Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt tạo điều
kiện cho gia đình phát triển tốt. Bước sang thế kỷ 21, bạo lực gia đình vẫn lan rộng và trở
thành vấn đề xã hội nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam,
là vấn đề nhức nhối của mỗi gia đình nói riêng và xã hội nói chung. Nó để lại nhiều hậu
quả nghiêm trọng cho cả nạn nhân, gia đình và xã hội, tác động xấu đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, công tác PCBLGĐ là vấn đề có tính chất chiến
lược, là mục tiêu quan trọng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Bạo lực gia đình diễn ra với những hình thức muôn màu, muôn vẻ. Đó có thể là
bạo lực vật chất hay tinh thần; bạo lực bằng vũ lực hay ngôn từ; bạo lực của người lớn
đối với người nhỏ hay ngược lại và nghiêm trọng nhất hiện nay là bạo lực chống lại phụ
nữ do người chồng gây ra Đằng sau những tệ nạn xã hội đó có thể là những lý do sâu
xa như trình độ văn hóa thấp, tình trạng kém hiểu biết về pháp luật hay tư tưởng trọng
nam, khinh nữ còn quá nặng nề mà bản thân những người trong cuộc cũng chưa nhận
thức được. Điều đó đặt ra những yêu cầu đòi hỏi bởi các cơ quan, nhà nước, các cấp
chính quyền phải giải quyết thông qua hoạt động quản lý của mình.
Chính vì vậy, từ cơ sở lý luận về QLNN về PCBLGĐ; qua phân tích, đánh giá
thực trạng QLNN về PCBLGĐ trên địa bàn TP.HCM, cùng những phân tích về cơ sở lý
luận, thực trạng QLNN về PCBLGĐ đối với 24 quận, huyện (đại diện quận 10, Bình
Thạnh, Gò Vấp) trên địa bàn Thành phố, với 200 mẫu nghiên cứu, học viên mạnh dạn đề
các giải pháp. Đồng thời cũng đưa ra 03 kiến nghị đối với Quốc hội, đối với Chính phủ
và đối với chính quyền TP.HCM. Những kiến nghị này đều có tính khả thi nhằm giúp
UBND Thành phố hoàn thiện quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình.
QLNN về PCBLGĐ trên địa bàn TP.HCM là một vấn đề mới, cho đến nay vẫn
chưa có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu chuyên biệt. Trên cơ sở kiến thức quản lý
hành chính nhà nước, quản lý các vấn đề xã hội và các văn bản chỉ đạo, quản lý hoạt
động phòng, chống bạo lực gia đình của Trung ương, TP.HCM, luận văn đã tập hợp, hệ
thống và phân tích làm rõ nội dung QLNN về PCBLGĐ một cách cụ thể, khoa học; làm
tiền đề lý luận cho các nghiên cứu chuyên sâu sau này.
25 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 801 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là một xã hội thu nhỏ, nhiều gia đình cộng lại mới tạo thành xã hội. Điều
này trước hết chỉ ra rằng, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu coi
xã hội là cơ thể sống thì mỗi gia đình là tế bào làm nên cơ thể xã hội. Xã hội lành mạnh
tạo điều kiện cho các gia đình tiến bộ hạnh phúc, góp phần cho sự phát triển hài hòa, bền
vững của xã hội. Việc xây dựng gia đình mới là một trong những vấn đề quan trọng của
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Nhiều gia đình
cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý
hạt nhân cho tốt”. Một điều khẳng định rằng: Gia đình là tế bào tự nhiên, đồng thời là
một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình tái tạo ra con người để xây dựng xã hội
thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển được.
Tuy nhiên, gia đình Việt Nam hiện nay đang chịu nhiều tác động của xã hội, nhất
là trong thời k công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và quá trình hội nhập, toàn cầu
hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Điều này dẫn đến việc các giá trị của gia đình đang ngày càng
bị suy giảm nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của xã hội, mà một
trong những nguyên nhân chính là nạn bạo lực gia đình.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, k họp thứ 2 thông qua ngày 21/11/2007 có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2008. Qua 09 năm triển khai thực hiện Luật và hơn 06 năm triển khai thực
hiện Đề án “Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam giai đoạn
2010 - 2020” đã tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của cấp ủy, chính quyền,
các ban, ngành, đoàn thể, cán bộ và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn cả nước nói chung
và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân.
Có thể nói, những năm đầu triển khai thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình, hầu hết người dân cho rằng, bạo lực gia đình là việc riêng tư của gia đình nên khi
2
xảy ra sự việc, chuyện trình báo và sự tham gia can thiệp của cộng đồng chưa nhiều, chủ
yếu là một số vụ bạo hành lớn về thể chất. Sau 09 năm triển khai thực hiện Luật, đặc biệt
là công tác thông tin, truyền thông được đẩy mạnh, việc thực hiện mô hình phòng, chống
bạo lực gia đình và sự vào cuộc của các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị đã tạo sự
lan tỏa trong cộng đồng. Người dân đã cơ bản hiểu được thế nào là bạo lực gia đình và
tác hại của nó, nên đã từng bước tích cực tham gia phòng, chống bạo lực gia đình. Số nạn
nhân bạo lực gia đình khai báo đã tăng; đặc biệt một số hình thức bạo lực nhạy cảm như
bạo lực kinh tế, bạo lực tình dục đã được nạn nhân khai báo
Mặc dù đạt được những kết quả bước đầu trong thực hiện Luật phòng, chống bạo
lực gia đình, song công tác này vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại. Trong đó, nhận thức và sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư cho công tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia
đình ở một số địa phương, một số cấp ủy, chính quyền còn hạn chế; công tác phối hợp
giữa các ngành, đoàn thể ở cơ sở trong việc triển khai và tổ chức thực hiện Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình có nơi chưa chặt chẽ và hiệu quả chưa cao. Các văn bản, đề án
thực hiện công tác PCBLGĐ trên địa bàn Thành phố tuy được thực hiện nhiều ở ba cấp
nhưng thiếu tập trung, chưa tạo được sức tác động mạnh mẽ để đẩy nhanh sự chuyển đổi,
nâng cao nhận thức chung về tầm quan trọng của hoạt động PCBLGĐ còn tồn tại ở một
số địa phương, đơn vị. Nhiều nơi đã thành lập Ban chỉ đạo công tác gia đình nhưng chưa
phát huy tốt vai trò tham mưu cho UBND cùng cấp lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCBLGĐ
và các nhân viên chưa phát huy hết vai trò, khả năng để tham mưu cho lãnh đạo cơ quan
triển khai công tác PCBLGĐ ở cơ quan, đơn vị mình. Đội ngũ cán bộ phụ trách công tác
PCBLGĐ hầu như chưa được đào tạo đúng chuyên ngành và còn phải kiêm nhiệm thêm
nhiều công tác khác dẫn đến chất lượng, hiệu quả công việc trong hoạt động này không
cao.
Ngoài ra, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các báo cáo thống kê
hàng năm của các quận huyện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, và qua quan sát
hàng ngày trong đời thường, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy số vụ bạo hành gia đình
đối với phụ nữ vẫn tiếp tục có dấu hiệu gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn.
Rất nhiều chị em phụ nữ bị chồng đánh mà không dám lên tiếng, không dám báo chính
quyền (trừ những trường hợp bị đánh nguy hiểm đến tính mạng, bị đánh nhiều lần, đánh
3
ở trên đường phố, trước cửa nhà... thì chính quyền địa phương hoặc công an mới vào
cuộc và thông thường giải quyết theo kiểu hòa giải và tình trạng này lại tiếp diễn). Các số
liệu mới được đưa ra đã nêu bật một thực trạng là đa số phụ nữ đang sinh sống tại TP. Hồ
Chí Minh đều có nguy cơ tiềm tàng bị bạo lực gia đình ở một hay một vài thời điểm nào
đó trong cuộc sống của họ.
Điều này chứng tỏ, hoạt động quản lý nhà nước đối với việc phòng, chống bạo
lực gia đình trên địa bàn Thành phố đang gặp một số khó khăn thách thức bởi sự tác
động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Vấn đề đã và đang đặt ra là:
Làm gì và làm như thế nào để vừa ngăn chặn hiện tượng tiêu cực này, đồng thời nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình, đảm bảo cho mỗi công dân
được an toàn cả về thể chất lẫn tinh thần. Xuất phát từ những cơ sở và yêu cầu cấp thiết
đó, tác giả đã chọn đề tài “Quản lý nhà nƣớc về phòng, chống bạo lực gia đình trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Quản
lý công.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn
Trong thời gian qua đã có một số bài viết, đề tài nghiên cứu đề cập về thực trạng
và chỉ ra yêu cầu phải tăng cường quản lý nhà nước đối với việc phòng, chống bạo lực
gia đình. Có thể chia các bài viết thành hai loại:
Thứ nhất, các phóng sự điều tra của các cơ quan báo chí đề cập đến thực trạng bạo
lực gia đình với số vụ và mức độ nghiêm trọng ngày càng gia tăng. Ngoài ra, còn một số
khác là những báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm của các cơ quan quản lý nhà nước về
tình hình phòng, chống bạo lực gia đình và công tác quản lý nhà nước với hoạt động này.
Thứ hai, các sách chuyên khảo, các bài báo trên các tạp chí khoa học, các đề tài
nghiên cứu khoa học như:
- Sách chuyên khảo "Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam - thực trạng,
diễn tiến và nguyên nhân" (2009) của Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh (đồng chủ
biên). Nội dung sách gồm 03 phần và 09 chương, trình bày tổng quan các nghiên cứu đã
công bố về bạo lực gia đình đồng thời đi sâu phân tích định lượng về bạo lực gia đình từ
3 cuộc khảo sát: điều tra của ngân hàng thế giới (1999); điều tra SAVY (2003) và điều
4
tra thực trạng bình đẳng giới (2005). Cuối cùng, tác giả đưa ra những phát hiện chính của
cuộc khảo sát định tính về diễn tiến của bạo lực gia đình, các yếu tố thúc đẩy và hạn chế
bạo lực gia đình và hoạt động phòng ngừa, can thiệp từ các tổ chức. Tuy nhiên, nội dung
QLNN về vấn đề PCBLGĐ vẫn chưa được nhắc đến trong cuốn sách này.
- Sách "Bạo lực giới trong gia đình Việt Nam và vai trò của truyền thông đại
chúng trong sự nghiệp phát triển phụ nữ" (2005) do TS. Hoàng Bá Thịnh chủ biên, được
xây dựng từ một tập hợp các bài nghiên cứu, tham luận của các nhà khoa học trong nước.
Tất cả các bài viết trong quyển sách này đề cập đến mọi khía cạnh của BLGĐ nhưng vẫn
chưa đi sâu phân tích trên giác độ QLNN nhằm PCBLGĐ.
- Bài viết "Giải pháp nâng cao hiệu quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực
gia đình ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Trang đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước
(Số 3, 2016). Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến tính cấp thiết phải nâng cao chất
lượng QLNN về PCBLGĐ và đưa ra các giải pháp để đẩy mạnh hiệu quả QLNN về
PCBLGĐ ở Việt Nam nói chung.
Thứ ba, một số đề tài nghiên cứu bàn về các giải pháp phòng, chống bạo lực gia
đình như:
- Đề tài nghiên cứu luận văn cao học “Một số vấn đề pháp lý về bạo lực gia đình ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Đinh Thị Hồng Minh (Hà Nội, 2011): tác giả đã tổng
quát những vấn đề lý luận cũng như khung pháp lý về tình trạng bạo lực gia đình nhằm
đề ra những phương hướng, giải pháp khắc phục, hoàn thiện chính sách pháp luật về vấn
đề này.
- Luận văn thạc sĩ Luật học "Luật phòng chống bạo lực gia đình với việc hạn chế
ly hôn do bạo lực gia đình" của tác giả Nguyễn Thị Lệ (Hà Nội, 2010): tác giả phân tích
những mặt tích cực và những khó khăn bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam về gia
đình, bạo lực gia đình. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng ly hôn có
nguyên nhân chủ yếu do bạo lực gia đình.
- Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công "Quản lý nhà nước về phòng chống
bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn Thành phố Hà Nội" của tác giả Nguyễn
Kim Quý (Hà Nội, 2012): tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về bạo
5
lực gia đình và quản lý nhà nước về phòng chống bạo lực gia đình tại Thành phố Hà Nội.
Đồng thời kiến nghị các giải pháp để loại trừ hành vi bạo lực này trong xã hội.
Có thể nói, ở các công trình này, các tác giả chủ yếu nghiên cứu, đánh giá thực
trạng bạo lực gia đình đang diễn ra như thế nào, tình hình xử lý tình trạng này ra sao trên
các giác độ pháp luật, tâm lý và giới nói chung. Một số công trình đã đi sâu phân tích vấn
đề quản lý nhà nước đối với công tác phòng, chống BLGĐ nhưng ở phạm vi hẹp.
Các công trình nghiên cứu trên đây đã có những đóng góp nhất định trong việc
cung cấp lý luận chung về phòng, chống bạo lực gia đình và nâng cao hiệu quả công tác
này. Song đối với loại đề tài quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ vẫn là mới, nhất là trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng thành tựu của khoa học hành chính, nghiên cứu các văn bản
quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình và các quy định pháp luật hiện hành
liên quan đến hoạt động kiểm tra, xử lý đối với các vi phạm về bạo hành, đặc biệt là thực
trạng quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình ở TP. Hồ Chí Minh, đề tài vạch
rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân; đồng thời tìm ra phương hướng và giải pháp
tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực này tại địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, hệ thống hóa những vấn đề cơ bản, lý luận về BLGĐ và QLNN về
PCBLGĐ. Đồng thời làm rõ kinh nghiệm PCBLGĐ ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về phòng, chống bạo lực trong gia
đình trên địa bàn TP.HCM.
Ba là, đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về PCBLGĐ trên địa bàn TP. Hồ
Chí Minh trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
6
Luận văn nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thông qua hệ thống thể chế, tổ chức bộ
máy, chính sách thực thi đối với hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về
phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
- Thời gian: Từ khi Quốc hội ban hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình đến
nay và định hướng cho các năm tiếp theo.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học này, tác giả dựa trên phương pháp luận
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng ta về xây dựng
và phát triển gia đình Việt Nam - một thiết chế văn hóa trong nền văn hóa tiến tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước
đối với việc phòng, chống bạo lực gia đình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng là:
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, quy nạp tài liệu: mục đích là tìm
hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, nắm bắt nội dung các tác giả đi trước đã làm, phân tích
nội dung và tổng hợp tài liệu về đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn. Từ đó đưa ra
cơ sở lý thuyết về QLNN đối với công tác phòng, chống BLGĐ và đánh giá, khái quát
thành những quan điểm, luận điểm làm nền tảng lý thuyết cho luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu văn bản quy phạm pháp luật và những văn bản quản lý
nhà nước về vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình: tác giả sử dụng phương pháp này để
nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến BLGĐ và QLNN về
PCBLGĐ; các công trình, đề tài khoa học, đã được công bố; chương trình, dự án, báo cáo
của các cơ quan có thẩm quyền; các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên
ngành...
7
- Phương pháp thống kê số liệu: các số liệu định lượng thu thập được từ các tài
liệu thống kê và kết quả quan sát được sắp xếp để làm bộc lộ mối liên hệ và xu thế của sự
vật, hiện tượng. Các số liệu này được trình bày dưới nhiều dạng như bảng, biểu số liệu,
biểu đồ, đồ thị, chỉ số trung bình... làm cơ sở đánh giá thực trạng của vấn đề nhằm rút ra
các kết luận (các mặt ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân...) và đưa ra một số giải pháp giải
quyết vấn đề một cách cụ thể nhằm hoàn thiện QLNN về PCBLGĐ.
- Phương pháp khảo sát, điều tra xã hội học, thu thập và xử lý thông tin dưới nhiều
hình thức: phiếu khảo sát (200 phiếu phát ra), phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn sâu (35
cuộc phỏng vấn với đối tượng là các chị em phụ nữ trên địa bàn các quận 10, Bình
Thạnh, Gò Vấp) Số cuộc phỏng vấn có thể cao hơn nhưng do nhiều lý do, mà một
trong số đó là do chị em phụ nữ vẫn còn e ngại trong việc chia sẻ chuyện riêng tư của gia
đình mình với người lạ nên tác giả cũng gặp không ít khó khăn khi áp dụng phương pháp
này trong thực tế.Tuy nhiên thông tin thu thập được sau khảo sát rất có giá trị với độ tin
cậy cao, giúp ích rất nhiều cho tác giả để đưa ra các giải pháp phù hợp với thực tế tình
hình bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong thời gian tiếp theo.
Các phương pháp nêu trên được vận dụng và kết hợp linh hoạt nhằm đảm bảo nội
dung của luận văn đáp ứng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn khách quan và khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Theo tác giả, luận văn có những đóng góp chủ yếu sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước đối với
việc phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn một số quận, huyện trên địa bàn TP. Hồ
Chí Minh, luận văn đã đưa ra hệ thống lý luận khoa học về bạo lực gia đình và quản lý
nhà nước đối với hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình; quan điểm của Đảng và nhà
nước ta về phòng, chống bạo lực gia đình; sự cần thiết, những nội dung và phương thức
quản lý nhà nước đối với hoạt động mang tính nhạy cảm này. Bên cạnh đó, luận văn
cũng nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với việc phòng, chống bạo lực gia đình
tại một số quận, huyện trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh để từ đó có thể rút ra một số bài
học kinh nghiệm trong hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực này hiện nay.
8
Về mặt thực tiễn: Qua phân tích, đánh giá hoạt động quản lý nhà nước đối
với phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, luận văn đã làm rõ thực
trạng quản lý, những mặt làm được, chưa làm được, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân
khách quan trong hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Từ những cơ sở trên,
luận văn đưa ra những định hướng, những giải pháp có tính khả thi cao nhằm tăng cường
hoạt động quản lý nhà nước về vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục và tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chƣơng I: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình.
Chƣơng II: Thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình trên
địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Chƣơng III: Một số giải pháp để hoàn thiện quản lý nhà nước về phòng, chống
bạo lực gia đình trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
CHƢƠNG I: SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO
LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Lý luận chung về bạo lực gia đình
1.1.1. Khái niệm cơ bản có liên quan
Gia đình là một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống
hoặc quan hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung
sống và có ngân sách chung.
Bạo lực nói chung có thể được hiểu là việc đe dọa hay dùng sức mạnh thể chất
hay quyền lực đối với bản thân, người khác hoặc đối với một nhóm người, một cộng
đồng người mà gây ra hay làm tăng khả năng gây ra tổn thương, tử vong, tổn hại về tâm
lý, ảnh hưởng đến sự phát triển hay gây ra sự mất mát.
Bạo lực gia đình là hành vi gây tổn hại đến sức khỏe, tinh thần, thể chất của
thành viên gia đình lên 1 thành viên khác trong gia đình với nhiều hành động khác nhau
của người gây ra hành vi bạo lực dẫn đến hậu quả cho gia đình, người thân và xã hội.
9
1.1.2. Phân loại, tính chất bạo lực gia đình
Bạo lực thể chất, được hiểu là việc một người sử dụng sức mạnh cơ bắp (tay,
chân) hoặc công cụ (thậm chí cả vũ khí) để bạo hành như đánh, đấm, đá, tát gây nên sự
đau đớn về thân thể của nạn nhân hoặc các hình thức khác mà gây tổn hại tới sức khỏe
thể chất của người bị bạo hành như là hắt nước sôi, bắt chui vào cũi, hoặc ngăn cản
việc đi khám chữa sức khỏe.
Bạo lực tinh thần là loại hình bạo lực không sử dụng vũ lực, tác động lên tinh
thần của nạn nhân. Bạo lực tinh thần là những biểu hiện nhằm gây tổn thương tâm lý bởi
những lời nói và không lời như quát tháo, đe dọa, chửi rủa, sỉ nhục, bỏ rơi không quan
tâm; nói những lời xúc phạm đến nhân phẩm, trừng phạt con cái để làm cho người mẹ
đau đớn hoặc tự trừng phạt mình; lăng mạ, hạ thấp giá trị một người trước những người
khác; kiểm soát hoặc ngăn cấm người phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội hoặc kinh tế.
Trong loại bạo hành này đáng chú ý là loại bạo hành ngôn ngữ.
Bạo lực kinh tế/tài chính là một thành viên trong gia đình dùng quyền lực để ép
buộc các thành viên khác, tạo sự lệ thuộc của họ về kinh tế, gồm các hành động hoặc
quyết tâm thực hiện để đưa nạn nhân phụ thuộc vào tài chính, bao gồm các hành vi sau:
ngưng hỗ trợ về tài chính và ngăn cản nạn nhân có một nghề nghiệp, công việc hợp pháp;
kiểm soát tiền bạc, tước đoạt hay đe dọa tước đoạt các nguồn tài chính về quyền sử dụng,
thừa hưởng của vợ, chồng, cộng đồng và quyền sở hữu tài sản nói chung; phá hủy tài sản
trong gia đình; cưỡng ép các thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính
quá khả năng của họ,
Bạo lực tình dục là bất k hành động hoặc hành vi nào trong tình dục mà không
được sự chấp nhận của người kia, bao gồm những hành động như cưỡng ép quan hệ tình
dục, ngăn chặn sử dụng các biện pháp tránh thai hay bắt ép mang thai hoặc phá thai theo
ý muốn của người chồng, bạn tình
1.1.3. Nguyên nhân, hậu quả của bạo lực gia đình đối với phụ nữ
- Về nguyên nhân:
Thứ nhất, nguyên nhân phát sinh từ hoàn cảnh sống.
Thứ hai, nguyên nhân phát sinh từ văn hóa vùng miền, phong tục tập quán.
10
Thứ ba, nguyên nhân phát sinh từ công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế.
- Hậu quả:
Một là, bạo lực giữa vợ và chồng dưới bất k hình thức cũng để lại những tác
động tiêu cực đến sức khỏe về thể chất, tinh thần không chỉ của nạn nhân mà còn cả các
thành viên khác trong gia đình.
Hai là, bạo lực gia đình đối với phụ nữ tác động tiêu cực đến lực lượng lao động
và do đó cũng tác động đến các hoạt động kinh tế. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ trực
tiếp gây ra những tổn thất nặng nề như gia tăng bệnh tật và tự tử, mất sức lao động, mất
khả năng tham gia sản xuất
Ba là, bạo lực gia đình chống lại phụ nữ chất gánh nặng lên hệ thống y tế, an
sinh, bảo trợ xã hội. Bạo lực gia đình đặt ra yêu cầu với hệ thống bảo trợ xã hội của quốc
gia về việc trợ giúp và bảo vệ những nạn nhân là phụ nữ và trẻ em.
Bốn là, bạo lực gia đình đối với phụ nữ đồng thời cũng chất gánh nặng lên hệ
thống giáo dục. Bạo lực giữa vợ và chồng có thể gây ra cho những đứa trẻ trong gia đình,
cũng là những học sinh đang tuổi ăn tuổi học – nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp, phải
chứng kiến cảnh người mẹ là nạn nhân của bạo lực gia đình - những rối loạn tâm lý và sự
sa sút trong học tập.
Năm là, bạo lực giữa vợ và chồng chống lại phụ nữ đồng thời cũng chất gánh
nặng lên hệ thống các cơ quan tư pháp.
1.2. Quản lý nhà nƣớc về phòng, chống phòng, chống bạo lực gia đình
1.2.1. Khái niệm
Quản lý nhà nước đối với công tác phòng, chống bạo lực gia đình là sự tác động
và điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước thông qua hoạt động các cơ quan quản lý
nhà nước đối với các hành vi cố ý của thành viên gia đình nhằm đảm bảo cho gia đình
được phát triển bền vững và vận hành theo đúng mục tiêu, định hướng mà nhà nước
mong muốn đạt đến.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình
Xuất phát từ ý nghĩa gia đình là tổ ấm và thực tiễn đã cho thấy những thành quả
phát triển đất nước có được phần lớn từ sự đóng góp của mỗi gia đình; trong những năm
11
qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đặc biệt tới việc xây dựng và bảo vệ gia đình.
Đánh giá đúng vị trí của gia đình trong thời k đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và trước
thực trạng bạo lực gia đình đáng báo động như hiện nay thì đẩy nhanh hơn nữa việc quản
lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình là đòi hỏi khách quan.
Quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình gồm các nội dung sau:
Một là, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình. Trong đó bao gồm: Xây dựng thể chế và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật; tổ chức thực hiện các chiến lược, chính sách, pháp luật về PCBLGĐ: quy hoạch, kế
hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành động, chương trình phối hợp,
các dự án, đề án, các công trình quan trọng liên quan đến việc PCBLGĐ.
Hai là, hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng đấu tranh chống
bạo lực gia đình. Các cơ quan quản lý nhà nước là yếu tố không thể thiếu để tiến hành
các hoạt động quản lý hành chính nhà nước về PCBLGĐ. Nếu không có một hệ thống
các cơ quan hành chính với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về
PCBLGĐ một cách rõ ràng thì các hoạt động quản lý nhà nước về PCBLGĐ không thể
tiến hành đồng bộ và hiệu quả. Ngoài ra, các cơ quan này còn có nhiệm vụ quản lý,
hướng dẫn nghiệp vụ về tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức quản lý nhà nước về
PCBLGĐ; tổ chức, quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác
gia đình và PCBLGĐ.
Đội ngũ công chức quản lý nhà nước về PCBLGĐ là những người được tuyển
dụng, bổ nhiệm giữ một nhiệm vụ thường xuyên, làm việc trong bộ máy nhà nước, được
phân loại theo trình độ được đào tạo, ngành nghề chuyên môn, được xếp vào một ngạch
hành chính, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách để thực thi công vụ trong quản
lý nhà nước về PCBLGĐ.
Ba là, tổ chức thực thi chính sách và công tác phối hợp giữa các lực lượng
chức năng thực thi pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Bao gồm các hoạt động sau:
Thứ nhất, tổ chức công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước cho mọi công dân, tổ chức trong lĩnh vực PCBLGĐ.
Thứ hai, quản lý công tác thu thập, khai thác thông tin số liệu về PCBLGĐ.
12
Thứ ba, tổ chức xây dựng và quản lý các hoạt động của các mô hình PCBLGĐ,
bao gồm công tác chỉ đạo, hướng dẫn và định hướng hoạt động cho các mô hình
PCBLGĐ; đồng thời thực hiện công tác kiểm tra giám sát, hỗ trợ kỹ thuật và kinh phí để
các mô hình PCBLGĐ hoạt động hiệu quả.
Thứ tư, thực hiện việc hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân BLGĐ và tổ chức kiểm tra giám
sát, khen thưởng và xử lý vi phạm trong lĩnh vực PCBLGĐ
Theo Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, các biện pháp thực hiện bảo
vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm:
- Phát hiện, báo tin: Người phát hiện bạo lực gia đình phải kịp thời báo tin cho cơ
quan công an nơi gần nhất hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu cộng đồng
dân cư nơi xảy ra bạo lực.
- Biện pháp ngăn chặn, bảo vệ: Buộc chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình; cấp
cứu nạn nhân bạo lực gia đình; các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo
lực gia đình...
Thứ năm, thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết định k rút
kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện mô hình phòng, chống bạo lực
gia đình. Kịp thời biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong công
tác phòng, chống bạo lực gia đình, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật và kiên
quyết đưa ra kiểm điểm giáo dục trước nhân dân các đối tượng có hành vi vi phạm.
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng đối với
quản lý nhà nƣớc về phòng, chống bạo lực gia đình
1.3.1. Thành phố Hà Nội
1.3.2. Tỉnh Bến Tre
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài việc tổ chức triển khai thực hiện các chiến lược,
chính sách, pháp luật về gia đình cũng như phòng, chống bạo lực gia đình thông qua xây
dựng, ban hành các văn bản liên quan đến gia đình và phòng chống bạo lực gia đình để
triển khai cho toàn thành phố, dưới nhiều hình thức như tổ chức các lớp tập huấn cho cán
bộ phụ trách công tác gia đình, tổ chức các hoạt động sinh hoạt lồng ghép tuyên truyền
13
các nội dung về phòng chống bạo lực gia đình đến nhân dân trên địa bàn các quận,
phường, xã, tổ dân phố để người dân hiểu về vai trò của gia đình đối với xã hội, thấy rõ
được hậu quả của các hành vi bạo lực gia đình cũng như cần thiết phải khai báo đến
chính quyền khi có vụ việc xảy ra, tránh giấu diếm để lại những hậu quả nghiêm trọng.
Đồng thời, thành phố cần có chủ trương xây dựng và kiện toàn lại bộ máy quản lý nhà
nước về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình.
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO
LỰC GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tình hình chung của TP. Hồ Chí Minh tác động đến công tác quản lý nhà
nƣớc về phòng, chống BLGĐ
2.1.1. Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội
2.1.2. Một số yếu tố tác động đến công tác QLNN về phòng, chống BLGĐ
- Phong tục, tập quán
- Tâm lý
- Trình độ dân trí
2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về phòng, chống bạo lực gia đình trên địa
bàn TP.Hồ Chí Minh
2.2.1. Thực trạng bạo lực gia đình đang diễn ra trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh
Theo Báo cáo kết quả năm 2014 về triển khai chương trình hành động quốc gia
Phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố thì trong
năm, toàn thành phố đã phát hiện 80 vụ bạo lực gia đình, trong đó 45 vụ bạo lực thể xác,
26 vụ bạo lực tinh thần, 01 vụ bạo lực tình dục, 06 vụ bạo lực kinh tế; có 86 nạn nhân,
trong đó nữ 78 người (chiếm tỷ lệ 90,96%), nam 08 người; gần 77,9% nạn nhân ở độ tuổi
tử đủ 16 đến 59 tuổi, 16,27% nạn nhân là trẻ em dưới 16 tuổi và nạn nhân là người cao
tuổi. Tuy số vụ và số nạn nhân bạo lực gia đình được Ủy ban nhân dân Thành phố đánh
giá là có giảm qua từng năm, tuy nhiên nạn nhân nữ vẫn chiếm tỷ lệ cao, nạn nhân là
người cao tuổi tăng; người gây bạo lực hầu hết là nam giới, trong một số vụ người gây
bạo lực có hành vi dã man gây chết người; một số vụ việc xảy ra tình huống bạo lực gia
14
đình diễn ra ở khách sạn xa nơi cư trú của người gây bạo lực và nạn nhân. Đặc biệt, theo
báo cáo, số vụ bạo lực gia đình ở 5 huyện chiếm gần 38%, trung bình số vụ bạo lực gia
đình ở mỗi huyện cao hơn gần 1 vụ so với mỗi quận.
2.2.2. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình
Dựa trên văn bản do các cấp cơ quan QLNN ở Trung ương, chính quyền TP. Hồ
Chí Minh đã cụ thể hóa tổ chức triển khai thực hiện các văn bản QLNN về phòng, chống
BLGĐ của các cấp ở Trung ương. Đồng thời bổ sung và hoàn thiện hành lang pháp lý
cho hoạt động QLNN về phòng, chống BLGĐ đúng quy định, đảm bảo mục tiêu hiệu
quả.
2.2.3. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước có chức năng đấu tranh chống bạo
lực gia đình tại Thành phố Hồ Chí Minh
Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định rõ bộ máy quản lý nhà
nước về phòng, chống bạo lực gia đình. Do đó, TP. Hồ Chí Minh cũng có các cơ quan
QLNN về PCBLGĐ tương ứng và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan với nhau
như: Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Liên hiệp Phụ
nữ...
2.2.4. Chính sách thực thi và công tác phối hợp giữa các lực lượng chức năng
thực thi pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình tại TP. Hồ Chí Minh
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Ưu điểm
Thứ nhất, các cấp ủy, chính quyền đã có sự quan tâm chỉ đạo sâu sát triệt để tới
các cấp trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình nhằm làm giảm các vụ bạo hành
xảy ra trên địa bàn, hạn chế tối đa hậu quả của các vụ bạo hành khi xảy ra, bảo vệ nạn
nhân trong vụ bảo hành một cách tốt nhất.
Thứ hai, công tác tuyên truyền giáo dục về xây dựng gia đình và PCBLGĐ được
tăng cường.
15
Thứ ba, chủ động xây dựng các mô hình phòng, chống bạo lực gia đình, mô hình
“Khu phố không có bạo lực gia đình”, các công trình “Xây dựng nhóm PCBLGĐ” tại các
khu phố ở các quận, huyện, xã phường.
Thứ tư, kịp thời thực hiện hoạt động giám sát, kiểm tra, tổng hợp, báo cáo theo
định kì về kết quả thu thập chỉ số đánh giá PCBLGĐ
Thứ năm, tại cấp cơ sở Đảng ủy, UBND các quận, huyện, phường, xã đã quan
tâm tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động PCBLGĐ.
Thứ sáu, sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, tích cực giữa các cơ quan trong
PCBLGĐ đã giúp cho quá trình quản lý, giám sát các hoạt động PCBLGĐ có hiệu quả
hơn.
2.3.2. Hạn chế
Một là, về hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về PCBLGĐ. Cụ thể, các
mục tiêu, chỉ tiêu trong Quyết định số 629/QĐ-TTg và các chương trình, đề án lĩnh vực
PCBLGĐ còn lúng túng chưa xác định được mục tiêu, chỉ tiêu nào là mũi nhọn quan
trọng mang tính cấp thiết để đề xuất đưa vào Nghị quyết của Đảng, Hội đồng nhân dân
trong giai đoạn 2016-2020. - Các văn bản, đề án thực hiện công tác PCBLGĐ trên địa
bàn Thành phố tuy được thực hiện nhiều ở 3 cấp nhưng thiếu tập trung, chưa tạo được
sức tác động mạnh mẽ.
Hai là, về hệ thống cơ quan quản lý nhà nước có chức năng đấu tranh chống bạo
lực gia đình tại TP.HCM. Một số địa phương trên địa bàn thành phố thực hiện chưa tốt,
chưa hiệu quả công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân trên địa bàn về
PCBLGĐ, thực hiện tốt trách nhiệm xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và tiến bộ. Bên
cạnh đó, đội ngũ cán bộ thực hiện công tác PCBLGĐ của Thành phố mặc dù được bố trí
đầy đủ ở ba cấp nhưng đầu việc chuyên môn nghiệp vụ quá nhiều nên chất lượng công
việc trong hoạt động PCBLGĐ sẽ bị ảnh hưởng.
Ba là, về tổ chức thực thi chính sách và công tác phối hợp giữa các lực lượng
chức năng thực thi pháp luật PCBLGĐ tại TP.HCM. Công tác PCBLGĐ hiện nay chỉ
dừng lại ở việc hòa giải hoặc cảnh cáo, sự giám sát và năng lực can thiệp của cộng đồng
đối với nạn bạo lực gia đình vẫn chưa cao, xử phạt về các hành vi bạo lực gia đình chưa
16
mang tính răn đe cho toàn xã hội. Ngoài ra, kinh phí cho công tác PCBLGĐ ở các
phường, xã, thị trấn còn nhiều khó khăn; nguồn lực đầu tư, điều kiện vật chất phục vụ
cho công tác PCBLGĐ chưa thực sự đảm bảo cho với yêu cầu của một thành phố lớn,
đông dân.
2.3.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan:
- Gia đình là một phạm trù có nguồn gốc từ văn hóa, người phụ nữ thường bị lệ
thuộc vào nam giới về kinh tế nên có thái độ nhẫn nhịn, chịu đựng, không muốn người
khác biết về tình trạng bị bạo lực gia đình theo kiểu “vạch áo cho người xem lưng”. Cùng
với đó là các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, nợ nầncũng là nguyên nhân dẫn đến
bạo lực gia đình hiện nay.
- Xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng cùng những mặt trái của nền
kinh tế thị trường, những phát sinh mới trong các mối quan hệ xã hội diễn ra phức tạp,
liên tục cho nên các quy định, chế tài của Nhà nước trở nên lạc hậu, các chủ trương,
chính sách chưa theo kịp sự phát triển của xã hội để điều tiết các quan hệ xã hội hiệu quả.
Hoạt động PCBLGĐ cũng không tránh khỏi thực trạng chung này.
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, các văn bản, đề án thực hiện công tác PCBLGĐ trên địa bàn Thành phố
tuy được thực hiện nhiều ở ba cấp nhưng thiếu tập trung, chưa tạo được sức tác động
mạnh mẽ để đẩy nhanh sự chuyển đổi, nâng cao nhận thức chung về tầm quan trọng của
hoạt động PCBLGĐ còn tồn tại ở một số địa phương, đơn vị.
Thứ hai, hiện nay, nhiều nơi đã thành lập Ban chỉ đạo công tác gia đình nhưng
chưa phát huy tốt vai trò tham mưu cho UBND cùng cấp lãnh đạo, chỉ đạo công tác
PCBLGĐ và các nhân viên chưa phát huy hết vai trò, khả năng để tham mưu cho lãnh
đạo cơ quan triển khai công tác PCBLGĐ ở cơ quan, đơn vị mình. Ngoài ra, năng lực đội
ngũ cán bộ thực hiện công tác PCBLGĐ vẫn là thách thức lớn trong tình hình mới. Cán
bộ thực hiện công tác gia đình ở các cấp chưa được đào tạo trong ngành gia đình học cho
nên việc phụ trách hoạt động PCBLGĐ cũng gặp nhiều khó khăn, mặt khác đội ngũ này
17
phải kiêm nhiệm nhiều việc, luôn biến động, thay đổi nhiều ở cấp phường, xã, thị trấn.
Cụ thể:
+ Cán bộ Phòng Văn hóa Thông tin quận, huyện thường đảm nhận ít nhất 3
nhiệm vụ, công tác của ngành Văn hóa và Thể thao; cán bộ thực hiện công tác gia đình ở
phường, xã, thị trấn đảm nhiệm từ 3 đến 4 nhiệm vụ, công tác vì vậy khi được phân công
phụ trách mảng PCBLGĐ chắc chắn sẽ khó đảm bảo chất lượng công việc khi phải ôm
đồm quá nhiều công việc một lúc từ đó làm giảm tính hiệu quả của hoạt động PCBLGĐ.
+ Tuy được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ trong công tác
PCBLGĐ nhưng nhìn chung năng lực tham mưu chỉ đạo, hướng dẫn lĩnh vực PCBLGĐ
còn nhiều hạn chế ở các địa phương, đơn vị.
+ Công chức mảng Văn hóa - Xã hội quận, huyện thường xuyên biến động. Một
số nơi tuyển đủ vị trí, bồi dưỡng đạt chuẩn nhưng sau thời gian ngắn lại bố trí sang vị trí
khác hoặc do áp lực công việc nên không thể bám trụ. Điều này gây nên sự lãng phí thời
gian khi phải tuyển dụng mới và đào tạo lại công chức.
Thứ ba, quy định về xử phạt các hành vi bạo lực gia đình chưa rõ ràng hoặc không
khả thi trong những trường hợp cụ thể hoặc phát sinh, gây khó khăn cho lực lượng chức
năng trong quá trình điều tra, xác định và xử lý. Bên cạnh đó, do hạn chế về năng lực của
cán bộ tham mưu nên nhiều nơi chưa triệt để sâu sắc,chưa làm rõ được nội dung hoạt
động và dự toán kinh phí hàng năm nên không có tác dụng định hướng, làm nền tảng cho
các cơ quan, địa phương thực hiện tốt các hoạt động về PCBLGĐ trên địa bàn. Từ đó dẫn
đến tình trạng hoạt động cầm chừng, bị động và không hiệu quả.
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH
3.1. Định hƣớng hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về phòng chống bạo lực gia
đình
3.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia
đình
18
Gia đình và công tác phòng, chống bạo lực gia đình luôn là mối quan tâm của
Đảng và Nhà nước ta. Nhiều văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước về gia đình đã
được ban hành trong những năm qua như Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời k quá độ lên Chủ nghĩa
Xã hội năm 1991 cũng như trong các văn kiện của Đảng về chính sách xã hội đã nhấn
mạnh đến vai trò của gia đình như là tế bào của xã hội và là nhân tố quan trọng quyết
định đến sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam.
3.1.2. Định hướng quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình của
Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày nay, trước cơn lốc của toàn cầu hóa, bối cảnh mới của thời k hội nhập
quốc tế, gia đình Việt Nam nói chung và gia đình tại TP. Hồ Chí Minh nói riêng đang
phải đối đầu với những diễn biến phức tạp của bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, bất bình
đẳng giới trong gia đình... Trước tình hình đó, TP. Hồ Chí Minh sẽ phải tiếp tục tập trung
tăng cường hỗ trợ gia đình thực hiện các chức năng của mình, phải đưa ra các giải pháp
nhằm giảm các yếu tố rủi ro đối với gia đình; xử lý nghiêm các hành vi bạo lực gia đình,
lựa chọn giới tính thai nhi; phát triển các dịch vụ xã hội đáp ứng các nhu cầu hỗ trợ của
gia đình...
3.2. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về phòng, chống bạo lực gia
đình
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý nhà nước về phòng chống bạo
lực gia đình
- Việc tiến hành rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình là vô cùng cần thiết. Bổ sung, sửa đổi và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật, quyết định, thông tưphải phù hợp thực tế, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý
nhà nước về phòng chống bạo lực gia đình.
- Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật Thành phố và các quận huyện cần mở
nhiều lớp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình,
đưa pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đến cán bộ, nhân dân.
19
- Chuẩn hóa và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức
làm công tác gia đình các cấp, đặc biệt là ở cấp xã – phường, thị trấn.
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý nhà
nước, các đoàn thể chính trị xã hội về phòng, chống bạo lực gia đình.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao nhận thức, phát huy vai trò của các
cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội đối với công tác phòng chống bạo
lực gia đình trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phát huy vai trò gương mẫu của người đứng đầu, cán bộ, đảng viên trong thực
hiện Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật phòng, chống bạo lực gia
đình
- Đưa công tác PCBLGĐ vào nội dung hoạt động của các cấp ủy đảng coi đó là
tiêu chuẩn để đánh giá kết quả thực hiện hàng năm của các cán bộ, đảng viên về mức độ
hoàn thành nhiệm vụ.
- Mặt khác, tăng cường, củng cố và phát huy vai trò của Ban chỉ đạo PCBLGĐ ở
các cấp trên địa bàn thành phố; xây dựng kế hoạch và triển khai tổ chức kiểm tra, đánh
giá hiệu quả các hoạt động chuyên đề về công tác gia đình nói chung và PCBLGĐ nói
riêng; tổ chức kiểm tra giám sát chỉ số đánh giá phòng chống bạo lực gia đình, đánh giá
kết quả thực hiện trong hoạt động PCBLGĐ.
- Củng cố, kiện toàn lại bộ máy QLNN về PCBLGĐ đảm bảo đủ nhân lực phụ
trách công tác PCBLGĐ, tránh tình trạng công chức văn hóa xã hội phải phụ trách quá
nhiều mảng công việc kiêm thêm PCBLGĐ thì tiến độ làm việc cũng như chất lượng
tham mưu, theo dõi, đề xuất các hoạt động liên quan đến PCBLGĐ bị hạn chế rất nhiều
dẫn đến hiệu quả trong công tác PCBLGĐ không cao.
3.2.3. Giải pháp thực hiện các chính sách, chương trình về an sinh xã hội, tăng
cường phối hợp giữa các lực lượng chức năng thực thi pháp luật phòng, chống BLGĐ
- Nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng BLGĐ là do gia đình gặp khó khăn về
kinh tế nên Thành phố đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
20
công tác gia đình nhằm chính sách ưu tiên các gia đình thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo,
khó khăn, tạo điều kiện cho họ có việc làm, có thu nhập.
- Duy trì, phát triển hộp thư, số điện thoại tiếp nhận thông tin về bạo lực gia đình,
địa chỉ tin cậy ở cộng đồng. Cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ giúp pháp lý chăm sóc sức khỏe
cho nạn nhân bạo lực gia đình.
- Tiếp tục thực hiện nhân rộng các mô hình đạt hiệu quả phòng, chống bạo lực gia
đình ở cộng đồng. Nghiên cứu, xây dựng các mô hình dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bạo lực
gia đình, hỗ trợ người có nguy cơ cao gây bạo lực gia đình.
- Phát huy hiệu quả hoạt động các tổ hòa giải phòng, chống bạo lực gia đình ở địa
phương.
Ngoài các giải pháp trọng tâm trên, chính quyền TP. Hồ Chí Minh cần kết hợp
song song với một số giải pháp hỗ trợ sau nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về PCBLGĐ
như:
Thứ nhất, tăng cường đầu tư ngân sách địa phương và đẩy mạnh xã hội hóa
công tác gia đình
- Xây dựng được kế hoạch hoạt động cho hàng năm, trong đó thể hiện rõ các
nhiệm vụ cụ thể phải thực hiện, kèm theo đó là dự toán kinh phí cho cả năm. Cần lưu ý
việc phân bổ các hoạt động theo cấp thẩm quyền, cân nhắc, tính toán đề sử dụng kinh
phí.
- Khuyến khích các cơ quan, tổ chức, tổ chức cá nhân, tổ chức quốc tế, các tổ
chức phi chính phủ tham gia tài trợ, đóng góp về tiền, của và các nguồn lực khác thông
qua các dự án cho hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình.
- Cần huy động sức dân trong việc xây dựng và duy trì hoạt động các câu lạc bộ
liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về
phòng, chống bạo lực gia đình.
- Giải pháp này tập trung thực hiện công tác tuyên truyền, tư vấn, giáo dục nhằm
chuyển đổi nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng, gia đình và từng cá nhân về bản
chất của bạo lực gia đình và công tác phòng, chống bạo lực gia đình.
21
- Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống
bạo lực gia đình đến mọi thành viên trong xã hội. Việc tuyên truyền về bình đẳng giới
không chỉ cho phụ nữ mà phải mở rộng sang nam giới - đối tượng chính gây nên nạn
BLGĐ.
- Tập trung biên soạn, in ấn tài liệu tham khảo về bình đẳng giới và phòng, chống
bạo lực gia đình, phát hành tờ rơi, tài liệu dùng cho tuyên truyền viên về Luật phòng,
chống bạo lực gia đình, tài liệu truyền thông... Tuyên truyền sâu rộng trên các phương
tiện thông tin đại chúng, các buổi sinh hoạt Tổ dân phố - mặt trận, sinh hoạt CLB cho
cán bộ, hội viên phụ nữ, Nhân dân về bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình.
Thứ ba, xây dựng mạng lưới cung cấp dịch vụ gia đình.
- Phát triển các dịch vụ hỗ trợ gia đình về chăm sóc sức khỏe, bảo vệ trẻ em, chăm
sóc người cao tuổi, tư vấn pháp luật – tâm lý, các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia
đình...
- Các tổ chức ở cộng đồng có vai trò rất tích cực trong phát hiện và can thiệp sớm
các hành vi bạo lực gia đình. Ở một vài tình huống, sự can thiệp của các đoàn thể, tổ dân
phố lại mang lại hiệu quả hơn so với gia đình hay họ hàng. Do đó, mạng lưới hỗ trợ trong
cuộc sống cộng đồng có vai trò quan trọng.
- Thí điểm mở rộng cơ sở y tế phường – xã, thị trấn thành trung tâm hỗ trợ nạn
nhân bạo lực gia đình, vừa là nơi hỗ trợ về y yế, vừa là nơi trú tạm thời và tư vấn cho các
nạn nhân.
- Tập trung triển khai mô hình “Bác sĩ gia đình”, các dịch vụ tiện ích về gia đình
để phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng cao.
Các giải pháp phải được thực hiện một cách đồng bộ, liên tục và nhất quán thì
công tác phòng, chống bạo lực gia đình mới đạt kết quả như mong muốn.
3.3. Các kiến nghị về hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về phòng, chống bạo lực gia
đình
3.3.1. Đối với Quốc hội
22
Ngoài việc tăng cường khung pháp lý và chính sách quốc gia theo các thỏa thuận
quốc tế thì việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Luật phòng chống bạo lực gia đình
cho phù hợp với thực tế hiện nay là vô cùng cần thiết, đặc biệt là nội dung xử lý vi phạm
luật phòng chống bạo lực gia đình.
3.3.2. Đối với Chính phủ
- Cần tiến hành nghiên cứu sâu về bạo lực trên cơ sở giới để hiểu sâu hơn vấn đề
về PCBLGĐ ở mọi khía cạnh làm cơ sở cho việc ban hành những chính sách thực sự
thích hợp, mang tính hiệu quả cao.
- Giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành có liên quan trình Chính phủ ban hành bổ
sung và hướng dẫn thực hiện các chính sách khuyến khích xã hội hóa trên lĩnh vực gia
đình.
- Tăng cường quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương về các hoạt động
phòng, chống bạo lực gia đình. Huy động sự tham gia của cộng đồng và chính quyền địa
phương trong việc giải quyết bạo lực và thúc đẩy bình đẳng giới.
- Chủ động xây dựng và đề ra chiến lược đối phó với bạo lực gia đình, trong đó
có phân công, phân nhiệm cụ thể. Nâng cao năng lực hệ thống tư pháp nhằm thực hiện
các chính sách và pháp luật có liên quan đến bạo lực gia đình. Lồng ghép vấn đề phòng,
chống bạo lực gia đình vào hệ thống giáo dục nhằm thay đổi nhận thức của thanh niên về
bình đẳng giới.
- Cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo
lực gia đình.
3.3.3. Đối với chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh
- Tiếp tục kiện toàn hệ thống bộ máy, cán bộ làm công tác gia đình các cấp, đặc
biệt là cấp quận, huyện và phường xã đủ mạnh để đảm bảo quản lý, tổ chức thực hiện
hiệu quả công tác phòng chống bạo lực gia đình.
- Chỉ đạo các sở, ngành, các tổ chức chính trị xã hội phối hợp và tạo điều kiện
cho Sở Văn hóa Thể thao thực hiện tốt các hoạt động về phòng, chống bạo lực gia đình.
23
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, kỹ năng can thiệp, hỗ trợ về
phòng, chống bạo lực gia đình cho đội ngũ cán bộ làm hoặc tham gia công tác phòng,
chống bạo lực gia đình trong phạm vi quản lý.
- Tiếp tục chỉ đạo việc phổ biến pháp luật, chính sách về phòng, chống bạo lực
gia đình đến hộ gia đình trên địa bàn dân cư; có giải pháp nâng cao chất lượng các hoạt
động của mô hình phòng, chống bạo lực gia đình ở phường – xã, thị trấn.
-Tạo điều kiện và chỉ đạo UBND quận – huyện, phường – xã, thị trấn tạo điều
kiện cho cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn thực hiện có hiệu quả việc chăm sóc y
tế và tư vấn sức khỏe cho nạn nhân bạo lực gia đình.
- UBND Thành phố chỉ đạo UBND phường – xã, thị trấn giúp đỡ, tạo điều kiện
cho người đứng đầu cộng đồng dân cư tổ chức góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư
đối với người có hành vi bạo lực gia đình theo quy định của pháp luật.
-Kêu gọi báo chí, đài phát thanh, truyền hình tham gia nhiều hơn, tích cực hơn
nữa vào cuộc đấu tranh chống bạo lực gia đình, công chúng cần được tiếp cận nhiều hơn
nữa với các phương tiện truyền thông này.
24
KẾT LUẬN
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt tạo điều
kiện cho gia đình phát triển tốt. Bước sang thế kỷ 21, bạo lực gia đình vẫn lan rộng và trở
thành vấn đề xã hội nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam,
là vấn đề nhức nhối của mỗi gia đình nói riêng và xã hội nói chung. Nó để lại nhiều hậu
quả nghiêm trọng cho cả nạn nhân, gia đình và xã hội, tác động xấu đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, công tác PCBLGĐ là vấn đề có tính chất chiến
lược, là mục tiêu quan trọng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Bạo lực gia đình diễn ra với những hình thức muôn màu, muôn vẻ. Đó có thể là
bạo lực vật chất hay tinh thần; bạo lực bằng vũ lực hay ngôn từ; bạo lực của người lớn
đối với người nhỏ hay ngược lại và nghiêm trọng nhất hiện nay là bạo lực chống lại phụ
nữ do người chồng gây ra Đằng sau những tệ nạn xã hội đó có thể là những lý do sâu
xa như trình độ văn hóa thấp, tình trạng kém hiểu biết về pháp luật hay tư tưởng trọng
nam, khinh nữ còn quá nặng nề mà bản thân những người trong cuộc cũng chưa nhận
thức được. Điều đó đặt ra những yêu cầu đòi hỏi bởi các cơ quan, nhà nước, các cấp
chính quyền phải giải quyết thông qua hoạt động quản lý của mình.
Chính vì vậy, từ cơ sở lý luận về QLNN về PCBLGĐ; qua phân tích, đánh giá
thực trạng QLNN về PCBLGĐ trên địa bàn TP.HCM, cùng những phân tích về cơ sở lý
luận, thực trạng QLNN về PCBLGĐ đối với 24 quận, huyện (đại diện quận 10, Bình
Thạnh, Gò Vấp) trên địa bàn Thành phố, với 200 mẫu nghiên cứu, học viên mạnh dạn đề
các giải pháp. Đồng thời cũng đưa ra 03 kiến nghị đối với Quốc hội, đối với Chính phủ
và đối với chính quyền TP.HCM. Những kiến nghị này đều có tính khả thi nhằm giúp
UBND Thành phố hoàn thiện quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình.
QLNN về PCBLGĐ trên địa bàn TP.HCM là một vấn đề mới, cho đến nay vẫn
chưa có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu chuyên biệt. Trên cơ sở kiến thức quản lý
hành chính nhà nước, quản lý các vấn đề xã hội và các văn bản chỉ đạo, quản lý hoạt
động phòng, chống bạo lực gia đình của Trung ương, TP.HCM, luận văn đã tập hợp, hệ
thống và phân tích làm rõ nội dung QLNN về PCBLGĐ một cách cụ thể, khoa học; làm
tiền đề lý luận cho các nghiên cứu chuyên sâu sau này.
25
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_phong_chong_bao_luc_gia.pdf