Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn cho thương mại điện tử còn chưa cao là do thể chế về quản lý còn chưa hoàn thiện, các chủ thể tham gia chưa quan tâm nhiều đến các quy định liên quan, dẫn đến ý thức kém và thiếu hiểu biết trong việc chấp hành pháp luật về thương mại điện tử. Bên cạnh đó, bộ máy thực thi công tác quản lý còn chưa hoàn thiện và yếu kém, công tác thanh, kiểm tra, các chế tài còn hạn chế dẫn đến tình trạng tình trạng công tác quản lý nhà nước còn thiếu hiệu lực và chưa hiệu quả. Qua nghiên cứu, Luận án đã góp phần giải quyết các vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sau:
24 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 1979 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bốn nguyên tắc cơ bản sau đây: Tính tin cậy và khả năng dự báo; Cởi mở và minh bạch; Trách nhiệm giải trình; Hiệu quả và hiệu năng;
1.2.3.2. Một số tiêu chí cơ bản đánh giá hiệu lực thực thi quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
* Tiêu chí đánh giá hiệu lực theo định tính
* Tiêu chí tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
* Tiêu chí đánh giá thi hành pháp luật
1.2.3.3. Đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử trên các phương diện hiệu quả
* Đánh giá trên phương diện hiệu quả kinh tế
Trên giác độ kinh tế hiệu lực quản lý đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử gắn liền với hiệu quả kinh tế mà sự phát triển thương mại điện tử đem lại. Mặc dù hiệu lực quản lý nhà nước không đồng nhất với hiệu quả. Hiệu quả được xác định bằng kết quả trừ đi chi phí. Nhưng hiệu lực quản lý không chỉ dừng lại ở mức độ đảm bảo quyết định quản lý được thi hành đúng kế hoạch mà còn xác định trên kết quả đạt được. Một kết quả như mong muốn hoặc vượt kế hoạch cho thấy hiệu quả kinh tế cao và đảm bảo hiệu lực của quyết định quản lý là thành công.
* Đánh giá trên phương diện hiệu quả về mặt pháp lý
Về mặt pháp lý của hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử là nói đến tính đảm bảo thực hiện. Như vậy nó gắn liền với quyền lực thực tế của nhà quản lý. Với mỗi quyết định hành chính ban hành ra để quản lý thương mại điện tử họ có quyền chỉ định, cưỡng chế thi hành và được đảm bảo thực hiện thông qua hệ thống pháp luật, nội quy, điều lệ của tổ chức. Gắn liền với quyết định quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử là những văn bản hướng dẫn thi hành, mà ở đó quy định cụ thể trách nhiệm và quyền hạn của từng đối tượng thi hành và những chế tài kèm theo trong trường hợp có sự vi phạm. Một quyết định được coi là có hiệu lực khi nó được xây dựng đúng quy trình, trình tự luật định và thống nhất với các văn bản pháp quy của cấp trên và nó được dùng làm cơ sở để xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy của cấp dưới và được các đối tượng quản lý phục tùng thực hiện.
* Đánh giá trên phương diện hiệu quả về mặt xã hội
Một quyết định hành chính về quản lý nhà nước nhằm mục tiêu đảm bảo an toàn cho tất cả các chủ thể tham gia vào thương mại điện tử sẽ không thể đảm bảo tính hợp lý, không thể đạt hiệu quả kinh tế và không thể có hiệu lực pháp lý cao nếu quyết định hành chính đó không được đông đảo mọi người ủng hộ. Vì thế quyết định hành chính đưa ra phải nhằm giải quyết vấn đề hợp lý, vì mục tiêu chung của tổ chức và phải gắn lợi ích mọi người với lợi ích của tập thể của tổ chức, có như vậy quyết định hành chính đó đảm bảo tính được mọi người ủng hộ. Đó là hiệu lực quản lý nhà nước về mặt xã hội trong thương mại điện tử.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý quá trình phát triển và đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước về quản lý quá trình phát triển và đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Singapore về xây dựng hệ thống chứng thực nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
Singapore là một quốc gia có tầm nhìn về định hướng phát triển thương mại điện tử từ rất sớm. Chính phủ đã đề xuất ra những chính sách và tạo lập khung pháp lý thông thoáng, tạo một môi trường ổn định, đảm bảo an toàn, có thể dự đoán và tin cậy cho các hoạt động giao dịch điện tử. Đây là nền tảng vững chắc để tạo ra một thị trường thương mại điện tử nở rộ, đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia, mang lại thành công to lớn cho nền kinh tế của quốc gia này. Mục tiêu của chương trình cấp phép CA- cung cấp chứng thực số nhằm giúp nâng cao uy tín và độ tin cậy của các nhà cung cấp, đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc về hoạch định chiến lược và thực thi chính sách nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
Hàn Quốc là một quốc gia rất quan tâm tới sự phát triển của thương mại điện tử và các vấn đề liên quan đến an toàn, bảo mật trong thương mại điện tử. Chính vì thế, khi thương mại điện tử bắt đầu, Chính phủ Hàn Quốc đã bắt tay vào xây dựng ngay "Đạo luật cơ bản về thương mại điện tử". Chính sách đi kèm với đạo luật này được ban hành đó là “Chính sách toàn diện cho thương mại điện tử” với mục tiêu Chính phủ đóng vai trò tích cực trong toàn cầu hóa của kinh doanh điện tử, thúc đẩy thương mại điện tử như một phương tiện để thực hiện đổi mới cơ cấu của ngành công nghiệp của nó và tăng cường khả năng cạnh tranh của các công ty Hàn Quốc.
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển các hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
Trong 5 năm trở lại đây, lĩnh vực thương mại điện tử ở Trung Quốc phát triển ngày càng mạnh với sự nổi lên của trang web bán hàng trực tuyến Alibaba. Trang web này là sự điển hình về việc xây dựng niềm tin cho khách hàng về thương mại điện tử đồng thời đem lại sự tin tưởng của khách hàng về sự an toàn khi tiến hành các giao dịch thương mại điện tử ở Trung Quốc. Thực tế, các mô hình thương mại điện tử Trung Quốc đang sử dụng đa số bắt nguồn từ Mỹ. Thương mại điện tử Mỹ cung cấp cho chúng ta mô hình phát triển hoàn thiện nhưng thương mại điện tử Trung Quốc giúp chúng ta hiểu hơn làm sao để quốc nội hóa mô hình phương Tây để phù hợp hơn với tâm lý người tiêu dùng bản địa.
1.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam từ kinh nghiệm nước ngoài về việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
* Bài học về xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, internet, nhân lực và cơ sở hạ tầng pháp lý phát triển cùng với sự phát triển của thương mại điện tử
* Bài học về xây dựng và triển khai chính sách
* Bài học về tìm kiếm cơ hội trong thương mại điện tử góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước.
Chương 2
THỰC TRẠNG HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐẢM BẢO AN TOÀN
TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát về an toàn trong thương mại điện tử và quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.1.1. Thực trạng về an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.1.1.1. Cơ sở hạ tầng cho an toàn thông tin
Năm 2010, Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam đã tiến hành khảo sát 500 tổ chức, doanh nghiệp nhằm đánh giá mức độ nhận thức và bảo vệ an toàn thông tin trong các tổ chức này. Các câu hỏi tập trung tìm hiểu khả năng nhận biết và các biện pháp phòng chống đối với những mối đe dọa tấn công qua môi trường mạng vào hệ thống thông tin của tổ chức, doanh nghiệp. Kết quả khảo sát cho thấy nhận thức chung về an toàn thông tin của doanh nghiệp chưa cao, thể hiện qua các thông số: Khả năng nhận biết tấn công còn thấp, không rõ động cơ tấn công; Không định lượng được thiệt hại khi bị tấn công; Đa số không có quy trình thao tác chuẩn để phản hồi lại những cuộc tấn công máy tính và chỉ thông báo nội bộ khi xảy ra sự cố.
2.1.1.2. Đảm bảo an toàn thông tin cho các hoạt động ứng dụng
Song song với sự phát triển của Internet, hầu hết các tổ chức, doanh nghiệp đã áp dụng các ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh. Các chương trình quản lý công văn, hồ sơ giấy tờ cho đến các hệ thống lớn hơn như áp dụng các phần mềm kế toán, cổng thông tin, hệ thống quản trị chuỗi cung ứng, quản lý quan hệ khách hàng, quản trị nguồn lực doanh nghiệp. Tuy nhiên, các tổ chức, doanh nghiệp còn chưa hiểu biết thật sự về an toàn nội bộ cũng như an toàn thông tin cho các ứng dụng khi triển khai. Việc xây dựng các quy chế về an toàn thông tin, triển khai thực hiện tại các doanh nghiệp, tổ chức chưa được quan tâm thích đáng.
2.1.1.3. Đảm bảo an toàn dữ liệu trong các giao dịch điện tử
Cùng với sự phát triển của Internet và các phương tiện điện tử, giao dịch điện tử ngày càng phát triển và trở nên phổ biến đồng thời vấn đề an toàn an ninh mạng đang trở nên ngày càng cấp bách. Theo kết quả điều tra của Bộ Công Thương năm 2010 về tình hình ứng dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp trên toàn quốc, vấn đề an toàn, an ninh trong giao dịch đang được các doanh nghiệp xếp thứ hai trong số những trở ngại hàng đầu cho sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam. Kết quả này cũng phản ánh đúng thực tế, trong những năm vừa qua, khi các hành vi gian lận lừa đảo trên môi trường mạng ngày càng tăng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của phương thức giao dịch còn khá mới mẻ này.
2.1.2. Những yếu tố đe dọa mất an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.1.2.1. Tội phạm sử dụng công nghệ cao
Thực tế đã xảy ra nhiều vụ tấn công vào máy chủ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp làm gián đoạn thông tin và gây thiệt hại lớn đối với hoạt động của các tổ chức này. Theo thống kê sơ bộ, năm 2010 có tới khoảng 15.000 trang web có đuôi .vn bị tội phạm công nghệ cao khống chế và khai thác. Người dùng khi truy cập những trang bị tội phạm công nghệ cao khống chế và khai thác có nguy cơ bị chuyển hướng đến các website chứa mã độc nhằm ăn cắp thông tin cá nhân, mật khẩu hoặc máy tính của họ có thể trở thành máy tính ma để tội phạm kiểm soát với mục đích phán tán thư rác, lừa đảo trực tuyến.
2.1.2.2. Lừa đảo trong thương mại điện tử
Một trong những rào cản khiến người dùng e ngại khi tiến hành giao dịch thương mại điện tử, đó là nguy cơ bị tổn hại lợi ích do các hành vi lừa đảo trên môi trường mạng. Cụ thể như lừa đảo qua quảng cáo, bán hàng trực tuyến trên mạng Internet, mua bán ngoại tệ, vàng, huy động vốn tín dụng; gửi email thông báo trúng thưởng v.vVới sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại và các thủ tục đăng ký tên miền khá đơn giản, việc giao dịch mua bán qua website đã trở nên thuận tiện hơn trước. Tuy nhiên, đây cũng là kẽ hở để kẻ gian lợi dụng, tiến hành các hoạt động lừa đảo, xâm hại tới quyền lợi của các chủ thể tham gia.
2.1.2.3. Các hành vi gây rối và cạnh tranh không lành mạnh
Bên cạnh những hành vi chiếm đoạt tài sản thông qua sử dụng công nghệ cao hoặc lừa đảo trong giao dịch, còn tồn tại những hành vi gây rối gây ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới môi trường kinh doanh trực tuyến. Một số hành vi mà tội phạm trong thương mại điện tử thường sử dụng là thâm nhập trái phép hệ thống thông tin của doanh nghiệp, tấn công từ chối dịch vụ, phát tán virus và các mã độc hại, v.vNhững hành vi này đã gây trở ngại cho việc tiếp nhận thông tin của người dùng, việc phổ biến thông tin của quản trị website, và có thể làm tê liệt hoạt động trao đổi thông tin hay tác nghiệp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân do bị virus phá hủy tài liệu lưu trữ.
2.1.3. Thực trạng về bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.1.3.1. Bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng tham gia thương mại điện tử
Do đặc thù của giao dịch thương mại điện tử là được thực hiện hoàn toàn trên môi trường mạng, các đối tác thực hiện giao dịch mua bán, thanh toán, nhận hàng mà không cần phải gặp mặt trực tiếp, nên nhu cầu về thông tin cá nhân là rất lớn, bao gồm cả những thông tin riêng tư, nhạy cảm nhất. Các tổ chức quảng cáo trực tuyến cũng luôn đẩy mạnh hoạt động thu thập, thiết lập, thậm chí kinh doanh các hồ sơ thông tin về người tiêu dùng. Thông tin cá nhân đã và đang trở thành thứ hàng hóa có giá trị đối với doanh nghiệp. Cá nhân, người tiêu dùng khó có thể hình dung hết được những nguy cơ thông tin cá nhân của mình bị khai thác bất hợp pháp khi tham gia giao dịch, mua bán trên môi trường mạng.
2.1.3.2. Quảng cáo qua thư điện tử, tin nhắn và chống tin nhắn rác
Ngày 13/08/2008, Nghị định số 90/2008/NĐ-CP của Chính phủ về chống thư rác được ban hành để cụ thể hóa các quy định chống thư rác trong Luật Công nghệ thông tin. Ngày 30/12/2008, Bộ Thông tin và Truyền thông có Thông tư số 12/2008/TT-BTTTT hướng dẫn một số nội dung của Nghị định 90/2008/NĐ-CP. Tiếp đó, Thông tư số 03/2009/TT-BTTTT ra đời ngày 03/02/2009 quy định chi tiết về mã số quản lý và mẫu giấy chứng nhận mã số quản lý đối với nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo bằng thư điện tử và tin nhắn.
2.1.3.3. Bảo vệ người tiêu dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên website
* Thông tư số 09/2008/TT-BCT hướng dẫn thi hành Nghị định thương mại điện tử
Ngày 21/7/2008, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 09/2008/TT-BCT hướng dẫn Nghị định Thương mại điện tử về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử. Đây là văn bản trực tiếp điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các website thương mại điện tử tại Việt Nam, liên quan tới lợi ích của nhiều doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng tham gia giao dịch thương mại điện tử.
* Giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Nghị định về Thương mại điện tử năm 2006 đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản về thông điệp dữ liệu nói chung và chứng từ thương mại nói riêng, đặt nền tảng cho việc tiến hành giao dịch thương mại qua phương tiện điện tử. Tiếp theo đó, Thông tư hướng dẫn về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử (Thông tư 09/2008/TT-BCT) ban hành ngày 21 tháng 7 năm 2008 đã quy định khá chi tiết về một chu trình giao kết hợp đồng giữa thương nhân và người tiêu dùng thông qua website. Tuy nhiên, khâu thực hiện hợp đồng giữa các bên trong một giao dịch B2C, cũng như giao dịch B2B hay C2C tiềm ẩn những khả năng xảy ra tranh chấp mà hệ thống pháp luật hiện nay chưa có quy định cụ thể để làm căn cứ giải quyết cho các bên liên quan.
2.2. Thực trạng về hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.2.1. Thực trạng về xây dựng và hoàn thiện thể chế đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.2.1.1. Khung pháp lý trong thương mại điện tử ở Việt Nam
Cho đến cuối năm 2011, khung pháp lý cho thương mại điện tử ở Việt Nam đã cơ bản định hình với hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật, Nghị định cho đến thông tư điều chỉnh những khía cạnh khác nhau của hoạt động ứng dụng thương mại điện tử và công nghệ thông tin. Bên cạnh hệ thống Luật chuyên ngành, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thương mại điện tử nắm vững và tuân thủ những quy định liên quan trong các văn bản pháp luật về kinh doanh, thương mại.
2.2.1.2. Văn bản quy phạm pháp luật về dân sự- thương mại quản lý các hoạt động giao dịch điện tử
Hai văn bản cốt lõi nhất điều chỉnh hoạt động thương mại là Bộ luật dân sự và luật Thương mại đã thừa nhận giá trị pháp lý của giao dịch điện tử thông qua việc thừa nhận thông điệp dữ liệu – hình thức biểu hiện cụ thể của giao dịch điện tử.
2.2.1.3. Các quy định về giao dịch điện tử và công nghệ thông tin
Khung pháp lý cho giao dịch điện tử nói chung và thương mại điện tử nói riêng được hình thành với hai trụ cột chính là luật Giao dịch điện tử và luật Công nghệ thông tin, tám nghị định hướng dẫn Luật, cùng một loạt thông tư quy định chi tiết những khía cạnh cụ thể của giao dịch điện tử trong từng lĩnh vực ứng dụng.
2.2.1.4. Các quy định, chế tài xử lý vi phạm về an toàn trong thương mại điện tử
Bên cạnh hệ thống luật về thương mại điện tử và công nghệ thông tin, giao dịch thương mại điện tử còn phải tuân thủ các quy định của Luật Thương mại, Luật Quảng cáo, Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ người tiêu dùng, cũng như tất cả các quy định khác về hoạt động kinh doanh- thương mại. Do đó, những hành vi vi phạm trong thương mại điện tử tùy theo tính chất có thể bị xử lý theo các văn bản khác nhau. Chế tài đối với các hành vi vi phạm được chia làm 2 loại: xử phạt hành chính và xử lý hình sự. Ở mức độ thông thường, vi phạm trong giao dịch thương mại điện tử sẽ bị xử lý căn cứ theo các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính nằm dưới các luật hiện hành về hoạt động kinh doanh- thương mại. Những hành vi vi phạm ở mức độ nặng hơn, gây hậu quả nghiêm trọng có thể bị xử lý hình sự căn cứ theo Bộ luật hình sự năm 2009.
2.2.2. Thực trạng về luật pháp, chính sách, biện pháp quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.2.2.1. Luật pháp, chính sách đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
Giao dịch thương mại điện tử đòi hỏi một hệ thống pháp lý đầy đủ để điều chỉnh các giao dịch trên bao gồm một đạo luật chung về thương mại điện tử trong đó xác định tính pháp lý của chứng từ điện tử, hợp đồng điện tử, giao hàng điện tử, chừng từ giao hàng, giao dịch điện tử với các cơ quan Chính phủ. Bên cạnh đạo luật chung thường có các văn bản dưới luật như các quy định về kinh doanh thương mại điện tử, vấn đề bảo mật dữ liệu trong thương mại điện tử, vấn đề giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử, vấn đề chống gian lận, tin tặc trong thương mại điện tử, vấn đề bảo vệ quyền tác giả, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ sự riêng tư. Thương mại điện tử là kinh doanh trong môi trường toàn cầu thông qua các phương tiện điện tử, do vậy hệ thống pháp lý phải đảm bảo sự phù hợp với các công ước quốc tế, đảm bảo sự tự do hóa thương mại trong khuôn khổ các hiệp định đa phương và song phương. Luật giao dịch điện tử và Luật Công nghệ thông tin được coi là nền tảng cơ bản cho việc thừa nhận giá trị pháp lý của các giao dịch điện tử ở Việt Nam.
2.2.2.2. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về an toàn trong thương mại điện tử
Khi pháp luật chính thức thừa nhận luật Giao dịch điện tử, luật Công nghệ thông tin và hiện nay là luật Bảo vệ người tiêu dùng có hiệu lực. Các nghị định, quy định, thông tư hướng dẫn về thương mại điện tử cũng được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển thương mại điện tử. Tuy vậy, để thương mại điện tử thực sự phát triển và đi vào đời sống xã hội được đông đảo người dân chấp nhận thì việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về thương mại điện tử làm sao cho hiệu quả giữ một vai trò then chốt. Đây là cả một quá trình đòi hỏi có sự tham gia của mọi tầng lớp trong xã hội. Trong đó giữ vai trò trung gian nổi bật nhất là doanh nghiệp và các phương tiện truyền thông đại chúng và hiện nay có thêm cả các mạng xã hội.
2.2.2.3. Đánh giá năng lực thực thi quản lý nhà nước đảm bảo an toàn
* Việc xây dựng, kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước
Hiện nay, trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước chỉ có Cục thương mại điện tử và công nghệ thông tin thuộc Bộ Công Thương với tư cách là đơn vị độc lập, chuyên trách trong lĩnh vực quản lý nhà nước về thương mại điện tử. Còn ở các Sở Công Thương tại các địa phương hoàn toàn không có đơn vị độc lập quản lý hoạt động thương mại điện tử mà chỉ có phòng quản lý thương mại. Điều này đã không đáp ứng được yêu cầu phát triển của thương mại điện tử, bởi vì để quản lý tốt đối với thương mại điện tử thì không chỉ đòi hỏi cơ quan quản lý có sự am hiểu về thương mại mà còn phải có sự hiểu biết nhất định về công nghệ thông tin. Việc thành lập các đơn vị chuyên trách về thương mại điện tử ở các Sở Công Thương sẽ hạn chế các rủi ro trong hoạt động thương mại điện tử từ đó củng cố lòng tin, đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp, người tiêu dùng khi tham gia vào thương mại điện tử.
* Nguồn nhân lực phục vụ cho an toàn trong thương mại điện tử
Nhằm đánh giá thực trạng về nguồn nhân lực phục vụ cho thương mại điện tử thông qua tổng kết thực tiễn, chúng ta cũng cần xem xét, đánh giá hiệu quả của các giải pháp phát triển nguồn nhân lực về an toàn thương mại điện tử bao gồm xem xét, đánh giá tổng kết việc huy động vốn đầu tư theo hướng bố trí ngân sách đảm bảo an toàn thương mại điện tử từ cấp trung ương đến cấp địa phương trong khu vực nhà nước. Đồng thời, đánh giá hiệu quả việc xây dựng hệ thống tiêu chí kỹ năng cần thiết đối với các chuyên gia an toàn thương mại điện tử, xây dựng và duy trì cơ chế thông báo tới người sử dụng về các nguy cơ gây mất an toàn thông tin.
* Việc nâng cao nhận thức của xã hội về thương mại điện tử
Phát triển thương mại điện tử và quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam cần phải có nhận thức sâu sắc của nhà nước, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chiến lược và toàn xã hội về cơ hội phát triển và những lợi ích mà nó mang lại. Nhà nước phải nhận thức được cơ hội và lợi ích của thương mại điện tử để thiết lập môi trường kinh tế, xã hội và pháp lý cho thương mại điện tử. Các nhà quản lý, các nhà hoạch định chiến lược nhận thức được cơ hội, lợi ích cũng như thách thức của thương mại điện tử để hoạch định chiến lược phát triển và đề ra giải pháp thích hợp. Từ chiến lược và giải pháp đó mà có kế hoạch phát triển hạ tầng công nghệ, có chính sách phát triển. Toàn xã hội nhận thức được cơ hội và lợi ích của thương mại điện tử để tham gia vào hoạt động thương mại điện tử với tư cách là những chủ thể.
* Việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
Luật giao dịch điện tử 2005 và Nghị định về thương mại điện tử năm 2006 đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản về thông điệp dữ liệu nói chung và chứng từ thương mại nói riêng, đặt nền tảng cho việc tiến hành giao dịch thương mại qua phương tiện điện tử. Tiếp theo đó, thông tư hướng dẫn Nghị định thương mại điện tử về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử (thông tư 29/2008/TT-BCT) ban hành ngày 21/7/2008 đã quy định khá chi tiết về một chu trình giao kết hợp đồng giữa thương nhân và người tiêu dùng thông qua website. Tuy nhiên, khâu thực hiện hợp đồng giữa các bên trong một giao dịch B2C, B2B, C2C tiềm ẩn những khả năng xảy ra tranh chấp mà hệ thống pháp luật hiện nay chưa có quy định cụ thể để làm căn cứ giải quyết cho các bên liên quan.
* Việc giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử
Tranh chấp về thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu là các tranh chấp về tên miền, tranh chấp về bản quyền tác giả, tranh chấp liên quan đến thông tin cá nhân, tranh chấp về hình thức giao kết hợp đồng thương mại và tranh chấp liên quan tới tội phạm trên không gian mạng. Các tranh chấp tên miền liên quan đến hoạt động đầu cơ tên miền tại Việt Nam và đối với tên miền .com.vnhoặc .vn do cơ quan quản lý tên miền chưa giải quyết một các triệt để. Các cơ chế giải quyết tranh chấp như đã nêu trên về cơ bản đã giải quyết được các tranh chấp cụ thể mang đặc thù của tranh chấp thương mại điện tử, tạo điều kiện để các chủ thể tham gia giao dịch được an toàn. Tuy nhiên các cơ chế giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử phải nâng cao năng lực kỹ thuật và công nghệ cũng như năng lực của các bộ chuyên trách kỹ thuật để hiểu được tính chất cụ thể của các tranh chấp để từ đó mới có được những phán quyết chính xác.
2.3. Kết quả chủ yếu đạt được và những hạn chế bất cập về hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
2.3.1. Kết quả đạt được
Các cơ quan quản lý nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật với phạm vi điều chỉnh bao quát hầu hết các hoạt động liên quan đến an toàn thông tin số nói chung đến an toàn trong thương mại điện tử nói riêng. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, điều chỉnh, bổ sung phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và phù hợp với sự phát triển của công nghệ:
* Chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số
* Cấp phép triển khai dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng
Một số văn bản quy phạm pháp luật đã kịp thời ban hành điều chỉnh những hoạt động còn mới mẻ đối với các vấn đề an toàn trong thương mại điện tử:
* Quản lý quảng cáo qua thư điện tử, tin nhắn và chống tin nhắn rác
* Quy định về cung cấp thông tin, giao kết hợp đồng trên website
* Quản lý tài sản ảo
* An toàn, an ninh trong giao dịch và xử lý vi phạm
2.3.2. Những hạn chế, bất cập cần khắc phục
Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn chưa đồng bộ, nhiều văn bản còn chậm ban hành và thiếu tính khả thi, thiếu cụ thể nên không có hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn. Bên cạnh đó, việc thực hiện kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử cũng gặp những khó khăn nhất định trong tiến trình thực hiện như chỉ số xếp hạng mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin còn thấp, cơ sở hạn tầng công nghệ thông tin chưa đáp ứng yêu cầu, triển khai ứng dụng công nghệ thông tin các doanh nghiệp nhìn chung còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Việc phát triển nguồn nhân lực và đầu tư cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin của các doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Trước kia, chúng ta quản lý theo mô hình cũ tập trung bao cấp, nay chuyển theo mô hình quản lý mới bằng pháp luật. Quá trình chuyển đổi quản lý này cũng cần phải có thời gian để làm quen với tư duy quản lý mới. Thứ hai là, thương mại điện tử phát triển một cách bùng nổ, đa dạng và toàn diện trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế khiến quản lý nhà nước về thương mại điện tử nói chung và quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử nói riêng không theo kịp được hay nói một cách khác là quản lý không theo kịp với sự phát triển của công nghệ. Bởi vậy mà, các quyết định quản lý mặc dù có hiệu lực về mặt thời gian nhưng nhiều văn bản quy phạm pháp luật lại không có hiệu lực thi hành, có nghĩa là không phù hợp với thực tiễn hoặc luật chưa quy định tới.
2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất là, tư duy quản lý nhà nước chưa theo kịp sự phát triển và xu thế toàn cầu hóa của thế giới. Thứ hai là, hạ tầng về công nghệ để đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử còn thiếu, chưa đồng bộ và nhiều bất cập. Thứ ba là, bộ máy quản lý nhà nước về thương mại điện tử còn nhiều bất cập chưa theo kịp nhu cầu phát triển và còn chồng chéo, phân tán. Thứ tư là, công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về thương mại điện tử còn kém hiệu quả. Những yếu kém trong quản lý nhà nước để đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng buông lỏng quản lý, nhờn pháp luật của các chủ thể tham gia. Nếu không có giải pháp kiên quyết có tính đột phá thì việc đảm bảo an toàn cho các hoạt động thương mại điện tử sẽ ngày càng trở nên bất cập kéo theo sự chậm phát triển so với thế giới và đất nước sẽ ngày càng tụt hậu so với yêu cầu hội nhập quốc tế.
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
3.1. Dự báo nguy cơ đe dọa an toàn và các nhân tố tác động ảnh hưởng tới hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
3.1.1. Xu thế phát triển thương mại điện tử và các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
Trong giai đoạn 2010- 2015, các hình thức kinh doanh qua website thương mại điện tử tiếp tục phát triển mạnh. Nhiều doanh nghiệp tự mở website để tiếp thị và bổ sung thêm một kênh phân phối cho hàng hóa, dịch vụ của chính mình. Số khác lại lựa chọn hình thức tham gia những website sẵn có của một bên thứ ba để tiến hành hoạt động bán hàng. Những website có chức năng như một chợ ảo hay sàn giao dịch thương mại điện tử này được tổ chức theo nhiều mô hình khá đa dạng như website mua theo nhóm, chợ điện tử, rao vặt, diễn đàn, kênh mua sắm trên các mạng xã hội, sàn bất động sản...
Trong giai đoạn 2010-2015, việc quản lý và sử dụng thông tin cá nhân chưa được các cơ quan chức năng và các chủ thể tham gia quan tâm. Điều này xuất phát từ lý do thông tin cá nhân là vấn đề khá mới mẻ và chỉ nổi lên cùng với sự phát triển của thương mại điện tử. Những vụ lấy trộm thông tin về tài khoản ngân hàng, làm giả thẻ thanh toán để mua hàng trên mạng hay rút tiền thời gian qua là minh chứng về tác hại của việc thông tin cá nhân bị xâm phạm, tiết lộ. Người tiêu dùng chưa tạo được thói quen mua sắm trên mạng Internet và vẫn lo lắng khi giao dịch sẽ bị lợi dụng bởi các hành vi thương mại không công bằng, các biện pháp thanh toán không đảm bảo, bị mất hoặc bị tiết lộ thông tin cá nhân khiến đời sống riêng tư của họ bị xâm phạm, cùng nhiều những quan ngại khác.
3.1.2. Dự báo các nguy cơ đe dọa an toàn trong thương mại điện tử Việt Nam
Cùng với sự phát triển chung của thế giới, trong những năm gần đây, số lượng thuê bao Internet của Việt Nam tăng trưởng nhanh chóng. Đa số các doanh nghiệp, các tổ chức có hệ thống mạng, website giới thiệu, quảng bá thương hiệu, với gần 200.000 tên miền .vn và hàng triệu tên miền thương mại. Nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng thanh toán trực tuyến vào công việc kinh doanh, giao dịch,Tuy nhiên, mạng Internet Việt Nam còn tiềm ẩn rất nhiều những nguy cơ về mặt an ninh, an toàn thông tin. Có thể thấy rằng, tình trạng mất an toàn thông tin luôn là một vấn đề nóng. Nó không chỉ xảy ra với cơ quan nhà nước, doanh nghiệp mà còn đến với mọi người, mọi nhà. Vì thế, các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể tham gia cần phải có những giải pháp cho riêng mình một cách phù hợp để để bảo vệ an toàn thông tin trước những cuộc tấn công mạng ngày một tinh vi, phức tạp.
3.1.3. Các thách thức đối với việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
3.1.3.1. Nhận thức và năng lực tiếp nhận của doanh nghiệp về vấn đề an toàn
Cách đây 5 năm các chuyên gia về thương mại điện tử nói đến những điểm hạn chế của thương mại điện tử gồm vấn đề an ninh, mức độ rủi ro, trình độ khai thác, mô hình kinh doanh, rào cản văn hóa, sự hạn hẹp về đối tượng, gian lận thương mại...và quan trọng hơn là những chính sách chưa đồng bộ, chưa có được những chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, thời điểm hiện nay người ta nhận diện nhu cầu phát triển thương mại điện tử dưới những thách thức khác. Trước hết là nhận thức và năng lực tiếp nhận của mỗi doanh nghiệp đối với vấn đề an toàn trong thương mại điện tử.
3.1.3.2. Thách thức về việc hoàn thiện thể chế và thực thi pháp luật
Thách thức hiện tại là liệu các chính phủ có ứng dụng thương mại điện tử dưới những luật lệ do mình đặt ra hay không, và nhờ đó điều chỉnh kịp thời để đáp ứng yêu cầu của môi trường kinh doanh. Sự thách thức này căn bản dựa trên ba luận điểm: chính phủ là người mua sắm lớn nhất, là nhà cung cấp dịch vụ nhiều nhất và là người có quyền thay đổi các luật lệ thương mại.
- Thách thức của giá trị pháp lý của chứng từ điện tử trong giao dịch thương mại.
- Thách thức về quy định về kế toán, thuế với việc triển khai Luật giao dịch điện tử.
- Thách thức về việc xác thực thông tin trong chứng từ điện tử
- Thách thức về việc bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng
- Thách thức trong công tác thực thi pháp luật và xử lý vi phạm.
3.1.3.3. Môi trường kinh doanh thương mại điện tử ngày càng phức tạp
Bản chất của giao dịch thương mại điện tử là gián tiếp, bên mua và bên bán ít biết, thậm chí không biết về nhau, giao dịch hoàn toàn thông qua các kênh truyền không xác định được. Điều này đẫn đến những lo ngại riêng của cả người mua và người bán: Đó là, người mua thì lo sợ số thẻ tín dụng của họ khi truyền đi trên mạng có thể bị kẻ xấu hoặc bên bán lợi dụng và sử dụng bất hợp pháp còn người bán thì lo ngại về khả năng thanh toán và quá trình thanh toán của bên mua.
Chất lượng sản phẩm càng cao hàm lượng chất xám càng nhiều. Khi tham gia vào thương mại điện tử, thông tin trở thành tài sản, và bảo vệ tài sản cuối cùng sẽ là bảo vệ thông tin. Do đó vấn đề đặt ra là bảo vệ sở hữu trí tuệ và bản quyền của các thông tin trên Web. Đối với dung liệu, vấn đề đật ra là bản thân việc số hoá nhị phân các dữ liệu văn bản, hình ảnh, âm thanh để thành dung liệu truyền gửi đã là hành động sao chép, phiên dịch và phải được tác giả đồng ý, nhưng vì đưa nên mạng, nên số bản Internet không thể biết là bao nhiêu nên việc thoả thuận và xử lí trở nên hết sức khó khăn. Ở mức cao hơn người ta còn tính đến khía cạnh phức tạp hơn nữa của vấn đề phân chia tài sản trí tuệ mua bán qua mạng. Cần phải đưa ra khái niệm mang tính pháp lí hơn là “thế nào là tác giả”, “thanh toán vi phần” mà sẽ phải xử lí bằng các công cụ kỹ thuật cao. Những điều này đòi hỏi cần phải sửa đổi hệ thống pháp luật về các mối quan hệ về sở hữu trí tuệ.
3.2. Quan điểm, mục tiêu và các giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
3.2.1. Quan điểm
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước để đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử phải phù hợp với tiến trình cải cách nền hành chính theo mục tiêu quản lý phải theo kịp sự phát triển. Vì quản lý nhà nước về thương mại điện tử và an toàn là một bộ phận của cải cách hành chính. Do vậy phải tập trung nguồn lực thực hiện các giải pháp mới để thực thi có hiệu quả các chính sách đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam phải bảo đảm tính thực tiễn là hiệu quả, phù hợp với những điều kiện về thể chế chính trị, về cơ chế của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, về năng lực bộ máy quản lý nhà nước và thích ứng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bảo vệ bí mật, lợi ích của doanh nghiệp. Đồng thời, cần phải phù hợp với nền kinh tế, với môi trường kinh doanh và có lộ trình từng bước.
3.2.2. Mục tiêu
3.2.2.1. Mục tiêu chung
- Bảo đảm môi trường pháp lý cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử một cách minh bạch và công khai, đồng bộ và phù hợp, tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử, công nghệ thông tin, các doanh nghiệp và toàn xã hội; nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Bảo đảm quyền tự chủ thực sự và trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử và các cá nhân tham gia thương mại điện tử đồng thời bảo đảm sự quản lý hợp lý cơ quan nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với hoạt động của các chủ thể tham gia thương mại điện tử. Đổi mới cơ chế tài chính nhằm đa dạng hóa nguồn lực và nâng cao hiệu quả đầu tư về an toàn cho thương mại điện tử.
3.2.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
- Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý
- Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước từ Trung ương đến Địa phương
- Tăng cường cơ sở hạ tầng
- Tăng cường chế tài xử lý, kiểm tra, thanh tra xử lý vi phạm.
3.2.3. Giải pháp vĩ mô
3.2.3.1. Đổi mới tư duy quản lý nhà nước về thương mại điện tử
Khi đưa Internet vào Việt Nam, có nhiều quan điểm cho rằng đó là sự độc hại của văn hóa phẩm đồi trụy, dễ dẫn tới sự tiêm nhiễm cho giới trẻ. Nếu nhìn nhận theo tư duy đó thì Internet chỉ có mặt trái, chỉ toàn là tiêu cực. Nhưng nếu theo tư duy phát triển Internet sẽ kéo theo sự phát triển của toàn xã hội, Internet là cơ hội cho việc học tập, nghiên cứu, giải trí lành mạnh và phát triển thương mại điện tử góp phần tăng trưởng GDP thì rõ ràng lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở thời điểm phải chịu những áp lực rất lớn về việc đổi mới tư duy. Đó là chuyển từ tư duy nếu không quản lý được thì cấm sang tư duy phát triển đến đâu thì quản lý đến đó và tiếp theo là tư duy quản lý phải theo kịp với sự phát triển.
Đổi mới tư duy kết hợp với nâng cao nhận thức cần phải hạn chế những yếu tố tiêu cực trong công tác quản lý nhà nước tác động đến hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử như: thói quen quan liêu, ôm đồm và sự vụ; quản lý bằng mệnh lệnh hành chính áp đặt từ trên xuống, xa rời thực tế; thủ tiêu sự cạnh tranh và tính hiệu quả; coi nhẹ pháp luật và quyền dân chủ của con người, quyền tự chủ của các doanh nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh những yếu tố tích cực trong công tác quản lý nhà nước tác động đến hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử là: lấy khai thác tiềm năng sáng tạo của con người làm trọng tâm. Nói cách khác, quản lý nhà nước về thương mại điện tử trước hết là hiểu rõ con người, bao gồm: các nhà quản lý, doanh nghiệp và các chủ thể khác tham gia thương mại điện tử.
3.2.3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại điện tử
* Sửa đổi, hoàn chỉnh các Nghị định liên quan đến thương mại điện tử
Nghị định 52 ra đời nhằm tiếp thu vấn đề nóng từ thực tiễn thời gian qua, để xây dựng khung khổ pháp lý và công cụ cần thiết cho các cơ quan nhà nước điều chỉnh tốt hơn hoạt động của thương mại điện tử. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là giải pháp tức thời bởi vì không thể kỳ vọng tất cả các vấn đề đều được đưa hết vào Nghị định 52, những thiếu sót, bất cập của Nghị định 52 sẽ được hoàn thiện dần trong quá trình vận dụng vào thực tế.
Văn bản quy phạm pháp luật tiếp theo cần phải điều chỉnh và hoàn thiện là Nghị định số 170/2003/NĐ-CP, ngày 13/11/2013 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2007/NĐ-CP, ngày 15/02/2007 của Chính phủ (Nghị định 26) quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số và Nghị định số 106/2011/NĐ-CP, ngày 23/11/2011 của Chính phủ (Nghị định 106) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2007/NĐ-CP, ngày 15/02/2007. Có thể thấy ngay rằng, Nghị định số 26 được Chính phủ ban hành ngày 15/02/2007 là rất kịp thời ngay sau khi ban hành Nghị định 57 về thương mại điện tử vào ngày 09/6/2006 nhưng cho đến khi sửa đổi, bổ sung và được thay thế bởi Nghị định 106 thì Nghị định này không phát huy được hiệu quả. Mặc dù chữ ký số đem lại nhiều lợi ích cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Với chữ ký số, nhiều giao dịch kinh tế, thương mại, hành chính được thực hiện theo cách truyền thống được chuyển sang môi trường điện tử, với độ đảm bảo an toàn cao, giảm bớt thời gian và chi phí thực hiện, thuận lợi và dễ dàng quản lý.
* Nâng cao hiệu quả quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thương mại điện tử
- Xác định các nội dung trọng điểm cần ưu tiên để xây dựng và hoàn thiện nội dung Luật giao dịch điện tử, Luật công nghệ thông tin, Luật bảo về quyền lợi người tiêu dùng.
- Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật về thương mại điện tử
- Nâng cao trình độ và năng lực làm luật của Quốc hội.
- Hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật về thương mại điện tử. 3.2.3.3. Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam
* Cơ cấu tổ chức
Cơ quan điều phối quản lý nhà nước về thương mại điện tử là Bộ Công Thương với đầu mối chính là Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin phối hợp với Cục Quản lý thị trường. Để có thể nâng cao năng lực tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về thương mại điện tử thì ngoài việc phối hợp giữa 2 đơn vị của Bộ Công Thương còn cần phải phối kết hợp chặt chẽ với Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử- Bộ Thông tin Truyền thông, Cục cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao C50- Bộ Công An. Bên cạnh đó, cần tổ chức phân cấp quản lý. Có thể phân cấp để phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước về thương mại điện tử đồng thời xác định rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước thương mại điện tử, tránh tình trạng trùng lặp hoặc buông lỏng quản lý.
* Nâng cao năng lực chuyên môn và tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành, Địa phương để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về thương mại điện tử
Với mục tiêu đến 2015 thương mại điện tử sẽ được ứng dụng phổ biến một cách đảm bảo an toàn trong các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người dân cần phải nâng cao năng lực chuyên môn và tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành, Địa phương.
3.2.3.4. Tăng cường công tác thanh tra và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
Cần kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa việc hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành pháp luật trong thương mại điện tử với các nội dung cải cách hành chính và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm về an toàn trong thương mại điện tử để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.
- Phát triển hệ thống thông tin và phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng và triển khai Chương trình Quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật dài hạn đặc biệt là về an toàn trong thương mại điện tử.
- Đề cao kỷ luật, kỷ cương trong các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử.
- Bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cán bộ, công chức làm quản lý nhà nước về thương mại điện tử.
3.2.3.5.Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo an toàn
Tội phạm mạng tấn công vào hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp có thể diễn ra bất cứ thời gian nào và bất cứ nơi đâu. Vì thế, các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư hoàn thiện hệ thống an toàn thông tin cho các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp bằng cách huy động các nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế; quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó cho việc thực hiện các mục tiêu và nội dung của việc nâng cao hiệu lực quản lý đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
3.2.3.6. Tăng cường sự giám sát của cộng đồng và chủ động hợp tác quốc tế
Tăng cường hợp tác phòng chống tấn công mạng, lừa đảo trên phạm vi toàn cầu thông qua việc chia sẻ, trao đổi thông tin giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực an toàn thông tin, phối hợp trao đổi, đào tạo chuyên gia trong lĩnh vực kỹ thuật và quản lý an toàn thông tin.
3.2.4. Các giải pháp đối với doanh nghiệp, hiệp hội thương mại điện tử
3.2.4.1. Nâng cao nhận thức về an toàn trong thương mại điện tử
Với sự phát triển mạnh mẽ của ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử trong hoạt động sản suất kinh doanh, các vụ việc liên quan đến sử dụng công nghệ cao để đánh cắp, lừa đảo lấy thông tin có giá trị hoặc tài sản của doanh nghiệp và người tiêu dùng ngày càng nhiều. Thực tế là việc bảo đảm an toàn thông tin tại chính các doanh nghiệp chưa được các doanh nghiệp thực sự chú trọng. Các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa tới việc đầu tư bảo đảm an toàn, an ninh cho các ứng dụng thương mại điện tử và cho hệ thống thông tin của doanh nghiệp mình. Trong đó, cần đặc biệt lưu ý tới việc xây dựng và thực thi các quy chế liên quan tới việc sử dụng hệ thống thông tin của cơ quan, đầu tư mua sắm thiết bị và phần mềm bảo mật phù hợp, hướng dẫn người sử dụng thiết bị công nghệ thông tin tuân thủ các quy tắc an toàn an ninh thông tin.
3.2.4.2. Đối với hiệp hội thương mại điện tử
* Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp
Vecom cũng cần phải đề xuất với với các cơ quan xây dựng luật, xây dựng chính sách và thực thi quản lý nhà nước về việc cần phải sửa đổi Nghị định về thương mại điện tử, cần phải có những quy định để có thể “răn đe” hoặc xử lý “nghiêm” những chủ thể tham gia thương mại điện tử có những vi phạm hoặc lừa đảo, đồng thời xây dựng được những chính sách đối với các doanh nghiệp thương mại điện tử làm ăn chân chính. Mục tiêu là các cơ quan quản lý nhà nước cần vào cuộc mạnh mẽ hơn để quản lý hiệu quả hơn về thương mại điện tử, hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực đồng thời các cơ quan chức năng, doanh nghiệp có thể đẩy mạnh hơn công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối với các chủ thể tham gia.
* Xã hội hóa hoạt động thương mại điện tử
Đầu tư phát triển thương mại điện tử được hiểu là quá trình sử dụng phối hợp các nguồn lực của xã hội để tạo ra năng lực phục vụ cho quá trình mua bán hàng hóa thông qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thông đáp ứng nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế. Năng lực phục vụ cho quá trình giao dịch thương mại điện tử bao gồm hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin và dân số sử dụng internet, khả năng triển khai ứng dụng thương mại điện tử của các tổ chức và doanh nghiệp, hệ thống luật pháp điều chỉnh những hành vi trong giao dịch thương mại điện tử.
3.2.5. Các giải pháp đối với người tiêu dùng
Trong giao dịch mua bán trực tuyến, để tối ưu hóa lợi ích, người tiêu dùng cũng cần thiết tự trang bị những kiến thức cơ bản về các quy định liên quan tới bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, kỹ năng tìm kiếm và so sánh trên mạng, kỹ năng đánh giá website và độ tin cậy của thông tin, khuyến nghị chung là chỉ nên mua hàng tại các trang web của các doanh nghiệp có uy tín, thực hiện thanh toán trực tuyến bằng những phương thức có tính năng bảo mật cao, thận trọng khi cung cấp thông tin cá nhân để tránh bị lừa đảo làm mất thông tin.
3.3. Một số kiến nghị và đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
3.3.1. Xây dựng, kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý
- Cần nghiên cứu việc thành lập Cục an toàn thông tin quốc gia để quản lý, điều phối và hướng dẫn cho các hoạt động đảm bảo an toàn thông tin và an toàn thương mại điện tử trên phạm vi cả nước. Cục an toàn thông tin thông tin quốc gia nên trực thuộc Văn phòng Chính phủ để có thể nâng cao hiệu quả về sự phối hợp giữa Bộ Công An, Bộ Quốc phòng, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông và các Ngành, Địa phương trong cả nước.
- Cần tiếp tục triển khai kiện toàn hệ thống các cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương. Việc thành lập các đơn vị chuyên trách về thương mại điện tử ở các Sở Công Thương sẽ hạn chế các rủi ro trong hoạt động thương mại điện tử từ đó củng cố lòng tin của các doanh nghiệp, của người tiêu dùng khi tham gia vào thương mại điện tử.
3.3.2. Tăng cường đầu tư hạ tầng công nghệ
- Cần phải đẩy mạnh việc phát triển hạ tầng công nghệ của thương mại điện tử với sự phát triển của kỹ thuật tính toán điện tử và truyền thông điện tử trong đó hết sức lưu ý việc phát triển hạ tầng công nghệ phải bảo đảm tính hiện hữu, nghĩa là phải có một hệ thống các chuẩn của doanh nghiệp, của quốc gia và các chuẩn này phải phù hợp với quốc tế. Các chuẩn này gắn với hệ thống các cơ sở kỹ thuật và thiết bị ứng dụng của quốc gia như một phân hệ của hệ thống mạng toàn cầu.
- Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hạ tầng công nghệ để xây dựng được hạ tầng công nghệ tiên tiến, đồng bộ nhằm đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử.
3.3.3. Tạo lập môi trường pháp lý
- Cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Nghị định 52 về thương mại điện tử và ban hành, sửa đổi các thông tư hướng dẫn cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống, quy luật phát triển và năng lực quản lý nhà nước sao cho Nghị định đi vào cuộc sống và đạt được hiệu quả cao.
- Cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ban hành ngày 15/07/2013 về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng (Nghị định 72).
3.3.4. Phát triển nguồn nhân lực trình độ cao
Cần đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao để phục vụ cho bộ máy quản lý nhà nước và doanh nghiệp. Bộ Giáo dục cần phải nắm vai trò tiên phong trong việc phân khúc giữa các cấp độ để bảo đảm tính thống nhất và không chồng chéo trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho thương mại điện tử.
3.3.5. Nâng cao chất lượng bộ máy thực thi công vụ và thanh tra, giám sát
Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin thuộc Bộ Công thương cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý có liên quan để nâng cao hiệu quả tiến hành thanh tra, kiểm tra, xử phạt đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử ngay sau khi Nghị định 185/2013/NĐ-CP, ngày 15/11/2003 về việc quy định xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Nghị định 185) có hiệu lực.
KẾT LUẬN
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn cho thương mại điện tử còn chưa cao là do thể chế về quản lý còn chưa hoàn thiện, các chủ thể tham gia chưa quan tâm nhiều đến các quy định liên quan, dẫn đến ý thức kém và thiếu hiểu biết trong việc chấp hành pháp luật về thương mại điện tử. Bên cạnh đó, bộ máy thực thi công tác quản lý còn chưa hoàn thiện và yếu kém, công tác thanh, kiểm tra, các chế tài còn hạn chế dẫn đến tình trạng tình trạng công tác quản lý nhà nước còn thiếu hiệu lực và chưa hiệu quả. Qua nghiên cứu, Luận án đã góp phần giải quyết các vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sau:
Thứ nhất, Luận án đã nêu bật được vai trò và sự cần thiết về việc cần phải nâng cao tính hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử. Luận án đưa ra quan điểm định hướng về công tác quản lý nhà nước đó là cần hoàn thiện về thể chế và nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực thi công tác quản lý, xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử.
Thứ hai, Luận án nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế về nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử, ví dụ về Singapore và Hàn Quốc, Trung Quốc là các quốc gia đã rất thành công trong việc phát triển thương mại điện tử, trong quản lý nhà nước đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử.
Thứ ba, Luận án đã tổng kết các chính sách được áp dụng để phát triển thương mại điện tử và sự an toàn đối với các chủ thể khi tham gia giao dịch thương mại điện tử. Từ đó, đánh giá được thực trạng về an toàn, thực trạng hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn đối với các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam.
Thứ tư, trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng, những quan điểm định hướng và mục tiêu phát triển thương mại điện tử, những dự báo về xu hướng phát triển công nghệ, về an toàn thông tin, về những thách thức đối với các cơ quan xây dựng chính sách, các cơ quan thực thi, luận án đề xuất các giải pháp và kiến nghị với Chính phủ, với Bộ, Ngành, Địa phương về việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn 2025 trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, luận án cũng mới chỉ phần nào giải quyết được một phần vấn đề nghiên cứu về hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử chứ chưa thể giải quyết được những vấn đề theo hướng hiệu quả quản lý nhà nước. Những vấn đề rộng hơn, bao quát hơn sẽ được nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu, làm rõ trong những công trình tiếp theo. Mặc dù đã hết sức cố gắng song phạm vi đề tài rộng, khả năng và trình độ hiểu biết của nghiên cứu sinh còn hạn chế nên cùng với quá trình nghiên cứu khoa học một cách hết sức nghiêm túc của nghiên cứu sinh, mong rằng luận án sẽ đem lại sự hữu ích trong việc nghiên cứu, tham khảo và vận dụng vào thực tiễn những giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn thương mại điện tử ở Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập sâu, rộng với Thế giới./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_la_nguyen_duc_tai_viet_t9_1028.doc