Thời gian và không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích về chủ đề
hôn nhân, thể hiện quan điểm thẩm mĩ của tác giả dân gian. Đó là, thời gian
kì ảo tương ứng với sự biến hóa thần kì, sự đổi đời kì diệu của nhân vật kết
hôn; đó còn là, không gian rộng mở và đa dạng mang đậm dấu ấn văn hóa,
phong tục của các vùng miền khác nhau, tạo nên sự hấp dẫn cho câu
chuyện. Yếu tố nghệ thuật thần kì được thể hiện qua các hình thức biến hóa
của nhân vật kết hôn, một mặt phản ánh trí tưởng tượng phong phú của tác
giả dân gian, mặt khác mang một ý nghĩa gần gũi với tín ngưỡng vật linh cổ
xưa. Truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, đặc biệt còn sử dụng những yếu tố
trợ giúp (không thần kì) - là các vật dụng thông thường, nhưng có tác dụng
màu nhiệm giống như những trợ thủ thần kì, phản ánh óc thực tiễn và bài
học về kinh nghiệm sống của các tác giả dân gian. Hai motif hạt nhân có ý
nghĩa quan trọng là motif trút lốt và motif tranh đoạt hôn nhân - trong đó,
một motif chứa đựng những vấn đề phong tục có nguồn gốc cổ xưa, mang ý
nghĩa dân tộc học và một motif chứa đựng vấn đề đấu tranh xã hội, mang ý
nghĩa xã hội học - đã xuất hiện ở các vị trí khác nhau trong cấu trúc cốt
truyện về chủ đề hôn nhân, thể hiện nhận thức luận của tác giả dân gian về
tiến trình và ý nghĩa của các hình thức hôn nhân trong lịch sử
27 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 3529 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Chủ đề hôn nhân và sự phản ánh phong tục hôn nhân trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƢƠNG NGUYỆT VÂN
CHỦ ĐỀ HÔN NHÂN VÀ SỰ PHẢN ÁNH
PHONG TỤC HÔN NHÂN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH
CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 62 22 25 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HUẾ
HÀ NỘI, 2016
Công trình đƣợc hoàn thành tại: Viện Hàn Lâm Viện Khoa học xã
hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Huế
Phản biện 1: PGS.TS. Bùi Mạnh Nhị
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Xuân Đức
Phản biện 3: PGS.TS. Đỗ Lai Thúy
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp
tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 201...
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Viện Học viện Khoa học xã hội
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Truyện cổ tích luôn hướng đến những con người nhỏ bé trong
xã hội xưa với cái nhìn nhân văn cao cả, đồng thời sở hữu một thế giới nghệ
thuật độc đáo - “thế giới cổ tích”... Khảo sát truyện cổ tích, chúng ta sẽ hiểu
được truyền thống tốt đẹp, trở thành hồn cốt của mỗi dân tộc, cùng khả
năng sáng tạo diệu kì của người lao động.
1.2. Hôn nhân là một trong những dấu hiệu thể hiện cuộc sống cao
đẹp của con người. Không những thế, nó còn mang đầy đủ những dấu chỉ
văn hóa trong bước đường phát triển của con người, mỗi dân tộc, mỗi tộc
người. Truyện cổ tích là thể loại phản ánh đầy đủ nhất, rõ nét nhất không
chỉ những bước tiến bộ trong hôn nhân của con người, mà còn là những
khát vọng cháy bỏng của người lao động về tình yêu, về hôn nhân tự do, về
công lí, về những phẩm chất tốt đẹp của con người.
1.3. Là người đang giảng dạy chuyên ngành Văn học dân gian ở
trường Đại học, việc tiếp cận một chủ đề đặc sắc, thú vị trong kho tàng cổ
tích của dân tộc không đơn thuần là một hoạt động khoa học thuần túy, mà
còn là cách tự nâng cao năng lực nghiên cứu, trau dồi kiến thức phục vụ cho
công tác giảng dạy của bản thân.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Chủ đề hôn
nhân và sự phản ánh phong tục hôn nhân trong truyện cổ tích các dân
tộc Việt Nam làm vấn đề nghiên cứu cho luận án của mình, với mong muốn
khám phá và tìm hiểu sâu sắc về bản chất thể loại, làm rõ sự phản ánh phong
tục hôn nhân truyền thống của các dân tộc Việt Nam qua truyện cổ tích.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Trên cơ sở tư liệu đã công bố trong kho tàng truyện cổ tích
các dân tộc Việt Nam, tập hợp toàn bộ hệ thống truyện cổ tích về chủ
đề hôn nhân; nhận diện, khảo sát các dạng thức cơ bản của nó , cũng
như các phong tục/thiết chế hôn nhân trong đời sống của người xưa và
trong “thế giới cổ tích”.
2
2.2. Nghiên cứu chủ đề hôn nhân trong truyện cổ tích ở cả nội
dung phản ánh và các phương thức nghệ thuật, nhằm phát lộ những lớp
văn hóa ẩn chứa trong đó qua những đặc trưng thể/tiểu loại của truyện
cổ tích.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Khảo sát 77 tập truyện kể dân gian, với số lượng truyện lên tới hàng
ngàn đơn vị, chúng tôi đã tìm ra được 616 truyện thuộc chủ đề hôn nhân.
3.2. Chúng tôi lựa chọn những truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, trong
đó gồm cả những truyện liên quan tới quan hệ hôn nhân và phản ánh phong
tục hôn nhân làm đối tượng khảo sát và nghiên cứu của mình.
3.3. Luận án sẽ đề cập đến phong tục hôn nhân chứa đựng và được
phản ánh qua truyện cổ tích. Từ đó, hướng đến làm rõ mối quan hệ giữa
truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân với phong tục hôn nhân trong đời sống
văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận: Chúng tôi tiếp cận đối tượng đối tượng nghiên
cứu dưới góc độ của khoa nghiên cứu văn học dân gian, tức là nghiên cứu
truyện cổ tích với các qui phạm của khoa nghiên cứu văn học.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong luận án, chúng tôi có sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp thống kê, phân loại; phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh - loại hình; phương pháp
điều tra, điền dã.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Luận án là công trình đầu tiên khảo sát, tập hợp, hệ thống hóa và
nghiên cứu chuyên sâu hệ thống truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân của các
dân tộc Việt Nam.
5.2. Luận án đã khảo sát, phân loại những dạng thức cơ bản của các
hình thức hôn nhân, chỉ ra những lớp văn hóa ẩn chìm trong các phong tục
liên quan đến hôn nhân, lí giải một số vấn đề về mối quan hệ giữa truyện cổ
tích với phong tục trong hiện thực đời sống các dân tộc Việt Nam và trong
“thế giới cổ tích”.
3
5.3. Luận án đã nhận diện, phân tích những đặc điểm nghệ thuật
độc đáo mà tác giả dân gian đã sử dụng một cách hữu hiệu để phản ánh
ước mơ trong hôn nhân, trong các phong tục, tập quán đã ăn sâu vào đời
sống hôn nhân của các dân tộc Việt Nam. Luận án cũng chỉ ra tài năng sáng
tạo của tác giả dân gian trong việc sử dụng yếu tố thần kì, yếu tố trợ giúp,
nhằm phản ánh ước mơ lãng mạn về hôn nhân, khắc sâu những phẩm chất
tốt đẹp của người lao động trong hôn nhân và gia đình.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lí luận, qua kết quả nghiên cứu, luận án khẳng định
hướng tiếp cận truyện cổ tích với tư cách là những sáng tác ngôn từ; đồng
thời, không loại trừ việc sử dụng các tri thức dân tộc học, văn hóa tộc người
khi lí giải, phân tích các dạng thức cơ bản của hình thức hôn nhân và các
phong tục, tập quán liên quan đến nó.
6.2. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu cho thấy, các hình thức
hôn nhân đa dạng, phong phú của các tộc người trên đất nước Việt Nam. Sự
đa dạng, phong phú này vẫn tạo nên tính thống nhất cao. Đó là ý nghĩa nhân
văn trong phong tục hôn nhân của các cư dân trên đất nước ta. Truyện cổ
tích phản ánh ước mơ và nhận thức nhiều mặt của của người dân xưa, trong
đó có ước mơ về cuộc sống lứa đôi chung thủy, tốt đẹp trong một xã hội
thanh bình, no ấm. Đó là những gợi ý tích cực cho xã hội đương đại, khi mà
vòng xoáy của cơn lốc thị trường đã làm tan vỡ hoặc rạn nứt không ít mái
ấm hạnh phúc gia đình.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo và Phụ lục, phần
Nội dung của luận án được cấu trúc làm bốn chương:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề
tài.
Chƣơng 2: Nhận diện chủ đề hôn nhân trong truyện cổ tích các
dân tộc Việt Nam.
Chƣơng 3: Sự phản ánh phong tục hôn nhân trong truyện cổ tích về
chủ đề hôn nhân.
Chƣơng 4: Một số phương diện nghệ thuật của truyện cổ tích về chủ đề
hôn nhân.
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu chủ đề hôn nhân và phong tục hôn nhân trong
truyện cổ tích
Năm 1972, các tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên trong cuốn
Văn học dân gian khi tìm hiểu về truyện kể dân gian đã khẳng định: Truyện
Trầu Cau, Tô Thị Vọng phu ngày nay đã trở thành truyện cổ tích, nhưng cốt
lõi của chúng vốn là thần thoại. Năm 1974, nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh
trong công trình Tìm hiểu tiến trình Văn học dân gian Việt Nam cũng quan
tâm đến chủ đề hôn nhân với việc phản ánh xung đột giữa hai hình thái hôn
nhân: một thuộc chế độ quần hôn (anh em lấy chung một vợ) thời mẫu hệ
và một thuộc chế độ hôn nhân và gia đình lứa đôi thời phụ hệ. Năm 1983
trên Tạp chí Văn học, số 5, tác giả Đặng Thái Thuyên với bài viết Đề tài
hôn nhân trong truyện cổ tích thần kì Mường đã xuất phát từ hướng nghiên
cứu chủ đề hôn nhân trong không gian xã hội người Mường. Năm 1984, tác
giả Tăng Kim Ngân trong bài viết Qua tục ăn trầu và truyện Trầu Cau của
người Việt, bàn về mối quan hệ anh - em, vợ - chồng, đã căn cứ vào những
dị bản về truyện Trầu Cau để so sánh, đối chiếu, tìm sự giống nhau của các
motif và type truyện trong các dị bản với mong muốn bước đầu lí giải
những vấn đề dân tộc học, vấn đề xã hội hội học trong các cốt truyện. Năm
1992, trên Tạp chí Văn hoá dân gian, số 4, tác giả Nguyễn Thục Hiền có
bài viết Truyện Trầu Cau phản ánh chế độ quần hôn?. Năm 1997, trên Tạp
chí Văn hoá dân gian, số 3, tác giả Nguyễn Thị Huế với bài viết Chủ đề thử
tài để kết hôn - sự biến đổi từ phong tục dân tộc học đến motif truyện cổ
tích thần kì đã đi sâu phân tích motif thử thách qua chủ đề thử tài để kết hôn
trong kết cấu hình tượng nhân vật xấu xí mà tài ba. Năm 1998 trong công
trình Bình giảng truyện dân gian, tác giả Hoàng Tiến Tựu đã nhấn mạnh hai
vấn đề đặc biệt quan trọng của truyện Trầu Cau. Năm 1998, tác giả Đông
Phong với công trình Về nguồn văn hoá cổ truyền Việt Nam đã tìm hiểu,
nghiên cứu và sắp xếp truyện Sự tích Đầu Rau vào nhóm các câu chuyện về
5
chủ đề hôn nhân và gia đình. Năm 1999, các tác giả Chu Xuân Diên, Lê Chí
Quế trong cuốn Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam đã đưa ra nhận xét: “Trầu
Cau, cùng với Đá Vọng phu, Sao Hôm sao Mai, Ông Đầu Rau là những
truyện nảy sinh trên cơ sở lịch sử xã hội của giai đoạn quá độ từ chế độ mẫu hệ
sang chế độ phụ hệ”. Năm 2001, trên Tạp chí Văn học, số 4, tác giả Kiều
Thu Hoạch có bài nghiên cứu So sánh típ truyện Trầu Cau ở Trung Quốc
với típ truyện cùng loại ở Việt Nam và Campuchia - bàn về tục ăn trầu và
văn hoá quyển trầu cau ở Đông Nam Á.
Bên cạnh các công trình của các nhà nghiên cứu trên, chúng tôi còn tiếp
cận với những luận văn, luận án có vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài này
như: Tác giả Nguyễn Thị Kim Huế với luận văn Thạc sĩ với đề tài Kiểu truyện về
đề tài hôn nhân “người - rắn” trong kho tàng truyện cổ dân gian các dân tộc
Việt Nam; tác giả Mai Thu Hương với đề tài Khảo sát một số nhóm truyện về đề
tài tình yêu, hôn nhân trong truyện cổ tích dân tộc Thái; tác giả Nguyễn Việt
Hùng với đề tài luận văn Thạc sĩ Sự tích Vọng phu và tín ngưỡng thờ đá ở Việt
Nam; tác giả Đặng Thị Thu Hà với đề tài Kiểu truyện Người lấy vật và sự phản
ánh chủ đề phong tục trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam; tác giả Nguyễn
Thị Thu Hoà với đề tài luận văn Thạc sĩ Kiểu truyện hôn nhân anh em ruột trong
kho tàng truyện kể dân gian các dân tộc Việt Nam; tác giả Hoàng Thị Thanh
Trọng với Kiểu truyện về đề tài hôn nhân “giàu - nghèo” trong kho tàng truyện
cổ tích thần kì các dân tộc Việt Nam.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, chúng tôi
chọn đề tài khoa học Chủ đề hôn nhân và sự phản ánh phong tục hôn nhân
trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam làm đề tài luận án của mình.
1.2. Cơ ở lí thuyết của đề tài
1.2.1. Một số vấn đề về ện ổ
1.2.1.1. Khái niệm truyện cổ tích và thời kì ra đời truyện cổ tích
Trên cơ sở rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyện cổ tích của các
nhà nghiên cứu, chúng tôi xác định nội hàm khái niệm truyện cổ tích gồm
mấy vấn đề như sau: Thứ nhất, truyện cổ tích manh nha từ xã hội nguyên
thủy và phát triển mạnh trong xã hội phong kiến; thứ hai, về nội dung
6
truyện cổ tích hướng đến mối quan hệ giữa con người trong gia đình và
ngoài xã hội, nó phản ánh những mâu thuẫn của xã hội; đề cao những con
người nhỏ bé, tầm thường nhất trong xã hội; ca ngợi tình cảm đạo đức của
con người trong tính nhân văn cao nhất; trình bày những mơ ước, khát vọng
của người dân; thứ ba, về nghệ thuật, truyện cổ tích được đan dệt bởi các
motif, nó có kết cấu cốt truyện, yếu tố thần kì, không gian và thời gian nghệ
thuật đặc trưng; thứ tư, về sự tiếp nhận, truyện cổ tích là loại truyện được
người dân yêu thích nhất so với các thể loại tự sự dân gian khác, nó ăn sâu
trong tâm thức người dân từ bao đời nay. Trên cơ sở xác định nội hàm khái
niệm truyện cổ tích đã gợi mở về thời kì lịch sử ra đời của thể loại này. Đó
là thời kì chế độ công xã nguyên thủy tan rã, xã hội có giai cấp, có nhà nước
bắt đầu hình thành, nên trong lòng xã hội xuất hiện những giai cấp mới,
tầng lớp mới và đi kèm với đó là những mâu thuẫn, xung đột.
1.2.1.2. Vấn đề phân loại truyện cổ tích
Hiện nay, đa số các nhà nghiên cứu truyện cổ tích trong và ngoài nước
đều tương đối thống nhất trong việc phân thể loại truyện cổ tích thành ba
tiểu loại chính, đó là: truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần kì và truyện
cổ cổ tích sinh hoạt. Từ kết quả khảo sát và cách phân chia thể loại truyện
cổ tích kể trên chúng tôi nhận thấy, truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân được
đặt ra nghiên cứu trong luận án thuộc tiểu loại truyện cổ tích thần kì và
truyện cổ tích sinh hoạt.
1.2.1.3. Chủ đề truyện cổ tích
Chủ đề chính của truyện cổ tích phản ánh những chuyển biến xã hội
ngay trong lòng nó. Chủ đề nổi bật của truyện cổ tích là phản ánh mâu
thuẫn, đấu tranh xã hội. Một chủ đề khác của truyện cổ tích là sự ngợi ca
của tác giả dân gian hướng vào phần lớn dân chúng, đó là những người bình
thường, nghèo khó, cùng cực nhưng có lòng hiếu thảo, lại vô cùng thông
minh, nhanh trí, trọng nghĩa trọng tình, họ giám đấu tranh cho sự công
bằng. Hôn nhân cũng là một trong những chủ đề tiêu biểu và đặc sắc được
truyện cổ tích quan tâm, lí giải.
7
1.2.2. Khái niệm motif
Trên cơ sở khảo sát các định nghĩa motif và các ứng dụng motif trong
việc giải mã truyện kể dân gian, chúng tôi nhận thấy, có mấy vấn đề cơ bản
sau đây: Thứ nhất, motif là những khuôn, dạng, mẫu hoặc kiểu hành động,
chức năng nhân vật trong truyện cổ tích; thứ hai, motif là yếu tố quan trọng
thuộc kết cấu tác phẩm truyện cổ tích, hình thành trước khi tác giả dân gian bắt
tay vào sáng tác; thứ ba, motif mang tính kí hiệu. Tức là, trong mỗi motif có
mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt;
thứ tư, motif có tính độc đáo, đặc trưng khiến người dọc dễ ấn tượng về nó; thứ
năm, motif thường có tính chung và tính riêng.
1.2.3. Phong tục và phong tục hôn nhân
Từ việc tìm hiểu các định nghĩa về phong tục của các nhà nghiên cứu,
chúng tôi nhận thấy, có hai vấn đề nổi bật thuộc về nội hàm khái niệm phong
tục như sau: Thứ nhất, phong tục là thói quen đã ăn sâu vào tâm thức và hành
vi của cộng đồng; thứ hai, phong tục tồn tại một cách phổ biến trong đời sống
của người dân. Phong tục hôn nhân là những thói quen tồn tại một cách phổ
biến trong các nghi lễ trong cưới xin, như tục ăn trầu, dạm vợ, thách cưới, ăn
hỏi, đám cưới, ở rể, kén rể, kiêng kị
1.2.4. Mối quan hệ giữa truyện cổ tích và phong tục
Truyện cổ tích và phong tục, tập quán có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Phong tục, tập quán là cơ sở, nguồn gốc ra đời các truyện cổ tích; còn
truyện cổ tích đã góp phần phản ánh phong tục, tập quán một cách sinh động
nhất. Có thể nói, mối quan hệ giữa truyện cổ tích và phong tục là mối quan hệ
mang tính biện chứng. Nghiên cứu truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân và sự
phản ánh phong tục hôn nhân, chúng tôi quan niệm phong tục hôn nhân là
cơ sở ra đời truyện cổ tích về chủ đề này, mặt khác chính truyện cổ tích
cũng đã phản ánh một cách chân thực phong tục hôn nhân của các dân tộc
Việt Nam, vì thế trong truyện cổ tích còn lưu lại những dấu tích của nhiều
nghi lễ và phong tục truyền thống của các cộng đồng cư dân.
Tiểu kết chƣơng 1
Thực hiện đề tài Chủ đề hôn nhân và sự phản ánh phong tục hôn
nhân trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam, chúng tôi đã tìm hiểu lịch
8
sử nghiên cứu chủ đề hôn nhân và sự phản ánh phong tục hôn nhân để có
cái nhìn bao quát và hệ thống về vấn đề sẽ được tiếp tục triển khai trong
luận án. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã tập trung làm rõ cơ sở lí thuyết của
đề tài. Điều này giúp cho luận án được triển khai một cách nhất quán về thể
loại tự sự dân gian này. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã trình bày cách hiểu của
mình về các khái niệm công cụ. Các khái niệm này sẽ là cơ sở để chúng tôi
vận dụng trong từng vấn đề nghiên cứu cụ thể của mình. Đồng thời, chúng
tôi cũng đã chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa truyện cổ tích và phong tục.
Việc xác định được vấn đề này, sẽ góp phần giải mã chủ đề hôn nhân trong
truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam được thuyết phục hơn.
Chƣơng 2
NHẬN DIỆN CHỦ ĐỀ HÔN NHÂN
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
2.1. Hôn nhân ngƣời - vật
n n n n - n n ố ậ
2.1.1.1. Hôn nhân người - người mang lốt động vật
Trong truyện cổ tích, nhân vật người lốt động vật chiếm số lượng
lớn nhất. Nhân vật tham gia kết hôn cũng rất đa dạng. Trong đó, lốt rắn,
rồng, thuồng luồng hay trăn, rùa, cóc, ốc, ếch, cá có số lượng phong phú hơn
cả. Các nhân vật người mang lốt động vật xuất hiện chủ yếu trong truyện cổ
tích các dân tộc thiểu số. Việc đưa những con vật vào truyện cổ tích với vai
trò làm cái lốt cho nhân vật đã phản ánh một cái nhìn nhân ái của con người
đối với muôn loài. Đồng thời, cũng bộc lộ ước muốn có được sự hòa hợp
giữa con người với thế giới tự nhiên thông qua sự hiện diện của các con vật.
. . . . Hôn nhân người - người mang lốt thực vật
Hôn nhân người - người mang lốt thực vật hiện chỉ còn tìm thấy ở một
số ít các dân tộc với số lượng rất khiêm tốn so với các nhóm truyện khác. Các
loại nhân vật mang lốt thực vật gồm có hai loại lốt như sau: lốt cây, lốt hoa, lốt
quả. Ở dạng truyện này, đặc biệt là mang lốt cây có thể là một hiện tượng văn
9
hóa liên quan đến tín ngưỡng thờ cây linh hồn, cây vật tổ, cây vũ trụ và hiện
tượng sùng bái cây của con người thời xưa.
. . . . Hôn nhân người - người mang lốt đồ vật
Nhóm truyện về chủ đề hôn nhân người - người mang lốt đồ vật,
các nhân vật là người đẹp xuất hiện phổ biến. Với hình thức hôn nhân
người - người mang lốt đồ vật, nhân vật tham gia kết hôn, đặc biệt là với
tuyến nhân vật thiện, các tác giả dân gian xưa đã để cho họ ẩn mình trong
lốt của các đồ vật vốn rất gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân lao
động. Điều đó cũng ảnh hưởng từ thuyết vật linh.
n n n n - n ậ
2.1.2.1. Hôn nhân người - con vật trong tự nhiên
Nhân vật người tham gia kết hôn ở đây là những người anh, người
chị. Ngoài ra, còn có những cô gái nhà giàu, những cô gái đẹp hoặc một số
nhân vật khác. Con vật tham gia kết hôn thường là trăn, khỉ, dê, hổ, lang,
chồn, gián đất. Mặc dù, nhân vật là con vật trong tự nhiên lấy được con
người làm chồng hay làm vợ, nhưng không hề có sự trút lốt nào sau hôn
nhân, nên cuộc hôn nhân đó cuối cùng không thể duy trì. Kết cục của các
hôn nhân này đều là sự tan vỡ. Hôn nhân người - con vật là một dạng hôn
nhân đặc biệt, chứa đựng màu sắc tín ngưỡng, tôn giáo đậm nét.
. . . . Hôn nhân người - con vật đội lốt người
Người tham gia kết hôn trong hình thức hôn nhân này gồm cả nam
và nữ. Việc kết hôn cùng một con vật có thể là do bị lừa nhưng cũng có thể
là do tự nguyện. Người xưa từ chỗ quan niệm muôn loài có chung một
nguồn gốc nên họ cũng có ý tưởng là các con vật có thể biến thành người,
khả năng biến hóa giữa người và con vật là có thể trở thành hiện thực. Yếu
tố này đã ảnh hưởng rất lớn trong việc lưu truyền, sáng tạo của các tác giả
dân gian.
2.2. Hôn nhân ngƣời - tiên
2.2.1. Nhân vậ n n n nữ
Trong quan hệ hôn nhân người - tiên, đại đa số các trường hợp nhân
vật nam kết hôn cùng tiên nữ. Nhân vật chàng trai trong những truyện kể
10
này thường là những người có xuất thân thấp hèn, họ sinh ra và lớn lên
trong những gia đình nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, nhưng họ lại được tác
giả dân gian xây dựng là những chàng trai có phẩm chất tốt đẹp. Trong các
truyện kể, các nàng tiên thuộc thế giới nước thường xuất hiện với lốt của
các con vật quen thuộc ở ao hồ, sông ngòi, biển cả như: cá, ếch, cua, ốc,
rùa Bên cạnh nhân vật là những nàng tiên mang lốt vật còn có nhiều
truyện về các nàng tiên không mang lốt mà là những cô gái xinh đẹp.
n ậ n nữ n n
Nhóm truyện này chiếm số lượng rất ít. Các chàng trai, cô gái trong
nhóm truyện này là những con người khốn khổ, những con người rất đáng
thương: nhà nghèo, mồ côi, bị người thân hành hạ hoặc cô đơn, không nơi
nương tựa. Sáng tạo nên những câu chuyện về hôn nhân người - tiên, các
tác giả dân gian không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức thức thực tại,
mà còn nhằm thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của nhân dân.
2.3. Hôn nhân ngƣời - ngƣời
n n n n ộc
Hôn nhân cùng huyết tộc là hình thức hôn nhân cổ xưa của con
người. Đó là hình thức kết hôn giữa những người cùng huyết thống với
nhau. Hình thức hôn nhân này xuất hiện trong kiểu truyện hôn nhân anh em
ruột. Trong thời đại cổ tích, hôn nhân cùng huyết tộc là vi phạm cấm kị, bị
trừng phạt nghiêm khắc. Do vậy, kết thúc truyện, nhân vật chết hoặc ra đi,
cái chết gắn liền với sự hóa thân. Đây như là một chi tiết nghệ thuật, tác giả
dân gian đã lí giải cuộc hôn nhân này là do "sự vô tình", "sự nhầm lẫn" và
biến sự nhầm lẫn thành một phương thức nghệ thuật hữu hiệu để minh oan
cho nhân vật, bảo vệ nhân vật của mình trên phương diện đạo đức.
2.3.2 n n n đ p
Hôn nhân đa phu trong truyện cổ tích thường là những câu chuyện
phản ánh bi kịch gia đình trong quá trình chuyển từ chế độ mẫu quyền sang
phụ quyền, từ chế độ quần hôn và hôn nhân thị tộc sang chế độ hôn nhân
đối ngẫu và hôn nhân ngoại tộc. Ở hình thức hôn nhân này tồn tại hai dạng
truyện: Dạng truyện thứ nhất, chưa có dấu hiệu xung đột trong quan hệ hôn
11
nhân; dạng truyện thứ hai, đã xuất hiện những dấu hiệu xung đột trong quan hệ
hôn nhân. Ngoài việc giải thích phong tục, hiện tượng, các chi tiết trong
truyện còn phản ánh hiện thực một thời kì xa xưa của nhân loại. Đó là thời
kì mà công xã và chế độ hôn nhân còn cho phép anh em cùng lấy chung
một vợ. Truyện cổ tích của các dân tộc Việt Nam đã ghi lại những hồi ức về
những kiểu quan hệ hôn nhân đó.
2.3.3 n n n đ
Hôn nhân đa thê được phản ánh khá rõ nét trong truyện cổ tích.
Hình thức hôn nhân này tồn tại trong xã hội phụ hệ, khi vai trò của người
đàn ông đã thay thế cho vai trò trụ cột của người đàn bà trong chế độ mẫu
hệ. Trong hôn nhân đa thê, người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ, nhưng
người đàn bà chỉ có quyền lấy một chồng. Người đàn ông lấy nhiều vợ tất
yếu nảy sinh nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa con chung và con riêng; mâu
thuẫn giữa dì ghẻ và con chồng.
2.3.4. Hôn nhân một vợ một chồng
Hình thức hôn nhân một vợ một chồng trong các truyện cổ tích
thường ít có xung đột trong cuộc sống gia đình hơn so với hôn nhân đa thê.
Chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã cho phép xác định được người cha
đẻ của các con trong gia đình mà trong các hình thức hôn nhân trước đó
chưa xác định được. Đây là hình thức hôn nhân phổ biến trong xã hội hiện
đại. Trong gia đình, người chồng bắt đầu nắm vị trí thống trị, vợ và các con
của họ ở vào thế “bị trị” và thực tế, họ là tài sản của người chồng.
Tiểu kết chƣơng 2
Từ góc độ loại hình học, chúng tôi phân chủ đề hôn nhân trong
truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam thành ba nhóm. Trong đó, nhóm truyện
về chủ đề hôn nhân người - vật là những truyện kể về hiện tượng hôn nhân
đặc biệt nhưng lại có tính chất phổ biến trong truyện cổ tích các dân tộc
Việt Nam và truyện cổ tích các dân tộc khác trên thế giới. Nhóm truyện về
chủ đề hôn nhân người - tiên là bức tranh chân thực về cuộc sống và tâm
hồn của người dân lao động. Nhóm truyện về chủ đề hôn nhân người -
người có số lượng truyện phong phú nhất trong những truyện cổ tích về chủ
12
đề hôn nhân. Sử dụng yếu tố thần kì không phải để làm thay đổi cốt truyện,
thay đổi cuộc đời nhân vật theo ước mơ ngàn đời của mình, tác giả dân gian
đã dẫn câu chuyện đến một kết thúc bi kịch như đời thường vẫn xảy ra
nhưng đã "hóa ngọc", đã làm bất tử những phẩm cách tốt đẹp mà chỉ những
người lao động chân chính mới có.
Chƣơng 3
SỰ PHẢN ÁNH PHONG TỤC HÔN NHÂN
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VỀ CHỦ ĐỀ HÔN NHÂN
3.1. Truyện cổ tích về chủ hôn nhân phản ánh phong tục ăn trầu
Truyện về chủ đề hôn nhân liên quan đến tục trầu cau khá phổ biến.
Từ các truyện cổ tích giải thích tục ăn trầu, đã cho thấy được ý nghĩa cơ bản
của truyện, đó là sự kết hợp rất đẹp của bộ ba nhân vật ngay trong bi kịch
của cái chết. Vì ý niệm kết hợp này nên dân gian dựa vào đó để giải thích
một phong tục đẹp của dân tộc. Trong truyện kể, ba nhân vật đều là những
hình tượng đẹp về tình anh em hoà thuận, nghĩa vợ chồng thuỷ chung. Thực
chất, vẫn là tình nghĩa của nhân dân và nghĩa tình đó đã được đúc lại trong
hình tượng trầu - cau - vôi, đời đời quấn quýt bên nhau. Bởi vậy, miếng trầu
là biểu tượng văn hoá đặc biệt thể hiện tính cách dân tộc.
3.2. Truyện cổ tích về chủ hôn nhân phản ánh phong tục thử tài
kén rể và thách cưới
Trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam, tồn tại các hình thức
thử thách để kén rể sau: Thử thách về khả năng thạo nghề, lao động giỏi,
sức khỏe hơn người; thử thách về lòng dũng cảm tiêu diệt ác thú; thử thách
về tài đánh giặc; thử thách về sự thông minh, khéo léo, tài giỏi, mưu mẹo;
thử thách về tài chữa bệnh. Những thử thách trong truyện cổ tích thể hiện
qua công việc khó khăn mà đối tượng thử thách đặt ra cho các chàng trai, cô
gái, đồng thời nó cũng có ý nghĩa phản ánh xung đột giữa hai lực lượng đối
kháng trong xã hội. Gần với phong tục thử tài kén rể, là phong tục thách
cưới. Trong truyện cổ tích, hầu hết các chàng trai đến hỏi bố vợ đều là người
nghèo khó, thấp hèn, xấu xí. Do sự chênh lệch về địa vị, nên các ông bố vợ
không muốn gả con gái mình cho kẻ nghèo hèn, xấu xí. Tuy nhiên, bằng khả
13
năng thần kì của mình và sự nỗ lực của bản thân, các chàng trai đều lo đủ lễ
vật và lấy được cô gái đẹp, con nhà giàu.
3.3. Truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân phản ánh phong tục hỏi vợ/dạm
vợ/cƣớp (bắt) vợ/chồng
3.3.1. Sự phản ánh phong tục hỏi vợ/dạm vợ (chạm ngõ)
Dạm vợ là một lễ tục phổ biến trong hôn nhân thời kì chế độ phụ hệ,
khi người đàn ông giữ vai trò trụ cột trong gia đình và chủ động trong hôn
nhân, thay thế vai trò của người phụ nữ. Đối với các dân tộc theo chế độ
phụ quyền thì nhà trai sẽ đi dạm hỏi và mang lễ vật cho nhà gái tổ chức lễ
cưới. Những dân tộc theo chế độ mẫu hệ, phụ nữ chính là người chủ động
đi hỏi chồng cho mình.
3.3.2. Sự phản ánh phong tục "cướp (bắt) vợ/chồng"
Nếu như tục “cướp (bắt) vợ/chồng" trong truyện cổ tích người
Kinh không nhiều, thì trong truyện cổ tích các dân tộc thiểu số đây lại là
phong tục khá phổ biến. Cướp (bắt) vợ/chồng" vốn là phong tục hôn nhân
xuất hiện từ giai đoạn chuyển từ hôn nhân nội tộc sang hôn nhân ngoại tộc
trong lịch sử hôn nhân. Phong tục, tập quán từ hiện thực lịch sử đã phản ánh
phần nào bước đường khó khăn, thậm chí có đấu tranh quyết liệt khi chuyển
từ hình thái hôn nhân này sang hình thái hôn nhân khác.
3.4. Truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân phản ánh phong tục ở rể
Phong tục ở rể được đề cập khá rõ trong truyện cổ tích về chủ đề hôn
nhân. Chàng rể phải vượt qua những thử thách trong đời sống sinh hoạt vật
chất, tinh thần của gia đình cô gái để chính thức được nhận làm con rể. Nó
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, như để đền đáp công ơn cha mẹ vợ đã sinh
thành và nuôi dạy vợ mình khôn lớn.
3.5. Truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân phản ánh phong tục kiêng kị
Trong hôn nhân của người Việt, có rất nhiều điều kiêng kị, từ chạm
ngõ, ăn hỏi đến lễ cưới đều phải chọn ngày bởi quan niệm, nếu ngày xấu,
đôi trai gái sau này sống với nhau sẽ không thuận hòa, gặp nhiều điều chẳng
lành. Đặc biệt, tục kiêng kị trong hôn nhân của một số vùng dân tộc Tây
Nguyên được thể hiện khá rõ trong truyện cổ tích của họ. Bắt nguồn từ
14
quan niệm "có kiêng có lành", xét cho cùng, vẫn là nhằm cầu mong sự bình
an, phát triển thuận lợi trong đời sống của con người không chỉ trong xã hội
xưa. Sự tồn tại dai dẳng của nó đáng để ta suy ngẫm về đặc điểm của văn
hóa tộc người trên con đường phát triển.
Tiểu kết chƣơng 3
Truyện kể dân gian là nơi lưu giữ lại rất nhiều dấu tích của rất
nhiều nghi lễ và phong tục. Sự lựa chọn và phản ánh phong tục hôn nhân
trong truyện cổ tích cũng như trong đời sống các cộng đồng cư dân phụ
thuộc vào điều kiện sống và quan niệm tín ngưỡng của họ. Truyện cổ dân
gian đã góp phần quan trọng trong việc minh định các phong tục tập quán
đó, làm cho các phong tục này sinh động, hấp dẫn hơn. Trên cơ sở những tư
liệu thuộc về dân tộc học, lịch sử, xã hội học để so sánh với những tư liệu
của truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân các dân tộc Việt Nam đã cho thấy
được mối liên hệ giữa truyện và phong tục hôn nhân.
Chƣơng 4
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
CỦA TRUYỆN CỔ TÍCH VỀ CHỦ ĐỀ HÔN NHÂN
4.1. Cấu trúc cốt truyện của truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân
4.1.1. Cấu trúc cốt truyện về chủ đề hôn nhân với kết thúc có hậu
4.1.1.1. Cấu trúc cốt truyện về chủ đề hôn nhân ở dạng đơn giản
Chàng mồ côi nhặt được trứng/ốc Đem về nhà cất trong chum
Trứng/ốc biến thành người con gái đẹp Chàng mồ côi bắt gặp, đập tan vỏ
trứng/ốc Kết hôn, sống hạnh phúc.
4.1.1.2. Cấu trúc cốt truyện về chủ đề hôn nhân ở dạng phức tạp
+ Dạng biến thể 1: Vật/con vật mang lốt xuất hiện Người cha (người
mẹ hay chính cô gái) ra điều kiện thử thách Những điều kiện thử thách được
thực hiện Nhân vật mang lốt lấy cô gái (út) làm vợ Nhân vật mang lốt
trút lốt Những người chị ghen tị, mưu hại em Nhờ vật phù trợ, cô em
thoát nạn Hai vợ chồng người em đoàn tụ, hạnh phúc.
+ Dạng biến thể 2: Chàng trai bắt (câu, nhặt) được một vật/con vật,
đem về nhà Vật hóa thành người, chàng trai bắt gặp Kết hôn Người
15
vợ bị cướp đi Chàng trai chiến đấu giành lại vợ Nhờ vật trợ giúp, chiến
thắng Đoàn tụ, hạnh phúc.
+ Dạng biến thể 3: Người mẹ uống thứ nước lạ, dẫm phải vết chân lạ
hay vi phạm điều cấm kị Sinh ra một vật/con vật Trải qua thử thách
Vật/con vật kết hôn với cô gái đẹp (con nhà giàu có, quyền thế) Trút lốt
thành người Những người chị ghen tức, tìm cách hãm hại em để cướp chồng
Nhờ vật phù trợ, cô em thoát nạn và được đoàn tụ, hạnh phúc.
4.1.2. Cấu trúc cốt truyện về chủ đề hôn nhân với kết thúc không có hậu
4.1.2.1. Cấu trúc cốt truyện về chủ đề hôn nhân người - vật
* Dạng hôn nhân người - con vật: Người + Con vật (không trút lốt) Bất
hạnh và tan vỡ.
* Dạng hôn nhân người - con vật mang lốt người giả dạng: Con vật
(mang lốt người giả dạng) + Con người Bất hạnh và tan vỡ.
4.1.2.2. Cấu trúc cốt truyện về chủ đề hôn nhân cùng huyết tộc
Hai anh em ruột kết hôn (do nhầm lẫn) Chồng nhận ra vợ là em
Bỏ đi không về (chồng) Chờ đợi (vợ) Hóa đá.
4.1.2.3. Cấu trúc cốt truyện về chủ đề hôn nhân người - tiên
Người + tiên Bị các thế lực cản trở, chia rẽ Li tán/Chết Hóa địa danh.
4.2. Nhân vật kết hôn trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân
4.2.1. Nhân vật k n “n i mang lốt”
Nhân vật kết hôn là “người mang lốt” xuất hiện khá phổ biến trong
203/616 truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân. Những câu chuyện này đã kể
về cuộc chiến hóa giải sự phù phép, thoát khỏi lốt vật để được trở lại
làm người của nhân vật “người mang lốt”, trong đó hôn nhân có vai trò
quan trọng và đem đến sự thay đổi lớn lao cho bản thân nhân vật mang
lốt. Hôn nhân vừa có ý nghĩa là mục đích mà nhân vật cần phải đạt tới,
là cái kết có hậu, vừa có ý nghĩa chi phối cuộc hóa giải phù phép biến
hình cho nhân vật mang lốt.
4.2.2. Nhân vật k n “n ”
4.2.2.1. Nhân vật kết hôn là người mồ côi
Nhân vật mồ côi đã trở thành nhân vật kết hôn, là hình tượng trung
tâm trong 286/616 truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân. Tuy nhiên, có một
16
điều đặc biệt là, nếu như nhân vật mồ côi trong truyện cổ tích nói chung
thường là nhân vật tích cực thì trong truyện về chủ đề hôn nhân, nhân vật
mồ côi còn xuất hiện ở vai tiêu cực, nhân vật mồ côi đã không đến được với
hôn nhân.
4.2.2.2. Nhân vật kết hôn là người em út
Trên cơ sở khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy, nhân vật tham gia
kết hôn là người em út xuất hiện trong 195/616 truyện cổ tích về chủ đề hôn
nhân, thường dưới hai dạng, đó là: Nhân vật người em trai út và Nhân vật
người em gái út. Qua hình tượng nhân vật kết hôn là người em út, ta có thể
nhận ra những biểu hiện cho thấy quá trình tan rã của chế độ nguyên thủy,
trong đó hôn nhân đại gia đình bộ tộc đang dần tan rã và được thay thế bằng
hôn nhân đối ngẫu, hôn nhân của các gia đình nhỏ.
4.2.2.3. Nhân vật kết hôn là người con riêng
Nhân vật người con riêng cũng là một trong số những nhân vật kết
hôn chính trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, xuất hiện trong 78/616
truyện. Kiểu nhân vật này là một dạng đặc biệt của kiểu nhân vật mồ côi
trong truyện cổ tích thần kì, xuất hiện phổ biến ở giai đoạn xã hội thị tộc
chuyển sang xã hội gia đình. Người con riêng có thể là bóng dáng của xã
hội tạp hôn, khi trở về mô hình gia đình họ bị rơi vào địa vị kẻ tôi tớ, bị dì
ghẻ hoặc cha dượng đày đọa.
4.2.2.4. Nhân vật kết hôn là người thông minh, có tài và đức hạnh
Theo khảo sát của chúng tôi, nhân vật kết hôn là người thông minh,
có tài và đức hạnh xuất hiện trong 47/616 truyện cổ tích về chủ đề hôn
nhân. Nhân vật thuộc nhóm này gồm: Người chồng thông minh và Chàng rể
thông minh.
4.3. Thời gian và không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích về chủ đề
hôn nhân
4.3.1. Th i gian nghệ thuật trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân
Trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, thời gian nghệ thuật vừa
mang đậm tính hiện thực, vừa mang đậm tính hoang đường kì ảo; được ẩn
chứa dưới nhiều lớp văn hóa, thời gian đã được trồng lấp rất nhiều sự kiện,
17
rất nhiều biến cố của thời cuộc. Do vậy, mỗi cốt truyện thường ngầm chứa
nhiều “mã” thời gian của nhiều thời đại.
4.3.2. Không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân
Không gian được phản ánh trong truyện là không gian sinh sống của
từng dân tộc, từng vùng miền thông qua sự phản ánh những phong tục hôn
nhân của mỗi vùng, mỗi miền quê. Không gian đó có khi vừa là không gian
hiện thực vừa là không gian rộng mở theo hành trình của nhân vật. Có thể
thấy, tác giả dân gian đã sáng tạo ra một thế giới cổ tích với một không gian
rộng lớn trong truyện về chủ đề hôn nhân, không gian đó mang đậm tính
chân thực và cũng thể hiện trí tưởng tượng bay bổng của dân gian.
4.4. Yếu tố thần kì và yếu tố trợ giúp trong truyện cổ tích về chủ đề hôn
nhân
4 4 Y ố ần kì n ện ổ ề ủ đề n n n
Trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, yếu tố thần kì xuất hiện khá
phổ biến, nó góp phần quan trọng vào việc phản ánh chủ đề của truyện,
đồng thời, biến những ước mơ, khát vọng của nhân dân lao động trở thành
hiện thực. Trên thực tế, chủ đề hôn nhân trong truyện cổ tích, nhất là truyện cổ
tích thần kì thì yếu tố kì ảo rất đậm nét, đóng vai trò tham gia vào sự phát triển
cốt truyện, giúp cho cốt truyện được diễn tiến theo mĩ cảm của người kể. Chính
yếu tố thần kì đã góp phần làm cho cốt truyện li kì, hấp dẫn và tạo ra hiệu ứng
đặc biệt của truyện cổ tích.
4.4.2.Yếu tố trợ giúp (không thần kì) trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân
Yếu tố trợ giúp có vai trò và ý nghĩa đặc biệt tạo nên sự bất ngờ
cho nội dung cốt truyện. Yếu tố trợ giúp xuất hiện ở một số truyện với tần
xuất không nhiều, nhưng đã tạo nên sự khác biệt cho câu chuyện. Trong
thế giới thần kì của truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, có thể coi đây là
một chi tiết mang ý nghĩa hiện thực, là vốn tri thức, kinh nghiệm sống của
dân gian trong bối cảnh của đời sống xưa.
4.5. Motif hạt nhân của truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân
4.5.1. Motif trút lốt
Đây là motif cổ xưa có nguồn gốc từ dân tộc học với chủ đề mang ý
nghĩa phong tục. Motif trút lốt chủ yếu xuất hiện trong nhóm truyện về chủ đề
18
hôn nhân người - người mang lốt, hôn nhân người - tiên. Đây cũng là motif
tiêu biểu của kiểu truyện người mang lốt, mang đậm dấu ấn của nghi lễ
trưởng thành, nghi lễ tẩy rửa của con người thời cổ. Cách thức trút lốt của
nhân vật khá đa dạng, hầu hết các trường hợp được thể hiện qua các hình
thức như đi tắm hay cái lốt trút ra bị ném vào lửa hoặc đem chôn.
4 5 M f n đ ạt hôn nhân
Motif tranh đoạt hôn nhân là motif có nguồn gốc xã hội học, xuất
hiện trong khá nhiều truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân và có vai trò là
motif hạt nhân bởi ý nghĩa xã hội rộng lớn của nó. Motif tranh đoạt hôn
nhân trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân là sản phẩm sáng tạo của tác
giả dân gian, đồng thời, cũng phản ánh quá trình biến đổi của các hình thái
gia đình và xã hội.
Tiểu kết chƣơng 4
Thông qua việc xem xét một số phương diện nghệ thuật trong hệ
thống nhóm truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, như: cấu trúc cốt truyện,
nhân vật kết hôn, không gian và thời gian nghệ thuật, yếu tố thần kì và yếu
tố trợ giúp, motif hạt nhân chương viết đã chỉ ra những nét đặc trưng
riêng biệt khi những yếu tố này được sử dụng với tư cách một bộ phận cấu
thành của truyện. Với những thủ pháp nghệ thuật xây dựng ấy, tác giả dân
gian đã có những sáng tạo hợp lí để bộc lộ thế giới quan, nhân sinh quan
của mình trong những câu chuyện cổ tích về chủ đề hôn nhân.
19
KẾT LUẬN
1. Luận án về đề tài Chủ đề hôn nhân và sự phản ánh phong tục hôn
nhân trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam hướng tới việc nghiên cứu
nhóm truyện cổ tích đã thể hiện sinh động các hình thức hôn nhân và phong
tục hôn nhân trong lịch sử loài người thông qua các phương diện nghệ thuật
như: cấu trúc cốt truyện, nhân vật, yếu tố thần kì, yếu tố trợ giúp, motif
hạt nhân. Chủ đề hôn nhân là một trong những chủ đề phổ biến và mang
nét đặc thù của truyện cổ tích, mặc dù, chủ đề này cũng xuất hiện ở nhiều
thể loại văn học dân gian khác, điều đó cho thấy, vấn đề hôn nhân từ xa xưa
đã có ý nghĩa quan trọng và luôn thu hút sự quan tâm, chú ý của gia đình
cũng như toàn xã hội.
Nhìn từ tiến trình lịch sử, truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân là một
sản phẩm tất yếu, nhằm phản ánh nhận thức xã hội của con người về các
hình thức hôn nhân thông qua thế giới cổ tích. Nghiên cứu chủ đề hôn nhân
trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam, một mặt nhằm góp phần làm
sáng tỏ mối quan hệ giữa thực tại và folklore; mặt khác, nhằm góp phần làm
rõ thêm quan niệm của tác giả dân gian về mối quan hệ nhân sinh, quan hệ
gia đình và quan hệ xã hội.
2. Trên cơ sở khảo sát 77 ƣu tập truyện kể dân gian các dân tộc Việt
Nam, bước đầu chúng tôi đã lựa chọn được tổng số 616 truyện cổ tích có
chủ đề hôn nhân và sự phản ánh phong tục hôn nhân. Việc tập hợp những
truyện cổ tích có chủ đề hôn nhân và sự phản ánh phong tục hôn nhân là sự
định dạng một nhóm truyện độc đáo, mang đặc trưng riêng biệt trong bức
tranh toàn cảnh của thế giới cổ tích muôn màu. Những truyện cổ tích về chủ
đề hôn nhân có sức hấp dẫn đặc biệt với sự đan xen giữa cái xác thực và cái
kì ảo hoang đường, giữa những số phận con người cụ thể và những khát
vọng, ước mơ về cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Truyện cổ tích về chủ đề
hôn nhân lấy đối tượng phản ánh là con người trong đời sống thực tại, mặc
dù, truyện có các yếu tố hoang đường, kì ảo, nhưng đó không phải là thế
giới phi hiện thực, mà đó chỉ là phương thức nghệ thuật riêng, nhằm truyền
20
tải cuộc sống con người trong các mối quan hệ gia đình, xã hội. Vì thế, các
sự kiện, tình tiết diễn ra trong cốt truyện vừa gần gũi, quen thuộc, vừa li kì,
lạ lùng. Tất cả những yếu tố phi lí nhất, chỉ xuất hiện trong trí tưởng tưởng
của con người lại được tồn tại phổ biến trong truyện cổ tích, nó góp phần
soi chiếu vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Ở đó, tất cả mọi người, dù là
những con người nhỏ bé và tầm thường nhất trong xã hội cũng đều mang
trong mình một khát vọng hạnh phúc. Vì thế, có thể nói, truyện cổ tích về
chủ đề hôn nhân vừa đề cập đến vấn đề về tình yêu, hạnh phúc một cách
trực diện; vừa góp phần kiến tạo những ước mơ, khát vọng về những cuộc
hôn nhân đổi thay số phận của con người một cách thần kì.
3. Qua số liệu khảo sát truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, đã cho thấy
một thực tế: Các hình thức hôn nhân xuất hiện với các biến thể khác nhau
và với tần xuất khác nhau trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân. Đó là, ở
nhóm truyện phản ánh về chủ đề hôn nhân ngƣời - vật có số lượng bản kể
là 112/616; ở nhóm truyện về chủ đề hôn nhân ngƣời - tiên có số lượng
bản kể là 133/616; ở nhóm truyện phản ánh chủ đề hôn nhân ngƣời -
ngƣời có số lượng bản kể phong phú nhất là 371/616.
Nhóm truyện hôn nhân người - vật là nhóm truyện đề cập tới một
hiện tượng hôn nhân đặc biệt, không có thật trong thực tế, nhưng lại có tính
phổ biến trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam cũng như trong kho
tàng truyện cổ tích của các dân tộc trên thế giới. Trong đó, tư duy hoang
đường của người xưa đã ghi dấu ấn trong các câu chuyện về hôn nhân, phản
ánh quan niệm cổ xưa, coi con người và muôn loài có chung nguồn gốc,
hôn nhân giữa người và vật có thể xảy ra trong hiện thực. Ở đây, tính hư
cấu đã vượt xa thế giới hiện thực, cho thấy sức sáng tạo tài tình của tác giả
dân gian .
Nhóm truyện về chủ đề hôn nhân người - tiên vừa thể hiện khát
vọng hướng tới cái đẹp, đồng thời, cũng thể hiện nhân sinh quan, thế giới
quan của tác giả dân gian. Hôn nhân người - tiên, phản ánh khát vọng của
21
con người muốn vượt qua cái hữu hạn của trần thế để đến với cái vô hạn
của thế giới thần tiên, một khát vọng dù viển vông, nhưng mang đậm tinh
thần lạc quan của người dân lao động.
Nhóm truyện về chủ đề hôn nhân người - người có số lượng phong
phú nhất, trong đó, có bốn hình thức hôn nhân được đề cập: hôn nhân
c ng huyết tộc, hôn nhân đa phu, hôn nhân đa thê, hôn nhân một vợ
một chồng. Khác với chủ đề hôn nhân người - vật, người - tiên giàu yếu tố
lãng mạn, mơ ước, chủ đề hôn nhân người - người phản ánh những vấn đề
gần với hiện thực hơn. Khác với thời đại thần thoại, trong thời đại cổ tích,
hôn nhân cùng huyết tộc đã trở nên lạc hậu, là sự vi phạm cấm kị và bị xã
hội lên án. Do vậy, hôn nhân cùng huyết tộc trong truyện cổ tích thường có
kết thúc bi kịch, thể hiện quan niệm của tác giả dân gian trên phương diện
đạo đức. Hôn nhân đa phu trong những câu chuyện về chủ đề hôn nhân
thường xuất hiện ở dạng tàn tích, phản ánh bi kịch gia đình trong quá trình
chuyển từ chế độ mẫu quyền sang phụ quyền, từ chế độ quần hôn và hôn
nhân thị tộc sang chế độ hôn nhân đối ngẫu và hôn nhân ngoại tộc. Hôn
nhân đa thê tồn tại trong xã hội phụ quyền khi vai trò của người đàn ông đã
dần thay thế cho vai trò trụ cột của người đàn bà trong chế độ mẫu hệ.
Trong hôn nhân đa thê, tất yếu nảy sinh nhiều mâu thuẫn mang tính xã hội
và vấn đề này đã được truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân phản ánh thông
qua mâu thuẫn gia đình như mâu thuẫn con chung con riêng, mâu thuẫn dì
ghẻ con chồng. Hôn nhân một vợ một chồng với sự phản ánh bước tiến dài
của xã hội, là hình thức hôn nhân được truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân
đề cập đến ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh và hầu hết cho thấy, đây là hình
thức hôn nhân mà ở đó vai trò, vị trí của người đàn ông đã được khẳng định
trong gia đình phụ quyền.
3. Trên cơ sở đối sánh, tìm hiểu những tư liệu về dân tộc học, lịch sử,
xã hội học... luận án phân tích mối liên hệ giữa chủ đề hôn nhân và sự phản
ánh về phong tục hôn nhân. Trong rất nhiều phong tục liên quan đến hôn
nhân, những phong tục được thể hiện rõ hơn cả trong truyện cổ tích về chủ
22
đề hôn nhân, đó là: phong tục ăn trầu, phong tục thử tài kén rể và thách
cƣới, phong tục hỏi vợ/dạm vợ, cƣớp (bắt) vợ/chồng, phong tục ở rể,
phong tục kiêng kị. Phong tục vốn tồn tại từ rất xa xưa trong đời sống văn
hoá các dân tộc, truyện cổ tích ra đời trên cơ sở phong tục đã có sẵn, xuất
hiện từ trước, do đó truyện nhằm góp phần minh họa, giải thích nguồn gốc
phong tục và làm giàu thêm ý nghĩa xã hội của những phong tục, tập quán
đó. Những giải thích, minh họa qua truyện cổ tích có thể đậm chất hư cấu,
có thể sai lệch, nhưng nó phù hợp với tình cảm và quan điểm thẩm mĩ của
nhân dân. Do vậy, có thể nói, phong tục hôn nhân được khúc xạ qua lăng
kính của tác giả dân gian cũng chính là một cách thức lưu giữ phong tục hết
sức độc đáo, đồng thời, tạo thêm sức sống bền lâu cho những câu chuyện cổ
tích về chủ đề hôn nhân.
4. Nghệ thuật của truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, mang những nét
đặc trưng tiêu biểu của truyện cổ tích, nó thể hiện ở các phương diện như:
cấu trúc cốt truyện, nhân vật kết hôn, thời gian nghệ thuật, không gian
nghệ thuật, yếu tố thần kì, yếu tố trợ giúp và motif hạt nhân. Ở những
vấn đề này, truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân đã mang dấu ấn văn hóa đậm
nét của các tộc người khác nhau. Có thể nói, mặc dù, có những logic chung
trong việc xây dựng cốt truyện nhưng ở mỗi tộc người, các truyện cổ tích lại
được trình bày theo một phông văn hóa của riêng mình; nó góp phần làm đa
dạng hóa cốt truyện và nội hàm văn hóa chứa đựng trong truyện cổ tích về chủ
đề hôn nhân trong kho tàng truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam.
Thông qua việc xem xét một số phương diện nghệ thuật trong hệ
thống nhóm truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, luận án đã chỉ ra những nét
đặc trưng riêng biệt khi những yếu tố này được sử dụng với tư cách một bộ
phận cấu thành của truyện. Trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, cốt
truyện thường được xây dựng theo sơ đồ kết cấu nhất định, tạo nên nét đặc
trưng của nhóm truyện. Truyện có các dạng cấu trúc: đơn giản và cấu trúc
phức tạp; Trong đó, có dạng với kết thúc có hậu và có dạng với kết thúc
23
không có hậu, xuất hiện ở tất cả các dạng hôn nhân: người - người, hôn
nhân người - vật, hôn nhân người - tiên.
Nhân vật trong truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân được thể hiện
trong mối quan hệ và vai trò của các nhân vật tham gia vào việc kết hôn,
chủ yếu với hai kiểu nhân vật chính là: Nhân vật kết hôn là “người mang
lốt” và nhân vật kết hôn là “người” (người mồ côi, người con riêng, người
em út, người thông minh, đức hạnh). Với nhân vật kết hôn là “người
mang lốt”, tác giả dân gian đã bày tỏ thái độ cảm thông và bênh vực với
những người có số phận không may mắn. Đồng thời, có thể đây cũng chính
là sự ảnh xạ của dấu vết hôn nhân ngoài cộng đồng, hôn nhân ngoài bộ tộc
(khác tô-tem); với nhân vật kết hôn là “người”, tác giả dân gian đã gửi gắm
ở họ ước mơ về công lí, ước mơ về những cuộc hôn nhân hạnh phúc.
Thời gian và không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích về chủ đề
hôn nhân, thể hiện quan điểm thẩm mĩ của tác giả dân gian. Đó là, thời gian
kì ảo tương ứng với sự biến hóa thần kì, sự đổi đời kì diệu của nhân vật kết
hôn; đó còn là, không gian rộng mở và đa dạng mang đậm dấu ấn văn hóa,
phong tục của các vùng miền khác nhau, tạo nên sự hấp dẫn cho câu
chuyện. Yếu tố nghệ thuật thần kì được thể hiện qua các hình thức biến hóa
của nhân vật kết hôn, một mặt phản ánh trí tưởng tượng phong phú của tác
giả dân gian, mặt khác mang một ý nghĩa gần gũi với tín ngưỡng vật linh cổ
xưa. Truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, đặc biệt còn sử dụng những yếu tố
trợ giúp (không thần kì) - là các vật dụng thông thường, nhưng có tác dụng
màu nhiệm giống như những trợ thủ thần kì, phản ánh óc thực tiễn và bài
học về kinh nghiệm sống của các tác giả dân gian. Hai motif hạt nhân có ý
nghĩa quan trọng là motif trút lốt và motif tranh đoạt hôn nhân - trong đó,
một motif chứa đựng những vấn đề phong tục có nguồn gốc cổ xưa, mang ý
nghĩa dân tộc học và một motif chứa đựng vấn đề đấu tranh xã hội, mang ý
nghĩa xã hội học - đã xuất hiện ở các vị trí khác nhau trong cấu trúc cốt
truyện về chủ đề hôn nhân, thể hiện nhận thức luận của tác giả dân gian về
tiến trình và ý nghĩa của các hình thức hôn nhân trong lịch sử.
24
Tóm lại, nghiên cứu truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân, một mặt
hướng tới việc tìm hiểu các hình thức hôn nhân trong lịch sử; mặt khác,
nhằm tìm hiểu sự khúc xạ của các hình thức hôn nhân và các phong tục hôn
nhân vào thế giới cổ tích. Đề tài khẳng định sự tồn tại của nhóm truyện về
chủ đề hôn nhân trong kho tàng cổ tích và thông qua đó, thể hiện sự quan
tâm của tác giả luận án tới việc bảo lưu truyền thống văn hóa tốt đẹp trong
các hình thức hôn nhân và phong tục hôn nhân của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
ĐÃ CÔNG BỐ
1. Dương Nguyệt Vân (2008), "Chủ đề hôn nhân trong một số truyện cổ
tích thần kì tiêu biểu và việc dạy học văn trong nhà trường", Tạp chí
Giáo dục, (189), tr. 45-46,28.
2. Dương Nguyệt Vân (2008), Chủ đề hôn nhân trong trong truyện cổ
tích thần kỳ , Báo Văn nghệ Thái Nguyên, (13), tr. 5.
3. Dương Nguyệt Vân (2011), Motif tái sinh trong truyện cổ tích về chủ
đề hôn nhân , Tạp chí Nghiên cứu văn học, (10), tr. 107-115.
4. Dương Nguyệt Vân (2015), Chủ đề hôn nhân trong truyện cổ tích
dưới mắt các nhà Folklore Việt Nam , Tạp chí Văn hóa nghệ thuật,
(376), tr. 40-44.
5. Dương Nguyệt Vân (2016), Truyện cổ tích về chủ đề thử tài kén rể
nhìn từ góc độ văn hóa , Tạp chí Nghiên cứu văn học, (7), tr. 45-52.
6. Dương Nguyệt Vân (2016), Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ
tích Tày, Nùng, Thái nhìn từ góc độ văn hóa , Kỉ yếu Hội thảo khoa
học Quốc tế do trường Đại học Tân Trào, Đại học Sakon Nakhon
Rajabhat, Đại học Văn hóa Hà Nội đồng tổ chức, tr. 90.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chu_de_hon_nhan_va_su_phan_anh_phong_tuc_hon_nhan_trong_truyen_co_tich_cac_dan_toc_viet_nam_3826.pdf