[Tóm tắt] Luận án Thương nghiệp miền bắc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1975

Thực tiễn công cuộc xây dựng và phát triển thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã kết thúc được gần 40 năm. Thời gian đủ dài để chúng ta nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện những vấn đề cơ bản đặt ra đối với nền thương nghiệp giai đoạn đó. Những thành quả cần được ghi nhận;thiếu sót, sai lầm cần phải được nhận diện để qua đó, chúng ta có được quan điểm toàn diện nhất đối với những gì đã qua. Những bài học từ lịch sử phát triển nền thương nghiệp miền Bắc trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc, khi mà cả nước vừa xây dựng và tiến hành kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị cho công cuộc xây dựng nền thương mạivà cho sự nghiệp xây dựngbảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCNngày nay.

docx27 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1056 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Thương nghiệp miền bắc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lý luận đó vào thực tiễn miền Bắc nước ta trong giai đoạn này. Qua quá trình khảo cứu thấy rằng, các công trình trong nước nghiên cứu về lịch sử thương nghiệp miền Bắc Việt Nam khá khiêm tốn. Có lẽ, vì mục tiêu chiến lược của cả dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này là kháng chiến, thống nhất nước nhà nên những mảng về kinh tế không được quan tâm đúng mức. Cho đến sau này, các nghiên cứu về mảng này không có nhiều tư liệu và ít được ưu tiên. Hầu hết những tài liệu ghi nhận được về thương nghiệp giai đoạn này là các hệ thống số liệu gốc từ trung tâm lưu trữ, các công trình nghiên cứu chủ yếu mang tính chất tổng kết một giai đoạn lịch sử nào đó của các nhà lãnh đạo ngành thương nghiệp hơn là những công trình độc lập hay chuyên khảo. Tuy vậy, các công trình này, tuỳ mức độ có liên quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu của luận án. Tác giả đã kế thừa được khá nhiều kết quả nghiên cứu và vận dụng vào việc tái hiện và đánh giá đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như thực tiễn hoạt động của ngành thương nghiệp trong mười năm cuối của cuộc chiến tranh. - Công trình liên quan gián tiếp: Tập thể tác giả ở Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam đã hoàn thiện một công trình nghiên cứu lớn về Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là một công trình quy mô, được đầu tư, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao. Trong đó, tập 4, Cuộc đụng đầu lịch sử, và tập 7, Thắng lợi quyết định năm 1972, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh ấn hành năm 2013, ít nhiều đề cập đến lĩnh vực kinh tế nói chung và thương nghiệp nói riêng. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu khác như Xây dựng và phát huy sức mạnh hậu phương trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), tài liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam - LA.48 năm 1995, cuốn Tổng kết Hậu cần trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân. Hà Nội của Tổng Cục Hậu cần (1995), cuốn Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học của Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, được Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản năm 1995 hay cuốn Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995 - 2000) của Đại học Quốc gia ấn hành năm 2000, cuốn Hậu phương miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2009 của Nguyễn Xuân Tú có đề cập đến lĩnh vực thương nghiệp miền Bắc Việt Nam giai đoạn này ở những góc độ khác nhau. Trong đó, công trình của Tiến sỹ Nguyễn Xuân Tú có nhiều số liệu liên quan đến kinh tế, đặc biệt là gắn các số liệu đó với hậu phương miền Bắc trong chiến tranh. Tuy nhiên, rất khó để có thể phân tách được các số liệu kinh tế thương mại với các số liệu chung về hậu phương miền Bắc cung ứng cho miền Nam kháng chiến. Một mặt, bản thân thương nghiệp được coi là một mặt trận của cuộc kháng chiến, nhưng mặt khác, quan điểm về thương nghiệp lúc bấy giờ có nhiều điểm khác biệt. Thương nghiệp không mang nặng yếu tố buôn bán kiếm lời mà là người nội trợ của toàn xã hội, là kênh huy động nguồn lực và phân phối sản phẩm. Chính vì lẽ đó, một số hàng hóa đặc biệt của quân đội nhưng cũng được nhập cảng về Việt Nam thông qua con đường mậu dịch, vay nợ và viện trợ Các công trình này, cơ bản đề cập đến thương nghiệp như một phần của hậu phương cách mạng, là một mặt trận của cuộc kháng chiến hơn là xét đến với tư cách là một ngành kinh tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên cũng đã giúp tác giả có được một cái nhìn toàn cảnh hơn về tình hình chung của Việt Nam, trong đó có kinh tế miền Bắc dưới tác động của hoàn cảnh trong và ngoài nước. Tác giả nhận thấy, việc nghiên cứu về thương nghiệp trong giai đoạn này không chỉ là hoạt động nghiên cứu về lịch sử kinh tế thương nghiệp mà phải đặt trong bối cảnh quốc tế và trong nước để thấy sự tác động đến vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, hoạt động của thương nghiệp có sự biến đổi theo yêu cầu của cách mạng Việt Nam nói chung và miền Bắc nói riêng. Vì thế, mặc dù không nghiên cứu trực tiếp đến các vấn đề kinh tế thương nghiệp chuyên biệt song các nghiên cứu này đã cung cấp cho luận án một phông tư liệu tổng quan về các mối quan hệ quốc tế, giữa hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam cũng như trong các lĩnh vực của miền Bắc lúc bấy giờ. Thương nghiệp miền Bắc giai đoạn này, với tư cách là một mặt trận của cuộc kháng chiến, sẽ nằm trong chỉnh thể chung đó. Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu của luận án, đặt thương nghiệp trong bối cảnh là một mặt trận của cuộc kháng chiến, phục vụ kháng chiến thì những tư liệu này rất có ý nghĩa. 1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về thương nghiệp miền Bắc Việt Nam ở nước ngoài Các công trình nghiên cứu về thương nghiệp miền Bắc Việt Nam ở nước ngoài rất ít. Có chăng, chỉ là để cập đến một số vấn đề kinh tế hoặc chính sách kinh tế, tài chính, thương mại của các bên liên quan đến cuộc chiến ở Việt Nam thời điểm đó như: AID mission to Vietnam, Financial Management report Book, December 31,1974, prepared by office of the Associate Director; Foreign Aid, War and Economic Development. South Vietnam 1955-1979. Cambridge University press, 1988. Douglas Dacy; Economic and Financial in Vietnam do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành Những tài liệu này, phần nhiều là đánh giá hoặc báo cáo tình hình kinh tế của Việt Nam Cộng hòa, các thông tin về kinh tế miền Bắc nói chung và thương nghiệp nói riêng gần như không được đề cập. Riêng cuốn Foreign Aid, War and Economic Development. South Vietnam 1955 - 1979 của Douglas Dacy là đề cập rõ nhất về tình hình kinh tế miền Nam Việt Nam trong suốt cuộc chiến tranh và vài ba năm sau khi Việt Nam thống nhất. Tuy nhiên, tác giả này cũng chỉ phân tích và cung cấp các số liệu của kinh tế miền Nam và viện trợ của Mỹ là chủ yếu. Hầu như không tìm thấy các cứ liệu quan trọng nào của thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong công trình này. Giá trị thực sự của những công trình này chủ yếu ở yếu tố tham khảo, so sánh, đối chiếu quy mô nền kinh tế hai miền Nam - Bắc trong chiến tranh và mô hình kinh tế nói chung, thương nghiệp nói riêng của mỗi miền. Tác giả cũng đã tiếp cận được một số tư liệu liên quan đến việc thống kê số liệu quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam Cộng hòa với Mỹ cùng giai đoạn luận án nghiên cứu. Những số liệu này được đăng trên các tạp chí chuyên ngành kinh tế và các báo cáo của Bộ Kinh tế dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, nhất là tài liệu của USOM và FEER (các cơ quan chỉ đạo viện trợ của Mỹ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa). Đây sẽ là điều kiện để chúng ta có thể có những so sánh với việc viện trợ của các nước XHCN đối với miền Bắc. Đặc điểm của tài liệu này vừa là số liệu vừa có phân tích của cơ quan quản lý Quỹ nên cũng có thể làm tài liệu tham chiếu. Trên cơ sở đó, đánh giá, phân tích được tính phụ thuộc của nền thương mại hai miền với các nước trong phe. Qua đó, sẽ góp phần giúp chúng ta có điều kiện nhận định khách quan hơn về bản chất của cuộc chiến tranh ở Việt Nam cũng như về thực trạng nền thương mại miền Bắc trong giai đoạn 1965 - 1975. Chúng tôi cũng đã cố gắng tiếp cận các công trình nghiên cứu về kinh tế, kinh tế thương nghiệp có liên quan ở nước ngoài, cụ thể là ở Mỹ, Úc, Pháp, Hàn Quốc, Thái Lannhưng chưa tiếp cận được các tài liệu liên quan. Trong lưu trữ của các nước này, có khá nhiều tài liệu về kinh tế của Đông Nam Á, nhưng rất tiếc, luận án chưa tiếp cận được thông tin nào liên quan đến miền Bắc Việt Nam. Có thể, lúc bấy giờ, do hoàn cảnh chiến tranh và sự đối lập mang tính ý thức hệ, các nhà nghiên cứu nước ngoài khó có cơ hội tiếp cận với kinh tế miền Bắc để nghiên cứu. Mảng tài liệu tiếng Nga, chúng tôi ghi nhận được một số công trình nghiên cứu về miền Bắc giai đoạn đó. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu thống kê một số số liệu liên quan đến việc viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Chúng tôi cũng đã sử dụng nguồn tài liệu này vào xây dựng luận án như cuốn Ngoại thương Liên Xô: Tổng kết kế hoạch 5 năm lần thứ 9 và tương lai do Nhà xuất bản Sự thật ấn hành ở Moscow vào năm 1977, hiện đang được lưu trữ tại Thư viện của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Nhưng công trình này, chỉ đề cập đến một phần rất khái lược về quan điểm và số liệu liên quan đến viện trợ và thương mại của Liên Xô đối với Việt Nam. Ngoài ra, chưa tiếp cận được bất kỳ công trình nào của Liên Xô nghiên cứu mang tính chuyên khảo về thương nghiệp (hay rộng hơn là kinh tế) miền Bắc nước ta lúc bấy giờ. Mảng tài liệu tiếng Trung, chúng tôi chưa tiếp cận được công trình liên quan. Hơn nữa, việc tiếp cận nguồn tài liệu tiếng Trung ở Trung Quốc rất khó khăn vì nhiều lí do, đây có thể là một điểm thiếu sót của luận án nhưng chưa có khả năng khắc phục. 1.2.3. Những vấn đề khoa học đã và chưa được giải quyết - Các công trình trên đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản sau Một là, làm rõ bối cảnh của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam (cả trong nước và quốc tế). Trong đó, các công trình đã nghiên cứu rất rõ những tác động tích cực và tiêu cực của hoàn cảnh đối với cuộc cách mạng của nước ta trong giai đoạn đó. Hai là, các công trình này đã khái quát được quá trình xây dựng, phát triển kinh tế chung của miền Bắc. Trong đó, thương nghiệp với tư cách là một ngành kinh tế cũng được nghiên cứu ở mức độ nhất định (rõ nét nhất là ở công trình của tác giả Đặng Phong). Ba là, một số công trình, các tài liệu còn lại của chế độ cũ, đặc biệt là các báo cáo của nước ngoài, đã cung cấp những thông tin liên quan đến kinh tế miền Nam Việt Nam. Điều này, ít nhiều cho phép chúng ta có những đánh giá khách quan, toàn diện hơn về kinh tế nói chung và kinh tế thương mại của miền Nam nói riêng trong giai đoạn đó. Qua đó, chúng ta sẽ có những đánh giá, so sánh với tình hình thương nghiệp của miền Bắc XHCN. - Các công trình trên chưa giải quyết được các vấn đề cơ bản sau Một là, các công trình trên chỉ mới tiếp cận thương nghiệp như một ngành kinh tế đơn thuần, không nghiên cứu được một cách toàn diện thương nghiệp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; Hai là, chưa có công trình nào nghiên cứu rõ nét những vấn đề cơ bản của thương nghiệp miền Bắc như: Quan điểm về thương nghiệp và thương nghiệp XHCN; mô hình sở hữu, quản lý, phân phối; mối quan hệ của thương nghiệp XHCN với thương nghiệp TBTD; giữa quản lí nội thương, độc quyền ngoại thương; giữa nội thương và ngoại thương; vai trò của ngoại thương đối với thương nghiệp nói chung và với công cuộc xây dựng CNXH, góp phần đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế như thế nào; Ba là, các công trình cũng chưa chỉ rõ được những thành tựu, hạn chế; đặc điểm, ý nghĩa và kinh nghiệm của quá trình đó. 1.3.4. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu Trên cơ sở phân tích, đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, hướng nghiên cứu của Luận án sẽ tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Khái quát các quan điểm cơ bản của các nhà lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thương nghiệp; Khái quát đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về quá trình xây dựng và phát triển thương nghiệp trong bối cảnh cả nước có chiến tranh; Tập trung nghiên cứu quá trình tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước về thương nghiệp trên các góc độ từ tư duy kinh tế thương nghiệp, mô hình tổ chức, hoạt động thương nghiệp, nghiên cứu mối quan hệ giữa nội thương và ngoại thương, giữa thương nghiệp Nhà nước với thương nghiệp tư bản tư nhân, xác định vị trí, vai trò, ý nghĩa của thương nghiệp đối với kháng chiến... Nghiên cứu các nội dung này phải đặt trong bối cảnh thế giới và trong nước giai đoạn 1965 - 1975 để nhìn nhận và đánh giá khách quan, toàn diện vấn đề nghiên cứu; Qua đó, phải rút ra được đặc điểm, ý nghĩa và kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát triển thương nghiệp miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1975. CHƯƠNG 2 THƯƠNG NGHIỆP MIỀN BẮC TRONG NHỮNG NĂM 1965 - 1968 2.1. Hoàn cảnh mới, chủ trương mới 2.1.1. Khái quát tình hình thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trước năm 1965 - Thương nghiệp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ 1945 đến 1954: Qua 9 năm kháng chiến, đạt được một số thành tựu nhất định nhưng kết thúc cuộc chiến tranh, về bản chất, thương nghiệp kháng chiến vẫn là thương nghiệp của một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu. - Thương nghiệp miền Bắc giai đoạn 1954 - 1964: Sau 10 năm xây dựng thương nghiệp trong điều kiện hòa bình (1954 - 1964) đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Có thể coi đây là giai đoạn hoàng kim của CNXH ở miền Bắc. Nhờ những năm xây dựng và phát triển toàn diện này, thế và lực của miền Bắc được tăng cường căn bản, chủ động và tự tin tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào giai đoạn cao trào. Thương nghiệp cũng góp phần đáng kể vào những biến chuyển lớn đó của xã hội miền Bắc. 2.1.2. Hoàn cảnh mới - Thế giới: + Chiến tranh lạnh tiếp diễn, chi phối quan hệ quốc tế + Về mô hình kinh tế nói chung và thương mại nói riêng:Năm 1965, Đảng Cộng sản Liên Xô (tháng 3 và tháng 9) đã ra các nghị quyết chuyên đề về chỉ đạo phát triển kinh tế. Đây là tiền đề để thực hiện một cuộc cải cách lớn trong lĩnh vực kinh tế ở Liên Xô bắt đầu từ năm 1965. Tuy nhiên, cơ bản Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp - Việt Nam:Để cứu vãn sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam và sự tác động mang tính dây chuyền, Mỹ đã ném bom miền Bắc, chiến tranh lan rộng ra cả nước. Cả nước có chiến tranh là hoàn cảnh chi phối mọi hoạt động của miền Bắc Việt Nam trong đó có thương nghiệp. 2.1.3. Chủ trương mới về thương nghiệp những năm 1965 - 1968 Tháng 6 năm 1965, Ban Bí thư đã ra chỉ thị Về việc chuyển hướng công tácthương nghiệp trong tình hình mới, chỉ rõ 6 nhiệm vụ lớn: Một là, phục vụ đắc lực việc chuyển hướng xây dựng kinh tế, phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy mạnh cách mạng khoa học kỹ thuật trong các ngành kinh tế quốc dân và phân công lao động mới trong xã hội cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Hai là, phục vụ tăng cường quốc phòng, phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, ra sức ủng hộ cách mạng miền Nam mọi mặt và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Ba là, góp phần đảm bảo tích lũy Nhà nước để tiếp tục thực hiện công nghiệp hóa XHCN. Bốn là, phục vụ tốt tiêu dùng trong tình hình mới với phương hướng đảm bảo mức sống giản dị, tiết kiệm thích hợp với thời chiến nhưng vẫn phải chú trọng bồi dưỡng sức lao động sản xuất và chiến đấu. Năm là, phục vụ việc tiếp tục hoàn thành cải tạo XHCN, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, tiếp tục thực hiện cải tạo thương nghiệp tư doanh, kiên quyết chống đầu cơ, tích trữ, củng cố và mở rộng thị trường XHCN thống nhất. Sáu là, góp phần tích cực giải quyết tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế quốc dân, ổn định nền kinh tế trên cơ sở mới, ổn định thị trường, giá cả và tiền tệ. [76;212-213] Đảng chủ trương: Các hoạt động thương nghiệp giai đoạn này làm nhiệm vụ hậu cần cho sản xuất, chiến đấu. Các hoạt động xuất khẩu diễn ra ở mức độ vừa phải, các hoạt động ngoại thương chủ yếu là nhập khẩu. Trong các hoạt động nhập khẩu, việc dùng ngoại tệ của Nhà nước để trao đổi, mua bán hàng hóa phải được hạn chế. Đẩy mạnh khập khẩu, trong đó cơ bản là tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước XHCN. Nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại nói chung và của ngoại thương nói riêng, trước hết và chủ yếu là tranh thủ tới mức cao nhất viện trợ quốc tế, kịp thời đưa hàng nhập khẩu về nước để tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, duy trì và phát triển sản xuất, phục vụ chiến đấu, chi viện cho miền Nam. 2.2. Xây dựng thương nghiệp miền Bắc trong những năm 1965 - 1968 2.2.1. Thương nghiệp miền Bắc trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ - Chuyển hướng hoạt động thương nghiệp Cuối năm 1964, ngay sau khi Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết 10, Bộ Nội thương và Ngoại Thương đã có nhiều biện pháp đưa nghị quyết vào công tác chỉ đạo, điều hành. Trung ương Đảng có những điều chỉnh hợp lý về thương nghiệp được thể hiện trong Hội nghị lần thứ 11 (1965). Trong đó, qua ý kiến của hai Bộ, Chính phủ đã có chỉ đạo về điều chỉnh kế hoạch, bổ sung hàng nhập khẩu khẩn cấp cho nhu cầu của cuộc kháng chiến trong tình hình mới; điều chỉnh tăng các chỉ tiêu thu mua; rút hoặc phân tán hàng ở các kho lớn, phân tán về nông thôn, miền núi; đẩy mạnh việc vận chuyển hàng hóa cho Khu 4, Tây Bắc, gấp rút tăng cường lượng dự trữ Nhà nước cho từng vùng, từng tỉnh. Điều chỉnh lại mạng lưới phân phối của mậu dịch quốc doanh, giao thêm nhiệm vụ cho hợp tác xã mua bán để không chỉ phục vụ nhân dân tại chỗ mà còn phục vụ nhu cầu của nhân dân các nơi về sơ tán. Bước vào năm 1966 - 1967, Chính phủ chủ trương phải đảm bảo 3 yêu cầu cơ bản sau: “Một là, ra sức động viên mọi lực lượng, phát huy mọi khả năng; đảm bảo yêu cầu của chiến tranh để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược; hai là, đảm bảo các nhu cầu thiết yếu về đời sống, bồi dưỡng sức dân để sản xuất và chiến đấu lâu dài; ba là, qua sản xuất và chiến đấu, làm cho nền kinh tế của ta thêm lớn mạnh” [23;10]. - Tổ chức xây dựng và phát triển thương nghiệp trong tình hình mới Về Nội thương: Bao gồm thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mua bán và thương nghiệp tư bản tư nhân. Thương nghiệp quốc doanh Với công tác phòng chống chiến tranh phá hoại: Mạng lưới thương nghiệp quốc doanh được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thời chiến. Các cơ sở mậu dịch quốc doanh ở các thành phố, thị xã được di chuyển về khu vực nông thôn và ngoại thành. Ngành thương nghiệp đã phân tán được hệ thống kho tàng, hàng hóa, hạn chế được thiệt hại do địch gây ra. Tính trong thời gian từ 1965 - 1968, “tổng số thiệt hại do địch gây ra là 26,498 triệu đồng, trong đó 15,343 triệu đồng là tài sản cố định, còn trên 11 triệu đồng là vật tư, hàng hóa và tiền mặt” [35;1]. Đầu vào của thương nghiệp quốc doanh: Để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ phân phối, thương nghiệp quốc doanh phải gia tăng việc nắm nguồn hàng, tăng tối đa đầu vào cho quá trình cung ứng. Có ba nguồn hàng chủ yếu: Nhập khẩu qua viện trợ, vay nợ và mậu dịch; các xí nghiệp quốc doanh và các cơ sở gia công giao nộp sản phẩm; thu mua nông sản của các hợp tác xã nông nghiệp, nghề cá, muối và HTX tiểu thủ công nghiệp Đầu ra của thương nghiệp quốc doanh: Có 4 khoản mục chính là cấp phát trực tiếp; bán lẻ theo chế độ cung cấp định lượng; bán lẻ theo chế độ cung cấp không định lượng và bán lẻ bình thường. Hợp tác xã mua bán Hợp tác xã mua bán đóng vai trò là trợ thủ đắc lực của mậu dịch quốc doanh, chịu trách nhiệm bán lẻ ở thị trường nông thôn và các điểm tập trung dân cư ở nông thôn. Sự phát triển của hợp tác xã mua bán phụ thuộc vào sự phát triển của quan hệ sản xuất Xã hội Chủ nghĩa và lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, phụ thuộc vào điều kiện sống và tổ chức lao động ở nông thôn. Đây cũng là quá trình thực hiện phân công lao động hợp lý giữa các hình thức thương nghiệp Xã hội Chủ nghĩa, phát huy được tốt hơn vai trò của từng thành phần trong phục vụ sản xuất và đời sống. Hợp tác xã mua bán trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại có 5 nhiệm vụ chính: Một là, làm đại lý bán hàng công nghiệp cho thương nghiệp quốc doanh ở thị trường nông thôn. Hai là, nhận ủy thác thu mua nông sản, thực phẩm cho thương nghiệp quốc doanh. Ba là, kinh doanh hàng ngoài diện, ngoài mức kế hoạch của Nhà nước, bằng cách khai thác nguồn hàng tiềm tàng trong nông thôn một cách linh hoạt để bổ sung cho thị trường có tổ chức. Đây là một nhiệm vụ khẩn cấp của hợp tác xã mua bán trong giai đoạn này khi mà việc khai thác nguồn hàng trở thành nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của ngành thương nghiệp. Bốn là, góp phần cải tạo thị trường nông thôn, cải tạo người buôn bán nhỏ. Năm là, cung ứng một phần hàng tiêu dùng cho nhân dân thành phố sơ tán về các xã ở nông thôn. Thương nghiệp tư bản tư nhân và Thị trường tự do Thương nghiệp tư bản tư nhân hoạt động gắn với thị trường tự do. Về mặt lý thuyết, thương nghiệp tư bản tư nhân và thị trường tự do sẽ không thể hiện diện trong thị trường Xã hội Chủ nghĩa. Ở miền Bắc giai đoạn này, mặc dù, Nhà nước cố gắng thắt chặt thị trường tự do, độc tôn thương nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, thị trường tự do, trong đó có chợ, đã xuất hiện trở lại khá phổ biến cả ở nông thôn và thành thị. Thị trường tự do có cơ hội phát triển song hành với hệ thống thương nghiệp quốc doanh và tập thể. Thị trường tự do có hai bộ phần gồm thị trường tự do có tổ chức và thị trường tự do không có tổ chức. Trong thị trường tự do, đặc biệt là thị trường không có tổ chức, tệ đầu cơ, tích trữ hàng hóa diễn ra thường xuyên. Một số mặt hàng thuộc độc quyền quản lý của nhà nước cũng được bán bất hợp pháp tại các chợ này. Về Ngoại thương: Bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu. Phương châm ngoại thương là: Tranh thủ sự giúp đỡ nhưng vẫn phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh.“Chúng ta sử dụng tốt sự giúp đỡ của các nước anh em, đồng thời phải phát huy cao độ tinh thần tự lực cánh sinh để xây dựng một nền kinh tế tự chủ và phải góp phần tích cực của ta vào sự hợp tác của các nước anh em” [66;536]. Hoạt động xuất, nhập khẩu của thương nghiệp miền Bắc trong giai đoạn này do Nhà nước độc quyền; cơ chế xuất nhập khẩu chủ yếu là vay nợ và viện trợ; Nhà nước bao cấp các hoạt động ngoại thương. Hoạt động xuất khẩu: Do chiến tranh phá hoại của Mỹ, sản xuất bị đình đốn và tổn hại nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Chính phủ đã có chủ trương chuyển dịch kinh tế, tăng cường phát triển các ngành phục vụ trực tiếp cho sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu. Do vậy, hoạt động xuất khẩu giai đoạn này bị ngưng trệ. Giá trị xuất khẩu hàng năm bị giảm dần. Năm 1964 xuất khẩu 97,1 triệu rúp, năm 1966 xuất khẩu 67,8 triệu rúp đến năm 1968 chỉ còn xuất khẩu 42,7 triệu rúp [82;498]. Tổng cộng 4 năm (1965 - 1968) “kim ngạch xuất khẩu được 247 triệu rúp, bình quân mỗi năm đạt 61,8 triệu rúp bằng 73% giai đoạn 1961-1964 và bằng 105% giai đoạn 1958-1960. Nếu so với kim ngạch xuất nhập khẩu thì bằng 16,5 % và bằng 4% giá trị sản lượng công nông nghiệp. Trong đó, tỷ trọng các nhóm hàng hóa: Công nghiệp nhóm A chiếm 19,6% kim ngạch xuất khẩu, công nghiệp nhóm B chiếm 57,6% trong đó thủ công nghiệp trên 33%. Nông sản nguyên dạng chiếm 22,8% kim ngạch xuất khẩu” [82;499]. Thị trường xuất khẩu bao gồm ba nhóm nước: khu vực 1 (bao gồm các nước Xã hội Chủ nghĩa), khu vực 2 (các nước Tư bản Chủ nghĩa), khu vực 3 là các nước khác. Trong đó khu vực 1 chiếm 80% lượng hàng xuất khẩu. Liên Xô là đối tác xuất khẩu chính của miền Bắc với ½ giá trị hàng xuất khẩu vào thị trường khu vực 1 và 40% lượng giá trị xuất khẩu của miền Bắc Việt Nam. Về mặt hàng xuất khẩu: bao gồm 3 mặt hàng cơ bản: Công nghiệp A (chủ yếu là khoáng sản), công nghiệp B (thủ công nghiệp và nông lâm sản chế biến), nông sản thô. Trong đó tỷ trọng công nghiệp A và nông sản thô có chiều hướng giảm mạnh. Công nghiệp B tăng nhanh. Nhập khẩu Giai đoạn này, miền Bắc nhập khẩu từ 3 nguồn: Các nước Xã hội Chủ nghĩa, Tư bản Chủ nghĩa và Dân tộc Chủ nghĩa. Trong đó, khu vực các nước Xã hội Chủ nghĩa có Liên Xô, Trung Quốc, CHDC Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, Bungari, Rumani, Triều Tiên, Cu Ba, Mông Cổ Khu vực các nước Tư bản Chủ nghĩa có Pháp, Nhật, Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ, Na Uy, Tây Đức. Các nước Dân tộc Chủ nghĩa chiếm tỷ trọng không đáng kể. Nhập khẩu lớn nhất là từ các nước XHCN; Trong khối các nước XHCN, Liên Xô và Trung Quốc là hai nước chiếm tỷ trọng hàng hoá nhập khẩu lớn nhất của miền Bắc Việt Nam (97% lượng giá trị nhập khẩu là từ các nước Xã hội Chủ nghĩa, trong đó riêng Liên Xô là khoảng 40% và Trung Quốc - 38%) [82;482]. Nhập khẩu của miền Bắc bấy giờ, phản ánh rất rõ nét sự phụ thuộc của nền kinh tế của miền Bắc đối với các nước Xã hội Chủ nghĩa khác. Hàng nhập khẩu có 5 nhóm chính là: Nguyên nhiên vật liệu, hàng tiêu dùng, dụng cụ phụ tùng, thiết bị lẻ và thiết bị toàn bộ. Nhập khẩu hàng nguyên nhiên, vật liệu và hàng tiêu dùng là chủ yếu. Tỷ trọng của hàng tiêu dùng đến năm 1968 đã chiếm 33% lượng giá trị hàng nhập khẩu. Trong khi đó, khác với giai đoạn trước (1960 - 1964), giá trị thiết bị toàn bộ và kỹ thuật có tăng song tỷ trọng của nó trong nhập khẩu lại giảm mạnh. Kim ngạch xuất nhập khẩu mất cân đối nghiêm trọng. Nhập siêu trở thành căn bệnh mãn tính của nền thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn này. Đặc biệt, năm 1968, nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu lên đến 12 lần (xuất: 42.900.000 R; nhập: 465.700.000 R). Như vậy, ngoại thương giai đoạn này đã có những kết quả đáng được ghi nhận. Trong điều kiện miền Bắc bị đánh phá ác liệt, sản xuất bị đình đốn, nhu cầu lại tăng cao đột biến, nội thương dù có nỗ lực đến mấy cũng khó có thể đáp ứng được yêu cầu về hàng hóa, nhu yếu phẩm và các thiết bị phục vụ chiến tranh thì ngoại thương đã có nhiều chính sách hợp lý, vừa gia tăng khả năng xuất khẩu trong điều kiện có thể, tăng cường nguồn hàng nhập khẩu từ các nước. Trong đó, ngoại thương đã tận dụng có hiệu quả nguồn viện trợ từ các nước XHCN anh em. Trong thời điểm lịch sử cam go đó, nếu không có sự bổ sung nguồn viện trợ khổng lồ từ các nước XHCN, tình thế cách mạng Việt Nam chắc chắn đã diễn ra theo chiều hướng khác. 2.2.2. Thành tựu, hạn chế - Thành tựu: Về phục vụ và duy trì sản xuất Đảm bảo đời sống nhân dân, cho nhiệm vụ chiến đấu và chi viện miền Nam Về xây dựng và phát huy nhân tố con người trong thương nghiệp XHCN. - Hạn chế: Về quản lý kinh tế Về cải tạo và quản lý thị trường Thương nghiệp phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, chưa phát huy tốt sức sản xuất và nguồn hàng trong nước Việc tập trung nguồn hàng trong tay nhà nước còn nhiều hạn chế Hệ thống phân phối chưa hiệu quả * * * Mười năm hòa bình, miền Bắc đã có những biến chuyển to lớn trên tất cả các mặt. Hình ảnh về một chế độ xã hội mới đã được hình thành khá rõ nét cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng Có thể nói, 10 năm quý giá (1954 - 1964), đã giúp cho miền Bắc kiến tạo được một nguồn lực to lớn, cả động lực và niềm tin để bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc trên thực tế đã gây ra cho chúng ta những tổn thất rất nặng nề. Mỹ không những trực tiếp đưa quân đội viễn chinh và chư hầu vào tham chiến ở miền Nam mà còn âm mưu đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá. Đây là một cuộc chiến tranh tổng lực, Mỹ muốn qua đó, dập tắt khát vọng độc lập, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam. Chính vì thế, việc xây dựng và bảo vệ miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ đối với riêng miền Bắc mà còn với vận mệnh cách mạng cả nước. Thương nghiệp miền Bắc trong giai đoạn đặc biệt đó, cũng cần phải có sự điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tiễn. Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, ngành thương nghiệp đã có sự chuyển hướng nhanh chóng thích ứng với hoàn cảnh chiến tranh. Một loạt các chính sách, giải pháp được đưa ra để điều chỉnh về tổ chức, hình thức hoạt động của thương nghiệp. Ngoại thương đã tranh thủ được một nguồn lực rất to lớn của các nước Xã hội Chủ nghĩa đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta. Nội thương điều chỉnh lớn về tổ chức, mạng lưới, hình thức huy động nguồn hàng, giảm mậu dịch quốc doanh, gia tăng hoạt động và mạng lưới của hợp tác xã mua bán Nội thương đã tập trung cao độ cho nhiệm vụ phân phối nguồn hàng để đảm bảo đời sống dân sinh, cho sản xuất và chiến đấu. Có thể nói, trong chiến tranh, nguồn lực trong nước bị tàn phá đến suy kiệt, với việc tận dụng nguồn lực bên ngoài, ngành thương nghiệp đã hoàn thành được nhiệm vụ đối với sự nghiệp chung của cách mạng. Tuy nhiên, trong quá trình đó, thương nghiệp cũng bộc lộ nhiều hạn chế lớn. Có những hạn chế, thiếu sót mang tính bản chất của mô hình, kéo dài từ trước đó, có những hạn chế bị bộc lộ rõ nét khi thương nghiệp phải hoạt động trong điều kiện chiến tranh, có những thiếu sót lại do vấn đề con người gây nên. Điều này, đã làm ảnh hưởng và hạn chế đi các thành tựu của ngành thương nghiệp trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất. Điều nghiêm trọng hơn, có một số thiếu sót, hạn chế không được nhận diện hoặc có được nhận diện nhưng lạicoi đó là nguyên nhân bởi chiến tranh, đã để lại những hậu quả lớn cho quá trình tổ chức hoạt động và phát triển thương nghiệp về sau. Trong 4 năm xây dựng và phát triển dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, thương nghiệp miền Bắc không chỉ đơn thuần là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa mà là một mặt trận của cuộc kháng chiến. Dù có những khiếm khuyết, hạn chế; có những kết quả, thành tựu được ghi nhận nhưng tựu trung lại, thương nghiệp đã tạo ra những dấu ấn đậm nét trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, góp phần đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và tiếp tục chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Đánh giá lại những thành tựu, hạn chế của thương nghiệp miền Bắc 1965 - 1968 đã để lại một số kinh nghiệm cho sự phát triển thương nghiệp giai đoạn sau. CHƯƠNG 3 THƯƠNG NGHIỆP MIỀN BẮC TRONG NHỮNG NĂM 1969 - 1975 3.1. Chính sách mới về phát triển thương nghiệp miền Bắc những năm 1969 - 1975 3.1.1. Đặc điểm tình hình Tình hình quốc tế Cuối thập kỷ 60 đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, chiến tranh lạnh giữa hai phe Tư bản Chủ nghĩa và Xã hội Chủ nghĩa tiếp tục được đẩy lên cao. Vào đầu thập kỷ 70 đó, cuộc khủng hoảng năng lượng, tác động đến toàn bộ các nước trên thế giới, nghiêm trọng nhất là các nước Tư bản Chủ nghĩa. Trong phe Xã hội Chủ nghĩa, có sự mâu thuẫn, đỉnh điểm là cuộc xung đột biên giới Xô - Trung năm 1969. Tình hình trong nước Miền Bắc có điều kiện tạm thời hòa bình, bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh nhưng bị chia cắt bởi cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ mà cao điểm là 12 ngày đêm Mỹ ném bom hủy diệt miền Bắc (từ 18/12/72 đến 30/12/72). Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai mặc dù diễn ra trong thời gian ngắn hơn nhưng hậu quả để lại vô cùng nặng nề. 3.1.2. Chính sách mới đối với thương nghiệp miền Bắc Ngay sau khi Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom không điều kiện đối với miền Bắc, ngày 9 tháng 5 năm 1969, Ban Bí thư đã có chỉ đạo về chuyển hướng hoạt động thương nghiệp thông qua thông báo số 07 (07 - TB/TW) [72;63]. Tiếp theo đó, Bí thư thứ nhất của Đảng - Lê Duẩn, đã có phát biểu chỉ đạo việc chuyển hướng kinh tế miền Bắc tại Hội nghị lần thứ 19, Ban Chấp hành Trung ương [73;115], trong đó chỉ rõ: Chủ trương chung là chuyển thương nghiệp hoạt động từ thời chiến sang thời bình và đến khi Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ hai là chuyển từ thời bình sang thời chiến. Sau khi chúng ta đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai lại phải khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục thương nghiệp và phát triển. 3.2. Thương nghiệp miền Bắc trong những năm 1969 - 1975 3.2.1. Xây dựng và phát triển Nội thương Thương nghiệp quốc doanh TNQD được củng cố và ưu tiên. Đầu vào của thương nghiệp quốc doanh tiếp tục đẩy mạnh tận thu từ ba nguồn cơ bản là hàng nhập khẩu, hàng giao nộp và hàng thu mua nông lâm sản. Trong đó, hàng nhập khẩu vẫn là cơ bản. Đầu ra của thương nghiệp quốc doanh: Vẫn bao gồm bốn khoản mục chính là cấp phát trực tiếp, bán lẻ theo chế độ cung cấp định lượng, bán lẻ theo chế độ không cung cấp định lượng, bán lẻ bình thường. Hợp tác xã mua bán So với giai đoạn 1965 - 1968, hợp tác xã mua bán phát triển có phần chậm hơn do thương nghiệp quốc doanh đã mở rộng hệ thống bán lẻ rộng rãi, trong khi thị trường tự do thực sự bùng nổ. Thị trường tự do: Giai đoạn này, thị trường tự do phát triển rất mạnh mẽ, tác động lớn đến thị trường và chính sách quốc gia về thương nghiệp. Nhìn chung, nội thương giai đoạn này có sự phát triển tương đối mạnh với vai trò của thương nghiệp quốc doanh và thị trường tự do, nhờ đó đã đáp ứng được cơ bản nhu cầu sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt và chi viện cho miền Nam. Thị trường tự do tiếp tục khẳng định tính tính cạnh tranh của nó so với thương nghiệp quốc doanh. Có thể thấy, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về nâng cao vai trò của thương nghiệp quốc doanh không thành công, đồng thời đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém nhất định. 3.2.2. Xây dựng và phát triển Ngoại thương Đường lối đó được thể hiện đầy đủ trong Hội nghị lần thứ 22 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng: “Làm tốt công tác xuất, nhập khẩu và hợp tác kinh tế với nước ngoài, tăng nhanh xuất khẩu để tăng khả năng nhập khẩu là một nhiệm vụ hết sức trọng yếu hiện nay. Phải nâng mức xuất khẩu bằng hoặc cao hơn mức trước chiến tranh” [73;300]. Xuất khẩu Nhìn chung giai đoạn này, xuất khẩu có sự phục hồi qua các năm. Tuy vậy, so với nhập khẩu, xuất khẩu vẫn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong ngoại thương. Đặc điểm của ngoại thương giai đoạn này là, thị trường và mặt hàng xuất khẩu ít nhiều có sự điều chỉnh. Thị trường được mở rộng sang một số quốc gia trong khu vực và thế giới, quan hệ thương mại với các nước thuộc khối Tư bản Chủ nghĩa được khôi phục và phát triển. Tuy thế, nhìn trong tổng thế, xu hướng này vẫn chưa mang tính chủ đạo trong hoạt động ngoại thương của miền Bắc. Mặt hàng xuất khẩu vẫn bao gồm ba nhóm cơ bản là công nghiệp A (khoáng sản - chủ yếu là than đá), công nghiệp B (hàng tiêu dùng) và nông sản. Trong đó, vai trò của nông sản và công nghiệp nặng giảm dần do nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày một lớn và đầu tư phát triển công nghiệp năng lượng. Công nghiệp nhẹ dần vươn lên chiếm trên 50% giá trị xuất khẩu. Nhập khẩu Nhập khẩu tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong cán cân thương mại và đảm bảo sự thiếu hụt về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng cho miền Bắc và hàng chi viện cho miền Nam. Nhập khẩu của Việt Nam vẫn bao gồm ba nguồn mậu dịch, vay nợ và viện trợ, trong đó viện trợ và vay nợ đóng vai trò chủ yếu.Nhất là trong những năm 1969 - 1971, viện trợ và vay nợ chiếm đến trên 90%. Ngoại thương miền Bắc giai đoạn này đã có tác dụng lớn cho sự phục hồi kinh tế, xuất khẩu cũng từng bước được khôi phục. Nếu không xét ở yếu tố cán cân thương mại, nhập khẩu đã tận dụng sự hỗ trợ kinh tế của các nước trên thế giới đối với Việt Nam. Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu từng bước cân bằng nhập khẩu và xuất khẩu cơ bản không thành công. Tỷ lệ xuất khẩu trong cán cân thương mại có tăng song giá trị nhập siêu ngày một lớn. 3.2.3. Thành tựu, hạn chế Thành tựu Một là, nhiệm vụ phục vụ đời sống và sản xuất có những chuyển biến tích cực; Hai là, thu mua hàng hóa đạt được kết quả khá hơn trước; Ba là, có nhiều tiến bộ trong lĩnh vực quản lý kinh tế và tăng cường pháp chế Xã hội Chủ nghĩa trong lĩnh vực thương nghiệp; Bốn là, thương mại quốc tế được mở rộng hơn trước; Năm là, thương nghiệp đã kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh ở những vùng mới giải phóng và cung cấp cho chiến trường một khối lượng hàng hóa khổng lồ nhằm đẩy nhanh công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hạn chế Thứ nhất, trong lĩnh vực nội thương Thứ hai, trong lĩnh vực ngoại thương Thứ ba, tư duy và mô hình kinh tế thương nghiệp không có sự biến chuyển đáng kể. * * * Như vậy, trong những năm 1969 - 1975, thương nghiệp miền Bắc Việt Nam tiếp tục sự nghiệp xây dựng và phát triển trong điều kiện khá đặc biệt. Tình thế miền Bắc lúc có chiến tranh, lúc có hòa bình. Trong đó, cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ từ giữa đến cuối năm 1972, mặc dù thời gian tiến hành đánh phá không kéo dài như chiến tranh phá hoại lần thứ nhất nhưng quy mô, sự khốc liệt và độ tàn phá của chiến tranh rất khủng khiếp. Đặc biệt, trong 12 ngày đêm cao điểm từ 18 đến 30 tháng 12 năm 1972, Mỹ đã tiến hành một chiến dịch không kích, ném bom rất dữ dội vào các cơ sở kinh tế, xã hội, quốc phòng căn bản nhất ở miền Bắc Trong bối cảnh, vừa chuyển hướng từ chiến tranh sang hòa bình rồi hòa bình phải chuyển trạng thái chiến tranh, sau chiến tranh phá hoại lần thứ 2, miền Bắc lại khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất, thương nghiệp miền Bắc phải có những sự điều chỉnh rất lớn, nỗ lực rất cao để có thể đáp ứng được yêu cầu của tình hình. Trong quá trình đó, thương nghiệp miền Bắc cũng đã thu được một số kết quả nhất định như nhiệm vụ phục vụ đời sống và sản xuất có những chuyển biến tích cực; thu mua hàng hóa đạt khá hơn trước; có nhiều tiến bộ trong lĩnh vực quản lý kinh tế và tăng cường pháp chế Xã hội Chủ nghĩa trong lĩnh vực thương nghiệp; thương mại quốc tế được mở rộng hơn trước. Đồng thời, thương nghiệp cũng đã kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh ở những vùng mới giải phóng và cung cấp cho chiến trường một khối lượng hàng hóa khổng lồ nhằm đẩy nhanh công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn đó, thương nghiệp cũng có những hạn chế cả về ngoại thương và nội thương. Mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã ngày càng bộc lộ sức ì, thương nghiệp tư do có sự tăng trưởng nhưng cũng đã bộc lộ sự không bền vững và ít nhiều tạo nên sự nhiễu loạn trong thị trường miền Bắc, gây ra những hậu quả xã hội lớn. Trong khi đó, mặc dù miền Bắc ít nhiều có điều kiện hòa bình song chúng ta đã không phát huy được sức sản xuất trong nước, không đẩy mạnh được việc thu mua và nắm nguồn hàng, chủ yếu vẫn dựa vào viện trợ của các nước Xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cũng chưa nắm được cơ hội để thay đổi cán cân xuất nhập khẩu với các nước Xã hội chủ nghĩa, đưa hoạt động ngoại thương đi vào thực chất hơn. Trong khi đó, chưa có chính sách mở rộng quan hệ hợp tác với các nước Tư bản Chủ nghĩa, Dân tộc Chủ nghĩa. Chính vì thế, đã làm cho miền Bắc mất đi nhiều cơ hội có thể thay đổi được cục diện nền kinh tế nói chung và thương nghiệp nói riêng. Những điều này, ngoài nguyên nhân do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ gây ra còn do nguyên nhân sâu xa là không thay đổi trong tư duy và mô hình kinh tế. Trong suốt 7 năm này cũng như cả trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất trước đó, tư duy và mô hình kinh tế không có sự chuyển biến đáng kể. Có lẽ, chiến tranh đã làm cho những nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng và Chính phủ dành quá nhiều tâm huyết và trí lực, đã không có điều kiện nghiên cứu một cách thấu đáo, toàn diện, khách quan về kinh tế và kinh tế thương nghiệp miền Bắc. Một giải pháp an toàn về kinh tế để miền Bắc được ổn định, tập trung nguồn lực cho cách mạng miền Nam đã trở thành một chính sách được ưu tiên. Tuy vậy, với những gì đạt được, thương nghiệp miền Bắc giai đoạn này cũng đã có những đóng góp lớn cho công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đảm bảo cơ bản các nhu cầu thiết yếu của nhân dân, thúc đẩy sản xuất, góp phần đánh bại chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ, tiếp tục chi viện cho cách mạng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Những thiếu sót trong nhận thức, trong đường lối, chính sách và quá trình thực hiện đã hạn chế đi rất nhiều kết quả của thương nghiệp miền Bắc giai đoạn đó và còn để lại nhiều hậu quả về sau. CHƯƠNG 4 ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA, KINH NGHIỆM 4.1. Đặc điểm của thương nghiệp miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965- 1975 4.1.1. Thương nghiệp miền Bắc được xây dựng trong điều kiện cả nước có chiến tranh Chiến tranh là trạng thái chủ yếu của miền Bắc, tác động lên toàn bộ mọi mặt đời sống, xã hội. Quy luật chiến tranh, vì thế là quy luật chủ đạo. Thương nghiệp hoạt động trong bối cảnh đó, trở thành một mặt trận của cuộc kháng chiến, một bộ phận của hậu phương chiến lược miền Bắc. 4.1.2.Thương nghiệp miền Bắc được xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp - Điều này, phản ánh sự ảnh hưởng to lớn của mô hình kinh tế các nước XHCN đối với Đảng và Nhà nước VNDCCH. - Mặc dù vậy, trong suốt quá trình tiến hành xây dựng và chiến đấu, việc duy trì mô hình đó trong thực tiễn rất khiên cưỡng cả về lý luận và thực tiễn. - Tuy nhiên, có thể vì hoàn cảnh chiến tranh, mô hình này có tính ưu việt nhất định, góp phần tập hợp một cách hiệu quả nhất nguồn lực cho việc phục vụ kháng chiến và đời sống dân sinh. 4.1.3. Thương nghiệp miền Bắc hoạt động trong điều kiện được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các nước XHCN - Thương nghiệp miền Bắc được sự ủng hộ rất lớn từ các nước Xã hội chủ nghĩa. Thậm chí trong một số năm, thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương được hiểu là nhận viện trợ, vay nợ; yếu tố mậu dịch chiếm tỷ trọng thấp. - Tuy nhiên, sự ủng hộ này theo nguyên tắc các bên cùng có lợi. Vì cuộc chiến tranh cách mạng ở Việt Nam không chỉ giải quyết những vấn đề của dân tộc Việt Nam mà nằm trong xung đột quốc tế. Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong phe Xã hội chủ nghĩa phải ra sức viện trợ cho cách mạng Việt Nam để thực hiện các mục tiêu lớn mang tính đấu tranh ý thức hệ. 4.2. Ý nghĩa của quá trình xây dựng và phát triển thương nghiệp miền Bắc trong giai đoạn 1965-1975 4.2.1. Góp phần đảm bảo đời sống của nhân dân miền Bắc - Thương nghiệp góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước để tăng nguồn hàng, tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại để tận dụng sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước Xã hội chủ nghĩa nhằm có thêm nguồn lực để đảm bảo đời sống nhân dân miền Bắc, đặc biệt là trong chiến tranh. - Trong bối cảnh chiến tranh, nguồn hàng khan hiếm, thương nghiệp đã đa dạng hóa hình thức phân phối nhằm mục đích đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nhân dân miền Bắc. Trong chiến tranh diễn ra, thương nghiệp thực sự là một mặt trận của cuộc kháng chiến, việc buôn bán chuyển từ ngày sang đêm; cán bộ công nhân viên thương nghiệp trở thành chiến sĩ trên mặt trận kinh tế cũng như trực tiếp đối đầu với giặc Mỹ. 4.2.2. Góp phần giúp miền Bắc hoàn thành nhiệm vụ hậu phương chiến lược của cả nước và làm nghĩa vụ quốc tế Thương nghiệp phục vụ cho cuộc cuộc xây dựng Xã hội Chủ nghĩa ở miền Bắc Góp phần đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc Góp phần giúp miền Bắc hoàn thành nhiệm vụ hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. 4.2.3. Góp phần thúc đẩy sự liên kết thương nghiệp giữa các nước Xã hội Chủ nghĩa - Thứ nhất tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế trong phe Xã hội Chủ nghĩa - Thứ hai, nhờ thương mại, các mâu thuẫn trong phe Xã hội Chủ nghĩa có cơ hội được giải quyết nhờ quá trình hợp tác kinh tế, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc. 4.3. Một số kinh nghiệm từ quá trình xây dựng và phát triển của thương nghiệp miền Bắc trong giai đoạn 1965 -1975 4.3.1. Quán triệt đường lối chung của Đảng, sáng tạo trong vận dụng vào thực tiễn của ngành nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển - Vừa xây dựng Xã hội Chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam là một đường lối chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Thương nghiệp trong bối cảnh đó, vừa là một ngành kinh tế nhưng cơ bản là một mặt trận của cuộc kháng chiến, là một bộ phận của hậu phương miền Bắc. - Trong quá trình xây dựng và phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt đó, ngành thương nghiệp đã có những sáng tạo trong vận dụng đường lối vào thực tiễn của ngành, hoàn thành trọng trách cách mạng giao phó. 4.3.2. Giải quyết đúng đắn vai trò của nội thương và ngoại thương trong nền thương nghiệp - Trong mối quan hệ giữa nội thương và ngoại thương, nội thương luôn đóng vai trò quyết định. Ngay cả trong giai đoạn tiến hành chiến tranh, việc các nước Xã hội Chủ nghĩa ủng hộ và giúp đỡ to lớn như vậy dễ dẫn tới cách hiểu, ngoại thương là quyết định. Nhưng cần phải nhận thức được rằng, để có sự ủng hộ to lớn đó, lại là sự phản ánh đường lối chính trị của Đảng đối với cách mạng Việt Nam và thế giới. Hơn nữa, nếu không có nội thương thì ngoại thương nhập cảng hàng hóa cũng không thể phân phối được. Nội thương bấy giờ mang ý nghĩa là một mặt trận thực sự trong cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ. - Ngày nay, nhận thức ra được vai trò to lớn của nội thương, phát huy sức mạnh của sản xuất và thương mại trong nước, đồng thời, phải tăng cường kết nối nền sản xuất và thương mại Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu để gia tăng giá trị hàng hóa, thúc đẩy thương mại quốc tế. Trong quá trình đó, luôn phải xây dựng một nền nội thương vững mạnh. 4.3.3. Giải quyết hợp lý quan hệ giữa thương nghiệp Nhà nước và thương nghiệp tư bản tư nhân Một là giải quyết mối quan hệ về vai trò, vị trí của thương nghiệp Nhà nước với thương nghiệp tư bản tư nhân trong nền thương nghiệp miền Bắc. Hai là, giải quyết mối quan hệ về sự dịch chuyển vai trò, vị trí của các thành phần thương nghiệp nhà nước và thương nghiệp tư bản tư nhân trong xây dựng và phát triển thương nghiệp 4.3.4. Xây dựng thương nghiệp phải có quy hoạch cho cả thời bình và thời chiến - Trong thời chiến, thương nghiệp hoạt động với vai trò là một mặt trận của cuộc kháng chiến, vừa làm nhiệm vụ kháng chiến vừa làm nhiệm vụ kinh tế. - Trong thời bình, thương nghiệp được phát huy cao độ vai trò, vị thế của ngành. Tuy nhiên, trong quy hoạch luôn phải có phương án chuyển sang tình thế có chiến tranh lúc đất nước có biến động. Đó vừa là sự thích ứng hợp lý của ngành vừa là nhiệm vụ chính trị mà đất nước đặt ra. 4.3.5. Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của cán bộ, nhân viên trong ngành và của nhân dân; xây dựng văn hoá kinh doanh thương nghiệp. - Trong chiến tranh, thương nghiệp và cán bộ thương nghiệp đã hoàn thành vai trò của mình đối với sự nghiệp cách mạng. - Trong giai đoạn hiện nay, việc đào tạo đội ngũ cán bộ, xây dựng văn hóa kinh doanh thương mại cần đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. KẾT LUẬN Thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1975 là một hiện thực lịch sử. Nghiên cứu hiện thực đó, có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc không chỉ đối với lĩnh vực thương nghiệp mà còn với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam nói chung. Qua nghiên cứu, Luận án kết luận được các vấn đề sau: Một là, quá trình xây dựng và phát triển thương nghiệp miền Bắc bị tác động rất lớn của hoàn cảnh quốc tế. Hoàn cảnh này, không chỉ có ảnh hưởng tới việc hoạch định chủ trương, chính sách đối với cách mạng Việt Nam nói chung và kinh tế thương nghiệp nói riêng mà còn đến cả các hoạt động tổ chức, tác nghiệp của thương nghiệp miền Bắc trong giai đoạn này. Hai là, thương nghiệp miền Bắc được xem là một mặt trận của cuộc kháng chiến, là một bộ phận của hậu phương chiến lược miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa. Mặc dù, thương nghiệp là một ngành của nền kinh tế quốc dân nhưng khi chiến tranh diễn ra trên phạm vi cả nước, nhiệm vụ cốt yếu của toàn dân tộc là kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Các hoạt động của tất cả các lĩnh vực, trong đó có kinh tế thương nghiệp cũng phải phục vụ cho nhiệm vụ tối cao đó. Ba là, trong 10 năm xây dựng và phát triển trong mưa bom, bão đạn, thương nghiệp miền Bắc đã đạt được những thành quả to lớn, góp phần vào việc đảm bảo đời sống dân sinh, đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc, góp phần chi viện miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Những đóng góp của thương nghiệp miền Bắc giai đoạn này là toàn diện và có ý nghĩa rất lớn. Tuy nhiên, trong quá trình đó, thương nghiệp cũng đã bộc lộ những hạn chế về mô hình kinh tế, tổ chức mạng lưới, về việc xử lý các mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, giữa nội thương và ngoại thương Trong điều kiện chiến tranh diễn ra trên phạm vi cả nước, quy luật chiến tranh chi phối mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, việc thương nghiệp không có điều kiện hoạt động như bình thường cũng là lẽ tất nhiên. Hoàn cảnh đó, cũng làm cho việc nhận thức các hạn chế, thiếu sót, thậm chí sai lầm của thương nghiệp giai đoạn này không được nhìn nhận một cách toàn diện, thấu đáo. Đó cũng là một trong những hạn chế mà thời điểm đó khó có khả năng khắc phục.Mặt khác, việc áp dụng mô hình thương nghiệp Xã hội Chủ nghĩa vào miền Bắc lúc bấy giờ còn xuất phát từ lý tưởng Xã hội Chủ nghĩa của chúng ta. Tuy nhiên, việc áp dụng mô hình kinh tế không phù hợp với thực tiễn, đã hạn chế đi rất nhiều đóng góp của bao thế hệ cán bộ, công nhân viên ngành thương nghiệp đối với sự nghiệp của ngành và cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, sẽ là siêu hình khi đặt vấn đề đánh giá đường lối, chủ trương, chính sách và hoạt động thương nghiệp miền Bắc trong giai đoạn này mà không đặt trong bối cảnh lịch sử của đối tượng nghiên cứu. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước như vậy, việc lựa chọn lý thuyết kinh tế và mô hình tổ chức, hoạt động thương nghiệp 10 năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong bối cảnh đó là sự lựa chọn tối ưu, đây là điều tốt nhất có thể làm, hiệu quả nhất khả dĩ trong thời điểm lịch sử đó, cho thực tiễn đó. Nếu có khả năng thay đổi, chỉ có thể là sự điều chỉnh chính sách phù hợp với tình hình cụ thể hơn là sự thay thế mô hình kinh tế thương nghiệp. Những hạn chế, thiếu sót trong quá trình xây dựng và phát triển thương nghiệp giai đoạn này, sẽ là bài học kinh nghiệm cho thương mại ngày nay. Thực tiễn công cuộc xây dựng và phát triển thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã kết thúc được gần 40 năm. Thời gian đủ dài để chúng ta nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện những vấn đề cơ bản đặt ra đối với nền thương nghiệp giai đoạn đó. Những thành quả cần được ghi nhận;thiếu sót, sai lầm cần phải được nhận diện để qua đó, chúng ta có được quan điểm toàn diện nhất đối với những gì đã qua. Những bài học từ lịch sử phát triển nền thương nghiệp miền Bắc trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc, khi mà cả nước vừa xây dựng và tiến hành kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị cho công cuộc xây dựng nền thương mạivà cho sự nghiệp xây dựngbảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCNngày nay. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. (2014): Chủ trương của Đảng về xây dựng thương nghiệp Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975: Một số thành tựu và hạn chế. Tạp chí Lịch sử Đảng (Số tháng 4 - 2014), Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 2. (2014): Nội thương Miền Bắc - lực lượng hậu cần góp phần đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965 - 1968). Tạp chí Lịch sử Quân sự (Số tháng 4 - 2014). Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam. 3. (2014): Thương nghiệp Tư bản tư nhân miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975 (Số tháng 4 - 2014). Tạp chí Giáo dục Lý luận. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khu vực 1. 4. (2014): Thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965 - 1968). (Số tháng 9 - 2014). Tạp chí Giáo dục Lý luận. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khu vực 1.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxthuong_nghiep_mien_bac_viet_nam_trong_cuoc_khang_chien_chong_my_cuu_nuoc_giai_doan_1965_1975_378.docx
Luận văn liên quan