tới
nâng cao chất lượng, chú trọng đến yếu tố năng suất, hiệu quả với sự tham gia
trong chuỗi giá trị toàn cầu. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng nhờ vào gia công
chế biến với hiệu quả thấp, bị động và phụ thuộc vào nền kinh tế khác sang mô
hình tăng trưởng dựa vào khai thác lợi thế cạnh tranh, chú trọng nâng cao giá trị
gia tăng, giảm chi phí trung gian trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng
hóa có hàm lượng công nghệ cao trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế so sánh của
đất nước và đồng bộ hóa quá trình thu mua, chế biến và phân phối sản phẩm nông
sản. Đồng bộ hóa nâng cao năng lực cho ngành công nghiệp phụ trợ để chủ động
chế biến các mặt hàng nông sản làm trung gian, cung cấp đầu vào cho quá trình
chế biến nông sản nhằm tạo ra hàng hóa có giá trị kinh tế cao, chủ động tham gia
vào chuỗi giá trị toàn cầu.
4.4.2.Phát triển sản xuất nông sản hàng hóa gắn với phát triển kinh tế và cải
thiện thu nhập cho người dân
Việc sản xuất nông sản ngoài việc cung ứng cho nhu cầu tiêu dùng của thị
trường nội địa, phát triển sản xuất nông sản hàng hóa cần cung cấp nguyên liệu
cho các ngành công nghiệp chế biến nông sản. Xây dựng mô hình sản xuất kinh
doanh phù hợp với từng loại cây. Khuyến khích tập trung và mở rộng khai phá
ruộng đất, phát triển mô hình trang trại phù hợp với quy mô và điều kiện kinh
doanh của từng vùng. Xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam, góp phần
tăng giá bán nông sản trên thị trường quốc tế. Đáp ứng nhu cầu của người tiêu
dùng về xuất xứ sản phẩm. Chính sự phát triển sản xuất nông sản hàng hóa sẽ giải
quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập tăng thêm cho cư dân nông thôn. Đồng thời
xuất khẩu nông sản sẽ đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn phục vụ tăng trưởng và phát
triển quy mô kinh tế. Qua đó sẽ nâng cao thu nhập bình quân, đảm bảo vững chắc
an ninh lương thực quốc gia. Đây là giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy IIT hàng
nông sản.
4.4.3.Đẩy mạnh mức độ IIT dựa vào yếu tố về khoảng cách địa lý
Từ nghiên cứu ta thấy các nước gần nhau về mặt địa lý với Việt Nam sẽ có
nét tương đồng về đặc điểm văn hóa, xu hướng tiêu dùng, đặc biệt là các nước có
chung đường biên giới với Việt Nam sẽ có mức độ phát triển IIT hàng nông sản
lớn hơn. Do đó Việt Nam cần xây dựng chính sách ưu tiên trong lựa chọn các đối
tác thương mại mà mình có lợi thế về khoảng cách địa lý như Trung Quốc, Thái
Lan, Indonexia, Malaysia, Singapore Đặc biệt là các nước có chung đường biên
21
giới tiếp giáp với Việt Nam để giảm chi phí vận chuyển và chi phí thông tin, tiết
kiệm thời gian vận chuyển, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp. Qua đó Việt
Nam sẽ duy trì và phát huy lợi thế này để thúc đẩy IIT các với mặt hàng nông sản
về cả quy mô, cơ cấu mặt hàng và đa dạng chủng loại mặt hàng nông sản.
4.4.4. Nâng cao chất lượng nông sản chế biến
Qua phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến IIT hàng nông sản và nghiên
cứu xu hướng tiêu dùng nông sản của thế giới cho thấy để nâng cao mức độ IIT
hàng nông sản, đặc biệt chú trọng đến khâu chế biến, cung cấp các sản phẩm theo
hướng đáp ứng trúng thị hiếu tiêu dùng trong thời gian tới là thực phẩm đóng gói,
thực phẩm ăn nhanh, thực phẩm giảm béo, thực phẩm chữa bệnh, thực phẩm có
lợi cho sức khỏe và thực phẩm chất lượng cao. Do vậy cần đẩy mạnh công nghệ mới
vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông
sản, ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi trồng và chế biến rau quả, thực phẩm.
4.4.5. Tăng cường kí kết các Hiệp định thương mại song phương
Qua mô hình phân tích các yếu tố tác động đến IIT cho thấy việc tham gia
vào Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam với Nhật ản, Chi Lê và
Hàn Quốc đã góp phần thúc đẩy phát triển mức độ IIT. Đặc biệt là khi Việt Nam
tham gia kí kết Hiệp định thương mại song phương với các nước có tốc độ tăng
trưởng về quy mô kinh tế và có thu nhập cao sẽ tác động rất tích cực đến cường
độ IIT. Hợp tác hiệu quả trong các sản phẩm nông nghiệp là một thành phần quan
trọng của hợp tác song phương giữa hai nước, góp phần thúc đẩy mức độ IIT.
4.4.6. Mở cửa thị trường và tăng cường hợp tác đầu tư trong nông nghiệp
Trên cơ sở hợp tác với APEC thông qua các cuộc đàm phán thương mại
song phương và dần dần mở rộng thị trường nông sản. Đề xuất này cần được tiến
hành một cách thận trọng. Một mặt, Việt Nam phải cạnh tranh trong các sản
phẩm nông nghiệp, mở cửa thương mại có thể gây ảnh hưởng sản xuất nông
nghiệp, đến thu nhập cũng như việc làm của người nông dân. Vì vậy, điều cần
thiết để bảo đảm mở cửa từng bước thị trường nông sản của Việt Nam. Mặt khác,
Việt Nam cần mở rộng các lĩnh vực hợp tác trong nông nghiệp, nghiêm túc thực
hiện các cam kết quốc tế về lộ trình cắt giảm thuế quan, cải cách thủ tụchành
chính,chấp nhận cạnh tranh để hội nhập thị trường thế giới đồng thời thu hút và
sử dụng nguồn vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý
hiệu để phát triển nông nghiệp.
4.4.7. Đẩy mạnh tập trung ruộng đất cho sản xuất hàng nông sản
Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố diện tích đất nông nghiệp là yếu tố
tác động tích cực đến IIT và HIIT. Do vậy Việt Nam cần đẩy mạnh tập trung
22
ruộng đất cho sản xuất hàng nông sản. Tích tụ ruộng đất là tất yếu của phát triển
nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế thị trường, quá trình tích tụ ruộng đất phải phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội, giúp nông dân tiếp cận được ruộng đất
để nâng cao đời sống. Tích tụ ruộng đất phải nhằm vào khai thác và sử dụng đất
một cách hiệu quả nhất. Tích tụ ruộng đất phải gắn với việc chuyển dịch một
phần lớn lao động nông nghiệp sang làm công nghiệp dịch vụ tại nông thôn và đô
thị. Chính sách tích tụ ruộng đất phải nhằm vào phát triển kinh doanh nông
nghiệp và vì nông dân, cho nông dân. Khuyến khích nông dân tích tụ ruộng đất để
phát triển sản xuất nông nghiệp, tránh việc đầu cơ ruộng đất, sử dụng ruộng đất
kém hiệu quả.
4.4.8. Đa dạng hóa nông sản nhập khẩu phục vụ thị trường nội địa
Nhu cầu tiêu dùng nông sản nhập khẩu trong thời gian tới sẽ tăng mạnh
về số lượng, chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng đòi hỏi khắt khe
hơn. Trong khi thị trường thế giới đang bị suy giảm, một thị trường sẵn có với
hơn 100 triệu dân là cần thiết để có thể giúp các nhà nhập khẩu nông sản giải tỏa
lượng hàng, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn. Đối với các mặt hàng thực
phẩm, các nhà nhập khẩu cần nghiên cứu nhu cầu và tìm hiểu thị hiếu tiêu dùng nội
địa về thực phẩm chế biến sẵn, tiện dụng phục vụ cho nhu cầu ăn nhanh ở các đô thị
lớn, thực phẩm có lợi cho sức khỏe để đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng Việt Nam.
Chính điều này sẽ thúc đẩy IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC.
23
KẾT LUẬN
Thứ nhất, luận án đã tổng quan được về mặt lý luận và thực tiễn từ các công
trình nghiên cứu trước đây cho thấy về các yếu tố tác động đến thương mại nội
ngành. Hầu hết các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành ở cấp quốc gia, ở
các ngành nghiên cứu khác nhau, phạm vi giữa các nước, khu vực khác nhau.
Nghiên cứu các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành ở Việt Nam còn ít, đặc
biệt trong lĩnh vực hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC.
Thứ hai, phương pháp phân tích định lượng phổ biến được sử dụng trong
nghiên cứu các yếu tố tác động đến IIT, HIIT, VIIT hàng nông sản là mô hình
trọng lực với dữ liệu mảng. Luận án đã tính toán các chỉ số IIT hàng nông sản
giữa Việt Nam và APEC theo chỉ số Grubel – Lloyd và phân tách IIT hàng nông
sản thành HIIT và VIIT theo phương pháp của Kandogan (2003).
Thứ ba, luận án đã đánh giá thực trạng khối lượng và mức độ IIT, HIIT và
VIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên của APEC, đánh giá tập
trung vào mức độ IIT các mặt hàng nông sản chủ yếu giữa Việt Nam với một số
nước, trong đó trình bày chi tiết về mức độ IIT về các mặt hàng cụ thể trong
nhóm hàng nông sản theo giữa Việt Nam và một số nước chủ yếu thuộc APEC.
Qua đó chỉ ra những thành tựu và hạn chế tồn tại trong phát triển thương mại nội
ngành hàng nông sản.
Thứ tư, luận án đã xây dựng câu hỏi nghiên cứu, hệ thống chỉ tiêu phân tích
làm cơ sở cho việc tiến hành các phương pháp định lượng các yếu tố tác động đến
IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. Phương pháp phân tích được sử
dụng trong luận án gồm phương pháp so sánh, phương pháp trung bình động,
phương pháp phân tích định lượng gồm thống kê mô tả, ma trận hệ số tương quan
và phân tích hồi quy. Đặc biệt trong phân tích hồi quy, luận án đưa ra ba mô hình
phân tích với các yếu tố tác động đến IIT, HIIT và VIIT.
Thứ năm, luận án sử dụng mô hình trọng lực để xây dựng khung phân tích
và thiết kế mô hình các yếu tố tác động đến IIT, HIIT và VIIT hàng nông sản
giữa Việt Nam và các thành viên của APEC. Từ đó luận án chủ yếu tập trung vào
sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để xác định các yếu tố
tác động đến IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các đối tác thương mại thuộc
APEC trong giai đoạn 1997 -2014. Trong đó trình bày các kết quả kiểm định, mô
tả các biến trong mô hình, ma trận hệ số tương quan và kết quả ước lượng của mô
hình. Mô hình hồi quy sử dụng dữ liệu mảng và áp dụng phương pháp REM.
Thứ sáu, luận án đã chỉ ra chiều hướng tác động và mức độ tác động của các
yếu tố tác động đến IIT, HIIT và VIIT hàng nông sản giữa Việt Nàm và APEC
24
gồm có: (i) Quy mô của nền kinh tế, (ii) Sự khác biệt về quy mô kinh tế, (iii) thu
nhập bình quân đầu người, (iv) Sự khác biệt về mức thu nhập bình quân đầu
người, (v) Khoảng cách địa lý, (vi) Quy mô dân số, (vii) Độ mở nền kinh tế,
(viii) Diện tích đất nông nghiệp, (ix) Đường biên giới chung và (x) Tham gia hiệp
định thương mại tự do song phương giữa Việt Nam với các đối tác thương mại. Các
kết quả thực nghiệm phần lớn đã đúng với lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu.
Thứ bảy, để thúc đẩy thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam
và APEC đến năm 2020, một số giải pháp chính sách phát triển thương mại nội
ngành phù hợp với bối cảnh của sự thay đổi sâu sắc của kinh tế thế giới là: (i)
Đẩy mạnh tăng trưởng quy mô kinh tế của Việt Nam; (ii) Phát triển sản xuất nông
sản hàng hóa gắn với phát triển kinh tế và cải thiện thu nhập cho người dân; (iii)
Đẩy mạnh mức độ IIT dựa vào yếu tố về khoảng cách địa lý; (iv) Nâng cao chất
lượng nông sản chế biến; (v) Tăng cường tham gia Hiệp định thương mại song
phương; (vi) Mở cửa thị trường và tăng cường hợp tác đầu tư trong nông nghiệp;
(vii) Đẩy mạnh tập trung ruộng đất cho sản xuất hàng nông sản; (viii) Đa dạng
hóa nông sản nhập khẩu phục vụ thị trường tiêu dùng nội địa.
Thứ tám, luận án sẽ hoàn thiện hơn nếu bổ sung phần nội dung đánh giá các
yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và
APEC thông qua bộ số liệu sơ cấp về khảo sát lấy ý kiến của các chuyên gia. Đây
có thể là phần hạn chế của luận án và mở ra hướng nghiên cứu tiếp theo. Khi đó
mô hình sẽ là một cách tiếp cận mới cho các nghiên cứu xa hơn vì nó sẽ cung cấp
ý nghĩa sâu rộng hơn và thực tế hơn về các yếu tố tác động đến thương mại nội
ngành hàng nông sản. Sự sửa đổi này sẽ làm cho mô hình gần với thực tế hơn.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA NGHIÊN CỨU SINH
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
(1). Võ Thy Trang (2013),“Nghiên cứu thương mại nội ngành của Việt Nam với
một số nước thành viên thuộc APEC”, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia –
Kho bạc Nhà nước, số 138 (12/2013), tr.50– tr.52
(2). Võ Thy Trang, Vũ Thị Quỳnh Anh (2013), “Vấn đề nâng cao năng lực xuất
khẩu của doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại
học Thái Nguyên, Tập 109, số 09, tr121 – tr.127.
(3). Võ Thy Trang (2014), “Vận dụng mô hình trọng lực trong đo lường thương
mại nội ngành hàng chế biến giữa Việt Nam với một số nước thành viên
thuộc APEC”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, Tập
117, số 03, tr.167- tr.176.
(4). Võ Thy Trang (2016), “Phát triển thương mại nội ngành hàng nông nghiệp
giữa Việt Nam với APEC”, Tạp chí Tài chính – Bộ tài chính, kì 1 tháng
6/2016 (634), tr.89– tr90.
(5). Võ Thy Trang (2016), “Yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng
nông sản giữa Việt Nam với APEC”, Tạp chí Tài chính – Bộ tài chính, kì 2
tháng 12/2016 (647), tr.18– tr21.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_cac_yeu_to_tac_dong_den_thuong_mai_noi_nganh.pdf