Nghiên cứu địa danh từ sự tiếp cận ngôn ngữ - văn hóa là tìm hiểu những
đặc trưng văn hóa thể hiện trong từng địa danh cụ thể, trong từng loại hình địa danh
cũng như trong tổng thể địa danh nói chung. Đây là lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ và
gặp không ít khó khăn, nhưng cũng không kém phần hấp dẫn, thú vị. Cần có những
nghiên cứu tiếp theo, cần sự đào sâu, khai thác cơ tầng văn hóa, vận dụng linh hoạt
các qui luật biến đổi ngữ âm lịch sử để bóc tách, nhận diện các lớp trầm tích “hóa
thạch” trên địa danh. Có như vậy, địa danh học mới thực sự có giá trị “soi sáng” văn
hóa, lịch sử của nhân loại.
25 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Nghiên cứu địa danh tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh đồi núi, sông suối, đồng
bằng và biển), về các vùng đất cƣ trú hành chính.
4. Kết quả thống kê địa danh Quảng Bình theo nguồn gốc ngôn ngữ cho thấy ở
Quảng Bình có một tỷ lệ lớn các địa danh có nguồn gốc thuần Việt (tiếng Việt phổ thông
và tiếng địa phƣơng Quảng Bình), phản ánh việc bảo lƣu đƣợc tiếng Việt địa phƣơng,
tiếng Việt cổ. Nhƣng quá trình “Hán Việt hóa” cũng đã diễn ra khá sâu sắc. Tần số hoạt
động của các yếu tố Hán Việt là cao nhất, yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ các dân tộc
thiểu số không đáng kể.
Chương 2
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ CẤU TẠO VÀ Ý NGHĨA
CỦA ĐỊA DANH TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Giới thuyết chung về cấu tạo địa danh và phương thức định danh
- Về bản chất, phƣơng thức định danh là nhằm trả lời câu hỏi dựa vào đâu và bằng
cách nào để định danh (đặt tên cho đối tƣợng).
- Thao tác định danh gồm: xác định những đặc tính chung để phân nhóm, tức là
lựa chọn thành tố chung (danh từ chung) và những đặc tính riêng (nét riêng) để xác lập
tên riêng (địa danh) cho đối tƣợng.
6
- Phƣơng thức định danh, cấu tạo và ý nghĩa của địa danh luôn có mối quan hệ
chặt chẽ, gắn bó. Cấu tạo của một địa danh liên quan đến hai yếu tố: cấu trúc nội bộ và
nguyên tắc đặt tên. Cấu trúc nội bộ là đặc điểm về cấu tạo (hình thức), nguyên tắc đặt
tên là đặc điểm về ý nghĩa (nội dung).
2.2. Cấu tạo địa danh tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh
Khi xem xét mô hình cấu trúc của một phức thể địa danh, quan điểm của luận án
là một địa danh, hay một phức thể địa danh luôn gồm 2 thành tố: thành tố chung chỉ loại
và tên riêng cụ thể hóa loại hình địa danh. Cả hai thành tố đều có vai trò và chức năng
khác nhau trong việc tạo lập một phức thể địa danh. Mô hình cấu trúc phức thể địa
danh ở Quảng Bình nhƣ sau:
Thành tố chung (A)
(loại hình địa danh)
Tên riêng (B)
(địa danh - đối tƣợng khu biệt)
Số lƣợng âm tiết tối đa Số lƣợng âm tiết tối đa
1 2 3 4 1 2 3 4 5 6 7
Nghĩa trang liệt sỹ Thị Trấn Nông Trƣờng Việt Trung
Trận địa Đại Đội Nữ Pháo Binh Ngƣ Thủy
2.2.2. Thành tố chung
2.2.2.1. Khái niệm thành tố chung
Theo chúng tôi: thành tố chung trong phức thể địa danh là những danh từ (hay
danh ngữ) dùng để chỉ một lớp sự vật, đối tượng cùng loại hình và cùng thuộc tính bản
chất. Ví dụ: làng (trong làng Thổ Ngọa)
2.2.2.2. Cấu tạo của thành tố chung trong địa danh tỉnh Quảng Bình
Dựa vào các nguồn tƣ liệu, luận án đã thu thập 7009 địa danh ghi bằng tiếng
Việt với 149 thành tố chung. Kết quả thống kê cấu tạo:
TT Số lượng âm tiết Số lượng thành tố chung Tỷ lệ%
1 Một âm tiết 113 75,8
2 Hai âm tiết 28 18,8
3 Ba âm tiết 7 4,7
4 Bốn âm tiết 1 0,7
Cộng 149 100
- Kết quả thống kê tần số xuất hiện của các địa danh đi kèm với các loại thành
tố chung:
TT Số lượng âm tiết Tần số xuất hiện Tỷ lệ % Ví dụ
1 Một âm tiết 6344 90,51 Làng Thuận Bài
2 Hai âm tiết 455 6,49 Di chỉ Cồn Nền
3 Ba âm tiết 123 1,76 Khu kinh tế Hòn La
4 Bốn âm tiết 87 1.24 Nghĩa trang liệt sỹ Ba Dốc
Cộng 7009 100
7
2.2.2.3. Chức năng của thành tố chung
- Chức năng phân biệt các loại hình đối tƣợng địa lí
- Chức năng hạn định cho tên riêng
- Chức năng chuyển hoá
Kết quả về sự chuyển hóa của thành tố chung vào tên riêng địa danh:
Loại địa danh chia theo
thành tố chung
Tổng hợp sự chuyển hoá
Thành
tên riêng
Vào một vị trí (VT) của B
Cộng
VT1 VT 2 trở đi
Địa danh địa hình thiên nhiên 68 237 51 356
Địa danh cƣ trú hành chính 27 61 39 127
Địa danh công trình liên quan
đến đời sống vật chất
21 41 25 87
Địa danh công trình liên quan
đến đời sống tinh thần
17 25 19 61
Tổng cộng 133 364 134 631
2.2.3. Tên riêng
Trong một phức thể địa danh, tên riêng là thành tố thứ hai luôn đứng sau danh từ
chung (thành tố A), có chức năng cụ thể hóa các đối tƣợng địa lí mà thành tố chung đã
khái quát.
2.2.3.1. Về số lượng các âm tiết trong tên riêng
Trong tổng số 7009 địa danh thu thập, số lƣợng các âm tiết trong tên riêng là
khác nhau, tên riêng dài nhất có 7 âm tiết. Dƣới đây là bảng thống kê tên riêng địa
danh theo số lƣợng âm tiết:
TT
Số lượng
âm tiết
Loại hình địa danh
Tổng
cộng
Tỷ lệ
% Địa danh
địa hình
Địa danh cư trú
hành chính
Địa danh
công trình
1 Một âm tiết 1143 584 278 2005 28,60
2 Hai âm tiết 1506 2087 764 4357 62,08
3 Ba âm tiết 81 276 116 473 6,75
4 Bốn âm tiết 12 34 53 99 1,41
5 Năm âm tiết 0 3 46 49 0,72
6 Sáu âm tiết 0 1 24 25 0,42
7 Bảy âm tiết 0 0 1 1 0,02
Cộng 2742 2985 1282 7009 100
8
2.2.3.2. Các kiểu cấu tạo tên riêng
Tên riêng trong địa danh Quảng Bình có hai kiểu cấu tạo: cấu tạo đơn và cấu tạo
phức. Căn cứ vào số lƣợng các loại hình địa danh thu thập đƣợc, có thể lập bảng thông
kê địa danh theo kiểu cấu tạo nhƣ sau:
Loại hình địa danh
Số lượng địa danh theo kiểu cấu tạo Cộng
Cấu tạo
đơn
Cấu tạo phức
SL TL %
CP ĐL C - V
Địa danh tự nhiên 1143 1389 171 39 2742 39,12
Địa danh cƣ trú hành
chính
584 1586 792 23 2985 42,59
Địa danh công trình 278 726 266 12 1282 18,29
Tổng cộng
SL 2005 3701 1229 74
7009 100%
TL % 28,60 52,80 17,54 1,06
2.3. Phương thức định danh
Địa danh ở Quảng Bình đƣợc luận án miêu tả theo hai phƣơng thức: tự tạo và
chuyển hóa. Kết quả khảo sát tƣ liệu địa danh cho thấy phần lớn địa danh tỉnh Quảng
Bình đƣợc hình thành theo phƣơng thức tự tạo (hơn 70% trong tổng số hơn 7000 địa
danh), số còn lại đƣợc tạo ra theo phƣơng thức chuyển hóa. Chỉ có một vài địa danh
đƣợc đặt theo tiếng nƣớc ngoài do các khám phá khoa học đối với các đối tƣợng địa
lý mới nhƣ: hang Over, hang Pygmy (tiếng Anh) ở vƣờn Quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng.
2.3.1. Phương thức tự tạo
Là phƣơng thức mà ngƣời định danh sử dụng các yếu tố ngôn ngữ có sẵn để
tạo ra một tên gọi địa danh theo cách của mình. Sau đây là một số cách thức cụ thể:
- Đặt tên dựa vào hình dáng của đối tƣợng: núi Răng Lược, rú Mồng Gà, vực
Tròn, cầu Bánh Tét, cầu Bôộng, chợ Ống...
- Dựa vào tính chất, đặc điểm chính của đối tƣợng: vụng Lành, khe Gát, rào
Đá, suối Nước Mọoc, xóm Mới, cống Phóng Thủy...
- Dựa vào thời gian hoạt động của đối tƣợng nhƣ: chợ Hôm, chợ Mai, chợ Rằm
Tháng Ba...
- Gọi tên theo tính chất hoạt động của đối tƣợng nhƣ: chợ Đón, chợ Chạy, chợ
Nấp, chợ Bến...
- Dựa vào sản vật đặc trƣng mua bán tại địa phƣơng: chợ Tru (Trâu), chợ Chè,
chợ Cá, chợ Củi (chất đốt), chợ Gộ (gỗ)...
- Dựa vào hoạt động đặc thù của đối tƣợng trong một hoàn cảnh và giai đoạn
cụ thể: đường Gùi, đường Xe Đạp Thồ, đường Kín, đường Hở...
- Dựa vào kích thƣớc của đối tƣợng: cầu Ngắn, cầu Dài, đôộng Nậy (lớn),
đôồng Mén (nhỏ), roọng Mọn (bé)...
- Đặt tên gắn với màu sắc đối tƣợng: sông Son (màu phù sa), bản Đất Đỏ, sông
Vàng (Hoàng Giang), Lục Sơn, Hồng Giang, Lục Giang...
9
- Đặt tên theo vật liệu xây dựng:cầu Sắt, cầu Gỗ, cầu Ván...
- Đặt tên theo vị trí của đối tƣợng này so với đối tƣợng khác: xã Tây Trạch, xã
Nam Trạch, đồng Đá Mài Trong, đồng Đá Mài Ngoài...
- Đặt tên theo công trình xây dựng gần đối tƣợng: ngã ba Tam Tòa, bến đò
Cổng Thượng, đôồng Phủ, giếng Đình
- Đặt theo tên vật thể có nhiều ở nơi đó: dốc Sỏi, khe Đá Mài, rú Đá Đen,
giăng Đá Chát...
- Đặt tên theo cầm thú sống hoặc nuôi ở đó: lòi Hổ, cồn Trai, quán Hàu, cồn
Ngựa, cồn Thân, cồn Tý...
- Đặt theo tên thực vật mọc hoặc trồng nhiều trong vùng: suối Khe Mưng, suối
Cây Sy, hói Tre, hoang Năn, làng Lệ Sơn (Núi Vải)...
- Dựa vào các giai đoạn, biến cố lịch sử: khu Giao Tế, dinh Mười, thôn Nam
Tiến, thôn 19/5, tiểu khu Thống Nhất, làng Trung Nghĩa.
- Địa danh dùng số từ chiếm số lƣợng nhiều: đường 20 Quyết Thắng, quốc lộ
15, tỉnh lộ 760, tổ dân phố 8, cống 10, Quốc lộ 12C, đồi 26
- Ghép địa danh với số thứ tự và ngƣợc lại: Cầu Trại Gà 1, cầu Trại Gà 2, thôn
1 Thanh Lạng, thôn 2 Thanh Lạng, thôn 3 Thanh Lạng...
- Ghép địa danh với địa danh: bản Eo Bù - Chút Mút, khu du lịch Phong Nha -
Kẻ Bàng...
- Đặt tên trên cơ sở ghép các yếu tố Hán Việt cho các đơn vị hành chính nhƣ:
Thọ Linh, Lộc Long, An Xá, Mỹ Cảnh, Mỹ Duyệt...
2.3.2. Phương thức chuyển hóa
Chuyển hóa là phƣơng thức chuyển một địa danh này thành một hoặc nhiều địa
danh khác. Sau khi chuyển hóa, địa danh cũ có thể mất đi hoặc cùng tồn tại với địa
danh mới. Có những hình thức chuyển hóa nhƣ sau:
- Chuyển hóa từ địa danh chỉ địa hình tự nhiên sang địa danh cƣ trú hành
chính: bản Khe Giữa, bản Rào Con, thôn Cồn Năn, thôn Cồn Sẻ...
- Chuyển hóa từ địa danh lịch sử văn hóa sang địa danh cƣ trú hành chính hoặc
ngƣợc lại: chiến khu Trung Thuần – làng Trung Thuần, làng Văn La - địa đạo Văn
La.
- Chuyển hóa từ nhân danh thành địa danh: thôn Hoàng Trung Lộc, thôn
Hoàng Đàm, thôn Ông Chinh, lũy Thầy, đường Mẹ Suốt...
- Chuyển hóa từ tên các nhân vật trong truyền thuyết thần thoại, tín ngƣỡng
dân gian: núi Cu Lôông (tên thần núi), eo Ôông Đùng (truyền thuyết ngƣời Nguồn),
thác Pụt (tín ngƣỡng thờ Pụt của ngƣời Nguồn)...
- Chuyển hóa trong nội bộ địa danh, lấy tên làng gốc đặt tên làng thành lập sau:
xã Cự Nẫm có tên gốc là làng Cự Nẫm, sau đó tách chia thành các thôn Sen Nẫm,
Trung Nẫm, Tân Nẫm.
- Chuyển hóa thành tố chung thành một yếu tố cấu tạo tên riêng địa danh: thôn
Bàu, xóm Bến, xóm Cồn, xóm Cầu, thôn Làng, xóm Thôn...
- Chuyển hóa từ địa danh ở địa phƣơng khác: làng Bắc Sơn, Bắc Giang, Hòa
Bình, Phú Xuân, Thuận hóa, Cảnh Dương...
2.4. Đặc điểm về ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo địa danh tỉnh Quảng Bình
2.4.1. Vấn đề ý nghĩa của địa danh
10
Vấn đề “ý nghĩa” của địa danh chỉ mang tính tƣơng đối. Trong cách nhìn
chung nhất, mỗi địa danh ra đời đều gắn với một lí do nhất định. Hay nói cách khác,
mỗi địa danh đều mang một ý nghĩa khác nhau trong việc phản ánh hiện thực.
2.4.2. Cách thức xác định nghĩa của địa danh
- Căn cứ vào ngữ nghĩa của từ, có chú ý đến sự biến đổi.
- Dùng phƣơng pháp so sánh lịch sử để xác lập mối quan hệ ngữ âm của các
đơn vị có liên quan.
- Căn cứ vào kết quả điền dã tại địa bàn khảo sát, vận dụng tri thức liên ngành.
2.4.3. Đặc điểm ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh
2.4.3.1. Tính rõ ràng về nghĩa của các yếu tố thể hiện qua nguồn gốc ngôn ngữ
của địa danh tỉnh Quảng Bình
Những địa danh có ý nghĩa rõ ràng là những địa danh đƣợc tất cả mọi ngƣời
bản ngữ hiểu một cách dễ dàng, là những kiểu tên gọi rõ lí do tuyệt đối, thƣờng đƣợc
tạo ra từ sự lựa chọn các đặc trƣng lí do khách quan để định danh. Trong tổng số hơn
7000 địa danh thu thập đƣợc, có 90% địa danh rõ lí do tuyệt đối, có nghĩa rõ ràng. Đa
số các địa danh Hán Việt, thuần Việt trên địa phận Quảng Bình đều rõ về nghĩa.
2.4.3.2. Về hiện tƣợng địa danh chƣa đƣợc xác định rõ ràng về nghĩa
Là những địa danh có ý nghĩa mờ nhạt, nghĩa của chúng không rõ ràng ngay cả
với những ngƣời bản ngữ, thƣờng chứa các yếu tố ngôn ngữ cổ, ngoại lai, những yếu
tố ngôn ngữ bị biến âm, hoặc các đặc điểm có liên quan đến đối tƣợng đƣợc định
danh cũng không còn hiện diện. Một số địa danh tiếng địa phƣơng Quảng Bình và
nhiều địa danh thuộc ngôn ngữ các dân tộc thiểu số thƣờng không rõ ràng về nghĩa.
Những trƣờng hợp này cần tiếp tục nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số đầy đủ
hơn nữa mới có thể nhận biết đƣợc.
2.4.3.3. Vấn đề phân loại ý nghĩa địa danh tỉnh Quảng Bình
a) Về tiêu chí phân loại ý nghĩa địa danh
Luận án sử dụng tiêu chí phân loại ý nghĩa địa danh của tác giả A.V.
Superanskaja, phân chia ý nghĩa địa danh thành 4 loại:
- Địa danh kí hiệu về mặt hình thức là những kí hiệu, có thể là số hay chữ cái.
Ví dụ: đồi A1, thôn 5.
- Địa danh mô tả là địa danh chỉ dựa trên một trong những dấu hiệu của đối
tƣợng để định danh (màu sắc, hình dáng hoặc cách thức kiến tạo đối tƣợng địa lí). Ví
dụ: bản Đất Đỏ là bản có thổ nhƣỡng màu đỏ.
- Địa danh đăng kí xác định tình trạng nhất định của sự vật, gắn sự tồn tại của
đối tƣợng với một đối tƣợng lân cận khác. Ví dụ: đôồng Tiền Phủ là đồng có vị trí
phía trƣớc phủ lỵ Quảng Ninh thời nhà Nguyễn.
- Địa danh ước vọng thể hiện cách định danh trên cơ sở lí do chủ quan xuất
phát từ tình cảm, mong muốn của chủ thể định danh. Ví dụ: thôn Hòa Bình, thôn
Hưng Lộc (ƣớc vọng sự bình yên, giàu có, phát triển).
b) Các nhóm ý nghĩa trong địa danh tỉnh Quảng Bình
Căn cứ vào tƣ liệu thu thập, luận án phân chia địa danh ở Quảng Bình thành:
b.1. Nhóm địa danh không có nghĩa từ vựng
Các địa danh bằng số, chữ cái (địa danh kí hiệu) gọi tên một số địa điểm, công
trình (đèo 1001, đường 12A, đường 10, kênh 186, bến phà 1, 2,), tên hành chính
các tổ, xóm, tiểu khu (bằng số 1, 2, 3,), đều không có nghĩa mô tả (ý nghĩa từ
vựng). Chúng chỉ có chức năng đánh dấu, cá thể hóa đối tƣợng, không nói lên đƣợc
11
những dấu ấn về lịch sử, văn hóa liên quan, không thể hiện thông tin gì thêm về đối
tƣợng đƣợc định danh.
b.2. Nhóm các địa danh mang ý nghĩa miêu tả (ý nghĩa từ vựng)
Là lớp địa danh có tính rõ lí do cao nhất, liên quan chặt chẽ với các đặc điểm
địa hình, các đặc trƣng không gian, hay bắt nguồn từ chính những đặc điểm có liên
quan đến đối tƣợng, thƣờng rơi vào 3 tiểu nhóm:
- Nhóm địa danh có ý nghĩa rõ ràng (a transparent name): làng Sạt, khe Cơn
Trường, cầu Dài, lèn Trúc...
- Nhóm địa danh có ý nghĩa không rõ ràng (non-transparent): chợ Thón, lùm
Toán, bản Lòm, xóm Dum
- Địa danh có thành tố chung (generic element) rõ ràng về ý nghĩa từ vựng
(lexical-transparent), còn tên riêng (specific element) mờ nghĩa: thành phố Đồng Hới,
chợ Tréo, Bàu Tró.
Địa danh dù có ý nghĩa rõ ràng hay chƣa rõ ràng thì chúng cũng luôn mang ý
nghĩa từ vựng - miêu tả, phần lớn đƣợc tạo nên bằng phương thức định danh tự tạo.
b.3. Nhóm các địa danh mang ý nghĩa liên tưởng (ngữ dụng)
Một địa danh mang ý nghĩa liên tƣởng, chúng sẽ mất đi chức năng nổi bật nhất
(the most salient function) của nó là ý nghĩa định vị, xác định vị trí (locational value).
Loại ý nghĩa này, do vậy, đƣợc hình thành dựa trên điều kiện hiện thực cuộc sống đặc
biệt liên quan tới địa danh, đó chính là ý nghĩa liên tƣởng hay ý nghĩa ngữ dụng.
- Số lƣợng địa danh mang ý nghĩa liên tƣởng phổ biến trong địa danh Hán
Việt: thôn Quyết Tiến, núi Phúc Sơn, lèn Tiên Giới...
- Một số địa danh kí hiệu tìm thấy ở Quảng Bình cũng có ý nghĩa liên tƣởng:
đồi 26, đường 20, cống 10, làng 19/5.
- Địa danh tiếng địa phƣơng Quảng Bình biểu thị tình cảm gần gũi, thân tộc:
Chùa Thầy Rộông, hòn Độông Gioi, truông Cha Màn, đồi Mạ Ca, đồng Con Rọong,
O Mò, Chú Se
2.5. Tiểu kết
1. Cũng nhƣ các nơi khác, địa danh ở Quảng Bình đều đƣợc tạo ra bởi các
phƣơng thức định danh phổ biến: phương thức tự tạo, phương thức chuyển hoá.
Phƣơng thức tự tạo đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra phần lớn các địa danh ở
Quảng Bình.
2. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh Quảng Bình thể hiện đặc trƣng chung của
địa danh trên cả nƣớc. Mỗi địa danh luôn có hai thành tố: thành tố chung và tên riêng. Các
thành tố chung trong địa danh tỉnh Quảng Bình đã khái quát đƣợc các loại hình địa
danh của nhiều đối tƣợng địa lý khác nhau. Có những thành tố chung thuộc tiếng địa
phƣơng Quảng Bình phản ánh những nét riêng biệt về địa hình, bản sắc văn hóa, thổ
ngữ địa phƣơng nhƣ: rú, đôộng, trôổng, trằm, đôồng, bỉ, dồng, trọt, hung, rục, rôộc,
lèn, hoang, mội, phôốc...
4. Tên riêng địa danh Quảng Bình thuộc các nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau
(trong đó chủ yếu thuần Việt và Hán Việt). Số lƣợng tên riêng cấu tạo bởi hai yếu tố
chiếm ƣu thế với quan hệ chủ yếu là quan hệ chính phụ, mang đặc điểm chung của
cấu tạo từ tiếng Việt theo xu hƣớng song tiết. Có những mô hình cấu tạo tên riêng
làng xã Quảng Bình đặc trƣng nhƣ: Quảng + X, X + Thủy, X + Ninh, X + Hóa, Kẻ +
X, Nhà + X, X + Xá, Vạn + X (hiếm), phản ánh quá trình di dân, tụ cƣ trong lịch sử
Quảng Bình: Quảng Xuân, Liên Thủy, kẻ Sạt, kẻ Hạ, Nhà Mòi, Nhà Vàng...
12
5. Địa danh ở tỉnh Quảng Bình hầu hết có “nghĩa” và đƣợc quy về 3 loại ý
nghĩa: ý nghĩa từ vựng - mô tả, ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa liên tƣởng (ý nghĩa ngữ
dụng). Bất cứ địa danh có nghĩa nào cũng có ý nghĩa mô tả (ý nghĩa từ vựng) và
nghĩa ngữ pháp (từ loại), nhƣng không phải địa danh nào cũng có ý nghĩa liên tƣởng.
Một số địa danh kí hiệu ở Quảng Bình có ý nghĩa liên tƣởng, có tính lí do (đặc
điểm riêng trong cách định danh ở địa danh tỉnh Quảng Bình). Địa danh có nguồn
gốc tiếng dân tộc thiểu số thƣờng rõ ràng về nghĩa đối với ngƣời bản địa, nhƣng lại
không rõ ràng về nghĩa với đa số những ngƣời khác. Một số địa danh mờ nghĩa, hoặc
không xác định đƣợc nghĩa vì quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, bị biến âm, sai lệch âm
gốc, không còn cứ liệu, cần có những nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn để nhận diện
nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực của chúng.
Chương 3
MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ - VĂN HÓA
CỦA ĐỊA DANH TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Dẫn nhập
Địa danh tuy là một hiện tƣợng của ngôn ngữ học, nhƣng nó chính lại là hình
thức thể hiện văn hóa của một cộng đồng cƣ dân đã từng hiện diện trong vùng lãnh
thổ có các địa danh. Địa danh đƣợc sinh ra, phát triển cùng văn hoá, và cũng là một
hiện tƣợng văn hóa bởi vì ngôn ngữ là sản phẩm/thành phần của văn hóa: "chính trị
qua đi, văn hóa ở lại" (Les poliques passent, les cultures restent)".
Đặc trƣng văn hóa của địa danh tỉnh Quảng Bình trong chƣơng này đƣợc luận
án trình bày từ cách tiếp cận liên ngành ngôn ngữ - văn hoá về một vùng địa lý có sự
giao thoa, tiếp biến, phân chia, hội tụ từ nhiều nền văn hóa của các lớp cƣ dân sinh
sống trên địa bàn. Đây là những vấn đề có nội dung liên quan mật thiết với đặc điểm
ý nghĩa của các thành tố cấu tạo nên địa danh.
3.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ trong nghiên cứu địa danh
3.2.1. Về khái niệm văn hóa
Để có một khái niệm công cụ nghiên cứu địa danh, luận án lựa chọn cách định
nghĩa về văn hoá của Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội”.
3.2.2. Ngôn ngữ trong mối quan hệ với văn hóa
Từ góc độ ngôn ngữ học cho thấy, mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ,
thƣờng đƣợc thể hiện trong 3 phƣơng diện:
a. Ngôn ngữ biểu hiện (express) hiện thực văn hóa.
b. Ngôn ngữ là hiện thân (embody) của hiện thực văn hóa.
c. Ngôn ngữ biểu trƣng (symbolize) hiện thực văn hóa.
3.2.3. Địa danh và văn hóa
Địa danh là một hiện tƣợng ngôn ngữ, về bản chất nó là một hiện tƣợng văn
hóa, phát triển cùng văn hóa và là vật dẫn của văn hóa. Khi tìm hiểu đặc trƣng văn
hóa thể hiện trong địa danh, chúng ta thƣờng đề cập đến những khía cạnh cụ thể sau:
- Đặc trƣng văn hóa thể hiện qua thành tố ngôn ngữ trong địa danh.
- Sự thể hiện các dạng tồn tại của văn hóa trong địa danh.
13
- Sự thể hiện các phƣơng diện văn hóa trong địa danh qua ngữ nghĩa và giá trị
phản ánh hiện thực.
3.3. Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong địa danh tỉnh Quảng Bình
3.3.1. Thành tố chung trong phức thể địa danh phản ánh đặc trưng địa - văn
hóa của vùng đất
Với 149 thành tố chung đƣợc thống kê và phân chia theo các loại hình địa danh
và nguồn gốc ngôn ngữ, chúng ta có đƣợc bức tranh địa danh sinh động, phản ánh
đặc trƣng địa hình địa vật của không gian văn hóa Quảng Bình, trong đó, nổi bật nhất
là sự phân bố các đối tƣợng địa lý sông, núi, thể hiện ở các phƣơng diện sau:
3.3.1.1. Đặc trƣng địa - văn hóa qua các thành tố chung về sông nƣớc
Với một mật độ dày đặc các sông, suối, khe, hồ, bàu, đầm, đập, hói, trọt, lạch,
trộ, rào, vực, thác, ghềnh, ao, đìa, phá và bờ biển kéo dài ở phía đông, tạo nên sự
khác biệt giữa Quảng Bình với các khu vực khác ở nhiều mặt: địa hình, thổ nhƣỡng
và văn hóa. Chính yếu tố nước đã tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cƣ
trú, tâm lý ứng xử cũng nhƣ sinh hoạt cộng đồng ở Quảng Bình.
3.3.1.2. Đặc trƣng địa - văn hóa qua các thành tố chung về đồi núi
Quảng Bình có hệ thống núi, đồi trải khắp địa bàn, địa hình đa dạng, bốn bề
hiểm trở, giao thông khó khăn, làm cho phía tây Quảng Bình biệt lập với bên ngoài
trong một thời gian dài. Về văn hóa, Quảng Bình trở thành địa bàn bảo lƣu rất tốt nét
văn hóa “gốc”, văn hóa bản địa. Trên bình diện ngôn ngữ, Quảng Bình là khu vực
còn lƣu lại nhiều yếu tố tiếng Việt cổ, quá trình Hán hóa ngôn ngữ ở đây không sâu
sắc nhƣ một số địa phƣơng khác.
Tính chất địa hình đặc biệt làm cho Quảng Bình trở thành khu vực có cảnh
quan tự nhiên “thi vị”, “sơn thủy hữu tình”. Động Phong Nha, đèo Ngang, sông Loan
núi Phượng, non Mâu bể Hạclà nguồn cảm hứng cho tao nhân mặc khách tạo nên
“nếp đất văn chƣơng”, khí thiêng “địa linh nhân kiệt”.
3.3.2. Đặc trưng văn hóa thể hiện qua ý nghĩa và sự phản ánh hiện thực của
tên riêng địa danh
3.3.2.1. Sự phản ánh phƣơng diện không gian văn hoá
a. Phản ánh đặc điểm địa hình tự nhiên
Về địa thế: núi Đầu Voi, eo Trâu Chẹt, đồông Kiêu, dốc Ba Dốc, dãy Hoành
Sơn, dăng Đá Chát, Lệ Thủy, Phong Giang, Hà Dương, Hải Đông; về vị trí và
phƣơng hƣớng: núi Đèo Ngoài, núi Đèo Trong, khe Giữa, thôn Ngọn Rào, Minh Cầm
Nội, Sen Đông; về màu sắc của môi trƣờng tự nhiên: núi Lèn Bạc, khe Ry, Thanh
Hà, Bạch Thạch, Hoàng Sa
b. Phản ánh tên các loài thực vật có trên địa bàn cư trú
Thế giới thực vật đƣợc phản ánh một cách phong phú: núi Thù Lù, Trầm Kỳ,
Trâm Bầu, Mù U, vụng Nổ, xóm Sạt, cồn Vang
c. Phản ánh tên các loài động vật có trên địa bàn cư trú
Các địa danh tên các loài động vật cũng trở nên quen thuộc, gần gũi và phổ
biến: đồi Ông Khái, lòi Hổ, bàu Rồng, cồn Kéc, cồn Trai, dốc Con Cầy, đảo Yến,
đồông Chó Câu, hang Dơi, khe Bò Niệng, eo Trâu Chẹt
Môi trƣờng tự nhiên hội đủ các đặc điểm về tính chất và địa hình vùng đất -
một thế giới động thực vật phong phú gắn với đặc trƣng vùng miền. Tất cả đều đƣợc
hóa thân thành địa danh, khắc họa một không gian văn hóa Quảng Bình đa dạng, đặc
sắc.
14
3.3.2.2. Sự phản ánh các giá trị văn hóa lịch sử của địa danh ở Quảng Bình
a. Phản ánh quá trình di trú
Cách đây khoảng 4-5 nghìn năm, vùng đất Quảng Bình là địa bàn của nƣớc
Việt cổ. Tƣ liệu điền dã cho thấy hiện còn 65 làng mang tên kẻ: kẻ Chao, kẻ Giang,
kẻ Chung, kẻ Sô, kẻ Nghẹn Các địa danh di chỉ khảo cổ học Yên Lạc, Kim Bảng,
Xóm Thón, Xóm Thâm và Đức Thi có thể khẳng định các tộc ngƣời Bru-Vân Kiều,
Chứt, Nguồn đã có mặt lâu đời ở vùng rừng núi phía tây Quảng Bình.
Cho đến nay, chƣa có một căn cứ nào cho phép nhận diện sự tồn tại một loại
hình làng Chăm cổ nào ở Quảng Bình. Tuy nhiên, trên đất Quảng Bình vẫn còn lƣu
lại vết tích của ngƣời Chăm qua các địa danh: lũy Hoàn Vương, lò gạch Chuyên
Lũng, chợ Thùi, thành Nhà Ngo, thành Lồi
Sau thế kỷ XI, lịch sử làng xã Quảng Bình có thể tóm tắt thành ba thời kì hình
thành và phát triển: thời kỳ thứ nhất vào năm 1075, thời kỳ thứ hai vào thời Trần - Hồ
- Lê, thời kỳ thứ ba vào thế kỷ XVII. Tƣ liệu địa danh còn cho thấy quá trình di trú ở
Quảng Bình còn diễn ra theo hƣớng từ miền xuôi lên miền ngƣợc, từ Quảng Bình vào
miền Nam.
b. Phản ánh các biến cố, sự kiện lịch sử đã xảy ra trên vùng đất chứa địa
danh
- Các địa danh cổ có yếu tố pù (chuyển âm thành rú theo tiếng Việt-Mƣờng):
pù Quan, pù Cây, pù Nha; có yếu tố sách: sách Hung Đằng, sách Thanh Lãng;
có yếu tố kẻ: kẻ Sạt, kẻ Xét, kẻ Trem, kẻ Pộôc phản ánh vùng đất Quảng Bình (xƣa)
thuộc nhà nƣớc Văn Lang-Âu Lạc.
- Các địa danh hành chính cổ xƣa: Tây Quyển, Tỷ Ảnh, Vô Lao, Thọ Linh..;
các thành lũy cổ: lũy Hoàn Vương, thành Khu Túc, thành Nhà Ngo phản ánh thời
Quảng Bình thuộc vƣơng quốc Chăm Pa, chứng kiến nhiều cuộc giao tranh với các
triều đại phong kiến Trung Quốc.
- Thời cận đại, hàng loạt các địa danh: cửa sông Nhật Lệ, hệ thống lũy Thầy,
đầm Võ Xá.là chứng tích của một thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ngày nay, vùng
chiến địa Trịnh-Nguyễn vẫn còn đầy ắp những địa danh liên quan đến cuộc chiến:
đồông Mồ Ma, đồông Mộc Sắt, độông Chòi, độông Cháy, cồn Hội, lòi Voi v.v.
- Nhiều địa danh phía tây Quảng Bình còn ghi dấu triều đình Hàm Nghi
kháng chiến chống Pháp: tôộng Pua Ngự, hang Quan Tán, Pạn Chuối, tộông Ải , eo
Lập Cập, rục Mòn, thác Dài, hón Róoc
- Quảng Bình có hàng trăm địa danh phản ánh hai cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc chống Pháp và Mỹ: Cha Lo, Cổng Trời, đèo Mụ Dạ, ngầm Rinh,
sân bay Khe Gát, sân bay Đồng Hới (Bờ Hơ), hang Tám Cô, đường Gùi, đường Cơ
Giới, đường Kín, đường Hở
c. Phản ánh những thay đổi về địa giới hành chính trên địa bàn
Quảng Bình, một trong những tỉnh có địa giới hành chính thay đổi nhiều nhất
trong suốt chiều dài lịch sử. Thời Nhà Mạc năm 1553, Quảng Bình có 236 xã, 7 sách,
2 nguồn, 4 trang; năm 1776 thống kê đƣợc 18 tổng, 200 xã, 28 thôn, 80 phƣờng, 11
trang; thời Đồng Khánh có 2 phủ, gồm 7 huyện, 24 tổng 324 xã, thôn, phƣờng, ấp,
giáp, trang; ở vùng đầu nguồn có 2 nguyên (nguồn), 7 sách.
Hiện ở Quảng Bình có 275 địa danh làng xã vẫn giữ nguyên tên gọi cũ nhƣ:
làng Xuân Hồi, Cỗ Liễu, Qui Hậu, Uẩn Áo, có 154 địa danh đặt mới hoàn toàn, có
395 tiểu khu, thôn, tổ, đội, chòm, xóm, khu phố, đường đƣợc đặt tên theo kiểu số hóa.
15
3.3.2.3. Sự phản ánh đặc điểm chủ thể văn hóa của địa danh ở Quảng Bình
a. Địa danh phản ánh tên người
Từ xa xƣa, con ngƣời đã muốn lấy tên ngƣời, tên dòng họ đặt tên cho các đối
tƣợng địa lý nơi cƣ trú thể hiện sự tri ân.
- Có 15 làng mang tên dòng họ khai khẩn: Trần Xá, Lê Xá, Đặng Xá, Mai Xá,
Võ Xá, Hoàng Xá
- Có những địa danh, công trình đƣợc đặt tên của ngƣời kiến tạo: lũy Thầy, lũy
Ông Ninh, điền trang Hoàng Hối Khanh, đường Ông Trụ, đồng Quan Hoàng, giếng
Mụ Tộ, bến đò Mẹ Suốt, bến đò Cu Bu
- Nhiều con đƣờng đƣợc đặt tên của các danh nhân, lãnh tụ, anh hùng dân tộc:
Hùng Vương, Trần Hưng Đạo, Hồ Chí Minh, Nguyễn Du
- Địa danh dân tộc thiểu số ở Quảng Bình phản ánh văn hóa đặt tên ngƣời theo
truyền thuyết thần thoại, thần thánh hoặc những ngƣời khai phá làng bản: núi Cu
Lôông, eo Ôông Đùng, thác Pụt, hang Pua Son
b. Phản ánh đặc điểm tâm lý văn hóa tộc người
- Khát vọng cuộc sống thanh bình, vùng đất trƣờng tồn, yên ổn với các yếu tố:
Bình Giang, An Náu, Trường Dục, Thọ Linh, Vĩnh Tuy
- Mong muốn sự thịnh vƣợng: Phú Lộc, Phú Định, Di Lộc, Lộc Ninh, Hưng
Lộc, Tân Lợi, Hòa Ninh.
- Mong ƣớc sự trẻ trung, đổi mới với: Tân Tiến, Tân Hạ, Xuân Kiều, Xuân
Dục,Cảnh Dương, Dương Xá.
- Khát vọng về một quê hƣơng non nƣớc hữu tình, tƣơi đẹp: Mỹ Lộc, Mỹ Cảnh,
Tiên Lệ, Tiên Giới, Tú Loan, Vân Tiền
- Ƣớc vọng vẽ đẹp trong tâm hồn: Nghĩa Ninh, Nhân Trạch, Chánh Hòa, Đức
Phổ, Cổ Hiền, Lương Ninh, Hóa Lương
c. Phản ánh những tác động về mặt chính trị, xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng
trong cách đặt địa danh
- Tục kiêng tên húy thời phong kiến: Tân Lang - Tiên Lang, Thủy Lan - Thủy
Liên, Phù Tông - Phù Chính.
- Các đƣờng phố Đồng Hới đặt lại tên: Huỳnh Côn (Rue Huynh Con) - Cô
Tám, Quảng Bình Quan (Rue Porte Quang Binh) - Mẹ Suốt, Thuộc Địa số 1 (Route
coloniale no 1) - Lý Thường Kiệt
- Địa danh hành chính: làng Phù Lưu xƣa kia gồm 3 làng: Phù Lưu, Vân Tiền,
Tam Đa; làng Di Luân sát nhập làng Di Lộc thành Liên Di...
- Các di sản hữu thể về tôn giáo tín ngƣỡng: cồn Chùa, giếng Đình, bến Chùa
Non, ruộng Nghè, lòi Miệu,.Riêng yếu tố “nhà thờ” Thiên chúa giáo hầu nhƣ
không lƣu dấu ấn vào địa danh, thể hiện thái độ chính trị.
d. Phản ánh đặc trưng văn hóa sản xuất
Phản ánh nghề trồng lúa: có 360 địa danh đồông, 83 địa danh rọong, 286 địa
danh xứ. Nhiều địa danh liên quan đến tƣới tiêu ruộng đồng: 72 hồ, 90 bàu, 76 hói, và
hơn 300 khe, mƣơng, kênh. Địa danh còn lƣu lại dấu hiệu các loại cây trồng trong sản
xuất nông nghiệp nhƣ: cồn Dưa, cồn Dâu, hung Mít, bản Cây Cà, bản Chuối, hồ
Muống, bàu Sen, nương Cau
Yếu tố văn hóa sản xuất còn thể hiện qua các địa danh có liên quan đến làng
nghề. Các nghề thủ công đó đã tạo nên các địa danh nổi tiếng nhƣ các làng mộc Trúc
ly, Quảng Cư, Hòa Ninh, Mai Xá; các làng rèn Hoàng Giang, Phan Xá; làng đan Thọ
16
Đơn; làng giấy Tuy Mộc, Đại Phong, làng dệt Lũ Phong, Võ Xá, Khương Hà, làng đồ
gốm Mỹ Cương, làng muối Diêm Điền, Phú Lộc, làng làm nƣớc mắm Cảnh Dương,
Bảo Ninh
Làng ở Quảng Bình đã vƣợt ra khỏi mô hình làng truyền thống của vùng Bắc
Bộ do tính chất, đặc điểm địa văn hóa của vùng đất, mang đặc trƣng văn hóa sản xuất
mở, không hoàn toàn dựa vào sản xuất nông nghiệp.
3.3.2.4. Đặc trƣng văn hóa thể hiện qua các yếu tố ngôn ngữ của địa danh ở
Quảng Bình
a. Địa danh phản ánh sự biến âm của tiếng địa phương Quảng Bình so với
tiếng Việt phổ thông (TPT)
(1). Trong địa danh tỉnh Quảng Bình, hiện tƣợng biến âm các phụ âm đầu của
âm tiết là rất phổ biến, có tính hệ thống theo sự tƣơng ứng đƣợc phân bố với sự xuất
hiện của các âm. Điển hình nhƣ:
- Âm /b-/ trong TPT tƣơng ứng /m-/: cồn Mùa Cua - Bồ Quân
- Âm /ş-/ trong TPT tƣơng ứng / t’/ hoặc /ʈ/: rọong Đất Théc - Đất Sét, cồn
Trèng - Sành .
- Âm /t-/ tƣơng ứng /ʈ-/: đầm Trít - Tịt
- Âm /t’/ tƣơng ứng /l-/: bàu Lủng - Thủng
- Âm /z-/ tƣơng ứng /d-/: rú Dẻ - Đẻ, đồng Dưới - Đưới
(2). Hiện tƣợng biến âm ở phụ âm cuối:
- Yếu tố lách trong TPT đƣợc phát âm thành léc: rọong Léc - ruộng Lách, vùng
Hà Lẹc - Hà Lạch (lạch nƣớc).
- Yếu tố chếch tƣơng ứng chếc: độông Chếc - động Chếch.
Cách phát âm cổ này tiêu biểu cho phƣơng ngữ Trung. Ở vùng Bắc Bình Trị
Thiên (giữa hai con sông Bến Hải và sông Gianh) vẫn giữ [-ng, -k] sau nguyên âm
ngắn [-ing -ik], [-ênh, -êk], [-eng -ek].
(3). Sự biến âm ở các âm chính trong địa danh ở Quảng Bình thể hiện dấu vết
bảo lƣu của tiếng Việt cổ từ nguồn gốc ngôn ngữ Việt - Mƣờng.
Ví dụ: rọong Cơn Mưng - Cây Mưng, roọng Troong - Trong, suối Nước Moọc
- Mọc, chợ Côộc - Gốc, cầu Bôộng- Bộng, cồn Du -Dâu, hang Trù -Trầu, Hà Su -
Sâu, đôộng Chủ- Chổi, roọng Đàng Quan - Đường Quan, đôộng Rò - Rùa.
(4). Sự biến đổi thanh điệu cũng thể hiện khá phổ biến trong địa danh tỉnh
Quảng Bình:
- Thanh ngã nhập vào thanh nặng: roọng Cộ - ruộng Cũ.
- Thanh sắc nhập vào thanh nặng: roọng Miệu - ruộng Miếu.
- Thành huyền nhập vào thanh nặng: roọng Bợc Cụ Lại - Ruộng Bờ Cụ Lại
- Thanh hỏi nhập vào thanh nặng: yếu tố cựa tƣơng ứng cửa trong địa danh
đôồng Cựa Hói
b. Địa danh phản ánh hiện tượng dùng từ ngữ tiếng địa phương Quảng
Bình tương ứng với từ đồng nghĩa trong TPT
- Yếu tố lớn đƣợc biểu thị bằng: nậy, đùng, cấy, đôộc, côộc, cồ, lôộng (nguồn
Côộc, đôộng Nậy, khe Cấy, lèn Ôông Đùng, cồn Cồ, rú Đôộc, làng Cấy Đôộc, đồng
Lôộng)
- Yếu tố nhỏ, bé: roọng Mọn, đôồng Mén, đập Con, ao Chút
- Các từ chỉ sự vật: cồn Nôốc, đồi Úp Lịp, dốc Vọt, rú Trôốc Tru
- Các từ chỉ ngƣời: đèo Mụ Dạ, lèn Mệ Ngó, bến đò Cu Bu...
17
- Chỉ phƣơng hƣớng: xóm Côi, xóm Trữa, cồn Vèn .
- Động vật: đồi Ôông Khái, chợ Tru.
- Độ cao, độ sâu: nương Lùm, roọng Tròi, đôốc Dôn, bàu Cơi.
- Màu sắc: khe Ri. Ri còn có nghĩa là rừng: gà ri, chim ri.
c. Đặc trưng văn hóa thể hiện qua địa danh ngôn ngữ dân tộc thiểu số
Địa danh có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số ở đây thƣờng rõ ràng về nghĩa
đối với ngƣời bản địa, nhƣng lại mờ nghĩa với đa số những ngƣời không biết và
không hiểu ngôn ngữ dân tộc thiểu số khi chúng đƣợc dùng trong tiếng Việt dƣới
dạng quốc ngữ hóa.
- Tên làng bản của dân tộc nào đều đặt theo ngôn ngữ của dân tộc đó: Ka Ai,
Taleng, Pa Chong, Nạ, Tá Páo, Mó O, Lòm(dân tộc Chứt), AKy, Noòng, Cà Roòng,
Chăm Pu(dân tộc Ma Coong), Lồ Ô, Pơ Loang, Rìn Rìn(dân tộc Vân Kiều)
- Thƣờng đặt tên theo cây cỏ, muông thú, tƣợng hình, tƣợng thanh, thể hiện sự
phân cắt thực tại theo kiểu tri nhận trực tiếp: thác Dài, khe Pun, hón Roóc, hang Ton,
chôông Soóc, phôốc Tru Tầm, tôộng Dạ Dấm, xóm Pấy, hung Mệ Ngó
d. Địa danh thể hiện quá trình biến đổi, tiếp xúc, vay mượn ngôn ngữ tạo
nên các tên gọi, các biến thể ngữ âm - chữ viết của cùng một địa danh.
- Sông Gianh, còn có tên: Thọ Linh (壽齡), Trường Giang, Đại Linh (大靈江),
Thanh Hà, Linh Giang (靈江). Tên sông Gianh ra đời cách đây khoảng 100 năm.
Năm 1906, trong bản đồ Quảng Bình thời Pháp thuộc của sách Bulletin de L’F.E.O
còn ghi sông Linh Giang. Đến sách Ấu học - Địa dư của Hồ Đắc Hàm (năm 1916) đã
xuất hiện tên sông Gianh. Có ý kiến cho rằng hai bên bờ sông nhiều cỏ tranh nên đặt
tên sông Tranh (thuần Việt) sau đó đọc chệch thành Gianh. Theo chúng tôi, từ Gianh
bắt nguồn từ ranh (ranh giới) hoặc tranh (tranh đấu, tranh chấp).
- Động Phong Nha còn gọi: động Thầy Tiên, động Núi Thầy, động Troóc
(suối), động Hang Trùa (Chùa). Các văn tự khắc trên vách đá bằng ngôn ngữ Chăm
cổ cho thấy động Phong Nha đƣợc ngƣời Chăm phát hiện khi vùng đất này còn
thuộc vƣơng quốc Chăm Pa. Có ý kiến cho rằng tên gọi Phong Nha có nghĩa
là gió (風), răng (牙). Theo Lê Quý Đôn, Phong Nha là tên một làng miền núi ngày
xƣa (nay thuộc xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch). Theo Đại Nam nhất thống chí,
Phong Nha (Gia) nghĩa là nhà gió. GS.Trần Quốc Vƣợng nghĩ tên Phong Nha (Gia)
gắn với tính chất Phật giáo của chùa Hang có vết tích chữ Chàm trong động.
Sách Phủ biên tạp lục và Đồng khánh dư địa chí chép Phong Nha: 峰衙.
Phong (峰)nghĩa là đỉnh núi, ngọn núi; Nha (衙) là nơi ở, nơi làm việc quan, làm việc
công. Vì vậy, theo chúng tôi Phong Nha có nghĩa là những đỉnh núi - nơi ở, nơi làm
việc của các bậc thánh thần, tiên, Phật.
- Sông Nhật Lệ hợp lƣu từ sông Kiến Giang (建江, kiến hiểu theo nghĩa kiến
thiết, xây dựng, còn có tên gọi là nguồn Đợi) và sông Long Đại, hay nguồn Côộc
(tiếng địa phƣơng, nghĩa là gốc, cái, lớn). Về nghĩa của tên sông Nhật Lệ vẫn là vấn
đề bàn cãi, ngƣời thì cho lệ là đẹp, ngƣời cho lệ là nước mắt, ý kiến khác nói Nhật Lệ
là sông đẹp của quận Nhật Nam (theo Thủy kinh chú). Sách Đại Việt sử ký toàn thư
và Việt sử lược đời Trần ghi tên sông Nhật Lệ bằng chữ Hán: 日麗.
Theo chúng tôi, chữ lệ ở đây nghĩa là đẹp, chữ nhật nghĩa bóng là ánh sáng
mặt trời rạng rỡ lung linh, cũng có nghĩa đẹp nhƣ: mỹ lệ, tráng lệ. Qua sử liệu có thể
đoán định tên sông Nhật Lệ có trƣớc năm 1069.
18
- Địa danh Đồng Hới xuất hiện khi ngƣời Pháp chiếm đóng lỵ sở tỉnh Quảng
Bình ngày 19/7/1885. Trƣớc đó, đất Đồng Hới thuộc làng Động Hải, huyện Khang
Lộc, phủ Tân Bình. Đến năm 1774, tên đồn Động Hải xuất hiện. Đồng Hới trƣớc
tháng 8 năm 1945 còn đƣợc gọi: Động Hải doanh, dinh Quảng Bình, Quảng Bình
phủ lỵ.
Về “nghĩa” của Đồng Hới, có ngƣời nói trƣớc đó có tên Động Hồi, sau đó
phiên sang Hán Việt thành Động Hải. Theo Bình Nguyên Lộc, trƣớc đây vùng này là
Đồng Hời bị biến âm thành Đồng Hới. Cũng có ý kiến cho rằng chữ động (洞) nghĩa
là vùng. Ở Quảng Bình xƣa có vùng Hời (nơi ngƣời Hời sinh sống), từ Vùng Hời
thành Động Hời, rồi thành Đồng Hới. Theo Nguyễn Tú, ngƣời làng Động Hải có
nguồn gốc từ làng Hới (Nga Sơn-Thanh Hóa) di cƣ vào cũng thƣờng gọi làng của họ
là làng Hới, trong văn tự lại viết Hới là Hải (海). Làng Hới ở Thanh Hóa cũng viết là
Hải. Khi ngƣời Pháp chiếm vùng này, viết Động Hải thành Donghoi (phiên âm tiếng
Pháp), sau đó ngƣời Việt đọc biến âm thành Đồng Hới.
Khảo sát sự biến âm của thanh điệu tiếng Quảng Bình cho thấy tƣơng ứng
thanh huyền- thanh nặng là có tính phổ biến. Chẳng hạn nhƣ: (con) lằng / (con)
nhặng, (ăn) chùng / (ăn) vụng....Vì vậy, chữ Động mà nói thành Đồng là rất có khả
năng xảy ra, ghép với chữ Hới (chỉ nguồn gốc dân di cƣ từ làng Hới, Thanh Hóa) mà
thành Đồng Hới. Làng Động Hải là viết theo Hán tự (洞海村), còn ngƣời dân địa
phƣơng ở đây không nói là Động Hải, mà họ gọi làng họ là làng Đồng Hải, cũng có
khi họ gọi là làng Đồng Hới theo truyền thống “ly hƣơng bất ly tổ”.
- Bàu Tró, có ngƣời cho là bàu gốm, có ngƣời lại cho là bàu lúa. Theo chúng
tôi, vị trí bàu Tró nằm trong vùng đầm phá Nhật Lệ trƣớc đây. Phá là hệ sinh thái
nƣớc lợ ven biển miền Trung nên chắc chắn không phù hợp để trồng lúa. Vì vậy, bàu
Tró không thể là “bàu lúa”. Địa danh bàu Tró có từ trƣớc năm 1806, di chỉ khảo cổ
Bàu Tró phát hiện sớm nhất vào năm 1923, do đó bàu Tró không thể là “bàu gốm”.
Bàu Tró còn có tên bàu Rõ. Sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806)
chép là bàu Tró (泡注). Bàu là chữ Pao, bào (泡), dùng làm tên hồ; Tró là chữ Zhu,
Chú (注): nghĩa là rót vào, trút vào,tiếp vào. Âm Việt đọc Bào Chú, rồi thành Bàu
Tró. Chữ bàu và chữ tró đều có bộ thủy, chỉ liên quan đến nƣớc, nên nghĩa là cái hồ
để tiếp các nguồn nước về.
- Vụng (vũng) Chùa-Đảo Yến, nằm dƣới chân dãy Hoành Sơn, cách đèo
Ngang về phía nam gần 10km. Vũng Chùa còn có tên gọi vụng La, vịnh La Sơn, vịnh
Hòn La, vụng Từ, dân địa phƣơng còn gọi là vụng Lành. Từ vũng Chùa nhìn ra biển
có 3 hòn đảo nhỏ: đảo Yến (hòn Nồm, hòn Chùa, hòn Lành), hòn La (còn gọi đảo
Chim) và hòn Gió.
Các yếu tố hòn, vụng, Nồm, Gió, Lành, Chim, Từ, Chùa đều là tiếng địa
phƣơng, nghĩa gắn với đặc điểm các đối tƣợng địa lý. Riêng yếu tố La có nguồn gốc
từ tiếng Chăm. Từ La phiên âm từ gốc Chăm Rah có nghĩa là Yến sào. Các từ Đảo,
Cù Lao, ... đều bắt nguồn ở một từ gốc Mã Lai - Chàm là "Pulao". Bên cạnh đó, vùng
đất này còn lƣu lại nhiều dấu vết ngƣời Chăm để lại nhƣ: cổ thành Lâm Ấp, cánh
đồng Chăm, giếng Chàm. Nhƣ vậy, đi từ Rah đến La, rồi đến Yến sào là quá trình tiếp
xúc ngôn ngữ, biến đổi ngữ âm, đƣợc phản ánh trong địa danh vùng này.
- Thành Lồi ở làng Cao Lao Hạ, còn có tên: thiềng (thành) Kẻ Hạ, thành Lồi
Kẻ Hạ, thành Cao Lao Hạ, và theo định đoán của Đào Duy Anh, thành Khu Túc đƣợc
19
miêu tả trong Thủy kinh chú chính là thành Lồi ở Cao Lao Hạ, nằm khoảng giữa sông
Gianh và sông Tróoc.
Từ “lồi” hiện có nhiều cách giải thích khác nhau. Lồi là sản phẩm của ngƣời
Việt dùng để chỉ ngƣời Chàm, chứ không phải ngƣời Việt vay mƣợn một từ Chàm
nào đó (theo Hoàng Dũng); theo L.Cadière, lồi có nghĩa là chui ra từ đất (sortir de
terre), thông thƣờng gắn với những kỷ vật Chàm; theo Đại Nam quốc âm tự vị, từ
người Lồi có nghĩa là người ChàmTheo chúng tôi, thành Lồi, có thể là thành của
ngƣời Chàm xƣa, nên ngƣời Việt gọi là thành Lồi - thành của ngƣời Lồi.
- Địa danh hai huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, theo Đinh Xuân Vịnh, đều đặt
năm 1874 cùng vùng đất thƣợng lƣu huyện Minh Chánh. Có phải hai huyện đó là
một? Vua Hàm Nghi húy là Nguyễn Phúc Ƣng Lịch và còn có tên là Nguyễn Phúc
Minh, nhà vua đến Minh Hóa năm 1885. Vì vậy, có thể thấy, hai huyện Tuyên Hóa,
Minh Hóa thời đó chỉ là một (cùng địa giới), lúc đầu tên là Minh Hóa, sau đó khoảng
10 năm (1884) đổi tên thành Tuyên Hóa vì kiêng kị chữ Minh (tên vua Hàm Nghi).
Theo đó, Minh Chính huyện cũng đổi thành Tuyên Chính huyện (phủ Quảng Trạch).
- Địa danh đèo Mụ Giạ tiếng Nguồn là Mụ Dạ. Theo cứ liệu điền dã, địa danh
này đƣợc đặt theo sự tích của ngƣời Nguồn (Minh Hóa). Dạ tiếng Nguồn có nghĩa
tàn lụi. Trong tiếng Nguồn không có phụ âm đầu viết “gi”. Vì vậy, nếu địa danh này
viết “Mụ Giạ” sẽ sai lạc về nghĩa.
3.3. Tiểu kết
Việc nghiên cứu đặc trƣng ngôn ngữ - văn hoá của địa danh tỉnh Quảng Bình
đã góp phần đào sâu những tầng văn hoá ẩn chứa đằng sau các địa danh qua các thời
kỳ khác nhau trong lịch sử của một vùng đất, thể hiện trên mấy khía cạnh sau:
- Có sự hội nhập, đan xen văn hoá của những lớp cƣ dân có nguồn gốc ngôn
ngữ khác nhau sinh sống trên địa bàn: văn hoá Việt, văn hóa Hán, văn hoá Môn-
Khmer. Những sự giao thoa và tiếp xúc, vay mƣợn ngôn ngữ - văn hoá giữa dân tộc
Kinh (Việt) với các dân tộc Bru-Vân Kiều, Chứt, Chăm, tộc Nguồn đƣợc thể hiện
sinh động qua địa danh. Chúng trở thành những vật dẫn văn hoá, ký thác nhiều giá trị
lịch sử quan trọng cũng nhƣ đặc điểm tâm lí tộc ngƣời của các chủ thể định danh.
- Nghiên cứu các phƣơng diện văn hoá của địa danh Quảng Bình, chúng ta có
thể biết đƣợc đặc điểm địa lí tự nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất
chứa địa danh, ghi dấu những sự kiện quan trọng đã xảy ra trên địa bàn. Những thay
đổi về dân cƣ và địa lí từng là vùng đất “phên dậu”, “chiến địa” đƣợc bảo lƣu và ghi
dấu trong địa danh.
- Địa danh tỉnh Quảng Bình thể hiện rõ nét sự gắn bó lẫn nhau giữa các phƣơng
diện văn hóa sinh hoạt, văn hóa lao động sản xuất và văn hóa vũ trang, thể hiện sự
giao thoa, tiếp biến, phân chia và hội tụ của nhiều luồng văn hóa. Đây là hệ quả của
quá trình cộng cƣ của các lớp cƣ dân đến từ các vùng văn hóa sông Hồng, sông
Lamvà lớp cƣ dân bản địa từ ngàn xƣa. Trong quá trình giao lƣu văn hóa, các yếu
tố văn hóa ngoại sinh dần bị lu mờ chỉ còn nổi bật một cấu trúc, một thiết chế văn hóa
có tính chất tổng hòa mang đặc trƣng riêng của vùng đất Quảng Bình.
- Nghiên cứu cũng cho thấy việc quốc ngữ hóa địa danh ở nƣớc ta là cần thiết
và có giá trị về mặt tổng thể. Tuy nhiên, điều đó sẽ là khó khăn cho việc nhận diện
những đặc trƣng của ngữ âm địa phƣơng phản ánh trong địa danh, làm “mờ” đi nét
nghĩa của địa danh tiếng địa phƣơng, nếu không nói là làm sai lệch cách hiểu về
nguồn gốc, ý nghĩa các địa danh này. Có nhiều địa danh chỉ tồn tại trong tâm thức,
20
đời sống của cƣ dân địa phƣơng, chƣa có trong các văn bản hành chính, cần đƣợc
thống kê, sắp xếp lại và bảo tồn nguyên dạng thì chúng mới có giá trị đích thực trong
sự phản ánh các giá trị hiện thực của cuộc sống.
KẾT LUẬN
Từ thực tế khảo sát, mô tả và phân tích các địa danh ở Quảng Bình, chúng tôi
đi đến những kết luận chính:
1. Luận án đã cung cấp một bức tranh toàn cảnh lí luận về vấn đề địa danh học,
tình hình nghiên cứu địa danh ở Việt Nam và ở địa phƣơng Quảng Bình, xác định
cách tiếp cận hợp lý để nghiên cứu địa danh tỉnh Quảng Bình, góp phần khẳng định
vai trò và giá trị của phƣơng pháp miêu tả nội dung địa danh trên cơ sở vận dụng tri
thức của nhiều ngành khoa học nhƣ: văn hóa, lịch sử, địa lí và ngôn ngữ.
Địa danh tỉnh Quảng Bình là sự phản ánh chung địa danh của ngƣời Việt, vừa
là sự phản ánh nét kế thừa của cƣ dân ở vùng đất này thời xa xƣa. Lần đầu tiên, toàn
bộ địa danh tỉnh Quảng Bình đƣợc thống kê, mô tả và khái quát một cách toàn
diện.Quảng Bình, vùng đất cổ của Đại Việt, nơi giao thoa tiếp biến của nhiều luồng
văn hóa, đã ghi dấu nhiều sự kiện trọng đại của đất nƣớc và trở thành một “tiểu vùng
văn hóa” đa dân tộc, đa ngôn ngữ, đƣợc phản ánh một cách sinh động trong địa danh
ở vùng đất này. Nếu nói “văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả”, thì
địa danh ở Quảng Bình là một trong những “cái còn lại” đó. Các loại hình và các đối
tƣợng địa lí đƣợc thể hiện trong địa danh Quảng Bình rất phong phú, đa dạng, đƣợc
định danh bằng những phƣơng thức, những yếu tố thuộc các nguồn gốc ngôn ngữ
khác nhau (chủ yếu thuần Việt và Hán Việt). Các địa danh tiếng địa phƣơng cho thấy
sự “đa dạng” trong cơ cấu dân cƣ ở Quảng Bình, ngoài đại đa số là ngƣời Kinh còn
có sự hiện diện của các lớp cƣ dân của các tộc ngƣời khác. Có đƣợc một bộ mặt văn
hóa khá thống nhất nhƣ ngày nay với văn hóa Việt - văn hóa ngƣời Kinh là chủ đạo,
thì văn hóa Quảng Bình còn mang dấu ấn rõ nét văn hóa của các dân tộc khác. Có thể
xem đây là một đặc điểm riêng của Quảng Bình so với địa bàn cả nƣớc.
2. Về đặc điểm cấu tạo, mỗi phức thể địa danh luôn luôn có thành tố chung và
tên riêng (địa danh), tồn tại gắn bó với nhau theo quan hệ giữa cái đƣợc hạn định và
cái hạn định. Thành tố chung có khả năng chuyển hóa vào các vị trí khác nhau của
tên riêng, cho thấy sự linh hoạt, sáng tạo của chủ thể định danh, tạo nên tính tầng bậc
đa dạng cho địa danh về cấu tạo cũng nhƣ chức năng phản ánh hiện thực. Hệ thống
các thành tố chung và tên riêng trong địa danh Quảng Bình, ngoài sự tƣơng đồng so
với địa danh các vùng miền khác, còn có những thành tố mang tính “điển hình” của
tiếng địa phƣơng Quảng Bình nhƣ đôộng, trôốc, bỉ, roọng, trọt, mội, truông, ... và các
tên riêng kiểu bợc, nậy, lịp, leéc, rục, phôốc... cho thấy những nét đặc trƣng về ngôn
ngữ cũng nhƣ cách nhìn nhận, phân cắt thế giới thực tại đặc thù của ngƣời Quảng
Bình trong việc định danh.
Tên riêng địa danh mang đặc điểm của cấu tạo từ tiếng Việt theo quan hệ chính
phụ, quan hệ đẳng lập và quan hệ chủ - vị. Số lƣợng địa danh có cấu tạo phức theo
quan hệ chính - phụ chiếm số lƣợng lớn, phản ánh xu hƣớng “song tiết hóa” trong
cấu tạo từ tiếng Việt.
21
3. Về mặt định danh và đặc điểm ngữ nghĩa, địa danh tỉnh Quảng Bình đƣợc
tạo ra bởi phƣơng thức tự tạo, phƣơng thức chuyển hóa, trong đó, phƣơng thức tự tạo
là chủ yếu. Trong địa danh tiếng Việt, lối định danh gián tiếp có tính chất ẩn dụ hóa,
hoán dụ hóa chiếm tỉ lệ cao; trong khi đó, đối với địa danh gốc dân tộc thiểu số, lối
định danh trực tiếp lại chiếm đa số. Địa danh Hán Việt có xu hƣớng lựa chọn mỹ từ ý
nghĩa tốt đẹp, trừu tƣợng để định danh; còn địa danh gốc dân tộc thiểu số lại thiên về
sử dụng các từ ngữ có ý nghĩa trung hòa, mộc mạc, dễ hiểu đối với ngƣời bản ngữ,
phản ánh lối tƣ duy khác nhau của mỗi tộc ngƣời trong định danh.
Địa danh tỉnh Quảng Bình hầu hết có “nghĩa” và đƣợc quy về 3 loại ý nghĩa: ý
nghĩa từ vựng-mô tả, ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa liên tƣởng. Bất cứ địa danh có
nghĩa nào cũng có ý nghĩa từ vựng-mô tả và ý nghĩa ngữ pháp, nhƣng không phải địa
danh nào cũng có ý nghĩa liên tƣởng. Địa danh kí hiệu thƣờng không có ý nghĩa từ
vựng, nhƣng vẫn có thể có ý nghĩa liên tƣởng. Mỗi địa danh ra đời đều có tính lí do,
đó có thể là lí do khách quan, cũng có thể là lí do chủ quan, liên quan đến chủ thể
định danh. Những địa danh có ý nghĩa rõ ràng thƣờng là những địa danh mà các lí do
định danh cũng dễ nhận biết; còn những địa danh không rõ ràng về nghĩa thì cũng
khó chỉ ra lí do định danh.
Địa danh tiếng địa phƣơng Quảng Bình với những sắc thái biểu đạt vừa tƣơng
đồng vừa khác biệt với TPT, đã tạo nên những đặc trƣng riêng. Sự phong phú của các
từ khác nhau trong việc truyền tải cùng một nội dung cho phép chủ thể định danh có
nhiều lựa chọn trong việc gọi tên sự vật hiện tƣợng, trƣờng hợp cùng một đối tƣợng
địa lí nhƣng có nhiều tên gọi khác nhau là khá phổ biến.
4. Về đặc trưng văn hóa, địa danh ở Quảng Bình phản ánh sự hội nhập, đan
xen ngôn ngữ - văn hoá của những lớp cƣ dân có nguồn gốc khác nhau sinh sống trên
địa bàn, trở thành những vật dẫn văn hoá, ký thác nhiều giá trị lịch sử quan trọng
cũng nhƣ phản ánh rõ nét đặc điểm tâm lí tộc ngƣời, các chủ thể định danh.
Nghiên cứu sự phản ánh các phƣơng diện văn hoá của địa danh Quảng Bình,
chúng ta có thể biết đƣợc đặc điểm địa lí tự nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của
vùng đất, ghi dấu những sự kiện quan trọng đã xảy ra trên địa bàn, những thay đổi về
dân cƣ và địa giới. Đặc biệt, các giá trị xã hội-ngôn ngữ học, đặc điểm địa hình, địa
vật, những dấu ấn văn hóa các cƣ dân Môn-Khmer bản địa đƣợc bảo lƣu qua các địa
danh Quảng Bình một cách rõ nét.
Luận án chỉ ra một số đặc điểm về nguồn gốc hình thành và nguyên nhân biến
đổi địa danh ở Quảng Bình, nhiều từ cổ, từ địa phƣơng Quảng Bình hoặc biến âm của
từ phổ thông đƣợc giải thích cặn kẽ, đồng thời phân tích những biểu hiện về ngữ âm
lịch sử tiếng Việt thông qua hệ thống địa danh, gợi ý cho những nghiên cứu tiếp về
vấn đề này.
Khảo sát địa danh ở tỉnh Quảng Bình cho thấy có những đối tƣợng địa lý vẫn
chƣa có tên gọi, hoặc có tên gọi, nhƣng chỉ tồn tại trong dân gian; có những địa danh
tiếng địa phƣơng bị “biến dạng” qua thời gian, không còn ý nghĩa, lý do đặt tên ban
đầu cũng mờ nhạt; lại có những địa danh cổ rất có giá trị để nghiên cứu đặc trƣng văn
hóa vùng miền và ngữ âm lịch sử tiếng Việt, nhƣng đa số đã “bị” chuẩn hóa theo
chính tả tiếng Việt, có nguy cơ bị “lãng quên” dần. Đối với những trƣờng hợp này, để
đƣa địa danh về đúng giá trị, luận án đề xuất những giải pháp sau:
22
Thứ nhất, khảo sát toàn diện những đối tƣợng địa lý ở tỉnh Quảng Bình chƣa
có tên gọi chính thức, thống kê phân loại và đề xuất cách đặt tên cho chúng sao cho
phù hợp với văn hóa - ngôn ngữ của địa phƣơng.
Thứ hai, thu thập tối đa, bảo tồn nguyên dạng các địa danh tiếng Việt cổ, địa
danh tiếng địa phƣơng/thổ ngữ và tiếng dân tộc thiểu số ở Quảng Bình, điều chỉnh lại
các địa danh bị sai lạc về âm và chữ viết để nhận diện chính xác về các giá trị phản
ánh hiện thực của chúng.
Thứ ba, trên cơ sở kết quả của luận án, căn cứ vào tƣ liệu địa danh thu thập,
xây dựng Từ điển Từ nguyên địa danh tỉnh Quảng Bình.
5. Nghiên cứu địa danh từ sự tiếp cận ngôn ngữ - văn hóa là tìm hiểu những
đặc trƣng văn hóa thể hiện trong từng địa danh cụ thể, trong từng loại hình địa danh
cũng nhƣ trong tổng thể địa danh nói chung. Đây là lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ và
gặp không ít khó khăn, nhƣng cũng không kém phần hấp dẫn, thú vị. Cần có những
nghiên cứu tiếp theo, cần sự đào sâu, khai thác cơ tầng văn hóa, vận dụng linh hoạt
các qui luật biến đổi ngữ âm lịch sử để bóc tách, nhận diện các lớp trầm tích “hóa
thạch” trên địa danh. Có nhƣ vậy, địa danh học mới thực sự có giá trị “soi sáng” văn
hóa, lịch sử của nhân loại.
23
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Đình Hùng (2014), “Đặc điểm ngữ âm tiếng địa phƣơng Quảng
Bình khảo cứu qua lớp từ địa danh”, Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ
phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 55(89), 02-2014, tr.82-90.
2. Nguyễn Đình Hùng (2014), “Một vài đặc điểm về cấu tạo địa danh tỉnh
Quảng Bình”, Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Vinh, tập 43, số 2B, 03-
2014, tr. 34-43.
3. Nguyễn Đình Hùng (2014), “Nghiên cứu địa danh trên bình diện ngông ngữ
- văn hóa” (Trƣờng hợp địa danh ở Quảng Bình), Tạp chí Khoa học Ngoại
ngữ, Trƣờng Đại học Hà Nội, số 38, 03-2014, tr.115-126.
4. Nguyễn Đình Hùng (2014), “Phƣơng thức định danh cho các đối tƣợng địa
lý ở tỉnh Quảng Bình”, Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Trà Vinh, số 15,
09-2014, tr.48-52.
5. Nguyễn Đình Hùng (2013), “Địa danh Quảng Bình với sự phản ánh quá
trình di trú của các tộc ngƣời”, Tập san Khoa học xã hội & nhân văn, Trƣờng
Đại học KHXH&NV thành phố Hồ Chí Minh, số 60, 12-2013, tr.154-159.
6. Nguyễn Đình Hùng (2013), “Địa danh Quảng Bình với sự phản ánh các sự
kiện lịch sử”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ, Trƣờng Đại học Quảng Bình,
số 4/2013, tr.99-106.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_dia_danh_tinh_quang_binh_6642.pdf