Tóm tắt Luận văn Pháp luật về an toàn thực phẩm - Từ thực tiễn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk

ATTP là mục tiêu lớn bảo đảm sức khỏe cho giống nòi, cho uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường, là mục tiêu lâu dài và cao cả vì sự phát triển bền vững của đất nước trên các phương diện kinh tế, xã hội và uy tín quốc tế. Do đó quản lý ATTP, kiểm soát chất lượng thực phẩm đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ATTP thì trước hết và trên hết phải hoàn thiện pháp luật về ATTP, hạn chế những tồn tại, yếu kém, những bất cập, hạn chế của pháp luật về ATTP và thực hiện pháp luật về ATTP. Mặt khác phải tăng cường, huy động đầy đủ, tối đa các nguồn lực, sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẽ là giải pháp cốt lõi để bảo đảm ATTP có hiệu quả và bền vững. Để duy trì phát huy hiệu quả và sự bền vững trong công tác bảo đảm ATTP, trong thời gian tới cần tiếp tục triển khai các giải pháp đồng bộ, quyết liệt, triệt để hơn nữa các quy định của pháp luật về ATTP với sự tham gia đầy đủ của nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm - nhà khoa học - nhà quản lý và người tiêu dùng. Trong đó, điểm mấu chốt nhất đó là sự đồng thuận, quyết liệt, triệt để của các cơ quan quản lý, các ngành, các cấp trong việc triển khai toàn diện các biện pháp phòng chống ngộ độc thực phẩm theo chức năng, nhiệm vụ. Thành phố Buôn Ma Thuột là đô thị miền núi có dân số lớn nhất Việt Nam, mặt bằng dân trí thấp, địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc anh em, với phong tục, tập quán, văn hóa đa dạng, đời sống kinh tế còn khó khăn, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ do đó công tác truyền thông, giáo dục pháp luật về ATTP chưa sâu rộng, chưa làm thay đổi được các hành vi theo pháp luật về ATTP; đội ngũ cán bộ, công chức của Thành phố còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, phần lớn chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về quản lý ATTP do đó việc hiểu và áp dụng pháp luật về ATTP còn hạn chế; tình hình an ninh chính trị trên địa bàn còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. do đó ít nhiều ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về ATTP. Từ việc phân tích những vấn đề lý luận của pháp luật về ATTP, những nội dung chủ yếu của pháp luật về ATTP và thực hiện pháp luật về ATTP; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk qua đó đánh giá những hạn chế, yếu kém của pháp luật, thực hiện pháp luật về ATTP, phân tích, làm rõ nguyên nhân của hạn chế, yếu kém để từ đó xây dựng các quan điểm bảo đảm ATTP trong giai đoạn hiện nay của nước ta, đồng thời đề xuất nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về ATTP cũng như những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật về ATTP từ thực tiễn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới; giải pháp nâng cao chất lượng công tác đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột. Hy vọng luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị trong lĩnh vực an toàn thực phẩm nói chung, bảo đảm ATTP nói riêng tại tỉnh Đắk Lắk.

pdf26 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 828 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Pháp luật về an toàn thực phẩm - Từ thực tiễn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n sản xuất, phát triển kinh tế; thứ hai là bảo đảm cho sức khỏe, thể chất và tầm vóc người Việt Nam, hạn chế các bệnh truyền qua thực phẩm; thứ ba, ATTP bảo đảm cho một môi trường sống trong lành, thu hút đầu tư, khách du lịch và cũng là vấn đề có ảnh hưởng lớn đến tiến trình hội nhập của Việt Nam. Do vậy cần thiết phải có các 9 quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, tạo lập trật tự, ổn định xã hội. Mặt khác, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ ngày 01/01/2007, nên phải từng bước tuân thủ các hiệp định của Tổ chức này, trong đó có các dịch vụ về y tế. Bên cạnh đó, trong điều kiện hội nhập, cần thiết phải có cơ chế pháp lý về việc thừa nhận tiêu chuẩn lẫn nhau giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực, cũng như thế giới, đặc biệt là việc áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến trong quản lý an toàn thực phẩm. Như vậy, các yêu cầu trên cho thấy, Việt Nam cần phải nội luật hóa các quy định của WTO, WHO, FAO, CODEXvề ATTP để có cơ sở pháp lý thực hiện tại Việt Nam. 1.3.2. Vai trò của pháp luật về an toàn thực phẩm trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay: Bảo đảm an toàn thực phẩm một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, vừa cấp bách, vừa lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, trước hết là của người đứng đầu; là chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng năm ở các cấp. Vì thế pháp luật về ATTP đóng vai trò, vị trí quan trọng trong công tác bảo đảm ATTP, thể hiện qua những điểm sau: Thứ nhất, Pháp luật về an toàn thực phẩm có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, đồng thời công nhận những thực phẩm đạt chuẩn bảo đảm an toàn Thứ hai, Pháp luật về an toàn thực phẩm có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn các hành vi vi phạm an toàn thực phẩm Thứ ba, Pháp luật về an toàn thực phẩm có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của xã hội về vấn đề an toàn thực phẩm. 10 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk Thành phố Buôn Ma Thuột là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Đắk Lắk, là thành phố trung tâm cấp vùng tây nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng của vùng và cả nước. Nằm trên trục đường Quốc lộ 14, nối liền Đà Nẵng - Thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo điều kiện cho Buôn Ma Thuột tiếp cận nhanh chóng với các trung tâm kinh tế - chính trị của cả nước và trở thành đầu mối giao lưu quan trọng của tỉnh và cả vùng Tây Nguyên, thúc đẩy các hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn Thành phố phát triển. Tuy nhiên trong cơ cấu kinh tế của Thành phố, nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế; lực lượng lao động tuy dồi dào nhưng phương tiện, kỹ thuật lao động còn đơn giản, lạc hậu vì vậy việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm còn hạn chế; phần lớn cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn Thành phố nhỏ lẻ, kinh doanh theo quy mô hộ gia đình do đó việc đầu tư cơ sở vật chất nhằm đáp ứng đầy đủ các quy định về điều kiện sản xuất, kinh doanh theo quy định là khó khả thi; một số cơ sở sản xuất, kinh doanh do nhận thức còn hạn chế, thiếu hiểu biết, chạy theo lợi nhuận nên chưa thực hiện tốt VSATTP. Thành phố Buôn Ma Thuột là đô thị miền núi có dân số lớn nhất Việt Nam, mặt bằng dân trí thấp, là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc anh em, với phong tục, tập quán, văn hóa đa dạng, đời sống kinh tế còn khó khăn, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Do đó hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn thực phẩm còn hạn chế, chưa tạo được sự chuyển biến trong nhận thức làm thay đổi hành vi chấp hành các quy định về VSATTP. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ, công chức của Thành phố còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng; đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về ATTP phần lớn không có trình độ chuyên môn, chưa qua đào tạo về nghiệp vụ ATTP lại kiêm nhiệm nhiều việc nên việc hiểu và áp dụng pháp luật về ATTP còn hạn chế; tình hình an ninh chính trị trên địa bàn còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.... những nguyên nhân trên ít nhiều ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. 2.2. Phân tích thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột 2.2.1. Thực trạng pháp luật về an toàn thực phẩm Công tác đảm bảo ATTP trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói chung và Thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng trong thời gian qua đã nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận, các tổ chức đoàn thể 11 và quần chúng nhân dân. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk đã ban hành Kế hoạch số 20-KH/TU ngày 01/12/2011 triển khai thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TW của Ban Bí thư về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới ”. UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Kế hoạch số 4118/KH-UBND ngày 25/7/2012 triển khai thực hiện Kế hoạch số 20 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; ban hành Chiến lược quốc gia an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030 trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2012-2015; Chỉ thị số 12/CT-UBND năm 2014 của Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk về việc tăng cường công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, ATTP nông lâm thủy sản trên địa bàn Tỉnh và các văn bản phân định trách nhiệm, cơ chế phối hợp cụ thể cho từng lĩnh vực. * Trên cơ sở phân định thẩm quyền của UBND Tỉnh, UBND Thành phố Buôn Ma Thuột đã cụ thể hóa công tác quản lý nhà nước về ATTP cho các phòng chức năng của UBND Thành phố cụ thể như sau: + Đối với lĩnh vực ATTP do ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý: Giao Phòng Kinh tế Thành phố có trách nhiệm phối hợp với Sở NN&PTNT Tỉnh và các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ATTP thuộc Sở NN&PTNT Tỉnh, quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh, vật tư nông nghiệp và thực phẩm nông lâm thủy sản đóng trên địa bàn Thành phố, trong đó chú trọng các cơ sở sản xuất, chế biến, rang xay cà phê, nhằm giữ vững uy tín, thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột đối với thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Phòng Kinh tế Thành phố đang triển khai thực hiện Công văn số 1960/UBND- VP ngày 18/9/2015 của UBND Thành phố về việc rà soát, thống kê các loại hình cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ theo Thông tư số 51/TT-BNNPTNT ngày 27/12/2014 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; tổ chức tập huấn, hướng dẫn điều kiện đảm bảo ATTP đối với từng loại hình cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ, thực hiện ký cam kết với từng cơ sở. Dự kiến triển khai ký cam kết sản xuất thực phẩm an toàn và tổ chức kiểm tra việc thực hiện nội dung đã cam kết của các cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ trong năm 2017. + Đối với lĩnh vực ATTP do ngành y tế quản lý: Ngày 08/4/2015 UBND Thành phố Buôn Ma Thuột ban hành Công văn số 597/UBND-YT giao Phòng Y tế Thành phố quản lý các cơ sở kinh doanh ăn uống, bếp ăn tập thể có quy mô suất ăn nhỏ, vừa từ 50-200 suất ăn/lần phục vụ; ký cam kết đảm bảo an toàn thực phẩm đối với các bếp ăn tập thể tại các trường học có suất ăn phục vụ dưới 200 suất/lần phục vụ và xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm cho chủ cơ sở, người trực tiếp chế biến và kinh doanh thực phẩm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống. + Đối với lĩnh vực ATTP do ngành công thương quản lý: do các văn bản phân cấp, hướng dẫn triển khai thực hiện của Trung ương chậm ban hành nên một số lĩnh vực đến cuối năm 2016, đầu năm 2017 UBND Tỉnh mới phân cấp về cho UBND cấp huyện. * Công tác phối hợp thực hiện: 12 Để phối hợp, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các hoạt động bảo đảm ATTP trên địa bàn, UBND Thành phố đã ban hành quy chế phối hợp liên ngành giữa các phòng, ban Thành phố với Ủy ban nhân dân các phường, xã và các đơn vị liên quan trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố. Thực hiện Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 15/4/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc “tăng cường công tác bảo đảm chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm”, Thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo Vệ sinh an toàn thực phẩm (còn gọi là Ban chỉ đạo 08) phân công Phó chủ tịch UBND Thành phố phụ trách văn xã làm Trưởng ban, Trưởng phòng Y tế làm Phó trưởng ban Thường trực, thành viên ban chỉ đạo là đại diện lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể thành phố. Ban chỉ đạo liên ngành về VSATTP có trách nhiệm xây dựng kế hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về ATTP, sơ kết, tổng kết các kế hoạch dài hạn cũng như ngắn hạn về ATTP tại địa phương. Phòng Y tế hiện đã tham mưu cho UBND Thành phố quyết định kiện toàn lại Ban chỉ đạo liên ngành ATTP theo tinh thần Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ theo đó Chủ tịch UBND Thành phố trực tiếp làm nhiệm vụ Trưởng ban chỉ đạo liên ngành an toàn thực phẩm. Công tác phối hợp liên ngành được triển khai có hiệu quả trong hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP. Trong những năm qua, các đoàn kiểm tra liên ngành của Thành phố cơ bản đã phát huy được hiệu quả, hiệu lực trong việc phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm về ATTP trên địa bàn, qua đó kịp thời cảnh báo đến cộng đồng những nguy cơ mất ATTP để nhân dân biết và phòng tránh. Ngoài việc phối hợp hoạt động giữa các ngành, cơ quan, đơn vị cũng như các hội, đoàn thể cũng được triển khai thường xuyên, hiệu quả, nhịp nhàng thông qua các hoạt động chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền. Đặc biệt được các nội dung tuyên truyền về ATTP lồng ghép vào các buổi tập huấn, nói chuyện chuyên đề gắn với phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, xây dựng nông thôn mới. 2.2.2. Thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột 2.2.2.1. Công tác tổ chức bộ máy, con người, cơ sở vật chất, tài chính để triển khai thực hiện - Đối với Phòng Y tế Thành phố Buôn Ma Thuột thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ATTP: được phân bổ 07 biên chế, gồm 01 trưởng phòng, 01 phó trưởng phòng, phân công Phó trưởng phòng và 01 cán bộ chuyên trách giúp Trưởng phòng Y tế thực hiện công tác quản lý nhà nước về ATTP. Về trình độ chuyên môn: 02 Bác sỹ (01 bác sỹ chuyên khoa I), 02 dược sỹ (01 dược sỹ đại học), 01 kế toán, 02 kỹ sư Công nghệ thực phẩm (hợp đồng)). Ngoài ra, còn có Trung tâm Y tế Thành phố được thành lập từ năm 2012 thực hiện riêng chức năng y tế dự phòng với tổng số cán bộ, nhân viên 55 người, trong đó có khoa an toàn thực phẩm - dinh dưỡng, có từ 2-3 viên chức, thực hiện nhiệm vụ chuyên trách về ATTP 13 Tại tuyến xã: chỉ riêng ngành y tế mới có hệ thống quản lý nhà nước về ATTP tại tuyến xã, trong đó 21 UBND phường, xã (quản lý nhà nước) và 21 trạm y tế (thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ). Số lượng nhân lực làm công tác ATTP tại Trạm y tế phường, xã là 01 người/phường, xã nhưng chủ yếu là kiêm nhiệm. 21/21 phường, xã đều có Ban chỉ đạo Vệ sinh an toàn thực phẩm do Phó chủ tịch UBND phụ trách văn xã làm Trưởng ban. - Đối với phòng Kinh tế Thành phố Buôn Ma Thuột: với tổng số 17 cán bộ, nhân viên, trong đó biên chế 11 và hợp đồng 06, gồm 01 trưởng phòng và 03 phó trưởng phòng, phân công 01 phó trưởng phòng và 01 chuyên viên phụ trách công tác bảo đảm ATTP; phòng kinh tế chủ yếu tham gia phối hợp cùng các Đoàn kiểm tra liên ngành và chuyên ngành của Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk và các chi cục thuộc Sở NN&PTNT kiểm tra quản lý ATTP trong sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, bảo quản thực phẩm tươi sống, các cơ sở sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp và sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản trên địa bàn Thành phố. + Công tác chuẩn bị cơ sở vật chất, tài chính: Phòng Y tế, Phòng Kinh tế, Trung tâm Y tế Thành phố đều đã bố trí trụ sở làm việc ổn định; được trang bị các máy móc, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. Thành phố hiện chưa có cơ sở kiểm nghiệm an toàn thực phẩm. Khoa xét nghiệm của Trung tâm Y tế Thành phố chủ yếu phục vụ cho xét nghiệm y tế; khi tiến hành thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn, các đoàn chủ yếu thực hiện các test kiểm nghiệm nhanh thực phẩm và lấy mẫu gửi đi kiểm nghiệm. Hiện tỉnh Đắk Lắk có 02 cơ sở kiểm nghiệm là Trung tâm Y tế dự phòng Tỉnh (thuộc Sở Y tế) và Trung tâm kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm (thuộc Viện vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên); với nhu cầu đánh giá, chứng nhận sự phù hợp quy chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về ATTP như hiện nay, thì cả 02 cơ sở kiểm nghiệm này không thể đáp ứng được nhu cầu thực tế của địa phương. Hằng năm, UBND Thành phố bố trí kinh phí cho hoạt động bảo đảm ATTP khoảng 70 triệu đồng/năm, chủ yếu cho hoạt động thanh tra, kiểm tra và các mẫu test nhanh đối với thực phẩm. Tuy nhiên, thực tế nguồn kinh phí dành cho hoạt động trong lĩnh vực này chưa đáp ứng nhu cầu đặt ra. 2.2.2.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTP Sau khi Luật ATTP được ban hành, các phòng, ban chuyên môn đã tham mưu cho UBND Thành phố đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các nội dung cơ bản của Luật ATTP, đồng thời tổ chức tổ chức nhiều chiến dịch truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng về an toàn thực phẩm. Giai đoạn 2011-2016, Thành phố đã tổ chức nhiều chiến dịch truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, cụ thể: hằng năm tổ chức lễ phát động Tháng hành động vì chất lượng Vệ sinh an toàn thực phẩm với hơn 6.000 lượt người tham dự; tổ chức phát thanh trên Đài phát thanh và Truyền hình Thành phố với 6.575 lần tin bài, 34 phóng sự, 55 bài viết về công tác đảm bảo ATVSTP. Công tác tuyên truyền bằng hình ảnh 14 trực quan được triển khai sâu rộng, tổ chức treo 366 băng rôn trong Tháng hành động ATVSTP, chuyển phát tài liệu hỏi đáp về Luật an toàn phẩm, Chiến lược quốc gia về Vệ sinh an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030, hướng dẫn đảm bảo an toàn thực phẩm đối với các cơ sở chế biến thức ăn sẵn; cấp, phát 5.400 tờ áp phích, 26.160 tờ rơi, 250 băng đĩa tuyên truyền về ATTP; thực hiện 468 buổi nói chuyện, 74 hội thảo, hội nghị với hơn 50.000 người tham gia. Qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ATTP đã từng bước nâng cao nhận thức của người dân về ATTP, về tầm quan trọng của công tác bảo đảm ATTP, giúp cho người tiêu dùng hiểu biết về quyền lợi của mình và tác hại của việc sử dụng sản phẩm thực phẩm không an toàn. 2.2.2.3. Kết quả thực hiện pháp luật về ATTP trên địa bàn Thành phố + Công tác Quản lý an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, bảo quản thực phẩm tươi sống: - Trong sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, bảo quản rau, củ, quả tươi và sơ chế: ngoài một số cơ sở sản xuất rau, củ, quả theo quy trình ViệtGap đã được kiểm tra chất lượng nguồn nước, điều kiện đất canh tác, công tác sơ chế, chế biến, vận chuyển đến nơi tiêu thụ tương đối đảm bảo quy trình kỹ thuật; công tác quản lý ATTP tại các cơ sở này tương đối thuận lợi, được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, sơ chế rau an toàn, được kiểm tra, giám sát thường xuyên. Những cơ sở khác, thật sự chưa có điều kiện để kiểm tra chất lượng đất, nước và sản phẩm thường xuyên do nguồn lực còn thiếu. Tuy nhiên hàng năm Phòng Kinh tế Thành phố phối hợp với các cơ quan chức năng của Sở NN&PTNT được giao nhiệm vụ đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra quy trình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại các vùng sản xuất sơ chế rau trên địa bàn Thành phố. Hầu hết các hộ dân tại các vùng sản xuất rau đều được tấp huấn kỹ thuật phòng trừ dịch hại tổng hợp, sản xuất rau theo quy trình ViệtGap nên việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học trên rau rất hạn chế, chủ yếu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. - Trong chăn nuôi, giết mổ, vận chuyển, bày bán, kiểm dịch động vật, kiểm tra vệ sinh thú y đối với động vật và sản phẩm động vật: Qua các cuộc thanh, kiểm tra việc sử dụng thức ăn chăn nuôi, giết mổ, vận chuyển, cơ sở bày bán sản phẩm gia súc, gia cầm: kiểm tra nguồn nước, hóa chất, thuốc thú y, kiểm soát dịch bệnh, vệ sinh thú y, an toàn sinh học bảo đảm vệ sinh môi trường khu vực chăn nuôi, giết mổ, kinh doanh sản phẩm gia súc, gia cầm chưa phát hiện sự cố lớn xảy ra, nhìn chung tương đối đảm bảo các quy định của pháp luật. Hầu hết các trang trại, gia trại chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn trong quá trình kiểm tra không phát hiện sử dụng chất tăng trọng. Tuy nhiên việc đầu tư cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm đảm bảo ATTP còn bất cập do thiếu nguồn lực đầu tư. Việc vận chuyển gia súc, gia cầm và sản phẩm gia súc, gia cầm bằng các phương tiện phổ thông, sơ chế còn tiềm ẩn nguy cơ mất VSATTP. Việc kiểm soát các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm nhỏ lẻ còn rất nhiều khó khăn. 15 - Trong nuôi trồng, đánh bắt, khai thác, chế biến thủy sản và các sản phẩm thủy sản: Công tác ATTP thủy sản đã triển khai thực hiện nhiều hoạt động chuyên môn nhằm tăng cường công tác quản lý VSATTP trong lĩnh vực thủy sản như tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh vật tư thủy sản, nuôi trồng, khai thác thủy sản. Đồng thời đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật trong lĩnh vực thủy sản. Các hoạt động trên được triển khai thực hiện hàng năm trên địa bàn Thành phố, nhờ vậy trong những năm qua không có trường hợp gây mất VSATTP trong lĩnh vực thủy sản. + Quản lý ATTP trong xuất khẩu, nhập khẩu thực phẩm: trên địa bàn Thành phố không có doanh nghiệp nào hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trực tiếp hàng hóa thực phẩm qua đường chính ngạch hay tiểu ngạch. + Quản lý ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm: Trên địa bàn thành phố hiện có 2.860 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, trong đó Thành phố quản lý 1.183 cơ sở (dịch vụ ăn uống 663 cơ sở, kinh doanh 520 cơ sở); phường, xã quản lý 1.677 cơ sở (dịch vụ ăn uống 1.164 sơ sở, kinh doanh 513 cơ sở). Đến nay Phòng Y tế đã tổ chức thẩm định các điều kiện đảm bảo ATTP và cấp 427/663 giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP và ký 40/68 bản cam kết chấp hành các điều kiện về ATTP tại các bếp ăn tập thể; đã tổ chức thi và cấp 1.914 giấy xác nhận kiến thức về ATTP. Tổ chức 07 lớp tập huấn và xác nhận kiến thức ATTP cho hơn 500 người, trong đó tổ chức 01 lớp tập huấn và xác nhận kiến thức ATTP riêng cho những người trực tiếp kinh doanh thức ăn đường phố vào ban đêmqua đó đã làm thay đổi bộ mặt ATVSTP tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống.. Việc quản lý các sản phẩm từ rau, thịt, thủy sản, lương thực, sản xuất, kinh doanh bia, rượu, nước giải khát, bánh, kẹo, kinh doanh thực phẩm tại các chợ do ngành NN&PTNT, ngành công thương quản lý. Tuy nhiên do chậm phân cấp cho tuyến huyện nên trong thời gian dài lĩnh vực này bỏ ngõ, chỉ được các đoàn liên ngành của Thành phố tổ chức kiểm tra vào các đợt cao điểm như dịp tết Nguyên đán, Tháng hành động vì ATTP và dịp Tết Trung thu. Việc quản lý các cơ sở thức ăn đường phố chưa được chú trọng, phần lớn các vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn đều phát sinh từ đây. Nhiệm vụ này được giao cho chính quyền các phường, xã, tuy nhiên do quản lý số lượng lớn cơ sở thức ăn đường phố, trong khi cán bộ phụ trách chỉ có 01 người lại không có chuyên môn, nghiệp vụ, không có thiết bị kiểm nghiệm, nên việc quản lý và xử lý các vấn đề đặt ra rất hạn chế, gần như là bỏ ngỏ. + Việc kiểm soát các nguy cơ gây mất ATTP Thông qua hoạt động kiểm nghiệm mẫu giám sát mối nguy gây ô nhiễm thực phẩm hàng ngày và thanh tra, kiểm tra, Trung tâm Y tế Thành phố đều có báo cáo đánh giá nguy cơ, trực tiếp xử lý và kiến nghị xử lý đối với các sản phẩm thực phẩm và cơ sở thực phẩm gây mất an toàn. Tuy nhiên hoạt động này chưa triển khai rộng và thường xuyên do kinh phí hạn hẹp. Ngoài ra, giám sát nguy cơ dựa phần lớn vào 16 test kiểm nghiệm nhanh thực phẩm thường không có giá trị trong việc xử lý vi phạm hành chính. + Tình hình ngộ độc thực phẩm, các bệnh truyền qua thực phẩm, việc khắc phục các sự cố về ATTP Giai đoạn 2011-2016, địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm với 22 người mắc, không có người tử vong. 100% vụ ngộ độc thực phẩm đều được tổ chức điều tra, xử lý theo quy định của Bộ Y tế. 2.2.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm Giai đoạn 2011 - 2016, Thành phố đã tiến hành thanh tra, kiểm tra tại 7.844 lượt cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm, thực hiện gần 1.000 lượt test nhanh đối với thực phẩm và lấy mẫu xét nghiệm. Qua thanh, kiểm tra, số cơ sở đạt 5.078, số cơ sở vi phạm 2.766, trong đó nhắc nhở 2.369, cảnh cáo 228 cơ sở và xử phạt hành chính hơn 300 cơ sở. Riêng các đoàn kiểm tra liên ngành của Thành phố giai đoạn 2011-2016 kiểm tra 1.818 cơ sở, số cơ sở vi phạm 1.086, trong đó nhắc nhở 577 cơ sở, cảnh cáo 223, phạt tiền 286 cơ sở cơ sở với tổng số tiền phạt 372.710.000 đồng; buộc tiêu hủy hơn 1.500 kg hàng hóa, bánh kẹo không rõ nguồn gốc, 230 kg giò chả có chứa hàn thetình hình kiểm tra được thể hiện qua biểu đồ sau: Biểu đồ 1.2. Tình hình kiểm tra ATTP trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2011-2016 Qua kiểm tra các cơ sở thực phẩm, các đoàn kiểm tra liên ngành phần lớn là nhắc nhở, hướng dẫn công tác bảo đảm VSATTP, các trường hợp vi phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng thì tiến hành phạt cảnh cáo, phạt tiền, có trường hợp đình chỉ hoạt động. Kết quả kiểm tra được thể hiện qua biểu đồ sau: 192 267 271 259 520 309 115 163 188 210 196 214 2011 2012 2013 2014 2015 2016 kiểm tra vi phạm 17 Biểu đồ 2.2. Tình hình xử lý vi phạm ATTP trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk giai đoạn 2011-2016 Tuy nhiên hoạt động kiểm tra chuyên đề về ATTP đối với dịch vụ ăn uống, bếp ăn tập thể và thức ăn đường phố triển khai hạn chế do thiếu kinh phí tổ chức Đoàn kiểm tra. Ngoài ra công tác lấy mẫu gửi labo kiểm nghiệm khi nghi ngờ sản phẩm thực phẩm không an toàn còn rất hạn chế do không có nguồn kinh phí chi trả mẫu xét nghiệm. * Về xử lý hình sự: trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng như Thành phố Buôn Ma Thuột chưa triển khai xử lý hình sự về ATTP giai đoạn 2011-2016. 2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột 2.3.1. Đối với các quy định của pháp luật về ATTP + Ưu điểm: Các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm ngày càng tiến bộ, bao quát và đầy đủ hơn, đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Tỉnh Đắk Lắk cũng như Thành phố Buôn Ma Thuột đã kịp thời ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật triển khai thực hiện pháp luật về ATTP; kịp thời tổ chức quán triệt, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về ATTP đến đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý ATTP, các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm, nâng cao nhận thức, kiến thức về VSATTP cho người dân. + Hạn chế: Việc ban hành văn bản chỉ đạo điều hành còn chậm vì tâm lý chờ văn bản triển khai thực hiện của Bộ, ngành Trung ương, của Tỉnh Đắk Lắk. Do đó, một số lĩnh vực quản lý bị bỏ trống trong một thời gian dài, gây nguy cơ mất an toàn cho người tiêu dùng. 2.3.2. Đối với thực hiện pháp luật về ATTP: + Ưu điểm: - Phòng Y tế và phòng Kinh tế Thành phố đã thực hiện tốt chức năng tham mưu cho UBND Thành phố ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, các chủ trương, kế hoạch, giải pháp, biện pháp cụ thể để thực hiện có hiệu quả pháp luật về ATTP cũng như thực hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo ATTP, góp phần quan trọng vào sự nghiệp 53% 21% 26% Nhắc nhở Cảnh cáo Phạt tiền 18 bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. - Ban chỉ đạo liên ngành về VSATTP đã được thành lập và kiện toàn thường xuyên ở cả 02 cấp (thành phố/phường, xã), kịp thời chỉ đạo triển khai thực hiện tốt công tác ATTP trên địa bàn Thành phố, kết quả các chỉ tiêu đề ra hàng năm và trong giai đoạn đều đạt theo kế hoạch. - Công tác truyền thông về ATTP được triển khai thường xuyên, huy động nhiều nguồn lực tham gia, kịp thời phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về ATTP và hướng dẫn điều kiện bảo đảm ATTP trong quá trình sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm qua đó nhận thức của nhà quản lý, người sản xuất kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng đã có sự chuyển biến tích cực, tình trạng VSATTP đã được cải thiện đáng kể, số vụ ngộ độc thực phẩm đông người đã được kiểm soát và hạn chế ở mức thấp nhất (nhiều năm qua trên địa bàn thành phố không xảy ra vụ việc ngộ độc thức ăn nào lớn, chỉ xảy ra 02 vụ với 22 người mắc, không có người tử vong), chưa có vụ việc nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự về ATTP, đem lại niềm tin cho người tiêu dùng. - Cấp phép các thủ tục hành chính về ATTP đã được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, nhờ đó người dân dễ dàng tiếp cận, thực hiện các thủ tục hành chính trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm. - Hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP diễn ra thường xuyên thông qua các đợt cao điểm về ATTP hàng năm. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước về ATTP còn thực hiện hoạt động thanh tra đột xuất về ATTP nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các hành vi vi phạm về chất lượng, ATTP, những cơ sở vi phạm ATTP đều công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân được biết. Việc bảo đảm ATTP phục vụ các sự kiện văn hóa, chính trị tại địa phương và khách du lịch triển khai có hiệu quả, đặc biệt là Lễ hội festival cà phê Buôn Ma Thuột được tổ chức định kỳ 02 năm 01 lần, góp phần quảng bá thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột và hình ảnh du lịch của Buôn Ma Thuột đến du khách trong và ngoài nước. * Nguyên nhân ưu điểm: Công tác đảm bảo ATTP đã nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời của Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố, sự phối hợp chặt chẽ của các phòng, ban chuyên môn, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức đoàn thể của Thành phố và cấp ủy, chính quyền các phường, xã, đặc biệt là vai trò tham mưu của phòng y tế, phòng kinh tế Thành phố. Vấn đề ATTP là vấn đề nóng, nhạy cảm do đó thu hút được sự quan tâm của các cơ quan truyền thông từ trung ương đến địa phương tham gia cũng như sự hưởng ứng, ủng hộ của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về ATTP. + Hạn chế - Một số cấp uỷ, chính quyền phường, xã, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác đảm bảo ATTP, chưa xem công tác đảm 19 bảo ATTP là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của địa phương, đơn vị do đó chưa tạo được sự đồng thuận, huy động được sức mạnh của hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ bảo đảm ATTP. - Công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm của UBND các cấp tuy đã có chuyển biến song việc triển khai còn thụ động, mới tập trung giải quyết được một số vấn đề bức xúc, chưa chủ động quản lý được nguy cơ ô nhiễm theo chuỗi cung cấp thực phẩm theo một chiến lược dài hạn. Phương thức quản lý thực phẩm còn nhiều bất cập. Công tác ATTP trên địa bàn Thành phố hầu hết được giao cho ngành y tế đảm trách trong điều kiện nguồn kinh phí từ Trung ương cấp xuống bị cắt giảm theo từng năm; thiếu cán bộ chuyên trách về lĩnh vực ATTP, một cán bộ phụ trách nhiều lĩnh vực, không có chuyên môn, nghiệp vụ về ATTP. Tỷ lệ cơ sở chế biến, giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn được kiểm soát còn ở mức rất thấp. Chất lượng ATTP của một số sản phẩm thực phẩm chế biến thủ công, quy mô nhỏ tuy có được cải thiện nhưng vẫn là một khâu yếu. Việc quản lý ATTP ở cấp xã, phường lại gặp nhiều khó khăn, không có cán bộ chuyên trách làm công tác ATTP, trong khi đó các hoạt động về VSATTP lại diễn ra chủ yếu ở tuyến cơ sở. Bên cạnh đó, hầu hết cán bộ xã, phường không có trình độ chuyên môn, thiếu dụng cụ phân tích, kiểm nghiệm. - Tỷ lệ người sản xuất, kinh doanh dịch vụ, người tiêu dùng nhận thức đúng về ATTP tuy có tiến bộ nhưng ở mức trung bình; trách nhiệm của người sản xuất quy mô nhỏ lẻ đối với sức khỏe cộng đồng chưa cao; tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP và tỷ lệ hàng hóa được cấp chứng nhận tiêu chuẩn sản phẩm ở mức rất thấp; - Công tác thanh tra, kiểm tra tuy được tổ chức đều khắp trên địa bàn thành phố nhưng tần xuất kiểm tra tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm còn thấp. Mặt khác việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về ATTP chỉ có thể thực hiện theo từng thời điểm nhất định nên dẫn đến tình trạng nhiều chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh tìm mọi cách đối phó với lực lượng chức năng. Chế tài xử phạt còn nhiều bất cập, chưa cụ thể; việc xử lý vi phạm còn nương nhẹ, chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa. Việc tổ chức thanh tra liên ngành về lĩnh vực ATTP giữa tuyến tỉnh và tuyến thành phố chưa đồng bộ, còn chồng chéo nên xảy ra trường hợp có đơn vị không được kiểm tra, có đơn vị trong một thời gian ngắn bị nhiều đoàn liên ngành của tỉnh, của thành phố kiểm tra, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Lực lượng thanh tra, kiểm tra ATVSTP còn mỏng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế nên việc hiểu và áp dụng pháp luật về ATTP hạn chế; cơ sở vật chất, trang thiết bị tác nghiệp còn thiếu nên chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý ATTP. - Chính quyền địa phương chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý theo chuỗi cung cấp thực phẩm “từ trang trại đến bàn ăn”; việc quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn chưa gắn với thị trường tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, xuất xứ địa lý của sản phẩm nên thực phẩm an toàn chưa tạo được niềm tin cho người tiêu 20 dùng, giá thành cao khó cạnh tranh với thực phẩm thông thường, vì vậy chưa tạo động lực cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn đầu tư kinh phí, nâng cao chất lượng, số lượng thực phẩm cung cấp cho thị trường. * Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm + Nguyên nhân chủ quan - Văn bản chỉ đạo, điều hành về lĩnh vực ATTP còn chồng chéo, chưa cụ thể cho từng đối tượng quản lý, chưa quy định biện pháp khắc phục cụ thể khi bị xử phạt hành chính. - Nhận thức trách nhiệm của một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương về tầm quan trọng của công tác quản lý ATTP chưa đầy đủ nên sự chỉ đạo thiếu quyết liệt, triển khai thực hiện pháp luật về ATTP chưa đồng bộ. - Năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp còn hạn chế, chưa kịp thời triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các ngành chức năng về quản lý ATTP. - Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị quản lý nhà nước về ATTP trên địa bàn chưa đồng bộ, chưa thật sự chặt chẽ. - Ý thức chấp hành pháp luật về ATTP và trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với cộng đồng còn chưa cao, một mặt là do người sản xuất, kinh doanh chạy theo lợi nhuận trước mắt, coi thường tính mạng, sức khỏe người tiêu dùng; mặt khác do việc xử lý vi phạm còn nương nhẹ, thiếu kiên quyết. - Phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ kiểm tra nhà nước về chất lượng ATTP còn thiếu và lạc hậu; trình độ cán bộ chuyên môn và năng lực phân tích của các phòng thử nghiệm trên địa bàn chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay. + Nguyên nhân khách quan - Phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn Thành phố đều nhỏ lẻ, kinh doanh theo quy mô hộ gia đình, do đó việc đầu tư cơ sở vật chất nhằm đáp ứng đầy đủ các quy định về điều kiện sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo quy định của Bộ Y tế trong thực tế là không khả thi. - Các hóa chất, phụ gia bị cấm trong chăn nuôi, trồng trọt, chế biến, bảo quản thực phẩm không khó mua ngoài thị trường đã tạo cơ hội và thúc đẩy cho người dân vi phạm. - Do ngân sách còn khó khăn, việc đầu tư trang thiết bị, máy móc phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra chất lượng các sản phẩm còn hạn chế. 21 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK 3.1. Quan điểm đảm bảo an toàn thực phẩm ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 3.1.1. Nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức, cá nhân về tầm quan trọng của công tác đảm bảo an toàn thực phẩm Việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác đảm bảo an toàn thực phẩm nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về thái độ và hành vi, ý thức, trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với sức khỏe cộng đồng. Do đó cấp ủy đảng, chính quyền các cấp ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, đưa công tác bảo đảm ATTP vào nội dung thảo luận ở các kỳ đại hội và các văn kiện, nghị quyết, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; là một nội dung sinh hoạt thường kỳ của chi bộ nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác bảo đảm ATTP nói chung và bảo vệ bữa ăn của từng gia đình nói riêng. Qua đó các ngành, các cấp ủy đảng, chính quyền nâng cao trách nhiệm, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện đối với công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong đó có công tác bảo đảm ATTP. 3.1.2. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền về quản lý an toàn thực phẩm. An toàn thực phẩm không phải là vấn đề chuyên môn sức khỏe thuần túy, mà liên quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, an sinh, an toàn xã hội, hợp tác quốc tế, an ninh quốc gia... do đó, công tác quản lý an toàn thực phẩm phải là công tác liên ngành và gắn liền với chính sách phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của nhà nước. Công tác này phải được đầu tư nguồn lực (nhân lực, vật lực) tương xứng với yêu cầu thực tiễn. Phải coi công tác đầu tư cho an toàn thực phẩm là đầu tư cho phát triển, an toàn và an sinh xã hội. Cần phát huy vai trò của các tổ chức nghề nghiệp, hội, hiệp hội liên quan tham gia công tác xây dựng chính sách, giám sát an toàn thực phẩm; coi các tổ chức này như là “cánh tay nối dài” của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. Để kiểm soát chất lượng an toàn thực phẩm cũng như việc triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả pháp luật về an toàn thực phẩm thì trách nhiệm trước hết, trên hết thuộc về chính quyền các cấp. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm ATTP trên địa bàn; đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân các cấp và các phương tiện truyền thông để bảo đảm ATTP ở tất cả các khâu từ sản xuất, kinh doanh, chế biến đến tiêu dùng. Đặc biệt, cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước về vấn đề VSATTP: củng cố hệ thống quản lý các cấp, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các ngành liên quan; tổ chức thanh, kiểm tra thường xuyên và đột xuất, xử lý nghiêm các vi phạm về VSATTP; 22 nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp chế biến thực phẩm, tư vấn và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong lĩnh vực VSATTP; quan tâm tới công tác cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP cho các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực VSATTP; xã hội hóa công tác đảm bảo VSATTP, tăng cường đầu tư các nguồn lực cho công tác này. 3.1.3. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hệ thống quản lý và kiểm nghiệm an toàn thực phẩm Tăng cường năng lực kiểm nghiệm chất lượng VSATTP, xây dựng hệ thống giám sát ngộ độc thực phẩm, các bệnh truyền qua thực phẩm và phân tích nguy cơ ô nhiễm thực phẩm. Xây dựng quy hoạch hệ thống kiểm nghiệm thực phẩm theo hướng đa dạng hoá, xã hội hoá, chuyên sâu và phổ cập nhằm đánh giá được các mối nguy hoá chất và vi sinh vật trong toàn bộ chuỗi cung cấp thực phẩm. Đầu tư nâng cấp phòng kiểm nghiệm chất lượng VSATTP, thực hiện chuẩn hoá ở các phòng kiểm nghiệm cấp tỉnh theo tiêu chuẩn thực hành "Labor tốt" và tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng phương pháp và duy trì đánh giá năng lực trình độ kỹ thuật của các phòng kiểm nghiệm định kỳ hàng năm. Đầu tư trang thiết bị kiểm nghiệm chất lượng VSATTP. Xây dựng mô hình phòng chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm tại các vùng có nguy cơ cao. 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về an toàn thực phẩm từ thực tiễn Thành phố Buôn Ma Thuột 3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm * Đối với Luật an toàn thực phẩm Nghị định 38/NĐ-CP của Chính Phủ và các văn bản hướng dẫn, phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về ATTP còn chồng chéo, mâu thuẫn, một mặt hàng phải chịu nhiều cơ quan nhà nước cùng quản lý nhưng cũng có mặt hàng chưa được cơ quan quản lý nhà nước nào phụ trách. Ngoài ra, còn một bất cập nữa trong việc phân công quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, đó là đang có nhiều đầu mối chịu trách nhiệm (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 04 đơn vị đầu mối, Bộ Y tế có 01 đơn vị đầu mối và Bộ Công thương có 02 đơn vị đầu mối, trong số này có rất nhiều cơ quan có hệ thống ngành dọc đến cấp xã, phường, biên chế rất cồng kềnh, thêm vào đó là các cơ quan Thanh tra của các Bộ này), tuy nhiên, mỗi khi có sự cố liên quan đến an toàn thực phẩm xảy ra thì không cơ quan quản lý nhà nước nào chịu trách nhiệm (hành chính và vật chất). Do đó, các Bộ quản lý ATTP phải phối hợp, họp thống nhất để dự thảo trình Chính phủ ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 38/NĐ-CP của Chính Phủ; các bộ ngành thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ATTP cũng tiến hành rà soát lại các văn bản quy phạm của đơn vị để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với Luật ATTP. 23 * Đối với việc xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm Ngày 14/11/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 178/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm, có hiệu lực từ ngày 31/12/2013. Nghị định này quy định mức xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền trong nhiều lĩnh vực quy định quá thấp, nên không bảo đảm được tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung, dẫn đến tình trạng tuy không phổ biến nhưng nhiều tổ chức, doanh nghiệp hiện đang tồn tại tâm lý chung là chấp nhận nộp phạt vẫn có lợi hơn so với phải chấp hành đúng quy định của pháp luật về lĩnh vực đó. Bên cạnh đó Nghị định chưa quy định các biện pháp khắc phục cụ thể sau khi bị xử phạt hành chính. Vì vậy đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu tham mưu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 178/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm theo hướng tăng mức phạt tiền bảo đảm có tính răn đe hơn và quy định các biện pháp khắc phục cụ thể khi bị xử phạt hành chính. * Đối với pháp luật hình sự Cần sửa đổi, bổ sung Điều 244 Bộ luật Hình sự hiện hành (Điều 317 dự thảo Bộ luật hình sự 2015) theo hướng nên căn cứ vào hàm lượng sử dụng chất cấm trong lương thực, thực phẩm quá mức quy định bao nhiêu lần để định mức xử phạt tương ứng chứ không căn cứ vào tỷ lệ tổn thương cơ thể do sử dụng lương thực, thực phẩm không an toàn gây ra. Đồng thời đề nghị bổ sung riêng một điều về tội sản xuất, buôn bán sử dụng vượt mức cho phép các chất cấm, chất độc hại trong trồng trọt, chăn nuôi, bảo quản, chế biến thực phẩm và khung hình phạt này phải tương ứng như khung hình phạt về tội sản xuất và buôn bán hàng giả về lương thực, thực phẩm quy định tại Điều 193. Ngoài hai điều (193 và 317) quy định trực tiếp về hành vi vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, Dự thảo Luật cũng đề cập đến tội sản xuất, buôn bán hàng cấm và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm - tương tự như Bộ luật Hình sự hiện hành, trong đó hàng cấm ở đây bao hàm cả các chất cấm, chất độc hại đang được sử dụng rộng rãi trong thức ăn chăn nuôi, trồng trọt, bảo quản, chế biến thực phẩm. Tuy nhiên, quy định ở cả Luật hiện hành và Dự thảo Luật đều chưa đảm bảo tính khả thi và răn đe trong thực tế. Cụ thể, nội dung các Điều 153, 154, 155 của Bộ luật hiện hành không có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là số lượng hàng cấm lớn, rất lớn, đặc biệt lớn để định khung xử phạt nên không áp dụng được. Trong khi đó, Điều 190 (Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm) và Điều 191 (Tội vận chuyển, tàng trữ hàng cấm) của Dự thảo Luật lại chủ yếu căn cứ vào giá trị hàng phạm pháp hoặc khả năng thu lợi của chủ hàng để định tội. Theo quy định tại hai điều luật này, hàng phạm pháp có giá trị từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc chủ hàng thu lợi/có khả năng thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến trên 500 triệu đồng thì mới bị xem xét xử lý hình sự. Quy định như vậy rõ ràng không phù hợp với thực tế bởi mặt hàng cấm được sử dụng trong chăn nuôi, trồng trọt, chế biến lương thực, thực phẩm đa phần đều có giá trị vô cùng nhỏ (vì chủ yếu là sản phẩm trôi nổi, không rõ nguồn gốc, xuất xứ), do đó khó có thể khởi 24 tố vụ việc và xử lý triệt để hành vi vi phạm loại này. Mặt khác, khả năng thu lợi bất chính trong việc sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là chất cấm sử dụng trong lương thực, thực phẩm - đối với mỗi một sự vụ cụ thể - cũng không lớn tới con số vài chục đến vài trăm triệu đồng mỗi lần vi phạm, vì vậy cần xem lại tính khả thi của các điều luật. 3.2.2. Những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng hoạt động thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm từ thực tiễn Thành phố Buôn Ma Thuột trong thời gian đến Trong thời gian tới, tình hình ATTP còn tiếp tục diễn biến phức tạp, để thực hiện có hiệu quả pháp luật về ATTP cũng như Kết luận số 11-KL/TW ngày 19/01/2017 Ban Bí thư “về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TW ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới”, các địa phương, đơn vị cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: + Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo ATTP; + Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của xã hội, của doanh nghiệp, của nhân dân về an toàn thực phẩm, về các chủ trương, chính sách, pháp luật và những kiến thức cần thiết về ATTP; kịp thời cung cấp các thông tin về ATTP cũng như thực phẩm không an toàn để người dân biết, lựa chọn. + Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm về bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn; xác định việc bảo đảm VSATTP là nhiệm vụ cấp thiết cần tập trung chỉ đạo, điều hành; ưu tiên bố trí đủ kinh phí, nguồn lực cho công tác quản lý, bảo đảm an toàn thực phẩm. + Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về ATTP. Thanh tra, kiểm tra luôn được coi là một hoạt động quan trọng và ưu tiên hàng đầu của quản lý nhà nước về ATTP, kết hợp giữa kiểm tra, xử lý và thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về các cơ sở sản xuất kinh doanh vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm Tăng cường hoạt động phối hợp liên ngành; nâng cao vai trò của ban chỉ đạo liên ngành VSATTP các cấp trong tham mưu, chỉ đạo, điều hành, triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về ATTP. + Đầu tư, nâng cấp hệ thống quản lý và kiểm nghiệm an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu đặt ra. Cần xây dựng cơ chế quản lý chuỗi thực phẩm một cách hệ thống, nhằm bảo đảm mỗi loại thực phẩm đều có “lý lịch” rõ ràng, an toàn. Đây cũng là yêu cầu bắt buộc để từ đó cơ quan chức năng có thể truy cứu trách nhiệm khi có sự cố, tổn thất đối với người tiêu dùng. 3.2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột 25 + Rà soát, kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên trách thực hiện công tác quản lý chất lượng ATTP cả 02 cấp; tăng cường công tác đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực, kỹ năng, nghiệp vụ cho các biên chế chuyên trách thực hiện công tác quản lý chất lượng ATTP ở thành phố và phường, xã. Đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật thiết yếu phục vụ công tác tham mưu, thực hiện công tác quản lý chất lượng ATTP của các biên chế chuyên trách. Phân bổ kinh phí tương ứng với chức năng, nhiệm vụ được phân giao. + Tập trung chỉ đạo, đầu tư đối với sản phẩm nông nghiệp chủ lực một cách đồng bộ từ khâu giống, chăm sóc, thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị vượt trội, có sức cạnh tranh cao theo tinh thần Chương trình số 07-CTr/TU ngày 08/6/2016 của Thành ủy Buôn Ma Thuột “áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, nâng cao hiệu quả và giá trị gia tăng một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực của thành phố Buôn Ma Thuột, giai đoạn 2016-2020”. Đẩy mạnh chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn từ các chính sách ưu đãi, vốn vay đầu tư hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, gắn sản xuất tăng chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân. + Phát triển hệ thống phân phối thực phẩm an toàn: Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải công bố quy trình sản xuất, kinh doanh bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm. Tập trung chỉ đạo xây dựng và phát triển các vùng nguyên liệu sản xuất nông sản thực phẩm an toàn; thúc đẩy áp dụng rộng rãi mô hình ViệtGAP, các mô hình sản xuất an toàn khác và phát triển hệ thống phân phối thực phẩm an toàn. Thành phố cần đầu tư trang thiết bị đo kiểm di động hoặc cố định tại các trung tâm thương mại, chợ nông sản, hướng dẫn và giúp người dân nhận biết thực phẩm an toàn, thực phẩm không an toàn. Phòng Y tế Thành phố sớm hoàn thành đề tài “Xây dựng mô hình kiểm soát chuỗi thực phẩm rau an toàn tại Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk” để triển khai trong thực tế. + Bảo đảm an toàn các loại thực phẩm tươi sống, thực phẩm tiêu dùng: cần tập trung chỉ đạo, tạo chuyển biến rõ nét trong việc bảo đảm an toàn, vệ sinh đối với các loại thực phẩm tươi sống và các loại thực phẩm tiêu dùng trong sinh hoạt hàng ngày của nhân dân. Mặt khác, để tạo điều kiện cho người dân sản xuất và kinh doanh các sản phẩm rau an toàn, Thành phố tiến hành tổ chức lại sản xuất, quy hoạch lại các vùng chuyên sản xuất rau sạch, an toàn để cung ứng đủ sản lượng, chủng loại cho người dân sử dụng; liên kết với các doanh nghiệp để cung cấp các sản phẩm an toàn trên địa bàn và từng bước tăng cường quản lý chất lượng để tiêu thụ ở các chợ trung tâm. + Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra có trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả, phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng trong hoạt động quản lý chất lượng ATTP nhằm tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng ATTP trên địa bàn. Đề xuất tổ chức thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm cấp huyện, xã, phường, thị trấn tại tỉnh Đắk Lắk. 26 KẾT LUẬN ATTP là mục tiêu lớn bảo đảm sức khỏe cho giống nòi, cho uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường, là mục tiêu lâu dài và cao cả vì sự phát triển bền vững của đất nước trên các phương diện kinh tế, xã hội và uy tín quốc tế. Do đó quản lý ATTP, kiểm soát chất lượng thực phẩm đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ATTP thì trước hết và trên hết phải hoàn thiện pháp luật về ATTP, hạn chế những tồn tại, yếu kém, những bất cập, hạn chế của pháp luật về ATTP và thực hiện pháp luật về ATTP. Mặt khác phải tăng cường, huy động đầy đủ, tối đa các nguồn lực, sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẽ là giải pháp cốt lõi để bảo đảm ATTP có hiệu quả và bền vững. Để duy trì phát huy hiệu quả và sự bền vững trong công tác bảo đảm ATTP, trong thời gian tới cần tiếp tục triển khai các giải pháp đồng bộ, quyết liệt, triệt để hơn nữa các quy định của pháp luật về ATTP với sự tham gia đầy đủ của nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm - nhà khoa học - nhà quản lý và người tiêu dùng. Trong đó, điểm mấu chốt nhất đó là sự đồng thuận, quyết liệt, triệt để của các cơ quan quản lý, các ngành, các cấp trong việc triển khai toàn diện các biện pháp phòng chống ngộ độc thực phẩm theo chức năng, nhiệm vụ. Thành phố Buôn Ma Thuột là đô thị miền núi có dân số lớn nhất Việt Nam, mặt bằng dân trí thấp, địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc anh em, với phong tục, tập quán, văn hóa đa dạng, đời sống kinh tế còn khó khăn, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ do đó công tác truyền thông, giáo dục pháp luật về ATTP chưa sâu rộng, chưa làm thay đổi được các hành vi theo pháp luật về ATTP; đội ngũ cán bộ, công chức của Thành phố còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, phần lớn chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về quản lý ATTP do đó việc hiểu và áp dụng pháp luật về ATTP còn hạn chế; tình hình an ninh chính trị trên địa bàn còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định... do đó ít nhiều ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về ATTP. Từ việc phân tích những vấn đề lý luận của pháp luật về ATTP, những nội dung chủ yếu của pháp luật về ATTP và thực hiện pháp luật về ATTP; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk qua đó đánh giá những hạn chế, yếu kém của pháp luật, thực hiện pháp luật về ATTP, phân tích, làm rõ nguyên nhân của hạn chế, yếu kém để từ đó xây dựng các quan điểm bảo đảm ATTP trong giai đoạn hiện nay của nước ta, đồng thời đề xuất nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về ATTP cũng như những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật về ATTP từ thực tiễn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới; giải pháp nâng cao chất lượng công tác đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột. Hy vọng luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị trong lĩnh vực an toàn thực phẩm nói chung, bảo đảm ATTP nói riêng tại tỉnh Đắk Lắk.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_van_phap_luat_ve_an_toan_thuc_pham_tu_thuc_tien.pdf
Luận văn liên quan