Trong giai đoạn mới của cách mạng hiện nay, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng, của công cuộc đổi mới của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Bởi lẽ xuất phát từ giá trị quyền
con người và phát huy giá trị quyền con người, từ sự cần thiết phải tăng cường hiện thực hoá quyền
con người, từ triển khai thực hiện quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển, từ đổi
mới căn bản, toàn diện các cơ chế để thực thi quyền lực Nhân dân, từ yêu cầu của xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và Nhà nước kiến tạo phát triển, từ thực trạng thực
hiện dân chủ cơ sở ở nước ta và từ xu hướng căn bản của cộng đồng quốc tế và khu vực ngày càng
quan tâm đến dân chủ và quy định pháp luật để hiện thực hóa nền dân chủ trong thế giới đương đại.
Có thể khẳng định pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở như một luồng gió mới, khơi dậy
tinh thần làm chủ của Nhân dân làm thỏa lòng mong mỏi của quần chúng Nhân dân tạo động lực to
lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ kết quả nghiên cứu “Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội”, luận văn rút ra một số kết luận:
Thứ nhất, dựa trên những kiến thức khoa học về Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Luận
văn đã phân tích đánh giá làm sáng tỏ một cách tổng quát cơ sở lý luận về pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở, như: một số khái niệm về dân chủ, cơ sở, thực hiện dân chủ cơ sở, pháp luật về thực
hiện dân chủ cơ sở; nội dung thực hiện dân chủ cơ sở; các tiêu chí đánh giá thực hiện dân chủ cơ sở;
các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở và các điều kiện bảo đảm thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở; nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở.
Thứ hai, từ những vấn đề lý luận, dựa trên các tài liệu, số liệu đã được thu thập, luận văn đã
phân tích thực trạng hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở từ năm 1998 đến nay, chỉ ra
được quá trình hình thành, phát triển, đánh giá những ưu điểm và hạn chế pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở, tập trung vào Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11. Đồng thời, luận văn cũng tập
trung phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở (chủ yếu
từ năm 2007 đến nay và tập trung sâu vào giai đoạn 5 năm gần đây) trên hai phương diện ưu điểm
và hạn chế, chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của hạn chế.
Thứ ba, từ việc nghiên cứu yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng đất nước, luận văn
đã đưa ra những quan điểm để hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở hiện nay từ thực tiễn
địa bàn nghiên cứu để đảm bảo phương châm “dân biết dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Từ những
định hướng đó, luận văn đưa ra các nhóm giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở trong giai đoạn tiếp theo cần đòi hỏi
phải xây dựng và thực hiện, thúc đẩy thực hiện một cách đồng bộ, có hệ thống các giải pháp đã
được luận giải trong luận văn.
Pháp luật và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta. Đó là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng, là nhiệm vụ lâu dài, có ý nghĩa chiến lược, nhằm
tạo động lực cho công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu đề tìm ra những giải pháp hoàn thiện về cơ chế pháp lý và phương thức thực hiện dân
chủ cơ sở là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng yêu cầu khách quan đặt ra trong thực tiễn không
ngừng mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay./.
26 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 939 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ của Nhân dân. Để thực hiện và thể chế
hóa quan điểm Chỉ thị số 30-CT/TW, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên quan:
* Từ trước năm 2007
Ngày 26-02-1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số 45/1998/NQ-
UBTVQH10, giao cho Chính phủ khẩn trương ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn. Thực hiện Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành văn bản
quy phạm pháp luật: Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11-5-1998 ban hành Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã.
Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 22/1998/CT-TTg ngày 15-5-1998 về việc triển khai
QCDC ở xã và Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg về việc xây dựng hương ước, quy ước của làng, thôn,
ấp, cụm dân cư. Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ ban hành Thông tư 03/1998/TT-TCCP ngày 06-
7-1998 về hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và Kế hoạch số
145/TCCP-ĐP ngày 06-7-1998 về kế hoạch triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn. Tiếp theo, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ ban hành Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã, thay thế Nghị định số 29/1998/CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ và Thông tư số
12/2004/TT-BNV hướng dẫn thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn.
* Từ năm 2007 đến nay
Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là văn bản
pháp luật quan trọng nhất về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn năm 2007 gồm 6 chương và 28 điều, với những nội dung chính: Bảng 2.1. Tóm tắt nội dung
Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11
Bên cạnh đó, còn có một số văn bản khác được ban hành nhằm cụ thể hóa những nội dung
mới về thực hiện dân chủ ở cấp xã, như: Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-
UBTWMTTQVN ngày 17-4-2008 về hướng dẫn một số điều của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn Một số văn bản khác được ban hành cũng có nội dung liên quan đến thực hiện
dân chủ cơ sở ở cấp xã, như: Luật thanh tra năm 2010, Luật khiếu nại năm 2011, Luật tố cáo năm
2011, Luật tiếp công dân năm 2013, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015,
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013
2.1.2. Đánh giá pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở
* Ưu điểm
Ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Pháp lệnh là bước phát triển tiếp theo,
hoàn thiện hơn pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. So với Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (đặc
biệt theo Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) trước đây, Pháp lệnh có những điểm mới, cũng là những ưu
điểm sau đây:
11
Thứ nhất, có sự thay đổi lớn trong nhận thức về dân chủ, quyền dân chủ trực tiếp của người
dân được tôn trọng và bảo đảm thực hiện tốt hơn.
Thứ hai, tầm quan trọng của việc công khai thông tin được coi trọng nhất là thông tin hai
chiều giữa chính quyền và người dân.
Thứ ba, quyền dân chủ của công dân được ghi nhận nhiều hơn, đặc biệt là đưa ra được
nhiều biện pháp có tính khả thi hơn trước, bảo đảm thực hiện quyền trên thực tế.
Thứ tư, tổ chức và hoạt động của chính quyền, nhất là chính quyền cơ sở đã chú ý đến việc
tham vấn, lắng nghe ý kiến của người dân, các quyết sách đưa ra đã được dựa trên sự tham khảo
cần thiết ý kiến của người dân.
Thứ năm, vai trò của MTTQ và các tổ chức thành viên đã được coi trọng hơn, cơ chế bảo
đảm thực hiện quyền của các tổ chức này được thể chế rõ hơn.
Thứ sáu, Pháp lệnh nâng cao tinh thần trách nhiệm của chính quyền hay đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước khi thực thi Pháp lệnh.
Ngoài ra, Pháp lệnh quy định rõ ràng, cụ thể về “giá trị thi hành” của những quyết định, biểu
quyết của người dân – điều không có trong Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 1998 và Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã năm 2003; Pháp lệnh tập trung nhiều hơn vào những nội dung quan trọng,
thiết thực đối với người dân ở cơ sở (không còn những nội dung như Nghị quyết của HĐND xã, sơ
kết, tổng kết hoạt động của HĐND, UBND xã) cũng như quy định chi tiết và cụ thể hơn nhiều về
các hình thức thực hiện dân chủ ở cấp xã.
* Những hạn chế
Mặc dù Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã từng bước cải tiến
nhất định so với Nghị định 79/2003/NĐ-CP trước đây song vẫn còn những hạn chế như:
Thứ nhất, quan niệm về dân chủ, nội dung, cách thức thực hiện quyền dân chủ ở cấp xã còn
một số hạn chế. Pháp lệnh không có định nghĩa về dân chủ cơ sở/dân chủ cấp xã.
Thứ hai, do hạn chế trong quan niệm về dân chủ ở cấp xã nên chưa xác định đúng tính chất
của một số việc Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định với những việc Nhân
dân tham gia ý kiến trước khi cấp có thẩm quyền quyết định.
Thứ ba, Pháp lệnh không hề đề cấp đến cơ chế theo dõi, không quy định thẩm quyền, chức
năng của các cấp trên trong việc giám sát, đánh giá việc chính quyền cấp xã triển khai thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã và làm thế nào để thực hiện cơ chế đó.
Thứ tư, bản thân Pháp lệnh không đề cập đến “khu dân cư”, “cụm dân cư” nhưng đến nay
mô hình tổ chức dân cư tại nhiều phường, xã, vẫn tồn tại với những hình thức với quy mô, tên gọi
khác nhau như khu dân cư, cụm dân cư, ...
Thứ năm, liên quan đến năng lực của cán bộ, công chức cấp xã và phường, Tổ trưởng tổ dân
phố (Trưởng thôn), người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội, đây là một vấn đề hết sức quan
trọng đối với việc thực hiện thành công Pháp lệnh nhưng Pháp lệnh lại không nói rõ cách thức xây
dựng năng lực, nâng cao nhận thức thực thi pháp luật, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa trên toàn
quốc.
Thứ sáu, Pháp lệnh không quy định rõ về tính chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở
cấp xã của các chủ thể cụ thể liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không tuân thủ pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã và do vậy, cũng không có chế tài đối với việc chính quyền không
thực hiện nghiêm các quy định của Pháp lệnh này.
12
Thứ bảy, pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 không quy định
nguồn lực để thực hiện QCDC cơ sở.
Thứ tám, những quy định về hương ước, quy ước theo một khuôn mẫu và trình tự chung thì
rất khó có thể áp dụng cho những địa bàn khác nhau (nông thôn và thành thị, đồng bằng hay miền
núi ).
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội
2.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận Thanh Xuân
* Đặc điểm tự nhiên
Quận Thanh Xuân là một trong các quận trung tâm của thành phố Hà Nội, nằm chếch về
trục phía Tây Nam của Thành phố Hà Nội. Địa giới hành chính của quận như sau: Phía Bắc giáp
quận Đống Đa và quận Cầu Giấy; Phía Tây giáp huyện Từ Liêm và quận Hà Đông; Phía Nam giáp
quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì; Phía Đông giáp quận Hai Bà Trưng.
Quận Thanh Xuân được thành lập theo Nghị định số 74/NĐ-CP ngày 22/11/1996 của Chính
phủ, quận gồm 11 đơn vị hành chính cấp phường là: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Thanh
Xuân Trung, Khương Đình, Nhân Chính, Phương Liệt, Hạ Đình, Kim Giang, Khương Mai, Khương
Trung, Thượng Đình (có 3 phường được thành lập từ các xã ngoại thành của 2 huyện Từ Liêm và
Thanh Trì, còn lại là các phường cũ của quận Đống Đa chuyển sang).
* Đặc điểm kinh tế - xã hội
Quận Thanh Xuân có diện tích 913,2 ha; gồm 11 phường, 511 tổ dân phố; toàn quận có 22
phòng, ban, ngành, đoàn thể. Năm 2015, dân số của quận là 266.791 người (tính đến cuối năm
2015), trong đó nữ giới là 133.315 người chiếm 49,97%, nam chiếm 50,03%. Quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa làm cho các làng xã xưa của quận Thanh Xuân có những thay đổi mạnh mẽ. Quá
trình đó đã tác động không nhỏ đến mọi mặt đời sống của Nhân dân địa phương.
Kinh tế trên địa bàn quận ổn định, tiếp tục tăng trưởng (giai đoạn 2010 – 2015 với tốc độ
tăng trưởng bình quân 3,7%).
Tình hình chính trị - xã hội ổn định, an ninh quốc phòng luôn được giữ vững.
2.2.2. Kết quả quá trình quán triệt, triển khai pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn
quận Thanh Xuân
* Về công tác quán triệt, triển khai các chủ trương, quan điểm của Đảng có liên quan
đến nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở, ngay từ thời gian đầu thực hiện cho đến nay, công tác
chỉ đạo thực hiện QCDC từ quận tới cơ sở đã gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương
và các phong trào thi đua yêu nước như: tuyên truyền thực hiện QCDC ở cơ sở với tổ chức các đợt
sinh hoạt chính trị trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân về các văn bản của Đảng, Nhà
nước.
* Hoạt động của BCĐ thực hiện QCDC
Các BCĐ thực hiện QCDC ở cơ sở được thành lập và kiện toàn, mô hình tổ chức bộ máy
chỉ đạo điều hành thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận được áp dụng mô hình
BCĐ thực hiện QCDC ở Quận và các phường.
Về chế độ làm việc, BCĐ thực hiện QCDC quận và các phường đã xây dựng quy chế làm
việc của BCĐ, phân công trách nhiệm từng thành viên BCĐ, gắn với lĩnh vực công tác và theo dõi
các cơ sở; hàng năm xây dựng chương trình, kế hoạch công tác; xây dựng chuyên đề. Bảng 2.2.
13
Tổng hợp tình hình tổ chức hoạt động kiểm tra công tác thực hiện Pháp luật về dân chủ cơ sở của
BCĐ Quận, giai đoạn 2012 – 2016
* Tổ chức thực hiện Pháp luật về dân chủ cơ sở của chính quyền
UBND quận đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn chỉnh sửa, bổ sung các Quy chế, Quy ước
dân chủ cho phù hợp với chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và phù hợp với thực tế của
địa phương và sự phân cấp trong quản lý; xây dựng dự thảo Quy chế thực hiện dân chủ trong từng
lĩnh vực đảm nhiệm. UBND các phường tổ chức hội nghị lấy ý kiến của đại diện cấp ủy, chính
quyền, MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, bí thư chi bộ, tổ trưởng tổ dân phố vào dự thảo Quy
chế; lấy ý kiến các đồng chí lãnh đạo quận.
Ngoài việc ban hành các QCDC trong các lĩnh vực tương tự của quận thực hiện trong phạm
vi mỗi phường, UBND các phường đã cụ thể hóa các văn bản luật của Trung ương thành các văn
bản phù hợp với địa phương về xây dựng và thực hiện QCDC cơ sở.
Về cơ bản, kinh phí dành cho hoạt động triển khai Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn không được bố trí ngân sách riêng mà tính vào hoạt động chung của UBND.
* Hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong việc tổ chức,
hướng dẫn, phối hợp thực hiện Pháp luật về dân chủ cơ sở
Về hoạt động tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện Pháp luật dân chủ cơ sở, MTTQ
và các đoàn thể chính trị-xã hội các cấp đã thực hiện tốt việc tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ cơ sở trong cán bộ, hội viên,
đoàn viên và các tầng lớp Nhân dân, đồng thời gắn với việc thực hiện nhiệm vụ của Mặt trận, đoàn
thể từ quận tới cơ sở.
Về hoạt động giám sát việc thực hiện Pháp luật dân chủ cơ sở, Ban Thường trực Ủy ban
MTTQ quận và các phường chủ động xây dựng và thực hiện: Kế hoạch hoạt động giám sát, góp ý
và phản biện xã hội; Kế hoạch công tác TTND, giám sát đầu tư của cộng đồng. Nhằm thực hiện
Quy chế “MTTQ Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư”, từ năm 2006 –
2013, MTTQ quận đã thực hiện tại 03 phường (Thanh Xuân Bắc, Khương Mai, Nhân Chính) làm
điểm đặt 06 hòm thư giám sát tại các khu dân cư.
Về hoạt động phối hợp với các cấp chính quyền trong việc thực hiện Pháp luật về dân chủ
cơ sở, MTTQ từ cấp quận đến phường chủ động xây dựng kế hoạch, hướng dẫn triển khai, tổ chức
thực hiện nghiêm túc, hoàn thành tốt các nội dung MTTQ tham gia công tác bầu cử theo quy định,
góp phần tạo nên kết quả và sự thành công của 02 cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIII, XIV
và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016 và 2016- 2021 trên địa bàn quận.
2.2.3. Đánh giá kết quả quá trình quán triệt, triển khai pháp luật về dân chủ cơ sở trên
địa bàn quận Thanh Xuân
* Những ưu điểm
Thứ nhất, về chuyển biến trong hoạt động của cấp ủy Đảng, MTTQ và các tổ chức thành
viên
Quận ủy Thanh Xuân đã lãnh đạo, chỉ đạo, nghiêm túc tổ chức thực hiện có hiệu quả các
Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các Nghị định của Chính phủ, sự lãnh đạo của cấp trên về xây dựng
và tổ chức thực hiện QCDC ở cơ sở.
MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội đã phát huy cao vai trò giám sát hoạt động của cán
bộ, công chức làm việc, sinh sống trên địa bàn; đồng thời đổi mới nội dung và phương thức hoạt
14
động, động viên các tầng lớp Nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tích cực tham gia
thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Thứ hai, về hiệu quả trong hoạt động của UBND, HĐND các cấp
Công tác tiếp dân giải quyết những kiến nghị của Nhân dân được tiến hành thường xuyên,
nghiêm túc và đã trở thành nền nếp tại UBND các phường. Đến nay, 100% phường trên địa bàn
Quận được cài đặt phần mềm quản lý hồ sơ theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông, cung ứng dịch
vụ công mức độ 3. Thông qua theo dõi kết quả tiếp nhận và xử lý hồ sơ của UBND các phường trên
cổng thông tin điện tử, tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng và sớm giai đoạn 2012 – 2016 là 98,3%, năm
2015 xếp thứ 2 Thành phố về thực hiện chính quyền điện tử.
HĐND các cấp đã có nhiều đổi mới trong hoạt động, quyết định nhiều vấn đề quan trọng,
sát tình hình. Tại các kỳ họp HĐND, nhiều vấn đề bức xúc được đưa ra chất vấn công khai, dân
chủ. Bảng 2.3. Số liệu thống kê công tác tiếp nhận và giái quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
Nhân dân tại các phường giai đoạn 2012 – 2016
Thứ ba, về nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức
Trong quá trình thực hiện Pháp lệnh đã giúp cho cán bộ, công chức tại các phường nhận
thức sâu sắc hơn về dân chủ cơ sở và ý nghĩa của nó trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ cuối năm 2015, 100% chính quyền các phường đã tổ chức hội nghị đối thoại (2 lần/năm) để lắng
nghe ý kiến, kiến nghị của Nhân dân.
* Những hạn chế
Thứ nhất, thành viên của BCĐ thực hiện QCDC quận và các phường (đặc biệt là cán bộ lãnh
đạo) tham gia vào rất nhiều các BCĐ thực hiện các nhiệm vụ khác nhau nên việc dành thời gian cho
hoạt động của BCĐ thực hiện QCDC còn hạn chế.
Thứ hai, gắn QCDC với thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội có việc còn lúng túng. Một số
nơi chưa thực hiện công khai về công tác tài chính, sử dụng tài sản công, việc xây dựng quy ước
chưa được triển khai.
Thứ ba, hình thức tổ chức tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát huy dân
chủ cơ sở còn đơn điệu, chạy theo phong trào.
Thứ tư, còn có cán bộ lãnh đạo ở một số đơn vị chưa quan tâm nhiều đến việc thực hiện
QCDC, chưa tích cực trong chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện.
Thứ năm, sự hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách cho các hoạt động cộng đồng dân cư còn ít.
Bên cạnh đó, việc huy động Nhân dân đóng góp để bảo đảm duy trì hoạt động cho các thiết chế
phục vụ cho cộng đồng dân cư khó khăn.
Thứ sáu, một số chính quyền phường vẫn còn hiện tượng “hành chính hóa” một số công
việc thuộc nội bộ cộng đồng dân cư, huy động đóng góp của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng, công
trình phúc lợi ... như: Quỹ Khuyến học, Quỹ Vì người nghèo, ... các quỹ để xây dựng các công trình
xã hội hóa.
* Những nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trên
Thứ nhất, do pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở còn thiếu và bất cập. Vai trò, trách nhiệm
các thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở đối với thực hiện dân chủ cơ sở chưa được định chế hóa
một cách cụ thể.
Thứ hai, do ở các phường còn nhiều việc cần tập trung nên trong quá trình triển khai xây
dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở cũng bị chi phối. Nhận thức của một số ít cấp ủy Đảng, chính
15
quyền về việc thực hiện QCDC ở cơ sở còn chưa sâu, một bộ phận Nhân dân, cán bộ, công chức,
viên chức, người lao động chưa ý thức đầy đủ về QCDC.
Thứ ba, việc ban hành các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền còn chậm,
gây lúng túng trong quá trình thực hiện và ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện ở cơ sở; chưa có chế tài
xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm quy chế, quy ước và chưa kịp thời động viên khen thưởng,
biểu dương.
Thứ tư, những vấn đề còn vướng mắc trong dân có lúc, có nơi giải quyết chưa kịp thời, chưa
tạo điều kiện để Nhân dân tham gia và phát huy quyền làm chủ thực sự của mình.
Thứ năm, do chạy theo thành tích nên một số lãnh đạo phường đã can thiệp quá mức vào
việc đóng góp các loại quỹ và kế hoạch sử dụng của các tổ dân phố.
2.2.4. Kết quả thi hành các nội dung của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng,
thị trấn trên địa bàn quận Thanh Xuân
Thứ nhất, những nội dung công khai để Nhân dân biết
Chính quyền cơ sở đã phối hợp với MTTQ phường và các tổ chức thành viên cơ bản thực
hiện tốt nội dung này trên nguyên tắc bảo đảm dân chủ, bảo đảm quyền của dân được biết trên một
số lĩnh vực nhạy cảm như: Kế hoạch vay vốn cho Nhân dân; kết quả bình xét hộ nghèo; Các quy
định của pháp luật về thủ tục hành chính,...
Về hình thức, phương thức thực hiện quyền dân chủ ở phường được tiến hành qua các hình
thức khác nhau, như: Tăng cường đối thoại trực tiếp; Tổ chức họp với các đồng chí là đảng viên
đang sinh hoạt tại phường và sinh hoạt 2 chiều; Phát thanh trên hệ thống loa truyền thanh phường...
Thứ hai, những nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp
Các công việc thường được đưa ra để Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp là: Chỉnh trang
đường ngõ, phố; Giải quyết vấn đề về sinh môi trường ở địa bàn dân cư (quét, xóa biển quảng cáo
rao vặt trái phép, thu gom rác thải); Quyên góp tặng sổ tiết kiệm, thăm hỏi, đỡ đầu hàng trăm gia
đình và đối tượng chính sách, Quỹ Vì người nghèo, Quỹ Vì trẻ thơ, Quỹ Khuyến học Những hoạt
động này đã góp phần giữ gìn an ninh trật tự, vệ sinh đường phố, bài trừ mê tín dị đoan, các tệ nạn
xã hội tại địa phương.
Thứ ba, những nội dung Nhân dân bàn, biểu quyết
Tính đến nay, 100% (511/511) tổ dân phố trên toàn quận đều đã xây dựng và thực hiện 03
quy ước: Quy ước Xây dựng nếp sống văn minh; Quy ước Giữ gìn vệ sinh, môi trường sạch đẹp,
Quy ước Xây dựng tổ dân phố an toàn thông qua Hội nghị Đại biểu Nhân dân. Sau khi các quy ước
được phê duyệt, các phường đã in ấn phát đến từng hộ dân để đưa vào thực hiện ở Tổ dân phố theo
quy định.
Thứ tư, những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến
Tại đa số các phường, trước khi trình thông qua dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
kế hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế; kế hoạch sử dụng đất đai, dự án huy động các nguồn đóng góp
của Nhân dân, chính quyền đã niêm yết các dự thảo này tại trụ sở UBND hoặc đưa xuống tổ dân
phố để Nhân dân tham gia ý kiến.
Trong các kỳ hop của HĐND phường, chính quyền phường đã mời đại diện các tổ chức
chính trị - xã hội tham dự và người dân dự thính kỳ họp HĐND. .
Thứ năm, những nội dung Nhân dân giám sát
16
Những nội dung thực hiện giám sát tốt là: kết quả thực hiện Nghị quyết của HĐND phường,
hoạt động của Đại biểu HĐND, của cán bộ UBND phường; thu chi các loại quỹ, lệ phí, các khoản
đóng góp của dân và việc thực hiện các chế độ chính sách với những người có công với nước, người
hưởng chính sách BHXH. Hoạt động giám sát của Ban TTND, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng
các phường liên tục có nhiều đổi mới, đạt kết quả cao.
2.2.5. Đánh giá kết quả thi hành các nội dung của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phƣờng, thị trấn trên địa bàn quận Thanh Xuân
* Ưu điểm
Thứ nhất, về trình độ hiểu biết và mức độ thực hiện nội dung Pháp luật quy định về thực
hiện dân chủ cơ sở của Nhân dân, có thể nhận thấy, việc thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn năm 2007 đã đáp ứng những nguyện vọng, yêu cầu bức xúc của Nhân dân ở các
phường và được được đại đa số Nhân dân trên địa bàn quận hưởng ứng. Kết quả khảo sát cũng cho
thấy những dấu hiệu tích cực trong nhận thức của người dân về vấn đề dân chủ. Biểu đồ 2.4. Mức
độ hiểu biết của người dân đối với Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11
Thứ hai, về tác động đối với đời sống địa phương, kết quả khảo sát đã cho thấy thực hiện
Pháp lệnh là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển, đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Tất cả các tiêu chí đều nhận được sự đánh giá chất lượng tăng lên từ người được hỏi (Biểu đồ
2.5. Xu hướng thay đổi các hoạt động sau khi thực hiện Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11). Điều
này đã cho thấy việc thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở có tác dụng rất lớn đến đời sống
của Nhân dân trên địa bàn trong thời gian qua.
* Hạn chế
Thứ nhất, theo quy định của pháp luật, một số nội dung liên quan đến: Dự án đầu tư và quy
hoạch sử dụng đất chi tiết; Kết quả ủa cán bộ, công chức... được quy định cần
phải công khai cho Nhân dân nhưng trên thực tế thì mức độ công khai của những nội dung này còn
chưa kịp thời, hạn chế.
Thứ hai, một số hình thức công khai (được quy định theo pháp luật) không nhận được sự
đánh giá cao từ Nhân dân, ví dụ niêm yết công khai tại UBND. Hình thức niêm yết công khai tại trụ
sở UBND các phường chưa thực sự có hiệu quả, đặc biệt đối với những nội dung có nhiều thông
tin, tài liệu.
Thứ ba, hiện nay có nhiều cuộc họp được tổ chức dẫn đến tốn kém thời gian và thực chất
nhiều cử tri hoặc đại diện thường xuyên vắng mặt vì lý do công việc, ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc họp cũng như tốn kém cho chính quyền
Thứ tư, mặc dù trên địa bàn quận còn sự xuất hiện một số làng nằm xen kẽ với các khu đô
thị nhưng hoạt động xây dựng hương ước, quy ước gần như không được chính quyền và Nhân dân
quan tâm vì cho rằng hương ước, quy ước chỉ là hình thức, không hiệu quả trong một địa bàn đang
đô thị hóa mạnh.
Thứ năm, một bộ phận người dân thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong việc lựa chọn Tổ trưởng tổ
dân phố. Những cuộc họp để tổ chức bầu Tổ trưởng tổ dân phố thì người dân ít quan tâm.
Thứ sáu, việc lấy ý kiến đôi khi thiếu trọng tâm, trọng điểm nên dễ tràn lan.
Thứ bảy, qua khảo sát, vai trò của Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng chưa được đánh giá
cao. Tình trạng nhiều kết quả giám sát không được xử lý triệt để, dẫn đến thiếu tính răn đe.
* Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên
17
Thứ nhất, đối với các phường khi triển khai gặp khó khăn ở một số nội dung cần công khai
cho Nhân dân vì còn phụ thuộc vào các ngành và cấp trên, như: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn phường hoặc việc làm mới, sửa
chữa điện, đường, ...
Thứ hai, quá trình xây dựng hương ước, quy ước dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật
và cách thức thể hiện thông thường là lặp lại pháp luật và chủ trương, chính sách của Nhà nước một
cách khô khan, thiếu cụ thể, chưa sát thực với điều kiện và đặc điểm của cơ sở, câu chữ trong văn
bản còn nặng tính khẩu hiệu, nên tính thực tiễn không cao.
Thứ ba, các cuộc họp bầu Tổ trưởng tổ dân phố thường ít người dân tham gia vì người dân
chỉ quan tâm tham gia các cuộc họp với nội dung liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ.
Thứ tư, về nguyên nhân của hiệu quả giám sát thực hiện dân chủ ở các phường của các cá
nhân, tổ chức không được như mong muốn là: các tổ chức, cá nhân bị phụ thuộc vào chính quyền
nên khó có thể độc lập, khách quan; các quy định của pháp luật về quyền giám sát chưa rõ ràng, cụ
thể, hầu như không nhận được sự đồng tình.
Thứ năm, bên cạnh nguyên nhân do pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở hiện đang thiếu
tính đồng bộ và toàn diện như đã phân tích ở trên thì trên thực tế, nhận thức pháp luật về dân chủ
của một bộ phận người dân còn hạn chế, không đồng đều.
Thứ sáu, nguyên nhân “pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở chưa mang lại tác động tích cực
trong đời sống xã hội ở địa phương”, do “quy định của pháp luật chưa đầy đủ, chưa cụ thể”, do
“việc tổ chức thực hiện dân chủ chưa mạnh mẽ” và là do “cán bộ, công chức chính quyền phường
còn bảo thủ”.
Tiểu kết chƣơng 2
Thứ nhất, có thể nói, việc Nhà nước ta xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về thực hiện dân chủ cơ sở là một phát kiến lớn, một phương thức hay, hữu hiệu nhằm phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ sở một cách thực chất nhất. Với sự ra đời của Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã (Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) và Pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, lập quy Nhà nước ta
đã tạo ra một công cụ pháp lý về thực hiện dân chủ, trao cho các tầng lớp Nhân dân ở cơ sở những
quyền dân chủ thực sự: quyền được biết; quyền được bàn và quyết định trực tiếp, bàn và biểu quyết
để cấp có thẩm quyền quyết định; quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định; quyền giám sát. Mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung và thay thế, song pháp luật về thực
hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã hiện hành, mà cụ thể là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn, cũng đang bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định.
Thứ hai, hoạt động thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở các phường trên địa bàn quận
Thanh Xuân đã đạt được những thành tựu, kết quả quan trọng, từ tích cực tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở các phường cho đến
những kết quả quan trọng trong thực hiện các nội dung cụ thể về quyền dân chủ của Nhân dân. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở các phường
của quận Thanh Xuân cũng còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định như nhận thức, trách nhiệm
về thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong một bộ phận cán bộ, công
chức, đảng viên và Nhân dân chưa đầy đủ; một số nội dung cụ thể thực hiện pháp luật về dân chủ
cơ sở mới chỉ đạt kết quả ở mức độ trung bình hoặc kém.
18
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ
SỞ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bên cạnh
những quy định hiện hành thì nội dung của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở được điều chỉnh
theo những xu hướng sau:
Thứ nhất, pháp luật phải có những quy định chi tiết về trách nhiệm của chính quyền cơ sở
trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn nội dung thực hiện dân chủ cơ sở đến
với người dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có Hiến pháp và pháp luật ghi
nhận các quyền của công dân trong việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo
luận các vấn đề chung, trọng đại của cả nước, của từng địa phương, nêu đề xuất, kiến nghị với các
cơ quan Nhà nước. Các quyền đó là nền tảng, cơ sở quan trọng để người dân thực hiện dân chủ nói
chung, dân chủ cơ sở nói riêng. Vì vậy, chính quyền cơ sở có nghĩa vụ triển khai những quy định
của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở đối với người dân.
Thứ hai, pháp luật điều chỉnh hoạt động của chính quyền cơ sở theo hướng công khai, minh
bạch, dân chủ, chú trọng đến chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc. Chính quyền cơ sở có
nhiệm vụ đưa những quy định về thực hiện dân chủ đi vào đời sống ở cơ sở. Trong tiến trình đó, bộ
máy chính quyền cơ sở buộc phải thay đổi để thích ứng với yêu cầu ngày càng cao với đời sống dân
chủ cơ sở. Có những việc liên quan trực tiếp đến quyền lợi của Nhân dân, chính quyền cơ sở không
thể chủ quan quyết định mà phải tổ chức họp Nhân dân để bàn, quyết định trực tiếp hoặc Nhân dân
biểu quyết với đa số tán thành thì chính quyền cơ sở mới được ra quyết định và thực hiện.
Thứ ba, pháp luật tăng cường quy định theo xu hướng hội nhập: các cơ chế, biện pháp, chế
tài nhằm bảo đảm cho công dân có thể phát huy quyền làm chủ, thực hiện các quyền dân chủ trong
khuôn khổ các nguyên tắc, quy định của pháp luật, đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ
mà người dân phải tuân thủ, thực hiện nhằm bảo đảm, giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nƣớc kiến tạo phát triển
Trong quá trình xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, bên cạnh những quy định hiện hành
thì nội dung của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở được điều chỉnh theo những xu hướng sau:
, pháp luật có sự gia tăng số lượng những nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” để mở rộng dân chủ, bảo đảm sự tham gia ý kiến của người dân vào quá trình hoạch định
chính sách, pháp luật, trong đó tập trung mở rộng các quy định công việc do người dân trực tiếp
thảo luận và quyết định thực hiện. Các phương thức thực hiện dân chủ cơ sở được mở rộng và quy
định ngày càng cụ thể.
Thứ hai, pháp luật có những quy định xác lập được chế độ trách nhiệm trước dân của cơ
quan nhà nước và hệ thống khuyến khích phục vụ dân. Nhà nước phải xây dựng cho được bộ máy
tinh gọn, hiệu lực hiệu quả với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực và tính chuyên
nghiệp cao. Mọi cơ quan, công chức đều phải được giao nhiệm vụ rõ ràng trong việc đảm bảo
quyền làm chủ của người dân ở cơ sở.
19
Thứ ba, pháp luật bổ sung những quy định về tăng cường tương tác giữa các cơ quan trong
bộ máy nhà nước và giữa bộ máy nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội về đảm bản dân chủ cơ
sở. Mở rộng đối thoại với người dân và doanh nghiệp bằng nhiều hình thức để Nhà nước, cán bộ,
công chức gần dân hơn và chủ trương, chính sách, pháp luật sát với thực tiễn hơn. Cơ chế kiểm
soát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội, người dân ở cơ sở đối với cơ quan nhà
nước được cụ thể hóa chi tiết trong pháp luật.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở
3.2.1. Về việc nâng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn năm 2007 lên
thành luật
Trong thời gian sắp tới, để tổ chức thực hiện Hiến pháp năm 2013, nâng cao chất lượng, bảo
đảm quyền dân chủ ở cấp xã của công dân, tác giả cho rằng, nên nâng Pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn năm 2007 lên thành Luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đây là
yêu cầu thực tế, là đòi hỏi của các tầng lớp Nhân dân trong thời gian qua. Việc ghi nhận thực hiện
dân chủ ở cấp xã ở tầm một đạo luật sẽ càng khẳng định sự quan trọng của vấn đề này, thể hiện sự
quan tâm của Nhà nước đối với Nhân dân, tạo cơ sở tốt hơn cho việc thực hiện quyền làm chủ của
Nhân dân.
3.2.2. Hoàn thiện về nội dung, hình thức công khai để Nhân dân biết
Luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nên bổ sung quy định về minh bạch trong
việc công khai (phạm vi nội dung của mỗi loại việc công khai đến đâu, bao gồm những vấn đề gì;
thời điểm công khai; thời gian công khai).
Về hình thức công khai thông tin cho Nhân dân biết, theo kết quả khảo sát, nhiều ý kiến cho
rằng, cũng nên ghi nhận thêm hình thức công khai thông qua trang thông tin điện tử (Internet) của
chính quyền các cấp. Luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn không nên tiếp tục quy định
theo hướng tất cả các hình thức công khai đều áp dụng đối với tất cả các nội dung cần công khai.
3.2.3. Hoàn thiện nội dung, hình thức Nhân dân bàn và quyết định
Thứ nhất, chuyển một số nội dung Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định thành nội dung Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định
Theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007
thì hiện nay, có 5 nhóm nội dung phải đưa ra lấy ý kiến Nhân dân trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định. Những nội dung này không mang tính chất kỹ thuật, chuyên môn cao và ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi cơ bản của người dân được quy định trong Hiến pháp (quyền về cư trú, nhà ở,
việc làm ...) và có tác động đến nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương nên
phải được Nhân dân bàn, biểu quyết làm cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền quyết định. Mặt khác
cũng nên bổ sung một vấn đề Nhân dân bàn, biểu quyết để cơ quan có thẩm quyền quyết định là:
phương án sử dụng các khoản đóng góp vào quỹ của thôn, xã đề góp phần tăng tính minh bạch
trong việc sử dụng kinh phí do Nhân dân đóng góp.
Thứ hai, về nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp:
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 nên được bổ sung quy định
bước thăm dò, lấy ý kiến của người dân về việc xây dựng công trình, nắm bắt được tâm tư, nguyện
vọng của người dân.
Tuy nhiên, trong trường hợp một số người dân không thực thi quyết định đã được thông qua
(phương án giải phóng mặt bằng, mức đóng góp ...) thì Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
20
thị trấn năm 2007 cần quy định rõ biện pháp giải quyết. Để đảm bảo tính dân chủ, tự nguyện chấp
hành của người dân, nên áp dụng những biện pháp “mềm” trong vấn đề này, tránh những giải pháp
quá mạnh ảnh hưởng đến tâm lý của người dân.
Thứ ba, về nội dung Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định:
Nhanh chóng ban hành văn bản mới thay thế Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-
BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN ngày 31-3-2000 về xây dựng và thực thi hương ước vì văn bản này
đã được ban hành trước Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 khá lâu, có
những điểm không còn phù hợp với thực tiễn đời sống. Tùy vào đặc thù vùng miền, nên có hướng
dẫn thống nhất việc xây dựng hương ước theo hướng phân hóa.
Tùy vào đặc thù vùng miền, nên có hướng dẫn thống nhất việc xây dựng hương ước theo
hướng phân hóa. Đối với khu vực nông thôn, nên tiếp tục duy trì hương ước nhưng chủ yếu nên
hướng đến các quy định nội bộ của thôn, làng và nếp sống văn hóa mới lành mạnh. Đối với khu vực
đô thị, vẫn nên có quy ước văn hóa nhưng vì ở nhiều phường có rất nhiều tổ dân phố và ít có đặc
thù riêng nên chỉ cần xây dựng một văn bản quy ước áp dụng chung cho một số tổ dân phố (khu dân
cư) hoặc quy ước chung cho đơn vị phường.
Nên bổ sung quy định Chủ tịch UBND quận có thể ủy quyền cho Chủ tịch UBND phường
ký thông qua quy ước nhằm hạn chế việc tồn đọng các bản quy ước, đặc biệt là ở khu vực đô thị
hiện nay.
Xây dựng cơ chế giám sát việc thực thi quy ước và chế tài xử lý đối với việc vi phạm quy
định của quy ước. Về chủ thể nên được pháp luật quy định giao giám sát thực hiện quy ước là Ban
Công tác Mặt trận khu dân cư (tổ dân phố) vì đây là tổ chức gắn bó gần gũi với quần chúng Nhân
dân, góp phần thể hiện sâu sắc hơn bản chất của MTTQ trong việc tham gia xây dựng đời sống của
Nhân dân.
Pháp lệnh nên ghi nhận khu dân cư, phạm vi, quy mô khu dân cư để góp phần giải tỏa khó
khăn trong việc quản lý các tổ dân phố của khu vực phường ở đô thị.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp công tác giữa tổ trưởng, tổ phó tổ dân phố (khu dân cư)
với Ban Công tác Mặt trận và các đoàn thể Nhân dân.
Thứ tư, về nội dung, hình thức Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định:
Đối với những vấn đề Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết
định, Pháp luật cần quy định phải kèm theo văn bản giải thích cụ thể, rõ ràng về nội dung của các
dự thảo cần lấy ý kiến Nhân dân.
Về hình thức lấy ý kiến, hòm thư góp ý là hình thức kém hiệu quả bởi sự tương tác trực tiếp
giữa chính quyền và Nhân dân và thực tế thì nhiều người dân không quan tâm đến hình thức này. Vì
vậy, Pháp luật nên bỏ hình thức hòm thư góp ý ở nội dung Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ
quan có thẩm quyền quyết định.
3.2.4. Về hoàn thiện nội dung, hình thức Nhân dân tham gia giám sát
Thứ nhất, đối với Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng
- Quy chế Giám sát đầu tư của cộng đồng (Ban hành kèm theo Quyết định số 80/2005/QĐ-
TTg ngày 18-4-2005) đã hết hiệu lực thi hành từ 01/7/2007 vì văn bản này căn cứ Nghị định
79/2003/NĐ-CP đã hết hiệu lực. Vì vậy, để tiếp tục duy trì hoạt động của Ban Giám sát đầu tư cộng
đồng theo quy định của Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11, cần ban hành một số quy định dưới
21
dạng quy chế mới phù hợp với tính chất hoạt động của Ban Giám sát đầu tư cộng đồng theo hướng
như sau:
+ Về nội dung giám sát: cần có sự điều chỉnh thu hẹp nội dung giám sát để phù hợp hơn với
tính chất giám sát của giám sát đầu tư cộng đồng là giám sát của Nhân dân.
+ Cần quy định rõ, cụ thể hơn nữa trách nhiệm, quyền hạn và cách thức hoạt động của Ban
Giám sát đầu tư của cộng đồng. Quy định tại điều 5 của Quy chế cho phép Ban Giám sát đầu tư của
cộng đồng được yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước, các đối tượng chịu sự giám sát trả lời, cung cấp
thông tin phục vụ việc giám sát; được kiến nghị cấp có thẩm quyền đình chỉ thực hiện đầu tư, vận
hành dự án, kiến nghị các biện pháp xử lý ... nhưng quy định trên sẽ chỉ là hình thức nếu pháp luật
không tạo ra cơ chế cho việc bảo đảm thực thi các quyền hạn trên.
- Tăng cường mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện
quản lý về công tác giám sát đầu tư cộng đồng.
Thứ hai, đối với Ban TTND
Cũng giống như Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, cần xác định rõ Ban TTND tại xã,
phường, thị trấn (cũng như Ban TTND được thành lập ở cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước)
là một thiết chế giám sát của Nhân dân, có tính chất đại diện cho cộng đồng dân cư và các thành
viên cũng được lựa chọn từ cộng đồng, do cộng đồng bầu ra va chỉ bị bãi nhiệm bởi Hội nghị của
cộng đồng dân cư. Với tính chất như vậy, rõ ràng là không phù hợp nếu đặt thiết chế TTND bên
cạnh các thiết chế thanh tra chuyên ngành khác được điều chỉnh bởi Luật Thanh tra. Thiết chế
TTND nên được quy định tập trung ở các văn bản về thực hiện dân chủ cơ sở.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật, nhiệm kỳ của TTND là hai năm. Có thể nhận thấy
nhiệm kỳ như vậy là quá ngắn khi hai năm thay đổi một lần làm cho cơ cấu tổ chức thiếu ổn định,
cơ quan có thẩm quyền không thể xây dựng được kế hoạch, phương hướng bồi dưỡng nghiệp vụ
cho các thành viên Ban TTND phù hợp với yêu cầu thay đổi của đời sống. Vì vậy, nên kéo dài
nhiệm kỳ của TTND. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Ban TTND cũng
như Ban Giám sát đầu tư, trước hết phải nâng cao hơn nữa vai trò và chất lượng giám sát của
MTTQ.
3.2.5. Hoàn thiện các quy định cụ thể về trách nhiệm cá nhân, khen thƣởng, kỷ luật
Những nơi không thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức, đối phó, không hiệu quả, để
xảy ra các vụ việc sai phạm... thì ít nhất là các chức danh Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ
tịch UBND cấp xã phải chịu trách nhiệm cá nhân trước Nhân dân địa phương, trước pháp luật.
Đối với khen thưởng, quy định những thành tích cụ thể nào đạt được trong thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở ở cấp xã thì được đề nghị khen thưởng, cần lượng hóa thành tích bằng những
tiêu chí càng cụ thể càng tốt nhằm đảm bảo sự công bằng, khách quan, tạo thuận tiện cho việc đánh
giá, xét duyệt; ....
Đối với xử lý kỷ luật, quy định cụ thể các loại hành vi vi phạm trong thực hiện pháp luật về
dân chủ cơ sở ở cấp xã phải bị xử lý kỷ luật, như tính chất, mức độ của lỗi, hậu quả xảy ra, ảnh
hưởng của hành vi.
3.2.6. Xây dựng, hoàn thiện một số đạo luật làm cơ sở cho việc thực hiện dân chủ cơ sở
* Ban hành luật riêng về TTND hoặc Luật về hoạt động giám sát phản biện xã hội của
Nhân dân để tạo cơ sở pháp lý cho Nhân dân thực hiện quyền đƣợc bàn và quyền đƣợc kiểm
tra, giám sát
22
Ban TTND được tổ chức và hoạt động theo Luật Thanh tra năm 2010 hiện nay tỏ ra không
hiệu quả, không phát huy được vai trò của mình nếu không muốn nói là đa số hoạt động kém hiệu
quả. Để thực hiện được đầy đủ, có hiệu quả những nhiệm vụ quyền hạn của Ban TTND việc ban
hành luật riêng về TTND là cần thiết và cấp bách để tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ hơn, cao hơn cho tổ
chức và hoạt động của Ban TTND.
Hoặc khi không ban hành luật riêng về TTND thì cần ban hành luật về hoạt động giám sát
của Nhân dân để quy định về vai trò giám sát Nhân dân đối với bộ máy nhà nước khi Luật Thanh
tra không còn quy định về vấn đề này.
Tất cả những vấn đề gì liên quan đến sự phát triển xã hội đều có thể đưa ra để phản biện. Để
phản biện xã hội sớm đi vào cuộc sống đòi hỏi phải nhanh chóng nghiên cứu và ban hành pháp luật
về vấn đề này, trong đó các vấn đề như cơ chế, trình tự phản biện xã hội, vai trò, trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức trong phản biện xã hội phải được quy định cụ thể, rõ ràng.
* Xây dựng, thí điểm chế độ bầu trực tiếp Chủ tịch UBND xã – phƣơng thức mở rộng
quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân
Thứ nhất, đối với địa bàn đô thị, trong tương lai nên cân nhắc bỏ HĐND ở chính quyền
quận, phường. Chính vì vậy, Chủ tịch UBND của phường nên được Chủ tịch UBND cấp trên bổ
nhiệm. Ở phường, quan hệ cộng đồng dân cư thường rất rời rạc, người dân ít hiểu rõ về nhau. Chính
vì vậy, không nên áp dụng chế độ bầu trực tiếp Chủ tịch UBND phường.
Thứ hai, đối với địa bàn nông thôn, quan hệ cộng đồng dân cư rất rõ nét. Điều này giúp dân
có thể hiểu rõ những ứng viên mà mình sẽ chọn lên làm lãnh đạo địa phương. Như vậy, nếu áp dụng
cơ chế bầu trực tiếp Chủ tịch UBND thì chỉ nên áp dụng đối với địa bàn nông thôn.
3.3. Giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
3.3.1. Công tác chỉ đạo, lãnh đạo tổ chức, triển khai thực hiện
Để giảm bớt các đầu mối (các BCĐ) trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện dân chủ cơ sở,
không cần thành lập BCĐ ở địa phương (chỉ thành lập BCĐ ở trung ương).
3.3.2. Công tác tổ chức thực hiện, tuyên truyền
Thứ nhất, các cấp chính quyền cần tiếp tục đẩy mạnh việc phổ biến, tuyên truyền việc thực
hiện pháp luật về thực hiện dân chủ xuống tận cơ sở, coi việc thực hiện pháp luật dân chủ là mục
tiêu, là nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhằm phát huy sức mạnh
tổng hợp của Nhân dân.
Thứ hai, tiếp tục phát động, triển khai các phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa, công tác xóa đói, giảm nghèo việc làm, huy động tốt mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển
kinh tế.
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự phối hợp thực hiện của Đảng ủy, UBND, Ủy
ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc xây dựng và thực hiện QCDC ở tổ dân phố.
Thứ tư, thường xuyên mở các lớp tập huấn về thực hiện dân chủ tại cấp xã cho toàn thể cán
bộ làm công tác dân chủ từ cấp phường xuống tổ dân phố.
Thứ năm, chính quyền địa phương nên xây dựng tài liệu tổng thể, hướng dẫn thực hiện dân
chủ ở cấp xã để góp phần làm thống nhất trong cách làm, cách thực hiện cũng như phương pháp
triển khai,
Thứ sáu, để nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã cần quan tâm nâng cao vai
trò của MTTQ trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện của chính quyền.
23
Thứ bảy, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động Nhân dân
nâng cao ý thực trách nhiệm thực hiện quyền bầu cử Tổ trưởng dân phố, bằng nhiều hình thức.
3.3.3. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm
Thứ nhất, cần phải tăng cường việc tập huấn, trang bị thêm kiến thức, kỹ năng để Ban Giám
sát phát huy tốt hơn vai trò tích cực của mình, có đủ “tự tin” đòi hỏi chính quyền, chủ dự án cung
cấp thông tin..
Thứ hai, tăng cường năng lực Ban TTND bằng nhiều giải pháp như: lựa chọn đội ngũ thành
viên Ban TTND có trình độ đồng đều (tối thiểu phải tốt nghiệp Phổ thông trung học), mỗi năm có
kế hoạch cụ thể để tổ chức tập huấn về kỹ năng, nghiệp vụ cho Ban TTND; mỗi xã, phường, thị trấn
có thể xây dựng các cuốn cẩm nang (trong đó có các văn bản pháp luật quan trọng và một số kỹ
năng nghiệp vụ thanh tra cần thiết) nhằm trang bị những kiến thức tối thiểu cho TTND; tăng cường
mối quan hệ phối hợp giữa Ban TTND và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng.
Thứ ba, nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ Tổ trưởng tổ dân phố (Trưởng
thôn) thông qua thực hiện đồng bộ hai biện pháp là: đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện các giải pháp
về chính sách chế độ.
Thứ tư, các cấp có thẩm quyền cần có kế hoạch nâng cấp trụ sở làm việc của UBND xã,
phường, thị trấn; tạo điều kiện về quỹ đất và hỗ trợ một phần kinh phí để xây dựng nơi hội họp, sinh
hoạt cộng đồng cho các khu dân cư, tổ dân phố có khó khăn về nơi sinh hoạt. Đầu tư kinh phí trang
bị sách, văn bản cho các tổ dân phố để từng bước nâng cao nhận thức của Nhân dân đối với đường
đối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tiểu kết chƣơng 3
Việc hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở trong bối cảnh Nhà nước ta đang trong
quá trình xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần dựa trên các
quan điểm sau đây: Thứ nhất, pháp luật phải có những quy định chi tiết về trách nhiệm của chính
quyền cơ sở trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn nội dung thực hiện dân chủ
cơ sở đến với người dân. Thứ hai, pháp luật điều chỉnh hoạt động của chính quyền cơ sở theo hướng
công khai, minh bạch, dân chủ, chú trọng đến chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc. Thứ ba,
pháp luật tăng cường quy định theo xu hướng hội nhập. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện pháp luật về
thực hiện dân chủ cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển cần dựa trên các
quan điểm sau đây: Th pháp luật có sự gia tăng số lượng những nội dung “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” để mở rộng dân chủ, bảo đảm sự tham gia ý kiến của người dân vào quá
trình hoạch định chính sách, pháp luật; Thứ hai, pháp luật có những quy định xác lập được chế độ
trách nhiệm trước dân của cơ quan nhà nước và hệ thống khuyến khích phục vụ dân; Thứ ba, pháp
luật bổ sung những quy định về tăng cường tương tác giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước và
giữa bộ máy nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội về đảm bản dân chủ cơ sở.
Để hoàn thiện pháp luật về thực hiện hiện dân chủ cơ sở cũng như bảo đảm thực hiện pháp
luật dân chủ cơ sở có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam cần triển khai thực hiện các giải
pháp sau: Thứ nhất, nâng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 lên thành
Luật và sửa đổi, bổ sung một số quy định có liên quan; Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện một số đạo
luật làm cơ sở cho việc thực hiện dân chủ cơ sở; Thứ ba, thực hiện một số giải pháp về công tác chỉ
đạo, lãnh đạo tổ chức, triển khai thực hiện, về công tác tổ chức thực hiện, tuyên truyền và hoàn
thiện cơ chế bảo đảm.
24
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn mới của cách mạng hiện nay, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng, của công cuộc đổi mới của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Bởi lẽ xuất phát từ giá trị quyền
con người và phát huy giá trị quyền con người, từ sự cần thiết phải tăng cường hiện thực hoá quyền
con người, từ triển khai thực hiện quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển, từ đổi
mới căn bản, toàn diện các cơ chế để thực thi quyền lực Nhân dân, từ yêu cầu của xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và Nhà nước kiến tạo phát triển, từ thực trạng thực
hiện dân chủ cơ sở ở nước ta và từ xu hướng căn bản của cộng đồng quốc tế và khu vực ngày càng
quan tâm đến dân chủ và quy định pháp luật để hiện thực hóa nền dân chủ trong thế giới đương đại.
Có thể khẳng định pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở như một luồng gió mới, khơi dậy
tinh thần làm chủ của Nhân dân làm thỏa lòng mong mỏi của quần chúng Nhân dân tạo động lực to
lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ kết quả nghiên cứu “Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội”, luận văn rút ra một số kết luận:
Thứ nhất, dựa trên những kiến thức khoa học về Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Luận
văn đã phân tích đánh giá làm sáng tỏ một cách tổng quát cơ sở lý luận về pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở, như: một số khái niệm về dân chủ, cơ sở, thực hiện dân chủ cơ sở, pháp luật về thực
hiện dân chủ cơ sở; nội dung thực hiện dân chủ cơ sở; các tiêu chí đánh giá thực hiện dân chủ cơ sở;
các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở và các điều kiện bảo đảm thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở; nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở.
Thứ hai, từ những vấn đề lý luận, dựa trên các tài liệu, số liệu đã được thu thập, luận văn đã
phân tích thực trạng hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở từ năm 1998 đến nay, chỉ ra
được quá trình hình thành, phát triển, đánh giá những ưu điểm và hạn chế pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở, tập trung vào Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11. Đồng thời, luận văn cũng tập
trung phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở (chủ yếu
từ năm 2007 đến nay và tập trung sâu vào giai đoạn 5 năm gần đây) trên hai phương diện ưu điểm
và hạn chế, chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của hạn chế.
Thứ ba, từ việc nghiên cứu yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng đất nước, luận văn
đã đưa ra những quan điểm để hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở hiện nay từ thực tiễn
địa bàn nghiên cứu để đảm bảo phương châm “dân biết dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Từ những
định hướng đó, luận văn đưa ra các nhóm giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở trong giai đoạn tiếp theo cần đòi hỏi
phải xây dựng và thực hiện, thúc đẩy thực hiện một cách đồng bộ, có hệ thống các giải pháp đã
được luận giải trong luận văn.
Pháp luật và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta. Đó là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng, là nhiệm vụ lâu dài, có ý nghĩa chiến lược, nhằm
tạo động lực cho công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu đề tìm ra những giải pháp hoàn thiện về cơ chế pháp lý và phương thức thực hiện dân
chủ cơ sở là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng yêu cầu khách quan đặt ra trong thực tiễn không
ngừng mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_phap_luat_ve_thuc_hien_dan_chu_co_so_tu_thu.pdf