Xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn thông qua cơ sở lý luận và
thực tiễn phản ánh được những bước chuyển rõ rệt và tích cực về
nhận thức về giá trị của hệ thống bảo tàng đối với đời sống, nhu cầu
hưởng thụ văn hóa của công chúng trong và ngoài nước. Đồng thời
đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng, đưa ra
những nhận xét, đánh giá về những mặt đạt được và những hạn chế,
nguyên nhân hạn chế trong việc quản lý nhà nước về phát triển hệ
thống bảo tàng. Do đó, việc hoàn thiện quản lý nhà nước về hệ thống
bảo tàng ở Đà Nẵng là nhiệm vụ quan trọng nhằm khắc phục những
hạn chế bất cập trong công tác quản lý nhà nước về hệ thống bảo
tàng.
Chương 1: Trình bày khái quát cơ sở lý luận về quản lý nhà
nước đối với hệ thống bảo tàng và hệ thống các văn bản pháp lý liên
quan đến hệ thống bảo tàng, nêu rõ các khái niệm cơ bản liên quan
đến đề tài luận văn và nội dung quản lý nhà nước về hệ thống bảo
tàng. Luận văn đã nêu lên sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với
hệ thống bảo tàng cũng như kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hệ
thống bảo tàng của một số tỉnh, thành phố và thế giới, qua đó rút ra24
những bài học kinh nghiệm cho hoạt động của hệ thống bảo tàng Đà
Nẵng.
26 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 784 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
/ /
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HÀ MINH PHƯỚC
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỆ THỐNG BẢO TÀNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Thừa Thiên Huế - Năm 2017
Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Thị Minh Tuyết
Phản biện 1: ................................................................................
Phản biện 2: ...............................................................................
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học
viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp ....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn
thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia.
Số: 203- Đường Phan Bội Châu - Tp Huế - tỉnh Thừa Thiên Huế
Thời gian: vào hồi giờ...ngày.....thángnăm 2017
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển văn hóa nhân loại, bảo tàng ra đời
như một loại thiết chế văn hóa đặc biệt có lịch sử hình thành và phát
triển lâu dài, tồn tại ở nhiều chế độ chính trị xã hội, trong nhiều giai
đoạn lịch sử khác nhau được hiểu một cách phổ biến là nơi lưu giữ
các giá trị vật chất và tinh thần tiêu biểu thuộc về quá khứ của một
lĩnh vực, một nền văn hóa cộng đồng, rộng hơn là của nhân loại.
Bảo tàng quốc gia là thiết chế văn hóa đặc biệt của mỗi quốc
gia. Vì thế, khi nhắc đến bảo tàng, công chúng thường nghĩ tới một
địa điểm không chỉ có kiến trúc đẹp, mà còn là nơi trưng bày, đưa tới
nhiều điều thú vị. Trên thế giới, bảo tàng là một loại hình văn hóa
được đặc biệt chú trọng phát triển nhằm quảng bá lịch sử - văn hóa
vốn là niềm tự hào của mỗi quốc gia là nơi “kết nối giữa quá khứ với
hiện tại và tương lai”.
Với tổ chức ICOM (Hội đồng Bảo tàng quốc tế) thì bảo tàng
là thiết chế tồn tại lâu dài, không vụ lợi nhằm phục vụ xã hội và sự
phát triển của xã hội, mở cửa phục vụ công chúng và tiến hành
nghiên cứu liên quan đến di sản của con người và môi trường chung
quanh. Ở Việt Nam, theo Luật Di sản văn hóa, bảo tàng là thiết chế
văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày và
giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con
người, môi trường sống của con người nhằm phục vụ nhu cầu nghiên
cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa của công chúng.
2
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn DSVH,
ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) được thành lập, ngày 23 tháng 11
năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL về việc
bảo tồn cổ tích trên toàn quốc. Có thể xem đây là văn bản quy phạm
pháp luật đầu tiên của nhà nước Việt Nam mới đối với vấn đề bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
Kể thời điểm đó đến nay, trong hoàn cảnh chiến tranh hay
hòa bình, trong công cuộc và xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước đây
hay trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
trọng và quan tâm đến việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa của dân tộc, luôn chú trọng đến công tác bảo vệ và phát huy giá
trị văn hóa nhằm “gắn kết cộng đồng dân tộc” và làm “cơ sở để sáng
tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa” Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về “Xây đựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân rộc”;
Kết luận Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)
những năm sắp tới và Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng. Quán
triệt tư tưởng chỉ đạo này, ngày 03 tháng 11 năm 2008 Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch ban hành Chỉ thị số 84/2008/CT-BVHTTDL về
tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo nhằm thúc đẩy sự ra đời, phát
triển của các bảo tàng và sưu tập tư nhân. Coi trọng và gắn văn hóa
với phát triển, coi văn hóa là nhân tố đảm bảo cho sự phát triển kinh
tế - xã hội bền vững. Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể là nền tảng
3
để hun đúc nên bản sắc văn hóa và giá trị văn hóa của dân tộc, là một
nguồn lực cho sự phát triển. Bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề trọng
đại, sống còn của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh
tế, văn hóa là một vấn đề dễ bị ảnh hưởng, trong đó bản sắc văn hóa,
văn hóa truyền thống rất dễ bị tác động tiêu cực. Mối quan hệ giữa
bải vệ bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn
hóa nhân loại sẽ làm phong phú cho văn hóa đất nước, thúc đẩy văn
hóa phát triển.
Đà Nẵng là một thành phố thuộc trung ương từ năm 1997,
nằm ở vị trí trung độ của Việt Nam, là trung tâm lớn về kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả
nước. Đà Nẵng là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung
ương ở Việt Nam, đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc gia, cùng với Hải
Phòng và Cần Thơ.
Trong những năm gần đây, Đà Nẵng đã tích cực đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và
được coi là "thành phố đáng sống" của Việt Nam.
Thực hiện Quyết định phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung
thành phố Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Mục
tiêu phát triển Đà Nẵng thành thành phố cấp quốc gia, hiện đại; tầm
nhìn đến năm 2050, xây dựng và phát triển Đà Nẵng trở thành thành
phố đặc biệt cấp quốc gia, hướng tới đô thị cấp quốc tế và phát triển
bền vững, trong đó quy hoạch về thiết chế văn hóa hệ thống các bảo
tàng như Bảo tàng Điêu khắc Chăm, Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng
4
Quân khu V, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Phật giáo, Bảo tàng Hải
Dương học Bảo tàng Đồng Đình. Tuy nhiên, để công tác bảo tồn và
phát huy giá trị của di sản văn hóa nói chung, hệ thống bảo tàng nói
riêng thực sự hiệu quả, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng
cao của nhân dân, đòi hỏi các cấp chính quyền phải nâng cao hơn nữa
hiệu lực hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng
như thế nào để phát triển mang tính bền vững trong giai đoạn hiện nay
mới chính là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm đúng mức của các
ngành, các cấp, nhất là những người làm công tác quản lý văn hoá
hiện nay.
Nhận thức tầm quan trọng cũng như tính bức thiết của vấn
đề nêu trên ở thành phố Đà Nẵng, tôi đã chọn đề tài "Quản lý nhà
nước về hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng" làm
luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý công, với hy vọng góp phần
vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý bảo tàng
nhằm bảo tồn và phát huy tác dụng của nó một cách bền vững trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho quê hương đất nước và
xây dựng thành phố Đà Nẵng vững về chính trị, giàu về kinh tế, đẹp
về văn hóa.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay việc nghiên cứu về công tác quản lý hệ thống bảo
tàng đang được nhiều nhà quản lý và nhà khoa học quan tâm, đã có
nhiều công trình nghiên cứu được công bố rộng rãi dưới dạng sách,
báo, tạp chí, báo cáo khoa học. Nhưng tất cả các công trình đó chỉ
nghiên cứu về công tác nghiệp vụ của bảo tàng, về lịch sử, văn hóa.
5
Như vậy, qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu nói trên, chúng
ta thấy rằng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ
thống và toàn diện về hệ thống quản lý bảo tàng. Vì vậy việc nghiên
cứu nội dung : “Quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng" sẽ cho chúng ta có cái nhìn sâu sắc và toàn diện
hơn, nhằm đưa ra các giải pháp khách quan cho hoạt động quản lý
nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động
của hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn này là góp phần
hoàn thiện quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài luận văn tập
trung thực hiện 3 nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý nhà nước đối với các
bảo tàng và kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với bảo tàng ở một
số tỉnh, thành phố rút ra bài học tham khảo cho thành phố Đà Nẵng.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với
hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
6
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý nhà nước (bao gồm lý luận và thực tiễn) đối với hệ
thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Tập trung nghiên cứu các nội dung
quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng.
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng được
thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà
nước đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ
năm 2010-2016 và đề xuất định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước
cho thời gian tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của
luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở những lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường
lối chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hóa DSVH, bảo
tồn và phát huy DSVH.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết;
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn;
- Phương pháp thống kê mô tả;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm;
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin.
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần hệ thống hóa những cơ sở lý luận QLNN đối với
hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần phân tích, đánh giá từ đó xác định được nguyên
nhân của thực trạng QLNN đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị thiết thực góp phần
hoàn thiện QLNN đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay và thời gian.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý ngành và địa phương trong
hoạt động QLNN đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, nội dung chính của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn quản lý
nhà nước đối với hệ thống bảo tàng.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hệ thống
bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà
nước đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỆ THỐNG BẢO TÀNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài luận văn
1.1.1. Bảo tàng
Khái niệm bảo tàng: Theo Điều 47 của Luật di sản văn hóa
công bố năm 2001 “Bảo tàng là nơi bảo quản và trưng bày các sưu
tập lịch sử tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu,
giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hóa của nhân dân” [27].
1.1.2. Hệ thống bảo tàng: là tập hợp các bảo tàng có quan hệ hữu
cơ với nhau, tác động chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định
để trở thành một chỉnh thể. Từ đó xuất hiện thuộc tính mới
gọi là tính trồi của hệ thống mà từng phần tử riêng lẻ không có
hoặc có không đáng kể.
Đặc điểm của hệ thống bảo tàng: Bên cạnh những chức năng
và nhiệm vụ mang tính chuyên ngành bảo tàng nói chung, hệ thống
bảo tàng luôn tìm những cách đi mới phù hợp với quy mô và mục
đích của các bảo tàng. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng và trong công tác
nghiên cứu của cán bộ khi thực hiện các chức năng sưu tầm, lưu giữ,
trưng bày và khai thác các bộ sưu tập hiện vật.
1.1.3. Quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt,
mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để
điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực
9
của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện,
nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì ổn định và
phát triển của xã hội [40].
Quản lý nhà nước về văn hóa: là quản lý của nhà nước đối
với toàn bộ hoạt động văn hóa của quốc gia bằng quyền lực, thông
qua hiến pháp, pháp luật và cơ chê chính sách nhằm đảm bảo cho sự
phát triển của nhà văn hóa dân tộc.
Quản lý nhà nước đối với bảo tàng: là hoạt động của các
cơ quan nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và thi hành
pháp luật đối với hoạt động của bảo tàng.
Chủ thể QLNN đối với bảo tàng
- Cấp Trung ương: là các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc chính phủ có thẩm quyền trong quản lý nhà nước đối với hệ
thống bảo tàng.
- Cấp địa phương: Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan
chức năng trực thuộc Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền
trong quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng ở địa phương.
1.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng
1.2.1. Quy hoạch hệ thống bảo tàng
Ngày 26/8/2016, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Đặng Thị Bích
Liên đã ký văn bản số 3376/BVHTTDL-DSVH gửi Bộ, ngành, tổ
chức chính trị xã hội ở Trung ương và UBND các tỉnh , thành phố
trực thuộc Trung ương về việc quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng
Việt Nam đến năm 2020.
10
Quyết đinh số 8941/QĐ-UBND ngày 28 tháng 10 năm 2008
của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng về việc phê duyệt Đề án
Quy hoạch hệ thống các bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
đến năm 2020.
Từ nay đến năm 2020, hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng bao gồm 4 bảo tàng cấp thành phố và hệ thống bảo
tàng trực thuộc Quân Khu 5 (Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh
Quân Khu 5 và Bảo tàng Quân Khu 5.
1.2.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế và chính sách đối
với hệ thống bảo tàng
1.2.3. Xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý hệ thống bảo tàng
1.2.4. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ
chuyên môn đối với hệ thống bảo tàng
1.2.5. Hỗ trợ và thu hút các nguồn lực để phát triển hệ thống bảo tàng
1.2.6. Thanh tra, kiểm tra và đánh giá hoạt động quản lý nhà
nước đối với hệ thống bảo tàng
1.3. Sự cần thiết quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng
1.3.1. Định hướng và điều chỉnh hoạt động của hệ thống bảo tàng
Trong nhận thức về xu hướng tổ chức hoạt động của hệ
thống bảo tàng Đà Nẵng hiện nay. Một số không nhỏ trong đội ngũ
cán bộ bảo tàng, nhất là các bảo tàng chuyên ngành thuộc hệ thống
bảo tàng công lập, vẫn giữ quan niệm theo mô hình cũ, coi bảo tàng
gắn liền với hệ thống các hiện vật, và nghiêng nhiều về hướng bảo
tồn di sản văn hóa vật thể. Trong khi, đại diện cho những cách nhìn
tiếp cận xu hướng của bảo tàng thế giới, cho rằng, bảo tàng cần
11
hướng mạnh hơn về việc bảo tồn di sản văn hóa vật thể và hướng đến
các hoạt động mở bên ngoài khuôn viên bảo tàng. Đồng thời, hệ
thống bảo tàng cần nâng cấp trang thiết bị, để cập nhật thông tin, và
cung cấp thông tin cũng cần được xem là chức năng quan trọng, có
vai trò không thua kém so với việc bảo tồn và trưng bày hiện vật.
1.3.2. Hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển hệ thống bảo tàng
Bảo tàng là một thiết chế luôn được đặt dưới sự quản lý của
nhà nước trong mọi hoạt động. Chính vì vậy, công tác quản lý nhà
nước là điều kiện cần thiết để phát triển hệ thống bảo tàng.
1.3.3. Phát huy vai trò của hệ thống bảo tàng trong đời sống xã
hội
Bảo tàng là thiết chế văn hóa chủ lực trong việc bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa. Vì vậy, thông qua công tác quản
lý nhà nước hoạt động của bảo tàng, các giá trị văn hóa của dân tộc
sẽ được giữ gìn, phát huy trong bối cảnh xã hội đương đại. Đối với
mỗi dân tộc, bản sắc văn hóa (cả vật thể và phi vật thể) là điều làm
nên sự khác biệt của dân tộc đó với dân tộc khác. Và Bảo tàng
chính là thiết chế trực tiếp và giữ vai trò quan trọng nhất đối với
công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa – bản sắc văn hóa.
1.3.4. Phát huy và bảo tồn giá trị của di sản văn hóa
Để phát huy vai trò và giá trị của các di sản văn hóa, thì du
lịch là một ngành kinh tế có định hướng tài nguyên một cách rõ rệt,
hay nói một cách khác du lịch chỉ có thể phát triển trên cơ sở khai
thác các giá trị tài nguyên du lịch. Đứng từ góc độ này, các giá trị
văn hóa được xem là dạng tài nguyên du lịch để khai thác tạo ra các
12
sản phẩm du lịch hấp dẫn, khác biệt và có khả năng cạnh tranh không
chỉ giữa các vùng miền, các địa phương trong nước mà còn giữa Việt
Nam với các nước trong khu vực và quốc tế.
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng
của một số tỉnh, thành phố và thế giới
1.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng một
số quốc gia
1.4.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng
trong nước
1.4.3. Bài học kinh nghiệm quản lý nhà nước
Hệ thống bảo tàng là tập hợp các bảo tàng có quan hệ hữu cơ
với nhau, tác động chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định để
trở thành một chỉnh thể. Từ đó xuất hiện thuộc tính mới gọi là tính
trồi của hệ thống mà từng phần tử riêng lẻ không có hoặc có không
đáng kể.
Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ
thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trước hết cần có
những nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng và
xây dựng, tổ chức thực hiện các thể chế chính sách đối với hệ thống
bảo tàng; phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn để
đáp ứng nhu cầu trong công việc. Để phát triển hoạt động của hệ
thống bảo tàng cần có sự hỗ trợ và thu hút nguồn lực từ các chính
sách hỗ trợ từ trung ương và địa phương để phát huy các giá trị di
sản văn hóa trong đời sống xã hội.
Tiểu kết chương 1
13
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỆ HỐNG
BẢO TÀNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Khái quát về hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống bảo tàng trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng
Từ những năm cuối thế kỷ XIX, việc thu thập những tác
phẩm điêu khắc Chăm bắt đầu được thực hiện bởi những người Pháp
yêu ngành khảo cổ học, đặc biệt là các nhà nghiên cứu làm việc cho
Trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp (L' École Francais d' Éxtrême -
Orient, viết tắt là EFEO) và những đồng nghiệp Việt Nam. Sang đầu
thế kỷ XX, một số hiện vật điêu khắc Chăm đã được chuyển đi Pháp,
một số khác được chuyển ra Bảo tàng tại Hà Nội và Bảo tàng tại Sài
Gòn, nhưng phần nhiều những tác phẩm tiêu biểu vẫn còn để lại tại
Đà Nẵng.
Ý tưởng về xây dựng ở Đà Nẵng một nhà bảo tàng cho các
tác phẩm điêu khắc Chăm đã manh nha từ năm 1902 với một đề án
của Khoa Khảo cổ của EFEO. Quá trình xây dựng đề án và vận động
để đề án được thực hiện có sự đóng góp lớn của Henri Parmentier
(1871 - 1949), chuyên gia khảo cổ của EFEO, một trong những
người tiên phong có đóng góp quan trọng trong việc sưu tầm, nghiên
cứu di sản văn hóa Chăm. Tòa nhà đầu tiên của Bảo tàng Điêu khắc
Chăm được khởi công xây dựng vào năm 1915, hoàn thành trong
14
năm 1916 và chính thức mở cửa đón khách tham quan vào đầu năm
1919.
Sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh
Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng vào năm 1997, Bảo tàng Đà
Nẵng được thành lập lại theo Quyết định số 901/QĐ-UB ngày 09
tháng 4 năm 1997 của Uỷ ban nhân dân lâm thời thành phố Đà Nẵng.
2.1.2. Hệ thống bảo tàng của thành phố Đà Nẵng
Từ nay đến năm 2020, hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng bao gồm 4 bảo tàng cấp thành phố và hệ thống Bảo
tàng trực thuộc Quân khu 5 (Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh
Quân khu 5 và Bảo tàng Khu 5): Bảo tàng điêu khắc Chăm, bảo tàng
lịch sử Đà Nẵng, bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng, bảo tàng Hải Dương
học Đà Nẵng, các bảo tàng tư nhân.
2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hệ thống
bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Thực trạng quy hoạch hệ thống bảo tàng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng
Triển khai và thực hiện về việc quy hoạch hệ thống bảo tàng
nói chung và hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói
riêng theo văn bản số 3376/BVHTTDL-DSVH ngày 06/8/2016, Thứ
trưởng Bộ VHTTDL Đặng Thị Bích Liên đã ký gửi Bộ, ngành, tổ
chức chính trị xã hội ở Trung ương và UBND các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương về việc thực hiện Quy hoạch tổng thể hệ
thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020.
15
Theo đó, nhằm khắc phục tồn tại trong việc triển khai Quy
hoạch trong những năm qua, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng
quan tâm chỉ đạo, đầu tư và tạo điều kiện cho sự phát triển của các
bảo tàng thuộc Bộ, ngành, tổ chức theo một số định hướng sau: cần
tăng cường đầu tư kinh phí hợp lý cho việc chuẩn bị nội dung, thiết
kế mỹ thuật trưng bày và thực hiện trưng bày bảo tàng đối với các dự
án xây dựng bảo tàng mới.
2.2.2. Thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế và chính
sách quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng
Pháp luật hiện nay chưa có quy định về giáo dục bảo vệ di
sản, đây là nhiệm vụ của các thiết chế văn hóa, đặc biệt là các bảo
tàng. Ngoài ra, sự phát triển kinh tế xã hội, thương mại hóa di sản
văn hóa; toàn cầu hóa và hội nhập văn hóa là các yếu tố tác động đến
việc bảo tồn các di sản văn hóa, sự bền vững của văn hóa bản địa, du
lịch hóa các di sản làm tổn thương các di sản nhạy cảm. Vì vậy, cần
có các biện pháp bảo vệ di sản văn hóa, đặc biệt là di sản văn hóa phi
vật thể, để ngăn ngừa các tác động tiêu cực từ các hoạt động nói trên.
Theo Luật di sản văn hóa, một trong những chức năng của bảo tàng
là Quản lý Nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể. Có nghĩa, các bảo
tàng ở địa phương cần có phòng giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể
của địa phương, của toàn quốc. Nhưng đây cũng là vấn đề mới chỉ
quy định ở mức chung chung, chưa cụ thể và khó khả thi trên thực tế.
Cơ sở quan trọng cho việc bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa phi vật thể hiện nay là Luật di sản văn hóa 2001 và Luật sửa đổi,
16
bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm 2009 [27, 29]. Tuy
nhiên, chúng ta còn thiếu các văn bản dưới luật được xây dựng trên
cơ sở thống nhất ý kiến cộng đồng, để đảm bảo cho việc hướng dẫn,
thực thi luật ở địa phương, ví dụ như đối với công tác quản lý bảo
tàng dưới góc độ là di sản văn hóa phi vật thể.
2.2.3. Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý hệ thống bảo tàng trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng
Trong nhiều năm trở lại đây, không thể phủ nhận nỗ lực của
đại đa số cán bộ hệ thống bảo tàng Đà Nẵng đã tự học hỏi vươn lên
để tạo dựng nên những thiết chế văn hóa là những điểm đến hấp dẫn
đối với du khách như: Bảo tàng Điêu Khắc Chăm, Bảo tàng lịch sử
Đà Nẵng, Bảo tàng Quân khu 5 Đây là con số chưa nhiều về sự
thành công nhưng so với vài chục năm trước đã tạo nên dấu ấn
thương hiệu mà không nhiều quốc gia đang phát triển có được.
Tuy nhiên chúng ta cũng tự nhận thấy đội ngũ cán bộ của
bảo tàng còn rất thiếu, trình độ không đồng đều, nhiều nơi còn yếu
nhất là về trình độ ngoại ngữ và khả năng cập nhật sự phát triển của
khoa học bảo tàng nên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, hội nhập
quốc tế trên lĩnh vực này.
Để quản lý và vận hành có hiệu quả hệ thống bảo tàng thì
việc định hướng phát triển nguồn nhân lực bảo tàng Việt Nam nói
chung và hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói
riêng mới đặt ra đã là muộn, nhưng muộn mà chuẩn bị tốt còn hơn
không làm gì cả và nhất định chúng ta sẽ thành công”.
17
2.2.4. Thực trạng xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
và cán bộ chuyên môn đối với hệ thống bảo tàng
Hiện nay, những người làm công tác quản lý nhà nước về
công tác quản lý bảo tàng còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu những
kiến thức chuyên môn và kỹ năng hoạt động, chưa có kinh nghiệm
và học hỏi được những mô hình, những phương thức bảo tồn và tổ
chức hoạt động trong hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố.
Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của cán bộ văn hóa các cấp
thành phố chưa cụ thể nên chưa phát huy hiệu quả tích cực.
Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý chuyên ngành di sản văn
hóa nói chung và bảo tàng nói riêng với chính quyền các cấp chưa
tích cực và kịp thời.
Công tác tham mưu tổ chức các biện pháp quản lý hệ thống
bảo tàng chưa thực sự được chú trọng, nên một số kết quả đạt được
mới chỉ ở góc độ vụ việc mà chưa thành hệ thống theo kết quả cụ
thể.
2.2.5. Thực trạng hỗ trợ và thu hút các nguồn lực để phát triển
đối với hệ thống bảo tàng
Từ Đại hội VI của Đảng, đất nước bước vào đổi mới, Đảng
và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo, bồi
dưỡng, và phát triển nguồn nhân lực , nhằm xây dựng nguồn cán bộ
cho lớp kế cận của đất nước. Đến ngày 21-1-2014, Bộ Chính trị
có Kết luận số 86-KL/TW về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ
sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Đây là chủ trương
đúng đắn, hợp xu thế, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà
18
nước tới lớp thanh niên, nhà khoa học trẻ ưu tú, đặt họ vào vị trí quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
2.2.6. Thực trạng thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động quản
lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng
Thường xuyên thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động
quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng cũng như việc kiểm tra
theo chương trình, tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng
điểm của hoạt động hệ thống bảo tàng có vấn đề phức tạp. Nhận
thức của tổ chức về công tác kiểm tra, giám sát có chuyển biến rõ
rệt, thấy rõ sự cần thiết của công tác kiểm tra, giám sát, từ đó chủ
động xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức lực lượng kiểm tra,
giám sát đã bám sát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy chế làm
việc, phương hướng nhiệm vụ để chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra
việc thực hiện công tác kiểm tra một cách toàn diện.
2.2.7. Tổng kết đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hệ thống
bảo tàng
Trong quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng, hàng năm,
UBND thành phố Đà Nẵng đã thực hiện công tác tổng kết và đánh giá,
thi đua và khen thưởng đối với hoạt động của hệ thống bảo tàng trên
địa bàn thành phố.
UBND thành phố đã phân công và xác định vai trò chủ đạo
cũng như trách nhiệm của từng cơ quan chuyên môn và đơn vị trong
trong hoạch định chính sách, chủ trương, đường lối, xây dựng kế
hoạch và hoàn thiện hệ thống chính sách và công cụ khuyến khích và
thúc đẩy phát triển nhân lực.
19
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo
tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.3.1. Kết quả đạt được trong quản lý nhà nước đối với hệ thống
bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Công tác quản lý hoạt động của hệ thống bảo tàng bước đầu đã
đạt được những kết quả nhất định, sớm đi vào ổn định và hoạt động
mang lại những kết quả rất khả quan và được cấp trên đánh giá cao.
Các hoạt động trong suốt thời gian qua của hệ thống bảo tàng Đà
Nẵng là những đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp giáo dục truyền
thống cho thế hệ trẻ của thành phố Đà Nẵng, của đất nước - nguồn
lực cơ bản của quá trình công nghiệp hóa đất nước và hội nhập quốc
tế. Thông qua nhiều hình thức tuyên truyền, quảng bá đa dạng, phong
phú, trong tương lai, hệ thống bảo tàng chắc chắn sẽ thu hút được
nhiều khách tham quan đến với bảo tàng.
2.3.2. Hạn chế trong quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng
trên địa bàn thành phố Đà nẵng
Quy định về kinh phí cho hoạt động của bảo tàng còn đánh giá và
thực hiện theo định mức, chưa có quy định riêng cho từng ngành.
Thành phố Đà Nẵng chưa ban hành cơ chế, chính sách riêng
đối với hoạt động của hệ thống bảo tàng.
Hoạt động của bảo tàng cũng có nhiều hạn chế do thiếu đội
ngũ cán bộ chuyên môn trong lĩnh vực bảo tàng, thiếu kinh phí hoạt
động và thiếu phương tiện để bảo quản, trưng bày.
Công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước chưa
thật sự đạt hiệu quả.
20
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước đối với hệ
thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Nhìn chung, hoạt động trong quản lý nhà nước đối với hệ
thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay còn tồn tại
những hạn chế, thiếu sót trên là xuất phát từ những nguyên nhân
sau:
Hệ thống văn bản pháp luật về lĩnh vực quản lý hệ thống
bảo tàng còn thiếu, chưa đồng bộ. Sự hướng dẫn về nghiệp vụ của
Sở Văn hóa và Thể thao chưa kịp thời và thường xuyên.
Mặc dù nhận thức của các ngành, các cấp và toàn xã hội về
vai trò của toàn xã hội đối với hệ thống bảo tàng đã được nâng cao
nhưng chưa sâu sắc, toàn diện và cũng chưa được cụ thể hóa bằng
các biện pháp, kế hoạch và chương trình cụ thể.
Các tham luận cũng đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến
những hiện trạng nêu trên. Bằng những lý luận sâu sắc cùng bài
học thực tế tại các bảo tàng, các tác giả đã nêu ra những nguyên
nhân, đó là việc đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng, là
những bất cập trong sử dụng và quản lý nguồn nhân lực, là những
cơ chế chính sách còn thiếu và chưa phù hợp.
Tiểu kết chương 2
21
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀNƯỚC ĐỐI VỚI HỆ THỐNG BẢO TÀNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. Quan điểm và định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà nẵng
3.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa và di sản văn hóa
Để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc cần phải tập trung sức mạnh của toàn Đảng, của bộ máy
nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và toàn thể các tầng lớp
nhân dân, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt
động của cá nhân và cộng đồng, phản ánh chất lượng và trình độ
sống của xã hội, xây dựng đời sống tinh thần cao đẹp, khoa học phát
triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới đất nước, làm cho văn
hóa thực sự trở thành môi trường nhân văn, trở thành động lực thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
3.1.2. Định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng
Định hướng đề ra các chính sách phù hợp cho công tác
quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng ở Đà Nẵng. Công tác
quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng được hoàn thiện và đi vào
hoạt động có hiệu quả cần cần: đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu
22
quả quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng; hoàn thiện cơ chế quản
lý đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương; Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm
cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm; nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ quản lý hệ thống bảo tàng và tăng cường cơ chế
phối hợp trong quản lý hệ thống bảo tàng với các bộ, ban, ngành,
đoàn thể, đặc biệt là với các cơ quan giáo dục, thông tin truyền
thông, pháp luật, an ninh.
3.1.3. Mục tiêu phát triển đối với hệ thống bảo tàng
3.2. Giải pháp hoàn thiện nội dung quản lý nhà nước đối với hệ
thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
3.2.1. Quy hoạch hệ thống bảo tàng được đặt trong quy hoạch phát
triển kinh tế xã hội của thành phố Đà Nẵng
3.2.2. Hoàn thiện thể chế QLNN đối với hệ thống bảo tàng
3.2.3. Đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn sâu cho đội ngũ cán bộ
quản lý và chuyên môn đối với hệ thống bảo tàng
3.2.4. Tăng cường hố trợ ngân sách từ nguồn thu của thành phố
đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
3.2.5. Cụ thể hóa chính sách khuyến khích thu hút nguồn lực
trong cộng đồng cho hoạt động của hệ thống bảo tàng
3.2.6. Mở rộng hợp tác quốc tế và áp dụng khoa học kỹ thuật đối
với hệ thống bảo tàng
3.2.7. Thanh tra, kiểm tra, giám sát được tiến hành thường
xuyên, kịp thời, xử lý nghiêm những sai phạm trong QLNN đối
với hệ thống bảo tàng
23
3.3. Một số khuyến nghị về điều kiện để thực thi giải pháp
3.3.1. Đối với chính quyền địa phương
3.3.2. Đối với Sở Văn hóa và Thể thao
Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN
Xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn thông qua cơ sở lý luận và
thực tiễn phản ánh được những bước chuyển rõ rệt và tích cực về
nhận thức về giá trị của hệ thống bảo tàng đối với đời sống, nhu cầu
hưởng thụ văn hóa của công chúng trong và ngoài nước. Đồng thời
đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng, đưa ra
những nhận xét, đánh giá về những mặt đạt được và những hạn chế,
nguyên nhân hạn chế trong việc quản lý nhà nước về phát triển hệ
thống bảo tàng. Do đó, việc hoàn thiện quản lý nhà nước về hệ thống
bảo tàng ở Đà Nẵng là nhiệm vụ quan trọng nhằm khắc phục những
hạn chế bất cập trong công tác quản lý nhà nước về hệ thống bảo
tàng.
Chương 1: Trình bày khái quát cơ sở lý luận về quản lý nhà
nước đối với hệ thống bảo tàng và hệ thống các văn bản pháp lý liên
quan đến hệ thống bảo tàng, nêu rõ các khái niệm cơ bản liên quan
đến đề tài luận văn và nội dung quản lý nhà nước về hệ thống bảo
tàng. Luận văn đã nêu lên sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với
hệ thống bảo tàng cũng như kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hệ
thống bảo tàng của một số tỉnh, thành phố và thế giới, qua đó rút ra
24
những bài học kinh nghiệm cho hoạt động của hệ thống bảo tàng Đà
Nẵng.
Chương 2: Luận văn đã khái quát sơ lược quá trình hình
thành và phát triển hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hệ
thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Qua đó đánh giá
những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và đồng thời chỉ ra
nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước đối với hệ thống
bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Từ phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà
nước về hệ thống bảo tàng, trên cở sở vận dụng những lý luận về
quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng, trên cơ sở quan điểm của
đảng về phát triển văn hóa và di sản văn hóa; đồng thời định hướng
hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoàn
thiện nội dung quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng. Hy vọng
những giải pháp mà luận văn đưa ra sẽ là những gợi ý cho các cơ
quan quản lý nhà nước cũng như đơn vị trực tiếp quản lý hệ thống
bảo tàng trên địa bàn thành phố tham khảo, áp dụng vào hoạt động
quản lý nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hệ
thống bảo tàng ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ hội nhập và phát
triển hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quan_ly_nha_nuoc_doi_voi_he_thong_bao_tang.pdf