Giá trị Ea cao hơn ΔH trong các dung dịch nghiên cứu chỉ ra rằng quá trình ăn mòn
phải bao gồm phản ứng thoát khí (ở đây là phản ứng thoát hydro H2) và điều này liên
quan đến việc giảm tổng thể tích khí thoát ra, tức là làm giảm quá trình hòa tan kim
loại. Giá trị entropi hoạt hóa ΔS trong dung dịch axit không có ức chế là -58,3 J/mol.K,
giá trị này âm hơn so với ΔS trong các axit có TDC. Đối với hệ không cô lập, khi ΔS
của hệ âm hay dương nói lên trạng thái của hệ có độ trật tự nhỏ hay lớn [6]. Việc tăng
entropy trong sự có mặt của chất ức chế làm tăng độ mất trật tự xảy ra trong giai đoạn
chuyển từ chất phản ứng thành phức chất hoạt động [52, 109, 110]. Ngoài ra, giá trị
ΔS trong hệ ức chế ít âm hơn chỉ ra rằng có sự thay thế một phần các phân tử nước
trên bề mặt kim loại bởi các phân tử chất ức chế TDC [70, 90].
Như vậy, các giá trị năng lượng hoạt hóa Ea và entanpi hoạt hóa ΔH cho thấy,
khi có thêm TDC quá trình ăn mòn xảy ra khó khăn hơn do có sự hấp phụ của TDC
trên bề mặt kim loại; giá trị entropi hoạt hóa ΔS thể hiện sự có mặt của chất ức chế
làm tăng độ mất trật tự xảy ra trong giai đoạn chuyển từ chất phản ứng thành phức
chất hoạt động và có sự thay thế một phần các phân tử nước trên bề mặt kim loại bởi
các phân tử chất ức chế TDC.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 758 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu chất ức chế xanh chiết xuất từ vỏ quả họ cam để chống ăn mòn cho thép trong môi trường axit, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cứu này được thực hiện với mục đích khảo sát, đánh giá khả năng ức chế 
ăn mòn của các tinh dầu vỏ quả họ cam Việt Nam đối với thép trong môi trường axit, 
từ đó lựa chọn ra loại tinh dầu có khả năng ức chế tốt nhất để dùng trong các nghiên 
cứu tiếp theo. 
Tốc độ ăn mòn thép (Wcorr) và hiệu quả ức chế ăn mòn (Hw) bởi BNR, CBH và 
TDC trong axit HCl được tính lần lượt theo công thức (1.20) và (2.3) bằng phương 
pháp tổn hao khối lượng và được đưa ra ở hình 3.1 và 3.2. 
 4 
Hình 3.1 - Tốc độ ăn mòn thép (Wcorr) 
trong axit HCl không và có BNR, CBH và 
TDC với các nồng độ khác nhau 
Hình 3.2 - Hiệu quả ức chế bởi BNR, CBH 
và TDC với các nồng độ khác nhau 
Nhìn chung, tốc độ ăn mòn thép giảm và hiệu quả ức chế tăng khi tăng nồng độ 
của tất cả tinh dầu khảo sát. Tuy nhiên, mức độ giảm tốc độ ăn mòn khác nhau tùy 
thuộc vào loại tinh dầu. 
Tốc độ ăn mòn thép trong axit HCl 1N là 0,3098 mg/cm2.h. Khi dung dịch có 
BNR với các nồng độ khác nhau, tốc độ ăn mòn giảm mạnh và còn 0,077 mg/cm2.h 
ở nồng độ 2 g/L. Tốc độ ăn mòn giảm không đáng kể và hiệu quả ức chế Hw đạt 
được khoảng 80% ở nồng độ BNR từ 2 đến 4 g/L. Khi tăng nồng độ CBH từ 1 đến 
4 g/L, tốc độ ăn mòn thép giảm không đáng kể so với trong axit không có ức chế. 
Hiệu quả ức chế Hw cao nhất chỉ khoảng 35-36%. Trong dung dịch axit có thêm 
TDC, Wcorr cũng giảm mạnh khi nồng độ TDC tăng từ 1 đến 3 g/L, tuy nhiên khi 
tăng lên 4 g/L, tốc độ ăn mòn giảm không đáng kể. Hiệu quả ức chế đạt khoảng 80% 
khi dung dịch có từ 3 g/L TDC trở lên. 
Các số liệu trên cho thấy CBH chỉ cho hiệu quả bảo vệ thấp, khoảng 35-36%, 
trong khi đó BNR và TDC có tác dụng ức chế tốt hơn, Hw đạt khoảng 80% trong 
dung dịch chứa 2-4 g/L BNR hoặc 3-4 g/L TDC. 
Qua nghiên cứu khảo sát khả năng ức chế ăn mòn của các tinh dầu vỏ quả họ 
cam là BNR, CBH và TDC có thể thấy các tinh dầu khảo sát đều có tác dụng ức chế 
đối với quá trình ăn mòn thép trong môi trường axit HCl 1N với mức độ ức chế khác 
nhau. Điều này là do thành phần và hàm lượng tinh dầu của các sản phẩm thiên nhiên 
phụ thuộc rất nhiều vào nguồn gốc cây trồng, giống, loài, vị trí trồng và thời gian thu 
hái cũng như phương pháp thu nhận. TDC thể hiện khả năng ức chế tốt hơn cả trong 
ba tinh dầu khảo sát. Do vậy chúng tôi đã chọn TDC cho các nghiên cứu tiếp theo 
và chuẩn bị một lượng lớn TDC được chiết cùng một mẻ để đảm bảo sự đồng nhất 
và ổn định trong các thí nghiệm. 
3.2. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình ăn mòn thép trong axit HCl 1N 
có TDC 
3.2.1. Ảnh hưởng của nồng độ TDC 
Ảnh hưởng của nồng độ TDC đến khả năng ức chế ăn mòn thép CT38 trong axit 
HCl 1N khi có TDC nồng độ đến 4 g/L được nghiên cứu thông qua sự phụ thuộc điện 
 5 
thế ăn mòn theo thời gian, đo đường cong phân cực, phổ tổng trở điện hóa và tổn hao 
khối lượng. 
Hình 3.3 biểu diễn sự biến thiên điện thế ăn mòn của thép trong các dung dịch 
nghiên cứu được theo dõi trong vòng 24h (1440 phút). Điện thế ăn mòn thép Ec ở tất 
cả các dung dịch đều dịch chuyển về phía dương hơn sau khoảng 5 phút và thay đổi ít. 
Ec dịch chuyển về phía dương hơn có thể do quá trình anốt bị kìm hãm hoặc quá trình 
catốt trở nên dễ dàng hơn. Ec của thép trong các dung dịch axit có TDC dương hơn 
khoảng từ 20 đến 50mV so với trong axit trống. Theo một số tác giả, sự thay đổi Ec 
không quá 80-85mV là dấu hiệu cho thấy chất ức chế đóng vai trò ức chế hỗn hợp [74, 
118]. Sự phụ thuộc Ec của thép theo nồng độ TDC như trên chứng tỏ TDC đã hấp phụ 
ổn định theo thời gian và làm quá trình hòa tan anốt khó khăn hơn. 
Đường cong phân cực của thép trong axit không và có TDC với các nồng độ 
khác nhau (hình 3.4) cho thấy Ec của thép trong dung dịch có TDC dịch chuyển về 
phía dương hơn không đáng kể (dưới 20mV) so với Ec trong axit không có ức chế. 
Khi có mặt TDC, cả 2 nhánh của đường cong phân cực đều dịch chuyển về phía mật 
độ dòng nhỏ hơn, chứng tỏ TDC có tác dụng ức chế hỗn hợp đối với thép trong axit 
HCl 1N. 
Hình 3.3 - Biến thiên điện thế ăn mòn theo 
thời gian ở 25oC 
Hình 3.4 - Đường cong phân cực của thép 
trong HCl 1N có thêm TDC với các nồng độ 
khác nhau 
Các thông số của quá trình ăn mòn thép xác định bằng phương pháp ngoại suy 
Tafel từ đường cong phân cực hình 3.4 được trình bày trên bảng 3.1. 
Bảng 3.1 - Các thông số ăn mòn của thép trong HCl 1N có thêm TDC với các nồng độ 
khác nhau 
C 
(g/L) 
Ec 
(mV.vs 
Ag/AgCl) 
ic 
(mA/cm2) 
Rp 
(Ω.cm2) 
ba 
(mV/dec) 
bc 
(mV/dec) 
Hi 
(%) 
HRp 
(%) 
0 -429,24 125,12 133,41 73,88 80,12 - - 
1 -414,24 62,14 342,76 109,49 88,84 56,1 63,6 
2 -410,73 24,28 711,89 96,21 69,77 82,8 82,5 
3 -411,71 9,86 1705,05 100,01 63,16 92,1 92,2 
4 -407,88 8,14 2123,25 104,74 64,19 94,2 94,1 
-600
-550
-500
-450
-400
-350
-300
0 120 240 360 480 600 720 840 960 1080 1200 1320 1440
E
 (
m
V
. 
v
s
 A
g
/A
g
C
l)
Thời gian (phút)
0 g/l 1 g/l 2 g/l 3 g/l 4 g/l
-0.7
-0.6
-0.5
-0.4
-0.3
-0.2
0.0000001 0.00001 0.001 0.1
E 
(V
. v
s 
A
g/
A
gC
l)
Lg i (A/cm2)
0 g/l
1 g/l
2 g/l
3 g/l
4 g/l
 6 
Khi tăng nồng độ TDC trong dung dịch từ 0 đến 4 g/L, dòng ăn mòn ic giảm từ 
125,12 đến 8,14 mA/cm2, tương đương với sự tăng điện trở phân cực Rp từ 133,41 
đến 2123,25 Ω.cm2. Hiệu quả ức chế được tính từ dòng ăn mòn (Hi) và từ điện trở 
phân cực (HRp) tăng dần theo nồng độ TDC và đạt trên 90% khi dung dịch có 3-4 
g/L TDC. 
Hệ số ba và bc của đường cong phân cực thay đổi trung bình khoảng 20-30 
mV/dec khi có mặt TDC trong dung dịch. Hệ số bc thay đổi chỉ ra ảnh hưởng của chất 
ức chế đến động học của phản ứng thoát H2. Giá trị ba thay đổi có thể do ion Cl- và/ hoặc 
phân tử chất ức chế hấp phụ lên bề mặt kim loại. Điều đó cho thấy TDC đã tác động đến 
cả hai nhánh anốt và catốt của đường cong phân cực, có nghĩa là TDC là chất ức chế hỗn 
hợp. Kết quả này phù hợp với xu hướng biến thiên điện thế ăn mòn theo thời gian đã 
phân tích trong hình 3.3. 
Phổ tổng trở của thép trong các dung dịch nghiên cứu trình bày trên hình 3.5. 
Hình 3.5 - Phổ Nyquist (a) và phổ Bode (b) của thép 
trong HCl 1N có TDC với các nồng độ khác nhau 
Hình 3.6 - Sơ đồ mạch tương đương của hệ 
thép trong HCl 1N không và có TDC 
Hình 3.7 - Phổ Nquist của thép trong axit 
HCl 1N có TDC với nồng độ khác nhau 
 ( : đường đo; : Fitting (đường mô phỏng)) 
Phổ Nyquist (hình 3.5a) gồm 1 cung tròn ở vùng tần số cao và 1 cung nằm dưới 
trục thực. Cung đầu tương ứng với quá trình ăn mòn chủ yếu khống chế bởi quá trình 
chuyển điện tích. Cung đầu có dạng bán cung tròn bị nén, thể hiện tụ điện của lớp kép 
trong hệ ăn mòn của thép trong axit không phải là tụ lý tưởng mà giống một phần tử 
pha không đổi (CPE). Phương trình tổng trở của CPE có dạng [15, 52, 110, 118]: 
ZCPE = [Yo.(jω)n]-1 (3.1) 
Phương trình (3.1) cho thông tin về mức độ không lý tưởng của điện dung. Với 
tụ lý tưởng thì n=1 và với CPE thì n<1. 
a) 
b) 
Hình 3.5 - Phổ Nyquist (a) và phổ Bode (b) của thép trong HCl 1N có thêm TDC với các 
nồng độ khác nhau 
-3 0 3 6
0
2
4
 0 g/L
 1 g/L
 2 g/L
 3 g/L
 4 g/L
L
o
g
 /
Z
/ 
(?
)
Log f (Hz)
-3 0 3 6
0
20
40
60
80
-P
h
a
s
e
 (
°)
Log f (Hz)
(
) 
1 Hz 
1 Hz 
10 Hz 
10 Hz 
trong đó: 
Rs : Điện trở dung dịch 
Rct : Điện trở chuyển điện tích 
CPE: Phần tử pha không đổi 
L : Cuộn cảm 
RL : Điện trở cuộn cảm 
trong đó: 
dd : Điện trở dung dịch 
ct : Điện trở chuyển điện tích 
CPE: Hằng số pha không đổi 
L : Cuộn cảm 
RL : Điện trở cuộn cảm 
CPE 
RL 
L 
Rct 
Rdd 
 7 
Cung sau là cung nằm dưới trục thực và quay trở về phía tần số cao hơn, có thể 
do các phân tử H2O, các ion như H+, Cl- và/hoặc các phân tử của TDC có mặt trong 
dung dịch hấp phụ lên bề mặt kim loại. Các cung hấp phụ trong phổ tổng trở thường 
được đặc trưng bởi cuộn cảm [70, 118]. Theo một số tác giả, sự xuất hiện phần đuôi 
ở tần số thấp trong phổ tổng trở của thép trong dung dịch axit HCl khi có mặt chất 
ức chế là do sự hấp phụ của các ion Cl- và H+ lên bề mặt kim loại [32, 70, 75]. Một 
số tác giả khác cho rằng limonene được chiết xuất từ vỏ quả cam với cặp đôi điện tử 
Pi tích điện âm đã hấp phụ vật lý lên bề mặt kim loại và làm giảm quá trình ăn mòn 
thép trong dung dịch axit [40]. 
Trên phổ Bode (hình 3.5b) cũng cho thấy, khi nồng độ TDC tăng, tổng trở Z tăng 
và góc pha tăng. Góc pha tăng có thể do sự hình thành lớp màng hấp phụ của các ion 
Cl-, H+ và các phân tử trong TDC lên bề mặt kim loại. 
Trên cơ sở tổng quan tài liệu và số liệu thực nghiệm, sơ đồ mạch tương đương 
của hệ thép trong axit HCl 1N khi không và khi có TDC đã được xây dựng như trong 
hình 3.6 [32, 64, 71, 118]. 
Điện dung lớp kép (Cdl) có thể được tính theo phương trình: 
 1/nn1ctodl .RYC  (3.3) 
trong đó: Yo là độ lớn của CPE; n là hệ số ngoại suy của CPE, thường liên quan đến 
sự không đồng nhất của bề mặt, và /hoặc của tương tác giữa kim loại và màng bề 
mặt. 
Bảng 3.2 cho thấy điện trở chuyển điện tích tăng đáng kể với sự tăng của nồng 
độ TDC. Cụ thể, trong axit HCl, Rct là 80 Ω.cm2, nhưng khi có TDC với các nồng 
độ từ 1 đến 4 g/L, giá trị này tăng lần lượt là 324; 479; 980 và 1258 Ω.cm2. Điều này 
chứng tỏ TDC đã khống chế quá trình chuyển điện tích, từ đó làm giảm ăn mòn thép 
trong axit HCl. Khả năng ức chế ăn mòn tăng dần theo sự tăng nồng độ TDC trong 
dung dịch. 
Bảng 3.2- Các thông số của quá trình ăn mòn được mô phỏng từ phổ EIS 
CTDC 
(g/L) 
Rdd 
(Ω.cm2) 
Rct 
(Ω.cm2) 
Yo (µF) n 
Cdl 
(µF/cm2) 
HRct 
(%) 
0 0,7 80 56,10 0,911 75,53 
1 0,6 324 58,60 0,842 69,67 75,3 
2 0,6 479 50,90 0,883 65,60 83,3 
3 0,6 980 19,2 0,867 23,02 91,8 
4 0,5 1258 22,03 0,863 34,68 93,6 
Giá trị Cdl có xu hướng giảm khi tăng nồng độ ức chế. Theo mô hình Helmholz, sự 
thay đổi của giá trị Cdl có thể do sự thay thế đáng kể các phân tử nước bởi các phân tử 
hữu cơ hấp phụ lên bề mặt kim loại, làm giảm hằng số điện môi cục bộ và / hoặc làm 
tăng chiều dày lớp điện tích kép. Theo một số tác giả, sự giảm Cdl cũng có thể do sự 
hấp phụ của chất ức chế diễn ra trên bề mặt kim loại [21, 93, 118]. 
Ngoài ra, khi dung dịch có thêm TDC giá trị n giảm, điều đó thể hiện bề mặt điện 
cực trở nên kém đồng nhất hơn, liên quan đến sự tồn tại của lớp màng bảo vệ (lớp hấp 
 8 
phụ) được hình thành trên bề mặt thép. Hiệu quả ức chế ăn mòn (được tính từ Rct) tăng 
tương ứng từ khoảng 75% đến trên 90% khi nồng độ TDC tăng từ 1 đến 4g/L. Tuy 
nhiên, giá trị hiệu quả tăng không đáng kể khi tăng nồng độ TDC từ 3 đến 4 g/L. 
Hình 3.8 là đồ thị so sánh hiệu quả ức 
chế ăn mòn thép bởi TDC được tính theo 
các phương pháp: ngoại suy từ đường cong 
phân cực (Tafel), phổ tổng trở điện hóa 
(EIS) và tổn hao khối lượng (KL). Nhìn 
chung, hiệu quả ức chế đều tăng khi tăng 
nồng độ TDC. 
Như vậy, TDC làm giảm tốc độ ăn mòn 
thép do đã hấp phụ lên bề mặt kim loại, 
hình thành lớp bảo vệ thép. TDC đóng vai 
trò là ức chế hỗn hợp, có tác dụng ức chế 
tốt cho thép trong axit HCl, nồng độ ức chế 
tối ưu là 3 g/L với hiệu quả ức chế cao nhất 
là 80-90% (tùy thuộc phương pháp nghiên cứu). 
3.2.2. Ảnh hưởng của thời gian 
Kết quả đo phân cực tuyến tính và tổn hao khối lượng cho sự biến thiên điện trở 
phân cực Rp, dòng ăn mòn ic và hiệu quả ức chế ăn mòn thép theo thời gian trong 
axit HCl 1N bởi TDC được trình bày lần lượt trên các hình 3.9, 3.10 và 3.12. 
Hình 3.9 - Sự biến thiên điện trở phân 
cực thép trong axit HCl 1N không và có 
3 g/L TDC theo thời gian 
Hình 3.10 - Sự biến thiên dòng ăn mòn thép 
trong axit HCl 1N không và có 3 g/L TDC 
theo thời gian 
Điện trở phân cực Rp (hình 3.9) của thép trong axit HCl 1N không có ức chế có 
giá trị dao động trong khoảng 150-300Ω trong 8h đầu và có xu hướng giảm, còn 82Ω 
sau 24h ngâm mẫu, tức là dòng ăn mòn tăng. Điện trở phân cực của thép trong axit có 
TDC ở tất cả các thời gian khảo sát đều lớn hơn rất nhiều so với trong axit không có 
ức chế (RP lớn hơn từ 6,5 đến 8,5 lần sau 5 phút đến khoảng 8h ngâm mẫu và cao gấp 
15,7 lần sau 24h ngâm mẫu). Vì thế có thể cho rằng TDC làm giảm đáng kể dòng ăn 
mòn thép trong axit HCl 1N từ ngay khi ngâm mẫu và giảm mạnh sau 24h. Kết quả 
này hoàn toàn phù hợp với kết quả về biến thiên dòng ăn mòn trên hình 3.10. 
0
50
100
150
200
250
0 4 8 12 16 20 24
ic
 (m
A
/c
m
2)
Thời gian (h)
0 g/l 3 g/l
Hình 3.8 - Đồ thị so sánh hiệu quả ức chế 
ăn mòn thép bởi TDC theo 3 phương pháp 
 9 
Hiệu quả ức chế ăn mòn thép của TDC 
được tính toán từ điện trở phân cực HRp và 
tổn hao khối lượng HKL (hình 3.12) cho 
thấy, hiệu quả ức chế khá cao, đạt trên 
80%. Giá trị này tăng nhẹ khi thời gian 
ngâm mẫu tăng. Hiệu quả ức chế ăn mòn 
của TDC đạt được khoảng 90% sau 6h 
ngâm mẫu ở cả hai phương pháp nghiên 
cứu. 
 Ngoài phương pháp phân cực tuyến 
tính và tổn hao khối lượng như đã trình bày 
trên đây, ảnh hưởng của thời gian còn được 
nghiên cứu thông qua đường cong phân cực 
và phổ tổng trở. Các thông số điện hóa của quá trình ăn mòn thép theo thời gian được 
xác định từ đường cong phân cực và phổ tổng trở cho kết quả như trong bảng 3.4. 
Bảng 3.4 - Các thông số điện hóa của quá trình ăn mòn thép sau 1h và 24h 
Bảng 3.4 chỉ ra rằng, trong cả axit HCl 1N có và không có ức chế TDC, thời gian 
ngâm mẫu tăng từ 1h đến 24h, dòng ăn mòn ic tăng hay điện trở chuyển điện tích Rct 
giảm, tương ứng là sự tăng của điện dung lớp kép Cdl. Kết quả này là do khi tăng 
thời gian hòa tan, diện tích bề mặt tan tăng, làm tăng xuất hiện một số tạp chất catốt, 
những tạp chất catốt này có quá thế hydro thấp, nên làm tăng quá trình catốt, vì vậy 
làm tăng ăn mòn trong môi trường axit. 
Hiệu quả ức chế Hi và HRct tính toán được theo cả hai phương pháp Tafel và EIS 
đều đạt trên 90% sau 1h và 24h. Như vậy, TDC có tác dụng ức chế ăn mòn hiệu quả 
và ổn định trong khoảng thời gian khảo sát từ 1h đến 24h. Các phương pháp nghiên 
cứu: phân cực tuyến tính, KL, Tafel và EIS đều cho kết quả phù hợp với nhau. 
3.2.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ 
Nghiên cứu này được thực hiện bởi phương pháp tổn hao khối lượng. Kết quả 
sự phụ thuộc tốc độ ăn mòn thép vào nhiệt độ được đưa ra trên hình 3.15. 
Tốc độ ăn mòn thép trong tất cả các dung dịch có nồng độ TDC từ 0 đến 4g/L 
đều phụ thuộc nhiệt độ theo phương trình y=aebx (y là tốc độ ăn mòn; x là nhiệt độ; 
a và b là hằng số) với hệ số tương quan rất cao (R2>0,98). 
CTDC 
(g/L) 
Thời gian 
(h) 
Phương pháp Tafel Phương pháp EIS 
Ec (mV.vs 
Ag/AgCl) 
ic 
(mA/cm
2
) 
Hi 
(%) 
Rdd 
(Ω.cm2) 
Rct 
(Ω.cm2) 
Cdl 
(µF/cm
2
) 
HRct 
(%) 
0 
1 -429,24 125,12 - 0,7 80 37,76 
24 -428,73 628,5 - 0,7 16 731,16 
3 
1 -411,71 9,86 92,1 0,6 980 11,52 91,8 
24 -455,58 53,82 91,4 0,6 476 31,15 96,7 
Hình 3.12 - Sự biến thiên hiệu quả ức chế 
ăn mòn thép trong axit HCl 1N bởi TDC 
3g/L theo thời gian ở 25oC 
 10 
Số liệu thực nghiệm cho thấy hiệu quả 
ức chế Hw (hình 3.16) thay đổi không nhiều 
trong khoảng nhiệt độ từ 15oC đến 65oC. 
Mức độ thay đổi Hw là khoảng dưới 20% 
khi dung dịch có 1 hoặc 2 g/L TDC, và chỉ 
khoảng dưới 10% khi TDC có mặt trong 
dung dịch từ 3 g/L trở lên. Việc tăng Hw của 
TDC trong HCl 1N ở nồng độ 1, 2 g/L khi 
tăng nhiệt độ trong khoảng 25, 35, 45oC có 
thể do trong khoảng nhiệt độ này các phân 
tử TDC tương đối linh động, TDC dễ dàng 
đến và hấp phụ lên bề mặt điện cực. Tuy 
nhiên, khi nhiệt độ đạt trên 45oC, hiệu quả ức 
chế đều giảm có thể do hiện tượng nhả hấp phụ TDC bắt đầu xảy ra, nhưng khi nồng 
độ TDC đủ lớn hiện tượng này ít ảnh hưởng đến khả năng ức chế của TDC. Theo xu 
thế chung, đường thẳng hồi quy các giá trị hiệu quả ức chế ăn mòn theo nhiệt độ đều 
có xu hướng giảm nhẹ ở tất cả nồng độ TDC khảo sát khi nhiệt độ tăng từ 15 đến 65oC. 
Công bố trên thế giới về tác dụng ức chế ăn mòn của limonene ở nồng độ tối ưu 
đối với thép sau 1h cho thấy hiệu quả ức chế thay đổi không đáng kể (60÷65%) khi 
nhiệt độ trong khoảng 298 đến 328K (25÷55oC). 
3.2.4. Ảnh hưởng của nồng độ axit 
Nội dung này được thực hiện với thép trong dung dịch axit HCl 0,5N; 1N và 2N 
với 3 g/L TDC (đây là nồng độ tối ưu đối với thép trong axit HCl 1N) bằng các 
phương pháp đo tổn hao khối lượng (KL), đường cong phân cực (Tafel), phổ tổng 
trở điện hóa (EIS) và kính hiển vi điện tử quét SEM. 
Đồ thị so sánh ảnh hưởng của nồng độ axit đến hiệu quả ức chế theo 3 phương 
pháp (hình 3.19) cho thấy, hiệu quả ức chế đều đạt khoảng 80% khi nồng độ axit là 
0,5N và 2N và đạt cao nhất (khoảng 90%) với axit 1N. Kết quả nghiên cứu thu được 
Hình 3.15 - Sự phụ thuộc 
tốc độ ăn mòn thép trong 
axit HCl 1N không và có 
TDC với nồng độ 1 đến 4 
g/L theo nhiệt độ 
Hình 3.16 - Sự phụ thuộc hiệu quả ức 
chế ăn mòn thép trong axit HCl 1N 
theo nhiệt độ và nồng độ TDC 
 11 
như vậy có thể do nghiên cứu này được thực hiện với các axit có 3 g/L TDC (đây là 
nồng độ ức chế tối ưu trong axit HCl 1N. 
Ảnh SEM (hình 3.20) cho thấy: các mẫu thép trong các axit trống (3.20b) bị ăn 
mòn lỗ mạnh. Mức độ ăn mòn lỗ, số lỗ tăng khi nồng độ axit tăng. Kết quả này hoàn 
toàn phù hợp với kết quả đo tổn hao khối lượng và điện hóa trên đây. 
 Mẫu thép thử nghiệm trong các axit HCl chứa 3 g/L TDC (3.21c) có bề mặt nhẵn 
hơn rất nhiều, số lượng lỗ và kích thước lỗ cũng nhỏ hơn rất nhiều so với các mẫu 
thử nghiệm trong các axit trống tương ứng. Khi nồng độ axit tăng, bề mặt thép có 
xuất hiện số lỗ nhiều hơn, nhưng không đáng kể khi dung dịch có thêm TDC. Điều 
này cho thấy, TDC có tác dụng ức chế sự ăn mòn lỗ của thép trong dung dịch axit 
và tác dụng khá hiệu quả trong khoảng nồng độ axit từ 0,5N đến 2N. 
3.3. Tính toán các thông số nhiệt động học, hấp phụ và đề xuất cơ chế ức chế 
của TDC đối với quá trình ăn mòn thép trong môi trường axit HCl 1N 
Quá trình ăn mòn là một quá trình phản ứng dị thể bao gồm nhiều giai đoạn, 
trong đó tốc độ của phản ứng chung được quyết định bởi tốc độ của giai đoạn chậm 
nhất. Vì vậy, các thông số nhiệt động tính toán được từ tốc độ ăn mòn là các giá trị 
nhiệt động biểu kiến (tổng đại số của các giá trị nhiệt động của tất cả các giai đoạn). 
Theo tài liệu [109], H và S được tính cho quá trình hình thành phức chất trung 
gian, tuy nhiên quá trình trung gian này lại là giai đoạn quyết định tốc độ phản ứng. 
Do vậy có thể coi H và S tính toán được là của quá trình ăn mòn. Các giá trị nhiệt 
động biểu kiến Ea, ΔH, ΔS đã được tính toán thông qua tốc độ ăn mòn của thép Wcorr 
(theo công thức (1.20)) trong dung dịch axit HCl 1N không có và có TDC ở các nhiệt 
độ khác nhau (15÷65oC). 
Hình 3.19 - Hiệu quả ức chế theo 
nồng độ axit được tính từ ba 
phương pháp 
Hình 3.20 - Ảnh SEM bề mặt mẫu thép trước thí 
nghiệm (a), thép trong các axit HCl (b) và thép trong 
axit HCl có TDC 3 g/L (c) sau 1h ngâm mẫu ở 25oC 
a) 
 Mẫu trước thí nghiệm 
b) 
 HCl 0.5N HCl 1N HCl 2N 
c) 
 HCl 0.5N + 3g/l TDC HCl 1N + 3g/l TDC HCl 2N + 3g/l TDC 
 12 
Ngoài ra, việc xác định qui luật hấp phụ của chất ức chế và tính toán năng lượng 
tự do hấp phụ (ΔGhp) cũng được thực hiện để xem xét quá trình hấp phụ chất ức chế 
lên bề mặt thép là hấp phụ hóa học hay hấp phụ vật lý. Để xác định các qui luật hấp 
phụ của chất ức chế lên bề mặt kim loại, cần tìm mối quan hệ giữa độ che phủ bề 
mặt và nồng độ chất ức chế. Độ che phủ bề mặt () của chất ức chế được tính theo 
phương trình: 
 = (W0corr - Wcorr)/W0corr (3.4) 
ở đây: W0corr và Wcorr lần lượt là tốc độ ăn mòn thép trong dung dịch HCl 1N không 
có và có chất ức chế, mg/cm2.h. 
Bảng 3.8 trình bày kết quả tốc độ ăn mòn thép và độ che phủ bề mặt thép bởi 
TDC ở các nhiệt độ khác nhau từ 15 đến 65oC được xác định theo phương pháp tổn 
hao khối lượng. 
Bảng 3.8 - Tốc độ ăn mòn thép W và độ che phủ bề mặt θ trong axit HCl có TDC với 
nồng độ từ 0 đến 4 g/L ở các nhiệt độ khác nhau 
3.3.1. Các thông số nhiệt động của quá trình ăn mòn thép trong môi trường axit 
có TDC 
Năng lượng hoạt hóa Ea của quá trình ăn mòn được tính toán dựa trên phương 
trình Arrhenius [21, 70, 98]: 
 Wcorr = A.exp(-Ea/RT) (3.5) 
với: Wcorr là tốc độ ăn mòn (mg/cm2.h); R là hằng số khí lý tưởng (J/mol.oK) và T là 
nhiệt độ dung dịch (oK). 
Hàm entanpy hoạt hóa ΔH được tính thông qua phương trình [69]: 
Nhiệt 
độ (oC) 
CTDC 
(g/L) 
Wcorr 
(mg/cm
2
.h) 
θ 
Nhiệt 
độ (oC) 
CTDC 
(g/L) 
Wcorr 
(mg/cm
2
.h) 
θ 
15 
0 0,1536 - 
45 
0 1,5122 - 
1 0,0845 0,450 1 0,7461 0,507 
2 0,0556 0,638 2 0,4762 0,685 
3 0,0281 0,817 3 0,2468 0,837 
4 0,0325 0,788 4 0,3842 0,746 
25 
0 0,3098 - 
55 
0 3,3323 - 
1 0,1815 0,414 1 2,0777 0,377 
2 0,1241 0,599 2 1,5143 0,546 
3 0,0570 0,816 3 0,6719 0,798 
4 0,0650 0,790 4 0,9213 0,724 
35 
0 0,6043 - 
65 
0 6,0496 - 
1 0,3147 0,479 1 4,0095 0,337 
2 0,1944 0,678 2 3,3106 0,453 
3 0,1129 0,813 3 1,5710 0,740 
4 0,1640 0,729 4 1,8679 0,691 
 13 
 Ea = ΔH + RT (3.7) 
Hàm entropy hoạt hóa ΔS được xác định dựa vào các thông số của đồ thị sự phụ 
thuộc ln(Wcorr/T) vào 1/T theo phương trình [52, 69, 109, 110]: 
)
RT
ΔH
)exp(
R
ΔS
exp(
h
Tk
W Bcorr
(3.8) 
ở đây: kB là hằng số Boltzman và h là hằng số Plank. 
Các đồ thị quan hệ lnWcorr - 1/T và ln(Wcorr/T) - 1/T được xây dựng dựa vào các 
số liệu ở bảng 3.8 và được thể hiện trên hình 3.21. 
a) 
Hình 3.21 - Đồ thị quan 
hệ lnWcorr - 1/T (a) và 
ln(Wcorr/T) - 1/T (b) 
b) 
Từ đồ thị thực nghiệm hình 3.21 nhận thấy các đồ thị quan hệ lnWcorr - 1/T và 
ln(Wcorr/T) - 1/T là quan hệ tuyến tính với hệ số tương quan R2 rất cao. Vì thế, các 
thông số nhiệt động biểu kiến của quá trình ăn mòn thép trong các dung dịch nghiên 
cứu được tính toán và đưa ra trong bảng 3.9. 
Giá trị năng lượng hoạt hóa Ea của thép trong dung dịch axit HCl 1N là 61 kJ/mol. 
Giá trị này cũng phù hợp với một số tài liệu đã được công bố cho thấy Ea của thép 
trong axit HCl có giá trị trong khoảng 51 - 65 kJ/mol [40, 69, 76]. Việc thêm chất 
ức chế TDC đã làm tăng giá trị Ea và ΔH của quá trình ăn mòn thép trong dung dịch 
axit. Giá trị dương của hàm entanpy ΔH cho thấy quá trình hòa tan thép là quá trình 
thu nhiệt. Khi nồng độ chất ức chế TDC tăng, giá trị Ea và ΔH tăng lên cho thấy phải 
cung cấp một lượng nhiệt lớn hơn thì quá trình ăn mòn mới xảy ra. Điều này có thể 
y = -7.3386x + 23.4941
R² = 0.9949
y = -7.6174x + 23.8251
R² = 0.9871
y = -7.8496x + 24.1802
R² = 0.9780
y = -7.8409x + 23.4652
R² = 0.9870
y = -8.0753x + 24.4800
R² = 0.9965
-5
-4
-3
-2
-1
0
1
2
3
2.9 3 3.1 3.2 3.3 3.4 3.5
ln
W
co
rr
 (m
g/
cm
2
.h
)
1000/T (1/K)
0 g/l
1 g/l
2 g/l
3 g/l
4 g/l
 14 
là do trên bề mặt kim loại đã có một lớp màng mỏng của chất ức chế hấp phụ lên, 
ngăn cản quá trình hòa tan thép trong môi trường axit. 
Bảng 3.9 - Các thông số nhiệt động của quá trình ăn mòn 
Nồng độ, 
g/L 
tgα 
Ea 
(kJ/mol) 
ΔH 
(kJ/mol) 
b 
ΔS 
(J/mol.K) 
0 -7,3386 61,0131 58,5355 16,7509 -58,2718 
1 -7,6174 63,3311 60,8535 17,0820 -55,5189 
2 -7,8496 65,2616 62,7840 17,4370 -52,5673 
3 -7,8409 65,1892 62,7117 17,1959 -54,5719 
4 -8,0753 67,1380 64,6605 17,3894 -52,9631 
Giá trị Ea cao hơn ΔH trong các dung dịch nghiên cứu chỉ ra rằng quá trình ăn mòn 
phải bao gồm phản ứng thoát khí (ở đây là phản ứng thoát hydro H2) và điều này liên 
quan đến việc giảm tổng thể tích khí thoát ra, tức là làm giảm quá trình hòa tan kim 
loại. Giá trị entropi hoạt hóa ΔS trong dung dịch axit không có ức chế là -58,3 J/mol.K, 
giá trị này âm hơn so với ΔS trong các axit có TDC. Đối với hệ không cô lập, khi ΔS 
của hệ âm hay dương nói lên trạng thái của hệ có độ trật tự nhỏ hay lớn [6]. Việc tăng 
entropy trong sự có mặt của chất ức chế làm tăng độ mất trật tự xảy ra trong giai đoạn 
chuyển từ chất phản ứng thành phức chất hoạt động [52, 109, 110]. Ngoài ra, giá trị 
ΔS trong hệ ức chế ít âm hơn chỉ ra rằng có sự thay thế một phần các phân tử nước 
trên bề mặt kim loại bởi các phân tử chất ức chế TDC [70, 90]. 
Như vậy, các giá trị năng lượng hoạt hóa Ea và entanpi hoạt hóa ΔH cho thấy, 
khi có thêm TDC quá trình ăn mòn xảy ra khó khăn hơn do có sự hấp phụ của TDC 
trên bề mặt kim loại; giá trị entropi hoạt hóa ΔS thể hiện sự có mặt của chất ức chế 
làm tăng độ mất trật tự xảy ra trong giai đoạn chuyển từ chất phản ứng thành phức 
chất hoạt động và có sự thay thế một phần các phân tử nước trên bề mặt kim loại bởi 
các phân tử chất ức chế TDC. 
3.3.2. Các thông số nhiệt động của quá trình hấp phụ TDC trên bề mặt thép 
Sự hấp phụ của TDC lên bề mặt thép được đánh giá bởi các thuyết hấp phụ 
Langmuir, Temkin và Frumkin dựa trên sự phụ thuộc hằng số cân hằng hấp phụ - 
nhả hấp phụ K (M-1) vào nồng độ chất ức chế C (g/L) và độ che phủ bề mặt . 
 Xây dựng phương trình hấp phụ theo thuyết hấp phụ Langmuir 
Thuyết này được xây dựng với các giả thiết: Hấp phụ đơn lớp; Không có tương 
tác giữa các phân tử chất bị hấp phụ với nhau; Bề mặt hấp phụ là đồng nhất, nghĩa 
là năng lượng hấp phụ không phụ thuộc vào θ. 
Áp dụng phương trình: KC = /(1 - ) hoặc C/ = 1/K + C (3.9) 
Từ hình 3.22 cho thấy, sự hấp phụ của TDC lên bề mặt thép tuân theo quy luật 
đường thẳng với hệ số tương quan R2≥0,81. Theo giáo trình lý thuyết thống kê, đối 
với phương trình 2 biến, hệ số tương quan R≥0,9 hay R2≥0,8 thì sự tương quan là 
chặt chẽ. Như vậy, sự hấp phụ của TDC tuân theo quy luật Langmuir với mức độ 
chặt chẽ. 
 15 
Tuy nhiên, các phương trình thực nghiệm có độ dốc a≠1 cho thấy, sự hấp phụ của 
TDC lên bề mặt thép không chỉ là hấp phụ đơn lớp thông thường mà có thể do sự hấp 
phụ cạnh tranh của các lớp phân tử với nhau, hay của các phân tử trong cùng một lớp 
hay bởi bề mặt hấp phụ không đồng nhất về mặt năng lượng. 
Hình 3.22 - Đường đẳng nhiệt 
hấp phụ được xây dựng theo 
thuyết hấp phụ Langmuir đối với 
thép trong axit HCl 1N ở các 
nhiệt độ khác nhau 
Vì vậy, ở đây phương trình Langmuir hiệu chỉnh được áp dụng trong trường hợp 
này được nhiều tác giả khuyến nghị có dạng [16, 26, 46, 51, 106]: 
K
n
nC
θ
C
(3.10) 
với n là hệ số tuyến tính điều chỉnh. 
Như vậy, đặc trưng hấp phụ TDC lên bề mặt thép không hoàn toàn chỉ là hấp phụ 
đơn lớp và bề mặt có thể không đồng nhất về mặt năng lượng. Do vậy, phương trình 
hấp phụ theo thuyết hấp phụ Temkin và Frumkin được xây dựng để xác định rõ hơn 
quy luật hấp phụ của TDC. 
 Xây dựng phương trình hấp phụ theo theo thuyết hấp phụ Temkin: 
Thuyết này được xây dựng với các giả thiết: Bề mặt không đồng nhất về năng 
lượng hấp phụ; Có sự tác dụng giữa các phần tử chất bị hấp phụ với nhau và giữa 
chúng với bề mặt kim loại. 
Áp dụng phương trình:  = (1/f)ln[KC] (3.11) 
trong đó: f là hệ số liên quan đến sự không đồng nhất về mặt năng lượng của bề mặt 
kim loại. 
Đồ thị  - logC được xây dựng từ kết quả thực nghiệm (hình 3.23). 
Ta thấy TDC hấp phụ lên bề mặt thép tuân theo thuyết hấp phụ Temkin với hệ 
số tương quan khá cao (R2≥0,8). Điều này chứng tỏ sự hấp phụ TDC là hấp phụ với 
bề mặt không đồng nhất về năng lượng hấp phụ và có sự tương tác của các phân tử 
chất hấp phụ với nhau hoặc với bề mặt kim loại. 
 Xây dựng phương trình hấp phụ theo theo thuyết hấp phụ Frumkin: 
Thuyết này được xây dựng cho mô hình hấp phụ tổng quát, có sự tương tác mạnh 
giữa các phân tử chất bị hấp phụ. 
Áp dụng phương trình: KC = (/(1 - ))exp(-2a) (3.12) 
 hay lg[/((1 - )C)] = lgK + 2a/2.303 (3.13) 
trong đó: a là hệ số liên quan đến tương tác giữa các chất hấp phụ. 
 16 
Hình 3.23 - Đường đẳng nhiệt 
hấp phụ được xây dựng theo 
thuyết hấp phụ Temkin đối với 
thép trong axit HCl 1N ở các 
nhiệt độ khác nhau 
Hình 3.24 cho thấy, các phương trình đường thẳng thu được từ thực nghiệm có 
hệ số tương quan R2 thấp (R2 < 0,54), hay nói cách khác sự hấp phụ của TDC lên bề 
mặt thép trong axit HCl 1N không tuân theo quy luật Frumkin, tức là không có tương 
tác mạnh giữa các phân tử của chất bị hấp phụ với nhau. 
Hình 3.24 - Đường đẳng 
nhiệt hấp phụ được xây 
dựng theo thuyết hấp phụ 
Frumkin đối với thép trong 
axit HCl 1N ở các nhiệt độ 
khác nhau 
Tóm lại, thông qua việc xây dựng các quy luật hấp phụ theo thuyết Langmuir, 
Temkin và Frumkin, ta thấy sự hấp phụ của TDC lên bề mặt thép tuân theo quy luật 
Langmuir và Temkin với hệ số tương quan cao. Sự hấp phụ của TDC làm ngăn cản quá 
trình hòa tan thép, qua đó chúng ức chế ăn mòn của bề mặt thép. 
Năng lượng tự do hấp phụ được tính toán phụ thuộc vào hằng số cân bằng hấp 
phụ - nhả hấp phụ theo phương trình: 
Với K = )exp(
5,55
1
RT
Ghp
 hay ΔGhp = -2,303RTlog(55,5K) (3.14) 
trong đó: R là hằng số khí lý tưởng (J/mol.oK); T là nhiệt độ (oK); 55,5 là nồng độ 
của nước (mol/L). 
Kết quả tính toán ΔGhp từ quy luật Langmuir và Temkin lần lượt có giá trị: ΔGhp 
= -8,37 ÷ -11,58 kJ/mol và ΔGhp = -13,68 ÷ -17,40 kJ/mol ở mọi nhiệt độ khảo sát. 
 17 
ΔGhp >-20 kJ/mol cho thấy quá trình hấp phụ của TDC lên thép trong axit HCl 1N 
là quá trình tự diễn biến và đều là hấp phụ vật lý. Kết quả này cũng phù hợp với công 
bố về sự hấp phụ của Limonene (được chiết từ vỏ cam) lên bề mặt thép cho thấy: 
bản chất quá trình hấp phụ là hấp phụ vật lý và diễn ra tự phát. 
3.3.3. Nghiên cứu sàng lọc các thành phần trong TDC có khả năng hấp phụ trên 
bề mặt kim loại 
3.3.3.1. Nghiên cứu khả năng hình thành màng trên bề mặt thép trong dung dịch axit HCl 
1N khi có TDC 
Để nghiên cứu khả năng hình thành màng trên bề mặt kim loại, hình thái học bề 
mặt và phân tích thành phần bề mặt mẫu được nghiên cứu trên máy SEM-EDX 
(JEOL 6490, Jed 2300 - Nhật Bản) với các bước tiến hành như sau: 
o Lần rửa thứ nhất (trước rửa màng): được thực hiện đối với bề mặt thép sau 
khi ngâm 1h trong các dung dịch nghiên cứu với mục đích quan sát và phân tích 
thành phần màng có thể hình thành trên bề mặt thép. Mẫu được đem rửa nhẹ bằng 
nước máy và tráng lại với nước cất, sau đó làm khô bằng giấy thấm. Bề mặt thu được 
đem chụp SEM và phân tích EDX lần 1. 
o Lần rửa thứ hai (rửa màng): được thực hiện sau khi kết thúc chụp SEM-
EDX lần 1. Mẫu được rửa lại bằng xà phòng, rửa nước, tráng nước cất, rồi lau khô 
bằng giấy thấm tẩm cồn và sấy. Sau đó, mẫu được đem chụp SEM-EDX lần 2. 
Hình 3.25 - Ảnh SEM bề mặt thép 
trước và sau thí nghiệm trong axit 
trống và axit có 3 g/L TDC 
sau 1h ở 25oC 
Ảnh SEM (hình 3.25) cho thấy, bề mặt mẫu trước thí nghiệm rất nhẵn, sau khi 
ngâm 1h trong axit HCl 1N thì bề mặt mẫu bị ăn mòn lỗ rất mạnh, các lỗ xuất hiện 
với số lượng lớn và đường kính lỗ rộng. Quá trình ăn mòn lỗ trên bề mặt thép là do 
sự hoạt động của ion Cl-, cùng với việc cấu trúc pha và thành phần các nguyên tố vi 
lượng tại các vị trí biên hạt trên bề mặt khác nhau, dẫn đến hình thành các vi pin 
hoặc các điểm hoạt động mạnh do vậy tại các điểm đó xảy ra quá trình ăn mòn lỗ. 
So sánh ảnh SEM bề mặt mẫu thép trước rửa màng và sau rửa màng ở cùng độ phóng 
đại cho thấy, bề mặt thép sau rửa màng sạch hơn, bề mặt và các lỗ bị ăn mòn xuất 
hiện rõ hơn do không bị sản phẩm ăn mòn che phủ. 
Đối với dung dịch có 3 g/L TDC, bề mặt thép sau thí nghiệm khá nhẵn, số lượng 
các lỗ bị ăn mòn và kích thước lỗ nhỏ hơn rất nhiều so với trong axit trống. Như vậy, 
Mẫu trước thí nghiệm HCl 1N - Trước rửa màng HCl 1N + 3g/l TDC 
Trước rửa màng 
 HCl 1N - Sau rửa màng HCl 1N + 3g/l TDC 
Sau rửa màng 
 18 
TDC có khả năng ức chế sự ăn mòn lỗ đối với thép trong môi trường HCl 1N. Trên 
bề mặt mẫu trước rửa màng cho thấy có một lớp màng rất mỏng là do chất ức chế đã 
hấp phụ lên bề mặt, che đi các điểm hoạt động, làm giảm sự tương tác của các ion 
gây ăn mòn lên bề mặt mẫu thép. 
Để làm rõ sự xuất hiện lớp màng mỏng khi có mặt TDC, phổ EDX được phân 
tích trên bề mặt thép trước và sau rửa màng ở các vị trí bề mặt khác nhau. Kết quả 
đưa ra trên bảng 3.12. 
Bảng 3.12 - Kết quả phân tích EDX thành phần bề mặt thép trước và sau thí nghiệm ở các vị trí bề 
mặt khác nhau 
Mẫu Vị trí 
Hàm lượng nguyên tố, % khối lượng 
C O Si S Cl Cr Fe Cu Tổng 
Thép 
trước thí 
nghiệm 
1 
Toàn bề 
mặt 
 0,24 0,26 99,5 100 
2 
Toàn bề 
mặt 
 0,36 0,22 99,42 100 
3 
Toàn bề 
mặt 
 0,62 0,27 99,1 100 
HCl 1N - 
Sau rửa 
lần 1 
1 
Toàn bề 
mặt 
1,77 0,89 1,29 0 0,05 0,17 95,06 0,77 100 
2 Vùng tối 1,98 0,15 1,29 0,1 0,07 0,4 95,1 0,92 100 
3 Vùng sáng 2,16 1,04 0,45 0,05 0 0,12 95,07 1,12 100 
4 Lỗ 2,79 5,79 0,25 0,16 0,12 0 89,89 0,99 100 
HCl 1N-
Sau rửa 
lần 2 
(rửa 
màng) 
1’ 
Toàn bề 
mặt 
0,84 0,73 0,15 0,05 0 0,31 97,64 0,27 100 
2’ Vùng tối 0,75 1,34 0,44 0,04 0,01 0,14 97,14 0,14 100 
3’ Vùng sáng 2,34 0,89 0,38 0,07 0,03 0,17 95,38 0,74 100 
4’ Lỗ 0,76 3,01 0,76 0,14 0,01 0,18 94,83 0,31 100 
HCl 1N 
+ 3g/L 
TDC 
- Sau rửa 
lần 1 
1 
Toàn bề 
mặt 
7,58 0,63 0,41 0,03 0,02 0,25 91,09 0 100 
2 Vùng tối 40,78 2,98 0,13 0,13 0,16 0,18 55,49 0,16 100 
3 Vùng sáng 13,31 0,77 0,6 0 0,01 0,28 84,81 0,21 100 
4 Lỗ 19,55 1,5 0,34 0 0,11 0,15 78,25 0,1 100 
HCl 1N + 
3gl TDC -
Sau rửa lần 
2 (rửa 
màng) 
1’ 
Toàn bề 
mặt 
 0,38 0,04 0,03 0,08 99,18 0,29 100 
3’ Vùng sáng 0,25 0,31 0,1 98,91 0,43 100 
4’ Lỗ 2,55 0,18 0,25 96,88 0,15 100 
 19 
Khi ngâm trong axit HCl 1N, bề mặt thép sau rửa lần 1 ngoài sự xuất hiện của các 
nguyên tố C, Si, S, Cr, Cu và Fe là thành phần của thép cacbon (như đã trình bày trong 
bảng 2.1), còn thấy sự có mặt của các nguyên tố O và Cl. Sự xuất hiện của O và Cl ở 
đây là do các nguyên tố này nằm trong sản phẩm của quá trình ăn mòn thép (FeCl2, 
FeClOH) [19, 43]. Điều này được chứng tỏ qua các số liệu ở vị trí lỗ (4) với hàm lượng 
O (5,79%) và Cl (0,12%) cao hơn so với các vị trí khác. Có thể thấy, hàm lượng O và 
Cl trên màng bề mặt thép trong axit trống nhìn chung giảm đi sau khi rửa màng và chủ 
yếu tồn tại trong các lỗ ăn mòn (vùng 4’), chứng tỏ hàm lượng O và Cl tồn tại chủ yếu 
trong các sản phẩm ăn mòn thép trong dung dịch axit. 
Đối với dung dịch axit có 3 g/L TDC, hàm lượng C và O trên màng bề mặt thép 
(sau rửa lần 1) lớn hơn rất nhiều so với trong axit không có ức chế. Hàm lượng lớn 
C và O trên màng có thể một phần là sản phẩm ăn mòn và phần chủ yếu là do các 
thành phần hợp chất hữu cơ có mặt trong TDC đã hấp phụ lên bề mặt thép. Đáng 
chú ý là hàm lượng C trên tất cả các vùng của bề mặt thép sau rửa lần 1 (trên màng) 
cao hơn hẳn (tương ứng là hàm lượng Fe thấp hơn hẳn) so với sau rửa lần 2 (rửa 
màng), đặc biệt là trên vùng tối (vùng 2 với 40,78% C và 55,49% Fe) và trong lỗ 
(vùng 4). Hàm lượng lớn C trên màng chứng tỏ màng hấp phụ trên bề mặt thép có 
những vị trí khá dày và che phủ phần lớn bề mặt kim loại. Ngoài ra, thành phần bề 
mặt mẫu sau rửa lần 1 còn xuất hiện nguyên tố Cl (với hàm lượng cao nhất ở vùng 
2). Hàm lượng Cl trong màng cao có thể do tác dụng cộng hợp của TDC với hợp 
chất halogen đã làm tăng sự hấp phụ của chúng lên bề mặt kim loại. Bề mặt mẫu 
thép trong HCl khi có TDC sau rửa màng (vùng 1’, 3’ và 4’) gần như chỉ xuất hiện 
các nguyên tố chính trong thành phần thép, là bằng chứng cho thấy bề mặt thép đã 
được bảo vệ khỏi ăn mòn trong dung dịch axit HCl. 
Như vậy, kết quả phân tích SEM-EDX đã chứng tỏ: sự tồn tại màng hấp phụ TDC trên 
bề mặt thép khi thép tiếp xúc với axit HCl 1N có TDC. Các thành phần trong TDC đã 
hấp phụ lên bề mặt thép thông qua các nguyên tố như C và O để hình thành màng hấp 
phụ, ngăn cản sự tấn công của các tác nhân gây ăn mòn từ dung dịch axit vào bề mặt 
kim loại. Qua đó TDC đã ức chế quá trình ăn mòn thép. 
3.3.3.2. Phân tích, đánh giá thành phần màng hấp phụ hình thành trên bề mặt thép 
Thành phần hóa học các chất có mặt trong TDC được xác định bằng phương 
pháp phân tích sắc ký khí khối phổ GC-MS cho thấy gồm 29 chất với hàm lượng cao 
nhất là D-limonene chứa 2 liên kết C=C (chiếm 92,85%), còn lại là các tecpen, các 
hợp chất hữa cơ có chứa C, H (và O). Công thức cấu tạo của các thành phần này có 
các nhóm chức C=C, C=O, O-H, -O- và vòng,... 
Phổ hồng ngoại FTIR (hình 3.29) được chụp trên bề mặt thép sau khi ngâm 24h 
trong axit HCl 1N có 3g/L TDC ở 25oC để xem xét sự hình thành màng hấp phụ trên 
thép bởi TDC. Trên phổ FTIR xuất hiện pic của liên kết C=C ở số sóng 1629,1cm-1 
và pic của liên kết C=O ở số sóng 1763,6cm-1. Ngoài ra còn có liên kết C-H ở 2959,7 
và 2924,3cm-1. Đỉnh pic ở số sóng 3188,7cm-1 đặc trưng cho liên kết của nhóm O-
H, pic 1440,8cm-1 đặc trưng cho liên kết =C-H, 1085,4 và 1023,9cm-1 là của liên kết 
C-O-C; 764,1cm-1 là của liên kết =C-H ở vòng thơm. Như vậy, thành phần màng hấp 
 20 
phụ trên bề mặt thép là các hợp chất gồm các liên kết C=O, C=C, C-H, O-H, –C=CH 
ở vòng thơm và C-O-C trong phân tử. 
Hình 3.29 - Phổ hồng ngoại FTIR màng bề mặt thép được ngâm trong HCl 1N có 3 g/L 
TDC sau 24h ở 25oC 
 Theo một số nghiên cứu trước đây, tác dụng ức chế ăn mòn thép trong axit HCl 
là do Limonene, nhưng theo các kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì thành phần 
trong TDC đóng vai trò hấp phụ trên bề mặt thép, ức chế ăn mòn thép trong môi 
trường axit không chỉ có Limonene mà còn có các hợp chất khác mà trong thành 
phần của nó có chứa các liên kết như C=O, C=C, C-H, O-H, –C=CH ở vòng thơm 
và C-O-C trong phân tử. Ngoài ra, các hợp chất hữu cơ trong môi trường axit có thể 
bị axit hóa hoặc có phản ứng hình thành các sản phẩm phụ hoặc các sản phẩm trung 
gian mà các sản phẩm này cũng có thể đóng vai trò như chất ức chế thứ cấp đối với 
ăn mòn thép trong axit. 
Tóm lại, các hợp chất đóng vai trò hấp phụ lên bề mặt kim loại có thể chính là 
các thành phần có mặt trong TDC và /hoặc bởi sản phẩm phản ứng của chúng trong 
môi trường axit. Các hợp chất này có chứa các liên kết C=O, C=C, C-O-C, O-H, –
C=CH và C-H trong phân tử. 
3.3.4. Đề xuất cơ chế ức chế của TDC 
- Qua đường cong phân cực và phổ tổng trở điện hóa của thép trong axit HCl 1N 
khi không và khi có TDC cũng như các thông số điện hóa của thép cho thấy TDC 
hoạt động như một chất ức chế hỗn hợp đối với quá trình ăn mòn thép trong axit 
HCl. Khả năng ức chế ăn mòn của TDC có thể là do sự hấp phụ các thành phần trong 
TDC lên bề mặt thép. 
 21 
- Kết quả nghiên cứu SEM-EDX chỉ ra rằng, sự hình thành màng trên bề mặt 
thép trong axit HCl có ức chế TDC là nhờ sự hấp phụ thành phần các hợp chất của 
TDC chứa các nguyên tố C và O lên bề mặt thép. 
- Theo kết quả phân tích phổ FTIR và GC-MS, các hợp chất đóng vai trò hấp phụ 
lên bề mặt kim loại có thể chính là các thành phần có mặt trong TDC như D-limonene 
và /hoặc bởi sản phẩm phản ứng của chúng trong môi trường axit. Các hợp chất này 
có chứa các liên kết C=O, C=C, C-O-C, O-H và C-H trong phân tử. 
- Kết quả tính toán các thông số nhiệt động của quá trình ăn mòn và hấp phụ cho 
thấy: TDC đã ngăn cản quá trình ăn mòn thông qua sự hấp phụ lên bề mặt kim loại và 
thay thế các phân tử nước trên bề mặt kim loại, làm phản ứng ăn mòn xảy ra khó khăn 
hơn. Quá trình hấp phụ của TDC là hấp phụ vật lý và tự diễn biến. 
Từ đây có thể mô phỏng sự hấp phụ của TDC lên bề mặt kim loại thông qua hấp 
phụ của hợp chất Limonene và một số hợp chất khác có liên kết đặc trưng như C=C 
và C=O (hình 3.30). Trên hình là mô hình hấp phụ của hợp chất limonene (3.30a) 
thông qua sự hấp phụ của hai liên kết C=C ở vị trí cacbon 3-4 và 8-9 với bề mặt thép; 
và một số liên kết đặc trưng như C=C và C=O trong thành phần TDC hấp phụ lên 
bề mặt thép (hình 3.30b). 
Tóm lại, TDC là chất ức chế hỗn hợp, có tác dụng hiệu quả đối với quá trình ăn 
mòn thép trong môi trường axit HCl theo cơ chế hấp phụ. Các hợp chất đóng vai trò 
hấp phụ lên bề mặt kim loại có thể chính là các phần có mặt trong TDC (như 
limonene và các hợp chất khác) và / hoặc các sản phẩm phản ứng của chúng hình 
thành trong môi trường axit. Các hợp chất này trong phân tử có chứa các liên kết 
C=O, C=C, C-O-C, O-H và C-H. Quá trình hấp phụ của TDC là quá trình tự diễn 
biến, hấp phụ vật lý và có sự tương tác của các chất bị hấp phụ với nhau. 
3.4. Khảo sát hiệu quả ức chế của TDC khi thay đổi gốc axit và so sánh với chất 
ức chế truyền thống 
3.4.1. Ảnh hưởng của gốc axit đến khả năng ức chế ăn mòn của thép trong môi 
trường axit 
Ngoài axit HCl, axit H2SO4 cũng được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp hóa 
chất. Do vậy, axit H2SO4 hay gốc SO42- được lựa chọn thí nghiệm với mục đích so 
sánh. Ảnh hưởng của gốc axit đến khả năng ức chế ăn mòn thép bởi TDC được nghiên 
a) Limonene b) Một số liên kết đặc trưng trong TDC 
Hình 3.30 - Mô hình hấp phụ của TDC lên bề mặt kim loại 
Nền thép Nền thép 
 22 
cứu trong axit HCl và 
H2SO4 ở cùng pH hay cùng 
nồng độ ion H+ (1N) bằng 
các phương pháp điện hóa 
và tổn hao khối lượng. 
Kết quả tốc độ ăn mòn 
thép và hiệu quả ức chế của 
TDC trong hai môi trường 
sau 1h và 24h được trình 
bày trên bảng 3.16. Tốc độ 
ăn mòn thép trong axit 
H2SO4 nhỏ hơn trong axit HCl sau cả 1h và 24h. 
Điều này là do sự ăn mòn thép trong axit HCl ngoài xảy ra trên bề mặt thép, còn xảy 
ra tại các lỗ ăn mòn do sự có mặt của ion Cl-. Tuy nhiên khi có TDC, tốc độ ăn mòn 
thép trong axit H2SO4 lớn hơn trong axit HCl sau 1h. Wcorr trong cả hai dung dịch 
xấp xỉ nhau sau 24h ngâm mẫu. Hiệu quả ức chế ăn mòn thép bởi TDC trong HCl cao 
hơn trong H2SO4 ở cả 1h và 24h. Điều này có thể giải thích là do các ion Cl- có xu 
hướng hấp phụ mạnh hơn so với các 
ion SO42- và ảnh hưởng tĩnh điện đến sự 
hấp phụ chất ức chế có thể là lý do làm 
tăng tác dụng bảo vệ của chất ức chế 
trong dung dịch có chứa halogen. Hơn 
nữa sự can thiệp ít hơn của các ion 
SO42- với các cation H+ bị hấp phụ có 
thể dẫn đến sự hấp phụ thấp hơn [94]. 
Vì vậy, hấp phụ của TDC trên bề mặt 
thép trong axit HCl 1N là mạnh hơn so 
với trong axit H2SO4, dẫn đến hiệu quả 
ức chế trong HCl cao hơn trong H2SO4. 
Ảnh SEM (hình 3.33) cho biết bề 
mặt thép trong axit HCl bị ăn mòn lỗ 
mạnh với nhiều lỗ lớn, trong khi là ăn 
mòn đều mạnh trong H2SO4. Khi có 
mặt TDC, bề mặt thép trong cả hai axit 
đều ít bị ăn mòn hơn so với trong các 
axit trống tương ứng, chứng tỏ TDC có 
tác dụng ức chế ăn mòn hiệu quả trong cả hai môi trường. Như vậy, sự hấp phụ của 
TDC chịu ảnh hưởng bởi trạng thái các anion trong dung dịch axit hay chịu ảnh hưởng 
bởi gốc axit. 
Bảng 3.16 - Ảnh hưởng của gốc axit đến tổn hao khối 
lượng thép và hiệu quả ức chế ăn mòn bởi TDC 
Hình 3.33 - Ảnh hưởng của gốc axit đến 
hình thái bề mặt thép sau 1h 
Dung dịch 
Thời gian 
CTDC (g/L) 
1h 24h 
Wcorr 
(mg/cm
2
.h) 
HW 
(%) 
Wcorr 
(mg/cm
2
.h) 
HW 
(%) 
HCl 1N 
0 0,3098 - 0,4817 - 
3 0,0570 81,6 0,0249 94,8 
H2SO4 1N 
0 0,2313 - 0,3130 - 
3 0,0616 73,7 0,0234 92,5 
a) 
 Mẫu trước thí nghiệm 
b) 
 HCl 1N H2SO4 1N 
c) 
 HCl 1N + 3 g/L TDC H2SO4 1N + 3 g/L TDC 
 23 
3.4.2. Nghiên cứu so sánh khả năng ức chế ăn mòn thép bởi TDC trong axit HCl 
1N với chất ức chế truyền thống urotropine (URO) 
Nghiên cứu này nhằm mục đích so sánh khả năng ức chế ăn mòn thép trong axit 
HCl 1N bởi ức chế TDC ở nồng độ tối ưu 3 g/L với chất ức chế truyền thống 
urotropin (URO) với nồng độ được khuyến nghị sử dụng theo tiêu chuẩn (3,5 g/L). 
Nghiên cứu sử dụng các phép đo điện hóa, tổn hao khối lượng và ảnh SEM ở 25oC. 
Kết quả phân tích đường cong phân cực (hình 3.34) và phổ EIS (hình 3.35) chỉ 
ra rằng, khi có mặt chất ức chế TDC và URO trong axit HCl, ic của thép đều giảm 
đáng kể và tương ứng là Rct tăng đáng kể so với trong axit không có ức chế. 
Hình 3.34 - Đường cong phân cực của thép 
trong axit HCl 1N không và có TDC hoặc 
URO ở nồng độ tối ưu 
Hình 3.35 - Phổ Nyquist của thép trong 
HCl 1N có TDC hoặc URO với nồng độ tối 
ưu 
Hình 3.36 là đồ thị hiệu quả ức chế ăn 
mòn thép Hw của TDC so với URO ở các 
thời gian khác nhau. Nhìn chung, hiệu quả 
ức chế của TDC tương đương so với URO 
và đều có xu hướng tăng nhẹ theo thời gian, 
đạt ổn định khoảng 90% sau 6h ngâm mẫu. 
Như vậy, TDC có tác dụng ức chế ăn 
mòn hiệu quả, ổn định và tương đương so 
với chất ức chế truyền thống urotropin ở 
điều kiện nghiên cứu, vì thế có thể ứng dụng 
trong thực tế để thay thế những hợp chất ức 
chế truyền thống độc hại. 
KẾT LUẬN 
1. Các tinh dầu chiết xuất từ vỏ quả họ cam Việt Nam có khả năng ức chế ăn mòn 
thép trong môi trường axit. Tinh dầu BNR và TDC có hiệu quả ức chế trên 80%. 
2. TDC là chất ức chế hỗn hợp đối với ăn mòn thép trong axit HCl 1N. Nồng độ ức 
chế tối ưu của TDC là 3 g/L tương ứng với hiệu quả ức chế trên 90%. Hiệu quả ức 
chế ổn định theo thời gian (kể từ 5 phút ngâm mẫu) và trong khoảng nồng độ axit 
0,5-2N. TDC có khả năng ức chế ăn mòn đều và đặc biệt hiệu quả với ăn mòn lỗ 
cho thép trong môi trường axit. 
-0.7
-0.6
-0.5
-0.4
-0.3
-0.2
0.0000001 0.00001 0.001 0.1
E 
(V
. v
s 
A
g/
A
gC
l)
Lg i (A/cm2)
HCl 1N
HCl 1N + 3 g/l TDC
HCl 1N + 3.5 g/l URO
Hình 3.36 - Hiệu quả ức chế của TDC so 
với chất ức chế truyền thống urotropin ở 
nồng độ tối ưu theo thời gian 
 24 
3. Tốc độ ăn mòn thép trong axit HCl 1N có nồng độ TDC khác nhau phụ thuộc 
nhiệt độ theo quy luật hàm mũ Arrhenius (y=aebx). Hiệu quả ức chế ăn mòn 
ổn định trong khoảng nhiệt độ 15-45oC và giảm nhẹ khi nhiệt độ tăng từ 55oC 
đến 65oC. 
4. Đã tính toán được các thông số nhiệt động của quá trình ăn mòn như năng lượng 
hoạt hóa Ea, entanpy hoạt hóa ΔH, entropy hoạt hóa ΔS và xây dựng được các 
quy luật hấp phụ của TDC. Kết quả chỉ ra rằng, TDC đã làm phản ứng ăn mòn 
thép xảy ra khó khăn hơn do sự hấp phụ của TDC đã thay thế các phân tử nước 
hình thành một lớp màng mỏng trên bề mặt kim loại. Sự hấp phụ của TDC lên 
bề mặt thép tuân theo quy luật Langmuir và Temkin. Quá trình hấp phụ là hấp 
phụ vật lý, tự diễn biến và có sự tương tác yếu giữa phân tử các chất ức chế. 
5. TDC ức chế ăn mòn thép trong axit HCl 1N theo cơ chế hấp phụ. Các thành 
phần trong TDC hấp phụ lên bề mặt thép có thể chính là các thành phần có mặt 
trong TDC như D-limonene và /hoặc bởi sản phẩm phản ứng của chúng trong 
môi trường axit. Các hợp chất này có chứa các liên kết C=O, C=C, O-H, C-O-
C, -C=CH và C-H trong phân tử. 
6. Nghiên cứu so sánh khả năng ức chế ăn mòn của TDC với chất ức chế truyền 
thống (urotropin 3,5 g/L) cho thấy hiệu quả ức chế của TDC tương đương với 
urotropin và ổn định theo thời gian trong cùng môi trường và điều kiện nghiên 
cứu. Cơ chế ức chế ăn mòn thép bởi TDC chịu ảnh hưởng bởi gốc axit. Tác 
dụng ức chế ăn mòn thép bởi TDC trong HCl hiệu quả hơn trong H2SO4 ở cùng 
nồng độ axit. 
7. TDC với các đặc tính ức chế ăn mòn tốt như: thời gian làm việc hiệu quả ổn 
định, có tác dụng tốt trong dải nhiệt độ và nồng độ axit khá rộng, lại thân thiện 
với môi trường, nên có triển vọng ứng dụng tốt vào thực tiễn trong ngành công 
nghiệp sử dụng chất ức chế chống ăn mòn cho thép trong môi trường axit. 
KIẾN NGHỊ 
Đề tài nên được tiếp tục nghiên cứu để có thêm thông tin cho những ứng dụng 
thực tiễn với các nội dung sau: 
- Sử dụng chất phân tán để làm tăng khả năng phân tán của TDC trong môi 
trường axit. 
- Đánh giá ảnh hưởng của sự tự phân hủy sinh học trong quá trình bảo quản 
TDC đến hiệu quả ức chế ăn mòn theo thời gian. 
- Đánh giá hiệu quả kinh tế khi sử dụng chất ức chế TDC. 
- Ảnh hưởng của các gốc axit (NO3-, PO43-...) và hỗn hợp các axit đến khả năng 
ức chế ăn mòn thép của TDC. 
- Ảnh hưởng của các hợp chất halogen (I-, Br-) đến hiệu quả ức chế ăn mòn thép 
của TDC trong môi trường axit. 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN 
1. Bùi Thị Thanh Huyền, Lý Ngọc Tài, Hoàng Thị Bích Thủy (2011), Nghiên 
cứu khả năng ức chế ăn mòn của thép trong môi trường axit bởi dịch chiết từ 
vỏ quả bưởi, Tạp chí Hóa học, T. 49 (2ABC) 374-378. 
2. Bùi Thị Thanh Huyền, Hoàng Thị Bích Thuỷ (2012), Nghiên cứu khả năng 
ức chế ăn mòn của một số dịch chiết từ vỏ quả họ cam bưởi Việt nam đối với 
thép trong môi trường axit HCl 1N, Tạp chí khoa học & Công nghệ, T. 50 
(3B) 16-25. 
3. Bui. T. T. Huyen, Hoang. T. B. Thuy, Le. T. H. Lien (2012), Corrosion 
inhibition for mild steel in HCl acid by Vietnam orange peel extract, 
Proceedings of the 16th Asian Pacific Corrosion Control Conference, paper 
No. 0111, October 21-24, 2012, Kaohsiung, Taiwan. 
4. Bui T. T. Huyen, Hoang T. B. Thuy, Pham H. Long (2012), The influence of 
temperature on the corrosion inhibition of Vietnam orange peel extract for 
mild steel in HCl acid, Journal of Chemistry, Vol. 50(6B) 92-98. 
5. Bùi Thị Thanh Huyền, Hoàng Thị Bích Thủy (2013), Sự hấp phụ của chất 
ức chế xanh chiết xuất từ vỏ quả họ cam Việt Nam (họ Rutaceae) trên bề mặt 
thép trong axít clohydric 1N, Tạp chí Hóa học, T. 51 (2C) 935-940. 
6. Bùi Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị Thu Huyền, Hoàng Thị Bích Thủy, Mai 
Thanh Tùng (2013), Khảo sát khả năng ức chế của tinh dầu cam Việt Nam 
đối với thép trong một số môi trường ăn mòn, Tạp chí khoa học & Công nghệ, 
51 (3A) 1-8. 
7. Bùi Thị Thanh Huyền, Phan Văn Trang, Hoàng Thị Bích Thủy (2013), 
Nghiên cứu khả năng ức chế ăn mòn của thép trong axít H2SO4 bởi dịch chiết 
vỏ cam Việt Nam (họ Rutaceae), Tạp chí khoa học & Công nghệ, 51 (3A) 9-
15. 
8. Hoang Thi Bich Thuy, Bui Thi Thanh Huyen, Le Thi Hong Lien, Mai Thanh 
Tung (2013), Vietnam orange peel extract as an eco friendly corrosion 
inhibitor for mild steel in HCl acid, Proc. NACE International East Asia & 
Pacific Rim Area Conference & Expo 2013, paper No. EAP13-4503, Kyoto 
11/2013. 
9. Bui Thi Thanh Huyen, Hoang Thi Bich Thuy, Mai Thanh Tung (2014), A 
comparative study of eco-friendly corrosion inhibitor OPE and urotropine in 
HCl acid, Proc. The 15th International Symposium on Eco-materials 
Processing and Design (ISEPD2014), pp. 187-190, Hanoi 1/2014. 
10. Bùi Thị Thanh Huyền, Hoàng Thị Bích Thủy (2014), Ảnh hưởng của nhiệt 
độ đến ức chế ăn mòn và khả năng hấp phụ đối với thép trong axit H2SO4 
bằng tinh dầu vỏ cam Việt Nam, Tạp chí Hóa học, T. 52(6B) 86-90. 
11. Bùi Thị Thanh Huyền, Hoàng Thị Bích Thủy, Lê Thị Hồng Liên (2014), 
Ảnh hưởng của thời gian và nồng độ axit đến sự ức chế ăn mòn thép bởi tinh 
dầu vỏ cam Việt Nam, Tạp chí Hóa học, T. 52(6B) 94-97. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tom_tat_luan_an_nghien_cuu_chat_uc_che_xanh_chiet_xuat_tu_vo.pdf tom_tat_luan_an_nghien_cuu_chat_uc_che_xanh_chiet_xuat_tu_vo.pdf