Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc kết hợp giữa giữa tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái theo bốn nội dung nêu trên
được đánh giá cụ thể và khẳng định kể từ khi tiến hành đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước Nhà nước đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc đề ra
hệ thống chính sách, chiến lược, pháp luật; tiến hành tổ chức thực hiện và
tạo ra sựđồng thuận của toàn xã hội vào kết hợp giữa giữa tăng trưởng
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Ở một phương diện nhất định, Nhà
nước đã khẳng định được vai trò to lớn của mình trong các nội dung trên.
Nhưng, cũng phải thấy rằng, bên cạnh những thành tựu đạt được, vai trò
quản lý của Nhà nước ta trong việc giải quyết mối quan hệ giữa giữa tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái cũng còn nhiều hạn chế,
như: nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước còn những lỗ hổng chưa được
khắc phục, nội dung một số chính sách, chiến lược còn chồng chéo lên
nhau, công tác tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện
việc kết hợp giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
còn nhiều sai sót, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Để khắc phục tình trạng này, cần phải kết hợp nhiều giải pháp. Trong
khuôn khổ có hạn, luận án mới chỉ đề cập đến ba giải pháp có tính nguyên
tắc, đó là: Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách, chiến lược về gắn giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái; Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực,
hiệu quả quản lý, điều hành của tổ chức bộ máy nhà nước trong kết hợp
giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái; Nhóm giải
pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận của
toàn xã hội nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữa tăng trưởng kinh tế
với bảo vệ môi trường sinh thái.
28 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2132 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờng cho đời sống
của nhân dân.
Phát triển nhanh, bền vững là yêu cầu cấp thiết trong chiến lược
phát triển KT - XH của đất nước. Gắn TTKT với bảo vệ MTST trong
thời gian tới có ý nghĩa sống còn, là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức
tạp. Đòi hỏi Nhà nước ta phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, phải
3
tiếp tục củng cố chính sách, công cụ pháp luật, đảm bảo thực hiện tốt
công tác tổ chức, thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình quản
lý kinh tế và quản lý TN - MT, đầu tư tài chính cho công tác bảo vệ TN -
MT, nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về ý nghĩa của kết hợp
TTKT với bảo vệ MTST…
Từ những phân tích trên đây cho thấy, việc nghiên cứu vai trò của
nhà nước đối với vấn đề bảo vệ MTST trong TTKT là rất cần thiết. Xuất
phát từ những lý do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Vai trò của
Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ triết học
của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong
kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, luận án phân
tích những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong
kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, qua đó, đề xuất
một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Nhà nước trong kết
hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái và những nội dung cơ bản thể hiện vai trò của nhà
nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
- Phân tích, đánh giá những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai
trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường
sinh thái ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của Nhà
nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở
Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của nhà nước trong kết
hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án làm rõ việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST dưới góc độ triết
học. Thông qua chức năng xã hội của nhà nước với tư cách là nhân tố quan
trọng trong kiến trúc thượng tầng; luận án đề xuất những nội dung cơ bản
thể hiện vai trò của Nhà nước ta trong việc kết hợp TTKT với bảo vệ
MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH từ năm 1996 đến nay ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh cùng các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về phát triển KT - XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Trong khi thực hiện, luận án còn kế thừa một số thành tựu của các
công trình khoa học có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với các
phương pháp khác như: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch,
điều tra, thu thập thông tin, khảo sát, tra cứu, đối chiếu so sánh...
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án làm rõ được những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai
trò của Nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước ta
trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
6. Ý nghĩa của luận án
- Luận án góp phần vào việc đưa ra những luận cứ khoa học để Đảng và
Nhà nước ta đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn,
nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST.
- Những vấn đề luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần nâng cao vai
trò của Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai việc kết hợp TTKT
với bảo vệ MTST.
- Luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, giảng dạy và những người quan tâm đến lĩnh vực kết hợp TTKT với
bảo vệ MTST.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
1.1.1. Các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế
Nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế có rất nhiều công trình. Có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu như “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng phát triển kinh tế xã hội ở nước ta”, tạp chí Lý luận chính trị số 4
(2010) của Nguyễn Thị Doan; “Về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế
ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị số 1 (2013) của Nguyễn
Văn Hậu, “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam” của
tác giả Hoàng Đức Thân và Đinh Quang Ty; “Về các mối quan hệ lớn cần
được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”
của tác giả Nguyễn Phú Trọng; “Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam” của các tác giả Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt...
Nhìn chung, các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế đã có đều tập trung làm
rõ nội hàm của khái niệm tăng trưởng kinh tế, đồng thời đi sâu nghiên cứu, hệ
thống hoá những vấn đề lý luận liên quan đến tốc độ và chất lượng tăng
trưởng của nền kinh tế, chỉ ra các mô hình tăng trưởng kinh tế cũng như các
nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tăng trưởng của kinh tế thế giới và ở nước Việt
Nam, vạch ra các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình tăng trưởng của
nền kinh tế ở nước ta.
1.1.2. Các nghiên cứu về môi trường sinh thái, về bảo vệ môi trường
sinh thái
Về vấn đề này có các công trình nghiên cứu như: “Khía cạnh triết học -
xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học số 6
(1998) của Phạm Thị Ngọc Trầm; “Mối quan hệ giữa phát triển và bảo vệ môi
trường - kinh nghiệm của Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 316,
(2004) của Nguyễn Văn Kim, “Đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức sinh
thái” (2009), tác giả Vũ Trọng Dung; “Chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường”, Nxb Chính trị quốc
gia Hà Nội (2013)...
6
Các nghiên cứu trên đã làm rõ nội hàm khái niệm môi trường sinh thái,
đồng thời chỉ ra rằng bảo vệ môi trường sinh thái là vấn đề sống còn đối với
các quốc gia dân tộc trong thời đại ngày nay. Các giải pháp mà các nghiên cứu
đề cập để bảo vệ môi trường sinh thái là giải pháp về chính sách, pháp luật,
đầu tư tài chính và khoa học và công nghệ, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
sinh thái cho nhân dân...
1.1.3. Các nghiên cứu về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ môi trường sinh thái
. Những năm gần đây, những nghiên cứu về kết hợp tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của
nhiều người. Trong số những nghiên cứu liên quan đến vấn đề này có thể
kể đến một số công trình tiêu biểu như “Xây dựng đạo đức sinh thái - một
trách nhiệm của con người đối với tự nhiên”, trong Tạp chí Triết học số 6
(2009) của tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, “Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện
nay - Thực trạng và một số giải pháp khắc phục”, đăng trên tạp chí Triết học,
số 11 (2009), tác giả Trần Đắc Hiến, “Sự phát triển của thương mại tự do
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề bảo vệ môi
trường sinh thái, luận án tiến sỹ của tác giả Trương Mạnh Tiến; “Mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền", luận
án tiến sỹ của tác giả Bùi Văn Dũng…
Các công trình nghiên cứu trên đã chứng minh rằng chính hoạt động sản
xuất vật chất, sinh hoạt và các hoạt động nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái và cạn
kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Từ đó, các nghiên cứu tập trung phân
tích và đưa ra một số giải pháp cơ bản để có thể kết hợp một cách tốt nhất tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
1.2.1. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế
Vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế là một vấn đề được
nghiên cứu khá nhiều trong những năm qua, có thể kể đến các nghiên cứu sau:
“Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay”, tạp chí Lý luận Chính trị số
7
2 (2010) của Ngô Quang Minh; “Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc
định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay”, tạp
chí Triết học số 10 (2012) của Trần Thành, “Thể chế kinh tế của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam”, của các
tác giả Lương Xuân Quỳ, Đỗ Đức Bình; “Vai trò của Nhà nước đối với hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” của Mai Lan Hương…
Trong các công trình này, các khái niệm về tăng trưởng kinh tế, kinh tế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế… đã được đặt ra và giải quyết một cách công
phu, nghiêm túc. Bên cạnh đó, các nghiên cứu đã tập trung làm rõ sự thay đổi
vai trò của nhà nước ta từ khi đất nước thực hiện đổi mới mô hình phát triển
kinh tế, từ đó khẳng định thông qua thể chế kinh tế, nhà nước đã tạo ra hành
lang pháp lý bình đẳng cho các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng nhanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một số nghiên cứu còn cho thấy, Việt Nam đã hội nhập với kinh tế thế giới
và khu vực. Do đó, không thế thiếu bàn tay can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế xã hội trong giai đoạn hoàn toàn mới. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm,
vai trò của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế còn bộc lộ nhiều yếu kém. Do
đó, phải có các giải pháp để nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước
như: hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế đồng bộ; cải cách,
hoàn thiện thể chế hành chính…
1.2.2. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi
trường sinh thái
Có các công trình tiêu biểu như: Từ cảnh báo của Ăngghen về thảm hoạ
thiên nhiên nghĩ về vai trò của nhà nước đối với bảo vệ môi trường sinh thái"
của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan, tạp chí Lý luận chính trị số 7 (2011); "Vai
trò của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường" của Lê Thị Thanh
Hà, tạp chí Triết học số 8 (2011), “Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và
môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn” của
Phạm Thị Ngọc Trầm (2006); “Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi
trường” của Nguyễn Thị Thơm và An Như Hải (2011)…
Các công trình khoa học trên cho thấy, chủ thể giữ vai trò quan trọng nhất
trong việc thúc đẩy quá trình bảo vệ môi trường sinh thái là nhà nước. Với tư
cách là người đại diện cho nhân dân sở hữu tài nguyên thiên nhiên, nhà nước
8
thực hiện chức năng tổ chức, quản lý, kiểm tra, giám sát việc khai thác, sử
dụng tài nguyên thiên nhiên. Ở nước ta, nhà nước giữ vai trò quan trọng trong
việc đề ra chủ trương, chính sách, pháp luật và tổ chức, xây dựng đội ngũ cán
bộ chuyên trách làm công tác quản lý tài nguyên, môi trường. Để nâng cao vai
trò của nhà nước ta trong quản lý tài nguyên, môi trường cần: hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách bảo vệ môi trường; hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường ở các cấp; nâng cao ý thức
trách nhiệm bảo vệ môi trường cho nhân dân…
Như vậy: Các công trình đã nghiên cứu đều có ý nghĩa nhất định về mặt lý
luận và thực tiễn. Những giá trị khoa học của các công trình đã tạo ra hướng
gợi mở quan trọng để luận án triển khai kết quả nghiên cứu theo hướng mới.
Chương 2
KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
SINH THÁI – YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ KẾT HỢP ĐÓ
2.1. KẾT HỢP GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái
2.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là khái niệm được đề cập tới theo các khía cạnh khác
nhau. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tế là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm
năng qua thời gian của một nước, hay là mở rộng khả năng kinh tế để sản
xuất, di chuyển giới hạn khả năng sản xuất qua thời gian; tăng trưởng kinh tế
là khái niệm dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế
trong một thời kì nhất định…
Theo tác giả luận án, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về số lượng và chất
lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định dựa trên việc khai thác các
nguồn lực tự nhiên và xã hội.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế là: nguồn nhân lực chất
lượng cao, áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, điều
kiện môi trường sinh thái thuận lợi.
9
2.1.1.2. Khái niệm môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái
Có nhiều quan niệm khái niệm khác nhau về môi trường sinh thái: Môi
trường sinh thái là tất cả những điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu
cơ có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội;
Môi trường sinh thái là tổng hợp những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến
cuộc sống của con người như không khí, nước, đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu và
các tạp chất độc hại; …
Theo tác giả luận án môi trường sinh thái được hiểu là môi trường sinh
thái tự nhiên với tính cách là nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho sự tăng
trưởng của nền kinh tế, bao gồm các loại động, thực vật, các loại tài
nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng tới quá trình sản xuất.
Bảo vệ môi trường sinh thái là hoạt động của con người nhằm khai thác,
sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, đảm bảo cân bằng sinh thái
trên cơ sở giữ gìn sự trong sạch, tái tạo và cải thiện môi trường, ngăn chặn các
hậu quả xấu do tăng trưởng kinh tế gây ra cho môi trường sinh thái.
2.1.2. Quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái
2.1.2.1. Vai trò và tác động của tăng trưởng kinh tế đối với bảo vệ
môi trường sinh thái
Trong quá trình sản xuất vật chất, tăng trưởng kinh tế là cách thức chủ yếu,
là nhu cầu bắt buộc của mọi quốc gia nhằm phát triển kinh tế. Để thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng, các quốc gia đã tác động tới môi trường sinh thái.
Đối với mỗi quốc gia, nguồn tài nguyên thiên nhiên là điều kiện cơ bản để
phát triển. Trong nhiều thập kỷ qua, con người đã không ngừng đổi mới công
cụ lao động, ứng dụng công nghệ hiện đại để khai thác tài nguyên. Việc ứng
dụng công nghệ hiện đại vào khai thác tài nguyên thiên nhiên ít nhiều giúp cho
tài nguyên thiên nhiên được bảo tồn, tái tạo cảnh quan môi trường sinh thái.
Song, cũng có đem đến những bất lợi, gây nên những ảnh hưởng xấu cho môi
trường sinh thái.
Nếu kinh tế tăng trưởng tốt, con người sẽ có thêm những điều kiện vật để
bảo vệ môi trường sinh thái và ngược lại nếu kinh tế không tăng trưởng hoặc
con người tìm mọi cách khai thác triệt để tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng
kinh tế thì sẽ không có điều kiện để tái tạo và bảo vệ môi trường sinh thái.
10
2.1.2.2. Tác động của bảo vệ môi trường sinh thái lên tăng trưởng kinh tế
Môi trường sinh thái cung cấp những điều kiện vật chất tối thiểu để con
người sống và tiến hành sản xuất ra của cải vật chất. Sẽ không thể có tăng
trưởng kinh tế nếu thiếu các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất, chính môi
trường sinh thái đã thực hiện chức năng cung cấp đối tượng lao động để hoạt
động sản xuất diễn ra bình thường.
Do đó, bảo vệ môi trường sinh thái sẽ có tác động tích cực tới tăng trưởng
kinh tế. Môi trường sinh thái được bảo vệ, các nguồn tài nguyên thiên nhiên
không bị cạn kiệt và có điều kiện tái sinh, đầu vào cho tăng trưởng kinh tế, tất
yếu, sẽ được duy trì và ổn định. Nếu môi trường sinh thái không được bảo vệ,
tài nguyên thiên nhiên bị khai thác bừa bãi, sẽ ngày một cạn kiệt dần, không
có điều kiện tái sinh, lúc đó, đầu vào của nền kinh tế không ổn định, không
còn đủ đối tượng lao động để tiến hành sản xuất và nền kinh tế tất yếu không
thể tăng trưởng.
Để bảo vệ môi trường sinh thái, trong quá trình sản xuất, con người phải
tìm ra những phương thức phù hợp tác động tới môi trường sinh thái, đảm bảo
vừa tăng trưởng kinh tế, vừa bảo vệ môi trường sinh thái.
2.1.3. Sự cần thiết kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái đảm bảo phát triển bền vững
Một là, để phát triển kinh tế, các quốc gia ít nhiều đều phải dựa vào môi
trường sinh thái. Việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng phải hướng vào việc
khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tạo ra những tiền đề để vừa duy trì
sức tăng trưởng của nền kinh tế, vừa duy trì sự cân bằng hệ sinh thái tự nhiên.
Hai là, tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái là hai mục tiêu
được đặt ra để phát triển bền vững, song việc thực hiện hai mục tiêu này lại
thường nảy sinh những mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết. Để bảo đảm cho
các thế hệ kế tiếp có tiền đề để tăng trưởng, các thế hệ hiện tại cần phải khai
thác hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái. Điều này chỉ có
thể thực hiện dựa trên sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái.
Ba là, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái là
yếu tố cơ bản quyết định tới bền vững về xã hội. Tức là phải thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, lấy chỉ số phát triển con người làm
mục tiêu cao nhất của sự phát triển.
11
2.2. NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
2.2.1. Vai trò của nhà nước trong việc đề ra hệ thống chính sách, chiến
lược, pháp luật kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Về chính sách: Các chính sách cần có nhằm gắn tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái là: phát triển nguồn nhân lực, khoa học - công
nghệ, xây dựng cơ cấu kinh tế và phân bổ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các
chính sách này là cơ sở giúp cho nhà nước khai thác có hiệu quả các nguồn
lực từ tự nhiên cho tăng trưởng kinh tế đồng thời hướng tăng trưởng kinh tế
vào quá trình bảo vệ môi trường sinh thái
Về chiến lược: Các chiến lược là sự cụ thể hóa các chính sách gắn tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở một mức độ nhất định. Với tư
cách là cơ quan quyền lực cao nhất, nhà nước sẽ quyết định việc xây dựng các
chiến lược, huy động các nguồn lực tài chính, con người cũng như các nguồn
lực khác để thực hiện tốt các chiến lược đề ra.
Về pháp luật: Luật Quốc tế về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái là tổng thể các quy tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối
quan hệ giữa các quốc gia với nhau và giữa các quốc gia với các tổ chức quốc
tế trong việc tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh phải đảm bảo
nguyên tắc bảo vệ môi trường sinh thái trong và ngoài phạm vi quốc gia.
Luật Quốc gia về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh
thái là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lí của một quốc
gia điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quốc gia đối với
các hoạt động kinh tế có liên quan đến môi trường sinh thái nhằm kết hợp hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.
2.2.2. Vai trò của nhà nước trong tổ chức thực hiện việc kết hợp tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Vai trò của nhà nước trong tổ chức bộ máy thực hiện gắn tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Bảo vệ môi trường sinh thái là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng tới sự tồn
vong của mỗi quốc gia. Do vậy, nó phải được coi là một lĩnh vực kinh tế - xã
hội quan trọng như các lĩnh vực khác, từ đó nhà nước xác định nhiệm vụ, ban
hành và thực thi các quyết định từ cấp trung ương đến địa phương nhằm tạo ra
12
mối liên kết theo chiều dọc từ trên xuống dưới để bảo vệ môi trường sinh thái
dưới tốc độ tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế.
Vai trò của nhà nước trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách
làm công tác gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái:
Nhà nước tiến hành xây dựng đội ngũ cán bộ thông qua thực hiện quy
hoạch gắn với đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ cao.
Làm tốt điều đó, sẽ có được lực lượng cán bộ có trình độ cao, đảm bảo tính kế
cận liên tục về con người, phù hợp với yêu cầu thực tiễn về gắn tăng trưởng
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
Vai trò của Nhà nước trong việc huy động nguồn vốn; thực hiện triển khai,
nghiên cứu khoa học - công nghệ; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực gắn tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái:
Để thực hiện các nội dung bảo vệ trường sinh thái dưới tác động của tăng
trưởng kinh tế cần phải có nguồn vốn đủ lớn dùng cho các lĩnh vực: đầu tư
xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng vật chất, sản xuất sản phẩm không gây ô
nhiễm môi trường sinh thái, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện các dự án
bảo vệ môi trường…
Việc ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất
làm cho hiệu quả sử dụng vốn, tài nguyên thiên nhiên tăng, nền kinh tế có sự
tăng trưởng và môi trường sinh thái được khai thác hợp lý hơn. Do đó, các
quốc gia phải nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ tiên
tiến vào phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái
Việc mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường
cũng là một trong những động thái tích cực giúp nâng cao vai trò của nhà nước
đối với lĩnh vực gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
2.2.3. Vai trò của nhà nước trong việc tổ chức thanh tra, kiểm tra,
giám sát thực hiện việc hiện kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái
Qua công tác này, nhà nước sẽ nắm được tình hình thực hiện việc gắn tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Từ đó, xây dựng các chính
sách, chiến lược phát triển phù hợp.
Các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát góp phần đảm bảo đưa chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào triển khai, thực hiện
13
có hiệu quả. Giúp phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
2.2.4. Vai trò của nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận xã hội,
nâng cao trách nhiệm xã hội của cá nhân để thực hiện kết hợp tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái
Trong tăng trưởng kinh tế, chính lợi ích vật chất mà con người mong
muốn đạt được khi tiến hành khai thác tài nguyên thiên nhiên là nguyên nhân
tiềm ẩn nguy cơ mất gây an toàn cho môi trường sinh thái. Để điều hoà lợi ích
giữa các nhóm xã hội khác nhau, để mọi người đều phải thực hiện nghĩa vụ
bảo vệ môi trường sinh thái, nhà nước cần phải phát huy sự đồng thuận của
toàn xã hội, phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân vào bảo vệ môi trường
sinh thái.
Chương 3
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. MÂU THUẪN GIỮA ĐÒI HỎI PHẢI CÓ TÍNH ĐỒNG BỘ VỀ CHÍNH
SÁCH, CHIẾN LƯỢC, PHÁP LUẬT TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI TÌNH TRẠNG
CÒN THIẾU ĐỒNG BỘ
3.1.1. Sự bất cập, thiếu đồng bộ giữa các chính sách, chiến lược trong
việc kết hợp giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh và bảo vệ môi
trường sinh thái
Thứ nhất: Sự bất cập, thiếu đồng bộ trong việc xây dựng và triển khai
các chính sách gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Các chính sách kinh tế: Nhà nước đưa ra những quy định cụ thể về các chế
độ ưu đãi về đất đai, thuế, hỗ trợ tài chính… cho các hoạt động bảo vệ môi
trường, các sản phẩm thân thiện môi trường cũng như các hoạt động kết hợp
hài hòa giữa bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các thành phần môi trường cho
phát triển. Tuy có những bước tiến trong ban hành và thực hiện chính sách
nhưng trong thực tế vẫn nảy sinh không ít khó khăn, phức tạp. Chẳng hạn, các
chính sách chưa tương xứng, chưa đáp ứng với những đòi hỏi của thực tế. Một
14
số chính sách còn nảy sinh những lỗ hổng pháp lý - là điều kiện cho các loại
tội phạm có cơ hội thực hiện những điều xấu, gây ảnh hưởng đến kinh tế và
hủy hoại môi trường sinh thái.
Các chính sách xã hội: bao gồm các chính sách về xóa đói giảm nghèo,
giải quyết việc làm, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ... Dù đạt
được những tiến bộ đáng kể nhưng vai trò của Nhà nước trong việc ban hành,
chỉ đạo thực hiện các chính sách này, song vẫn còn những hạn chế nhất định,
đòi hỏi Nhà nước phải tích cực, chủ động hơn nữa để đề ra các chính sách hợp
lý hơn, tạo điều kiện cần và đủ để tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
được gắn kết ngay trong từng bước phát triển của đất nước.
Thứ hai: Sự bất cập trong việc việc xây dựng và triển khai các chiến
lược nhằm thực hiện chính sách gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái
Sự ra đời của các chiến lược tạo ra những điều kiện cần thiết, khuyến
khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư lao động, vốn, áp dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật vào khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Tuy nhiên, vẫn còn có một số hạn chế
nhất định trong công tác ban hành cũng như tổ chức thực hiện các chiến lược.
Chất lượng của các chiến lược mặc dù được nâng cao, song vẫn còn tồn tại
một số hạn chế, còn có sự chồng chéo lên nhau. Bên cạnh đó, việc tổ chức
thực hiện các chiến lược còn không được đồng đều giữa các địa phương… đòi
hỏi Nhà nước phải nhìn nhận và có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với
yêu cầu thực tế đặt ra.
3.1.2. Sự bất cập và thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật trong việc
kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái
Trong xu thế toàn cầu, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia vào
các Hội nghị quốc tế, ký kết các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Có
thể khẳng định, việc ký kết các Công ước này đã thể hiện sự nhận thức đúng
đắn, đặc biệt là trong việc thực hiện gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái. Song, vẫn còn một số hạn chế như: việc ký kết các Công
ước còn chậm trễ, việc triển khai thực hiện còn muộn hơn nhiều so với các
quốc gia khác trên thế giới…
Có thể nói, hệ thống các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đồng thời
cũng là những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa giữa tăng trưởng
15
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái đã đánh dấu những bước đi quan trọng
trong việc thực hiện lịch trình thế kỷ XXI của Việt Nam: Hệ thống tổ chức
chuyên môn về bảo vệ môi trường sinh thái trong tăng trưởng kinh tế từng
bước được thành lập; nền kinh tế có những bước đi khá bền vững; môi trường
sinh thái bước đầu được bảo vệ.
Song, thực tế còn tồn tại là mặc dù số lượng văn bản pháp luật bảo vệ môi
trường rất nhiều, nhưng lại vắng bóng hệ thống pháp luật chuyên ngành về kết
hợp giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái; vấn đề bảo
vệ môi trường, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên trong các hoạt động
kinh tế, sản xuất kinh doanh chưa phải là vấn đề cơ bản, trọng tâm trong hệ
thống pháp luật; một số văn bản pháp luật còn tồn tại những quy định bất cập,
không phù hợp với thực tế kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường
sinh thái; các quy định pháp luật về môi trường đã có chưa phù hợp với hệ
thống pháp luật quốc tế về phát triển bền vững mà Việt Nam ký kết.
3.2. MÂU THUẪN GIỮA YÊU CẦU NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC
THỰC HIỆN, KIỂM TRA, GIÁM SÁT VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI HIỆU QUẢ THỰC TẾ CÒN
BẤT CẬP, NHIỀU HẠN CHẾ
3.2.1. Sự yếu kém trong gắn kết giữa các ngành, các cấp của hệ thống
tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong gắn tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ môi trường sinh thái
Một là: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường sinh thái
còn chồng chéo, hoạt động không hiệu quả
Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái ở trong nước diễn ra mọi nơi,
mang tính thường xuyên, liên tục, đặt ra yêu cầu cần phải có một bộ máy với
số lượng cán bộ làm công tác quản lý tài nguyên môi trường đủ lớn. Song, ở
nước ta, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường rất
ít, lại tập trung chủ yếu ở cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện, cấp đơn vị
hành chính xã, phường hầu như không nhiều. Sự gắn kết của Bộ Tài nguyên
và Môi trường với các bộ khác như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính,
Bộ Y tế… trong công tác bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta còn có nhiều
hạn chế như: tình trạng chồng chéo về chức năng, thẩm quyền giữa các bộ;
việc giao nhiệm vụ về bảo vệ môi trường sinh thái, việc phân cấp quản lý
không rõ ràng tạo ra sự đùn đẩy, né tránh trách nhiệm hoặc đổ lỗi cho nhau
khi xảy ra các các sự cố về môi trường…
16
Hai là: Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường còn thiếu về số
lượng, kém về chất lượng chuyên môn nghiệp vụ
Cho đến nay tổng số cán bộ làm công tác quản lý môi trường ở Việt Nam
khoảng 10.000 người, với tỷ lệ khoảng 13 người/1 triệu dân. Sự thiếu hụt lực
lượng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý nhà nước về môi
trường sinh thái. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tình trạng ô
nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, tội phạm về môi trường ngày một hoạt
động nhiều hơn, ảnh hưởng trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế và chất lượng
sống của con người. Chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà
nước về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta
hiện nay còn có nhiều hạn chế như: chuyên môn nghiệp vụ thấp; phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ còn yếu kém…
3.2.2. Công tác đầu tư nguồn vốn, khoa học và công nghệ đảm bảo cho
gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái chưa đạt hiệu quả
Về công tác đầu tư nguồn vốn
Nhà nước xác định tài chính chi cho công tác bảo vệ môi trường sinh thái
là nguồn chi thường xuyên. Từ năm 2006 đến nay, ngân sách cho bảo vệ môi
trường đã được bố trí thành một nguồn riêng với qui mô không thấp hơn 1%
tổng chi ngân sách Nhà nước hàng năm. Tuy nhiên, mức đầu tư hiện nay được
các nhà quản lý đánh giá là quá thấp so với yêu cầu thực tế của nhiệm vụ bảo
vệ môi trường và còn mang tính dàn trải; tỷ lệ đầu tư trở lại cho bảo vệ môi
trường từ các nguồn thu liên quan đến môi trường còn thấp; việc bố trí các
nguồn vốn ODA, vốn tín dụng trong kế hoạch ngân sách hằng năm cho công
tác xã hội hóa về môi trường chưa rõ ràng; việc quản lý các nguồn vốn còn bị
buông lỏng, tạo cơ hội cho tình trạng tham nhũng, lãng phí nảy sinh.
Về khoa học và công nghệ
Nhà nước ta đã nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của khoa học và
công nghệ vào thực tiễn, nhờ đó có tác dụng tích cực trong nâng cao năng
suất, hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Việc chuyển giao, ứng
dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học đã góp phần đẩy mạnh quá trình
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, hình thành một số ngành kinh tế có trình độ
công nghệ cao thân thiện với môi trường; quá trình khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên ngày càng hiệu quả, tiết kiệm. Bên cạnh đó, việc triển
17
khai, ứng dụng khoa học, công nghệ vào thực tiễn tăng trưởng kinh tế và bảo
vệ môi trường sinh thái ở nước ta có hạn chế, như: khoa học, công nghệ phát
triển chưa tương xứng với sự nghiệp phát triển bền vững; chưa tham gia toàn
diện vào việc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường…
3.2.3. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái chưa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn
Nhìn chung, các công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát kết hợp tăng trưởng
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta từng bước được củng cố và
tăng cường, bước đầu đạt được hiệu quả tích cực, có sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các cơ quan quản lý nhà nước, giữa các bộ, ngành với nhau… Tuy nhiên,
công tác này ở nước ta thời gian qua vẫn còn có nhiều hạn chế như: Các cấp
chính quyền còn buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong thanh tra, kiểm
tra, giám sát bảo vệ môi trường sinh thái; thanh tra của các bộ, ngành vẫn chưa
thi hành nghiêm túc theo luật định, nhiều nơi còn có hiện tượng đùn đẩy trách
nhiệm cho nhau…
3.3. MÂU THUẪN CỦA VIỆC ĐÒI HỎI CẦN PHẢI CÓ SỰ PHỐI HỢP
CHẶT CHẼ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁC TỔ CHỨC, CÁC LỰC LƯỢNG XÃ
HỘI TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI TÌNH TRẠNG PHỐI HỢP CÒN LỎNG LẺO,
CHƯA CHẶT CHẼ
3.3.1. Những hạn chế trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm của các
doanh nghiệp về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường
sinh thái
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đã có đóng góp rất
nhiều cho công tác bảo vệ môi trường sinh thái. Song, cạnh đó, cũng còn
nhiều doanh nghiệp chưa làm tốt trách nhiệm môi trường trong sản xuất kinh
doanh. Vì lợi ích mà các doanh nghiệp tìm mọi cách né tránh vấn đề môi
trường, không trung thực trong kê khai, bỏ qua các tiêu chí về môi trường, gây
ô nhiễm môi trường trầm trọng. Những bất cập về chính sách, pháp luật, sự
yếu kém về năng lực lãnh đạo, quản lý của các cơ quan nhà nước… là những
nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng thờ ơ, thiếu trách nhiệm môi trường
của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ở nước ta hiện nay.
18
3.3.2. Những hạn chế trong việc nâng cao nhận thức về pháp luật,
chính sách của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân về kết hợp giữa
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Ở nước ta, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân đã có những
vai trò nhất định trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Mặc dù đã có nhiều
thành tựu, song, trên thực tế vai trò của các tổ chức đoàn thể tham gia bảo vệ
môi trường sinh thái ở nước ta còn chưa được rõ nét, chưa tạo ra được sự đồng
thuận giữa các quy định pháp luật, chính sách của nhà nước và các tổ chức
đoàn thể. Ở nhiều nơi, cộng đồng dân cư và các tổ chức chính trị - xã hội
không được tham gia vào đánh giá tác động môi trường trong các dự án được
triển khai tại địa phương….
Chương 4
MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. NHÓM GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH SÁCH, CHIẾN LƯỢC, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT
HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
4.1.1. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, chiến lược về gắn
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Về xây dựng và hoàn thiện chính sách về gắn tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái
Xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao - yêu cầu cơ bản cho
sự phát triển nhanh và bền vững: Hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển
nhân lực khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; ưu tiên nguồn nhân lực
cho các ngành công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ khai
thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên; rà soát đội ngũ lao động kỹ thuật trực
tiếp tiến hành khai thác tài nguyên, đánh giá lại tiêu chuẩn nghề nghiệp, xác
định nhu cầu về số lượng, chất lượng để có những biện pháp giáo dục, đạo tạo;
nghiên cứu xây dựng, thực hiện các cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng nguồn
nhân lực chất lượng cao cho gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường
sinh thái.
19
Phát triển khoa học và công nghệ là yếu tố góp phần bảo vệ môi trường
sinh thái trong tăng trưởng kinh tế: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính
sách, luật pháp để xây dựng, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ
thuật, nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức
khoa học để tạo động lực phát triển khoa học, công nghệ ngành tài nguyên,
môi trường; đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ, tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt
động, xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, đãi ngộ xứng đáng nhân tài làm
việc trong ngành tài nguyên, môi trường…
Về xây dựng, hoàn thiện các chiến lược về gắn tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái
Nhà nước cần khẩn trương ban hành chiến lược chuyên biệt về gắn tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Trong khi chưa có chiến lược
này, Nhà nước nên rà soát, chỉnh sửa các chiến lược về phát triển kinh tế, các
chiến lược về bảo vệ môi trường đã có theo hướng gắn kết chặt chẽ với nhau
và tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Các chiến lược này
nên tập trung vào công tác quy hoạch phát triển các khu, điểm công nghiệp,
các làng nghề, khu đô thị, đảm bảo tính khoa học; đưa ra những chính sách
phù hợp, hạn chế sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các chiến lược đã có; thực
hiện công khai, minh bạch các chiến lược…
4.1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về gắn tăng trưởng
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Nhà nước phải chủ động cho ra đời một ngành luật chuyên biệt về gắn tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái với những yêu cầu: Hệ thống
pháp luật đó phải đủ mạnh, các chế tài phải thật sự nghiêm khắc, đủ sức răn đe
các hành vi vi phạm pháp luật; đa dạng các hình thức xử lý vi phạm; tham khảo
luật môi trường của các nước phát triển trong khi sửa đổi ban hành luật; có
những quy định cụ thể về yêu cầu, nội dung, phương thức, chế độ kiểm tra, giám
sát, kế toán và kiểm toán thích hợp nhằm đảm bảo mục tiêu, yêu cầu và hiệu quả
của các hoạt động quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường…
4.2. NHÓM GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ, HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC KẾT HỢP
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
4.2.1. Hoàn thiện và tăng cường cơ chế tổ chức bộ máy nhà nước bảo
vệ môi trường sinh thái gắn với tăng trưởng kinh tế
20
Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ môi trường sinh thái từ trung ương đến địa phương theo hai hướng chuyên
môn, chuyên sâu và theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang.
Tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của các lực lượng chuyên trách
làm nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái, như: tăng cường công tác đào tạo,
nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý cho các lực lượng thực thi nhiệm vụ
bảo vệ môi trường sinh thái; tiến hành rà soát, đánh giá, xác định rõ trách
nhiệm của các bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường sinh thái; giáo dục và nâng cao đạo đức
nghề nghiệp cho cán bộ, công chức cà các lực lượng cán bộ làm công tác quản
lý tài nguyên và môi trường...
4.2.2. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết hợp
giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Nhà nước cần thiết lập hệ thống thanh tra, kiểm tra, giám sát chuyên ngành
về môi trường ở mọi cấp từ trung ương đến địa phương; có các chính sách để
các cán bộ được học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; sửa đổi và
bổ sung những quy định cần thiết về thanh tra công tác gắn tăng trưởng kinh tế
với bảo vệ môi trường sinh thái trong Luật Thanh tra và các ngành luật khác
có liên quan, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho các hoạt động thanh tra, kiểm tra,
giám sát; quy định rõ trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, giám sát và quyền hạn
xử lý về bảo vệ môi trường sinh thái cho các cơ quan thẩm quyền nhà nước;
tiếp tục củng cố lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm môi trường…
4.2.3. Xây dựng nguồn tài chính đủ mạnh để thực hiện việc gắn tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Nhà nước cần bổ sung những quy định của pháp luật về thu, chi tài chính
bảo vệ môi trường sinh thái trong tăng trưởng kinh tế theo hướng phù hợp với
thực tế; hình thành cơ chế để huy động nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ tài
nguyên, môi trường; bảo đảm tỷ lệ chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường và
chi đầu tư phát triển bảo vệ môi trường sinh thái công cộng tăng theo GDP; rà
soát các nguồn vốn ODA, vốn tín dụng cấp cho công tác xã hội hóa về gắn
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
4.2.4. Tăng cường học hỏi, giao lưu hợp tác quốc tế về bảo vệ môi
trường sinh thái gắn với tăng trưởng kinh tế
21
Nhà nước cần thiết lập và duy trì mối quan hệ hợp tác truyền thống, tích
cực hơn nữa trong các hoạt động nghiên cứu, ký kết và cam kết thực hiện đầy
đủ các công ước quốc tế, nghị định thư quốc tế về bảo vệ môi trường sinh thái;
mở rộng hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế khác để thu hút, khai
thác hiệu quả các nguồn hỗ trợ vào công tác bảo vệ môi trường sinh thái; có
những chính sách khuyến khích, hợp tác với các tổ chức, cá nhân trên thế giới
để nâng cao năng lực và hiệu quả công tác bảo vệ môi trường trong nước...
4.3. NHÓM GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
VIỆC TẠO RA SỰ ĐỒNG THUẬN CỦA TOÀN XÃ HỘI NHẰM THỰC HIỆN
TỐT VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
SINH THÁI
4.3.1. Tuyên truyền, nâng cao ý thức tự giác, ý thức trách nhiệm bảo
vệ môi trường sinh thái cho các tầng lớp dân cư
Để tuyên truyền, nâng cao ý thức tự giác, trách nhiệm bảo vệ môi trường
sinh thái cho các tầng lớp dân cư, Nhà nước cần phải đưa nội dung giáo dục về
môi trường sinh thái đến mọi đối tượng trong xã hội qua hệ thống giáo dục
quốc dân và qua các phương tiện truyền thông đại chúng; chú ý liên kết chặt
chẽ giữa giáo dục ý thức với tổ chức cam kết thực hiện; thiết lập cổng thông
tin điện tử, đường dây nóng đặt ở nhiều nơi để người dân có thể cung cấp, lĩnh
hội những thông tin cần thiết, góp phần xây dựng, củng cố quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái…
4.3.2. Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc gắn
kết giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái
Tăng cường tuyên truyền đối với các doanh nghiệp về nghĩa vụ và lợi ích
của việc thực hiện trách nhiệm doanh nghiệp; phân định rõ ràng trách nhiệm
của Nhà nước với trách nhiệm doanh nghiệp trong việc xử lý các vụ việc vi
phạm về pháp luật bảo vệ môi trường; nâng cao nhận thức về mối quan hệ
giữa con người - môi trường sinh thái cho các nhà quản lý doanh nghiệp; nâng
cao ý thức cho các doanh nghiệp về mối quan hệ giữa nhà sản xuất và người
tiêu dùng; xây dựng ý thức bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất, kinh
doanh cho các doanh nghiệp…
4.3.3. Kết hợp giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp
hội trong gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
22
Nhà nước cần có các cơ chế, chính sách để phát huy hơn nữa vai trò, trách
nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường như: ưu đãi đầu tư trong bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức các
buổi truyền thông, diễn đàn kêu gọi các tổ chức, hiệp hội đầu tư vào các công
trình, dự án, hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái; tạo dựng, gắn kết các tổ
chức chính trị - xã hội với các doanh nghiệp và mọi người dân để cùng chia sẻ
lợi ích từ môi trường sinh thái và cùng nhau bảo vệ môi trường sinh thái; tăng
cường năng lực và quyền tiếp cận thông tin cho các tổ chức và các hiệp hội để
họ nhận biết sâu sắc vai trò, vị trí, quyền lợi và trách nhiệm của mình trong
bảo vệ môi trường sinh thái…
KẾT LUẬN
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung, tăng trưởng kinh
tế nói riêng đã nảy sinh nhiều vấn đề về tài nguyên, môi trường và bảo vệ
môi trường sinh thái. Các vấn đề này chính là những trở ngại, thách thức
của quá trình phát triển. Nếu chúng ta vượt qua được các trở ngại, thách
thức đó, gắn chặt sự tăng trưởng của kinh tế với bảo vệ môi trường sinh
thái, đất nước sẽ đạt tới trạng thái phát triển bền vững.
Tuy nhiên, đó là cả một quá trình lâu dài và đầy gian khổ, đòi hỏi phải
có sự nỗ lực cố gắng của mọi người, mọi cấp, mọi ngành từ trung ương
đến địa phương, mà trước hết là ở vai trò quản lý của Nhà nước trong kết
hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Vai
trò ấy của Nhà nước biểu hiện ở chỗ thông qua khả năng điều khiển, chi
phối của Nhà nước đối với các hành vi của các cá nhân, tổ chức trong các
hoạt động kinh tế, môi trường sinh thái sẽ được bảo vệ và phục hồi.
Về mặt phương pháp luận, có thể đánh giá vai trò của Nhà nước trong
việc kết hợp giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
theo nhiều phương diện, lát cắt khác nhau. Song, trong luận án này, chúng
tôi đánh giá vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa giữa tăng trưởng
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái trên bốn nội dung, đó là: Vai trò
của Nhà nước trong việc đề ra hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược
về kết hợp giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái;
23
Vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện việc kết hợp giữa giữa
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái; Vai trò của Nhà nước
trong việc tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện việc hiện kết hợp
giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái; Vai trò của
nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận xã hội để thực hiện việc kết hợp
giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc kết hợp giữa giữa tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái theo bốn nội dung nêu trên
được đánh giá cụ thể và khẳng định kể từ khi tiến hành đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước Nhà nước đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc đề ra
hệ thống chính sách, chiến lược, pháp luật; tiến hành tổ chức thực hiện và
tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội vào kết hợp giữa giữa tăng trưởng
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Ở một phương diện nhất định, Nhà
nước đã khẳng định được vai trò to lớn của mình trong các nội dung trên.
Nhưng, cũng phải thấy rằng, bên cạnh những thành tựu đạt được, vai trò
quản lý của Nhà nước ta trong việc giải quyết mối quan hệ giữa giữa tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái cũng còn nhiều hạn chế,
như: nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước còn những lỗ hổng chưa được
khắc phục, nội dung một số chính sách, chiến lược còn chồng chéo lên
nhau, công tác tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện
việc kết hợp giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
còn nhiều sai sót, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Để khắc phục tình trạng này, cần phải kết hợp nhiều giải pháp. Trong
khuôn khổ có hạn, luận án mới chỉ đề cập đến ba giải pháp có tính nguyên
tắc, đó là: Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách, chiến lược về gắn giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái; Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực,
hiệu quả quản lý, điều hành của tổ chức bộ máy nhà nước trong kết hợp
giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái; Nhóm giải
pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận của
toàn xã hội nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữa tăng trưởng kinh tế
với bảo vệ môi trường sinh thái. Đây là các nhóm giải pháp có ý nghĩa
24
then chốt đối với sự phát triển bền vững ở đất nước ta không chỉ trong hiện
tại mà còn cả mai sau.
Vấn đề vai trò của Nhà nước trong kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái là một nội dung phong phú, đa dạng và phức
tạp. Những vấn đề mà luận án nghiên cứu mới chỉ là tiếp cận bước đầu,
trên thực tế còn nhiều nội dung mà tác giả còn phải nghiên cứu, luận giải
và làm rõ hơn như: vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng lực lượng
sản xuất đảm bảo cho kết hợp chặt chẽ giữa giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái; vai trò của Nhà nước trong việc củng cố quan
hệ sản xuất đảm bảo cho kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái; vai trò của Nhà nước trong kết hợp giữa tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái trong hội nhập kinh tế quốc tế.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
A. Các công trình đã đăng trên các tạp chí:
1. Nguyễn Trường Kháng - Nguyễn Thị Khương (đồng tác giả) (2010),
"Giáo dục ý thức phát triển bền vững về môi trường sinh thái cho
sinh viên", Tạp chí Giáo dục, (số 238), tr.57 - tr.63.
2. Nguyễn Thị Khương (2010), "Giáo dục ý thức phát triển bền vững về
môi trường sinh thái cho sinh viên trường Đại học Sư phạm - Đại
học Thái Nguyên", Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Thái
Nguyên, (số 6), tr. 8-11.
3. Nguyễn Thị Khương (2011), "Vai trò quản lý của Nhà nước trong việc phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay", Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Thái Nguyên, (số 4),
tr. 87-90.
4. Nguyễn Thị Khương (2011), "Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên với việc giáo dục đạo đức học môi trường cho sinh viên",
Tạp chí Giáo dục, (số 6), tr. 60-62.
5. Nguyễn Thị Khương (2012), "Tính tất yếu của việc kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện
nay", Tạp chí Giáo dục lý luận”, (số 188), tr.69-71.
6. Nguyễn Thị Khương (2012), “Gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái vì mục tiêu phát triển bền vững: những vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại
học Thái Nguyên, (số 12), tr.71-74.
7. Nguyễn Thị Khương (2013), "Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai
trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay", Tạp chí Giáo dục
lý luận, (số 207), tr.49-52
B. Các công trình tham gia đề tài khoa học, kỷ yếu hội thảo khoa học:
1. Nguyễn Thị Khương (2011), Chủ nhiệm: “Quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên ở các tỉnh miền núi Đông
Bắc Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Thái Nguyên
2. Nguyễn Thị Khương (2011), Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Đạo đức học
môi trường và vai trò của nhà trường sư phạm trong việc giáo dục
đạo đức học môi trường cho thế hệ trẻ”, Nxb Đại học sư phạm, tr.
411-415.
3. Nguyễn Thị Khương (2013), “Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăng ghen về
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong một số tác phẩm
của hai ông”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm
- Đại học Thái Nguyên, tr. 85-88.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_tieng_viet_2_4695.pdf