MỤC LỤC
A.LỜI NÓI ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ TRỌNG TÀI
1. Trọng tài và thẩm quyền xét xử của Trọng tài
1.1. Khái niệm 2
1.2 Các loại trọng tài 2
* Trọng tài vụ việc (Ad-hoc arbitration)
* Trọng tài thường trực hay trọng tài qui chế (Institutional Arbiration)
1.3. Thẩm quyền xét xử của trọng tài
2. Thủ tục tố tụng trọng tài 5
2.1. Thủ tục tố tụng trọng tài
2.3. Ưu thế của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với toà án
3. Phán quyết trọng tài
3.1. Khái niệm phán quyết trọng tài
3.2. Hiệu lực của phán quyết trọng tài
4. Thi hành phán quyết trọng tài 9
4.1. Thi hành phán quyết trọng tài trong nước
4.2. Thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài
II. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CÓ LIÊN QUAN 11
1. Qui định hiện hành về trọng tài ở Việt Nam
2. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC)- bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
3. Thực tiền giải quyết tranh chấp thương mại tại VIAC
4. Một số kiến nghị đối với các trung tâm trọng tài ở Việt Nam
5. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
C. KẾT LUẬN
17 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4591 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trọng tài thương mại, một phương thức giải quyết tranh chấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đã và đang phát triển và phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới theo nền kinh tế thị trường và xu hướng sử dụng các biện pháp ngoài toà án (ADR) đã mang tính toàn cầu. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trọng tài Việt nam tuy đã ra đời từ rất lâu song hoạt động chưa có hiệu quả do cơ chế pháp luật về trọng tài còn nhiều bất cập và một phần do các thương nhân chưa hiểu rõ về cách giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Mới đây, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật trọng tài thương mại 2010 nhằm khắc phục những thiếu sót về luật từ trước tới nay, tạo điều kiện cho trọng tài thương mại ở nước ta phát triển. Trong điều kiện đó, tôi đã chọn đề tài “Trọng tài thương mại, một phương thức giải quyết tranh chấp” làm đề tài nghiên cứu bài tập học kỳ với mong muốn nâng cao hơn nữa nhận thức của cá nhân trong vấn đề này.
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ TRỌNG TÀI
1. Trọng tài và thẩm quyền xét xử của Trọng tài
1.1. Khái niệm
Trọng tài thương mại được hiểu ngắn gọn là trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại. Luật Thương mại Việt Nam quy định rõ trong điều 5 rằng “hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội. Dịch vụ thương mại gồm những dịch vụ gắn liền với việc mua bán hàng hoá. Xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại”. Như vậy là Luật thương mại quy định khái niệm “thương mại” theo nghĩa hẹp, tức là chỉ các hoạt động mua bán hàng hoá và những hoạt động gắn với việc mua bán hàng hoá.
Trong phần chú thích của Điều 1 Luật mẫu UNCITRAL, người ta cho rằng “khái niệm thương mại cần phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù có hợp đồng hay không. Quan hệ có bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới hạn với các giao dịch sau đây: bất kì giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hay dịch vụ, hợp đồng phân phối; đại diện thương mại hay đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li-xăng. đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, vận tải hàng hoá hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hoặc đường bộ”. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng Luật mẫu UNCTRAL đã đưa ra gợi ý về một phạm vi khái niệm thương mại rất rộng so với khái niệm thương mại của Việt Nam.
Từ đó, rút ra khái niệm trọng tài thương mại là quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại do các bên tự nguyện lựa chọn trong đó bên thứ ba trung lập (trọng tài) sau khi nghe các bên trình bày sẽ đưa ra một quyết định (phán quyết trọng tài) có tính chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp
1.2 Các loại trọng tài
Trong những năm gần đây, số lượng những vụ tranh chấp trong thương mại quốc tế được giải quyết bằng trọng tài ngày càng tăng. Các tổ chức trọng tài phi chính phủ đã phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy ở khắp các nơi trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, nơi được coi là khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới. Ở các quốc gia khác nhau, trọng tài thương mại phi chính phủ có những tính chất, đặc điểm khác biệt, phù hợp với trình độ và đặc điểm phát triển kinh tế –xã hội của mỗi nước. Tuy vậy, nhìn chung, chúng ta có thể chia trọng tài kinh tế phi chính phủ ra làm hai loại chính dựa trên phương pháp tiến hành tố tụng:
* Trọng tài vụ việc (Ad-hoc arbitration)
Trọng tài vụ việc là loại hình trọng tài mà do các bên tự thành lập để giải quyết vấn đề họ yêu cầu, sau khi giải quyết xong vụ tranh chấp thì giải tán. Như vậy, trọng tài đặc biệt hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự do thoả thuận của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có toàn quyền lựa chọn bất kỳ một người nào làm trọng tài viên để giải quyết tranh chấp của mình. Người này chỉ cần được các bên nhất trí chứ không bị giới hạn bởi bất kỳ một điều kiện nào nhưng nếu các bên thống nhất lựa chọn một người không đủ khả năng thì chính họ là người sẽ phải gánh chịu hậu quả do sự đề cử của mình đem lại. Do đó, trọng tài viên thường là người có uy tín, kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ trong lĩnh vực thương mại quốc tế và công minh trong xét xử. Ngoài ra, các bên tranh chấp còn có toàn quyền trong việc thoả thuận để tự thiết lập những thủ tục, nguyên tắc tố tụng riêng sao cho phù hợp với tranh chấp của mình chứ không nhất thiết phải tuân theo bất kỳ một nguyên tắc sẵn có nào. Nhưng họ cũng có thể thoả thuận chấp nhận một hệ thống quy định mẫu về trọng tài, điển hình như Bản quy tắc trọng tài của UNCITRAL thông qua ngày 28/4/1976 hay Luật mẫu UNCITRAL thông qua ngày 21/6/1985. Như vậy, tổ chức và tố tụng của trọng tài đặc biệt khá đơn giản, có thể tiết kiệm được thời gian và chi phí của các bên liên quan. Tuy nhiên trên thực tế, hình thức trọng tài đặc biệt chỉ thích hợp với những tranh chấp có giá trị nhỏ, hoặc giữa các bên đương sự am hiểu pháp luật, dày dạn trên thương trường và có nhiều kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp.
Ở Việt Nam, trước đây chưa có qui định cụ thể về hình thức trọng tài đặc biệt này. Tuy nhiên, Pháp lệnh trọng tài thương mại có hiệu lực từ ngày 01/7/2003 đã đưa ra qui định về loại hình trọng tài này tại điều 26, chính thức công nhận loại hình trọng tài này và đồng thời cũng đã đưa ra được giải pháp đối với hạn chế nêu trên của trọng tài Ad-hoc.
* Trọng tài thường trực hay trọng tài qui chế (Institutional Arbiration)
Trọng tài thường trực là trọng tài được thành lập ra và hoạt động thường xuyên theo một quy chế nhất định, có cơ quan thường trực (trung tâm trọng tài). Đối với trọng tài thường trực, khi lựa chọn trọng tài viên, các bên thường chỉ được lựa chọn trong một danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài, hoặc ít nhất trọng tài viên cũng phải đáp ứng được một số điều kiện tối thiểu do trung tâm trọng tài đặt ra. Khi xét xử, trọng tài thường trực phải tuân theo qui tắc tố tụng đã định trước của trung tâm. Như vậy, đối với hình thức trọng tài thường trực, quyền tự do của các bên bị hạn chế một phần nên có thể coi trọng tài thường trực là hình thức trung gian giữa trọng tài đặc biệt và toà án. Tuy nhiên, đây cũng là thuận lợi cho các bên chưa có nhiều kinh nghiệm trong thương mại quốc tế bởi vì các bên tranh chấp không cần phải qui định quá chi tiết về qui tắc, thủ tục tố tụng mà chỉ cần qui định trung tâm trọng tài nào sẽ giải quyết tranh chấp giữa các bên và chấp nhận qui tắc tố tụng của trung tâm trọng tài đó.
Hình thức trọng tài thường trực có rất nhiều ưu điểm, với một điều lệ và quy tắc tố tụng độc lập, tương đối ổn định, với thực tiễn và kinh nghiệm phong phú được tích luỹ qua quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp, với một đội ngũ những trọng tài viên là những chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau (thương mại quốc tế, hàng hải quốc tế, thanh toán quốc tế, luật quốc tế...) khiến cho quá trình tố tụng diễn ra một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Ở Việt Nam, Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam được thành lập theo quyết định số 204/TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1993, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài hàng hải và Hội đồng trọng tài ngoại thương. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam có nhiệm vụ xét xử các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế quốc tế và từ ngày 15/4/1996, Trung tâm được phép mở rộng thẩm quyền xét xử sang các quan hệ kinh tế phát sinh trong nước. Trung tâm hoạt động theo điều lệ riêng, xét xử theo quy tắc tố tụng riêng và là tổ chức trọng tài thương mại có uy tín nhất hiện nay ở Việt Nam.
1.3. Thẩm quyền xét xử của trọng tài
Ở các nước trọng tài được lập ra để xét xử các tranh chấp phát sinh trong thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Nhưng đối với một tranh chấp cụ thể thì trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử khi các bên giao tranh chấp trong thương mại cho trọng tài giải quyết chứ trọng tài không thể tự mình đem tranh chấp ra xét xử. Trong hoạt động ngoại thương, thẩm quyền xét xử của trọng tài đối với các tranh chấp cụ thể có thể được quy định trong hợp đồng, trong một văn bản thoả thuận riêng về trọng tài giữa các bên, hoặc trong điều ước quốc tế có liên quan.
Theo thoả thuận trọng tài
Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên cam kết đưa ra trọng tài để giải quyết tất cả hoặc một số loại tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau về một quan hệ pháp luật nhất định, theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới dạng một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc một văn bản thoả thuận riêng (điều 7.1 Luật mẫu UNCITRAL).
Trong khi đàm phán, ký kết hợp đồng, các bên có thể thoả thuận điều khoản về trọng tài, trong đó qui định trọng tài nào có quyền giải quyết tranh chấp có thể phát sinh sau này. Điều khoản trọng tài này trở thành một phần của hợp đồng. Khi đó, điều khoản trọng tài trong hợp đồng được coi là một hình thức của thoả thuận trọng tài. Tất nhiên, vào lúc này chưa thể xác định được tranh chấp có xảy ra hay không và xảy ra tranh chấp gì. Vì vậy, điều khoản trọng tài thường mang tính tổng quan, không đi vào chi tiết, tuy nhiên sẽ rất thuận lợi nếu các bên thống nhất về việc chọn cơ quan trọng tài nào, ở đâu có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng như thống nhất về thể thức chỉ định trọng tài viên.
Trong bản quy tắc trọng tài UNCITRAL 1976, điều 21 đã có quy định về vấn đề này.
Như vậy, điều khoản trọng tài trong hợp đồng là độc lập tương đối so với hợp đồng vì nó được coi như một dạng của thoả thuận trọng tài. Có nghĩa là khi hợp đồng vô hiệu thì điều khoản trọng tài vẫn có hiệu lực trừ phi người ký kết hợp đồng không đủ năng lực hành vi
Nếu trong hợp đồng không có điều khoản trọng tài, thì trong quá trình thực hiện hợp đồng, thường là khi tranh chấp đã xảy ra nhưng cũng có thể là khi tranh chấp chưa xảy ra, các bên cũng có thể ký một văn bản thoả thuận giao tranh chấp cho một tổ chức trọng tài nào đó giải quyết; thoả thuận này, cũng có thể được ghi nhận qua việc trao đổi thư từ hoặc điện tín ( sau đây gọi chung là văn bản trọng tài). Văn bản trọng tài cũng được coi là một hình thức của thoả thuận trọng tài.
Thoả thuận trọng tài là cơ sở để khẳng định thẩm quyền của trọng tài đối với tranh chấp trong thương mại quốc tế. Về nội dung thì một thoả thuận trọng tài phải hàm chứa các nội dung sau
Cơ quan giải quyết tranh chấp
Quy tắc tố tụng trọng tài đước áp dụng
Trọng tài viên được chỉ định để giải quyết tranh chấp
Địa điểm giải quyết tranh chấp
Hầu hết luật pháp các nước đều quy định thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản, tuy nhiên có những nước qui định thoả thuận trọng tài có thể lập bằng miệng. Công ước New york 1958, công ước Châu Âu 1961 đều qui định rằng: thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản tuy nhiên lại có cách giải thích khác nhau về hình thức văn bản của thoả thuận trọng tài. Công ước New york 1958 khẳng định: “một thoả thuận trọng tài bằng văn bản được hiểu là điều khoản trọng tài trong một hợp đồng bằng văn bản thoả thuận trọng tài được các bên ký kết bằng văn bản độc lập với hợp đồng hoặc được ghi nhận trong việc trao đổi thư từ hoặc điện tín”. Trong Luật trọng tài thương mại 2010 qui định thoả thuận trọng tài phải được làm bằng văn bản, bao gồm cả những hình thức như thư từ, tài liệu trao đổi giữa các bên. Những qui định không giống nhau này làm phát sinh khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp khi có sự xung đột pháp luật về hình thức của thoả thuận trọng tài.
Thoả thuận trọng tài sẽ là vô hiệu khi trái với qui định của pháp luật về nội dung và hình thức của thoả thuận. Ngoài ra thoả thuận sẽ không có hiệu lực khi người kí kết thoả thuận không có đủ năng lực hành vi theo qui định của luật pháp.
Theo điều ước quốc tế
Việc giao tranh chấp cho trọng tài thương mại xét xử cũng có thể được quy định trong các điều ước quốc tế. Trước đây, trong Điều kiện chung giao hàng giữa các nước thành viên khối SEV qui định trọng tài của bên bị kiện có thẩm quyền xét xử tranh chấp giữa các bên mua bán hàng hoá. Hiện nay, bản Điều kiện chung giao hàng này không còn hiệu lực nữa. Trong các điều ước quốc tế hai bên hay nhiều bên đang có hiệu lực không có qui định về thẩm quyền của trọng tài. Từ đó rút ra thẩm quyền của trọng tài hiện nay chỉ do các bên đương sự lập ra.
Ngoài việc chấp nhận xét xử tranh chấp ra, trọng tài còn có thể từ chối không xét xử tranh chấp mặc dù hai bên tranh chấp có thoả thuận đưa tranh chấp ra xét xử tài cơ quan trọng tài. Đây có thể là những trưòng hợp trọng tài xét thấy rằng tranh chấp đó không thuộc thẩm quyền của mình hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu do qui định pháp luật của một trong hai bên tranh chấp mà họ không biết.
2. Thủ tục tố tụng trọng tài
2.1. Thủ tục tố tụng trọng tài
Thủ tục tố tụng trọng tài thương mại quốc tế được tiến hành theo đúng quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài hoặc quy tắc tố tụng mà hai bên đã thống nhất lựa chọn. Mỗi trung tâm trọng tài thương mại quốc tế ở một nước đều xây dựng cho mình một bản qui tắc tố tụng phù hợp với đặc điểm luật pháp về trọng tài của nước đó. Tuy nhiên, để tăng sự hấp dẫn của các trung tâm trọng tài quốc tế và để thuận tiện cho việc xét xử và công nhận phán quyết trọng tài, hầu hết quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài quốc tế đều có xu thế xích lại gần với quy tắc của trọng tài ICC và quy tắc của Luật mẫu UNCITRAL. Quá trình tố tụng tại trọng tài quốc tế thường bao gồm các bước như: đơn kiện, chọn và chỉ định trọng tài viên, công tác điều tra trước khi xét xử, phiên họp xét xử, kết thúc xét xử...
Theo một cách thông thường nhất, tố tụng trọng tài sẽ bắt đầu khi đơn kiện của nguyên đơn được gửi tới trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài xem xét đơn yêu cầu và bản tường trình nội dung tranh chấp, nếu thấy tranh chấp là đối tượng của thoả thuận trọng tài và thoả thuận trọng tài giữa các bên là có giá trị hiệu lực pháp lý thì quá trình tố tụng sẽ bắt đầu và tiếp tục với việc hình thành một hội đồng trọng tài
Hội đồng trọng tài được chọn và thành lập theo đúng thoả thuận của các bên. Trong việc hình thành hội đồng trọng tài thì việc quan trọng nhất là việc chọn và chỉ định trọng tài viên.
Thời gian chọn lựa và chỉ định trọng tài viên có thể do các bên thoả thuận. Thời gian này phải hợp lý, đảm bảo cho các bên lựa chọn được trọng tài phù hợp đồng thời vẫn đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra nhanh chóng. Nếu các bên không thoả thuận về vấn đề này thì sẽ căn cứ theo qui tắc tố tụng hoặc luật trọng tài có liên quan. Ví dụ theo Luật mẫu UNCITRAL, các bên trong vòng 30 ngày không chỉ định trọng tài sẽ mất quyền chỉ định trọng tài và khi đó tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác sẽ thay mặt các bên chỉ định trọng tài viên. Theo quy tắc của Hiệp hội trọng tài Hoa kỳ thì thời gian này là 10 ngày, theo quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam thì thời hạn này là từ 30 ngày đến 2 tháng.
Pháp luật trọng tài của các nước khác nhau cũng quy định cách thức lựa chọn trọng tài viên khác nhau. Thông thường nếu tranh chấp được giải quyết bằng Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên thì mỗi bên (nguyên đơn, bị đơn) chọn một trọng tài viên. Hai trọng tài được chọn sẽ bầu một trọng tài viên thứ ba có tên trong danh sách trọng tài của trung tâm làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Nếu tranh chấp được giải quyết bằng một trọng tài viên duy nhất thì các bên tự thương lượng chọn ra. Đây là phương thức chọn lựa phổ biến nhất theo thông lệ quốc tế, ngoài ra mỗi nước có thể có các cách qui định khác.
Các bên được quyền lựa chọn và chỉ định trọng tài viên thì cũng có quyền từ chối trọng tài viên do chính họ chỉ định. Luật mẫu UNCITRAL quy định: “một trọng tài viên có thể bị từ chối nếu có thể gây nên những nghi ngờ chính đáng về sự công minh và tính độc lập khách quan của mình, hoặc khi trọng tài viên không đủ điều kiện và trình độ chuyên môn như các bên đã thoả thuận.” Quy tắc trọng tài của tung tâm trọng tài quốc tế Singapore cũng quy định: bất kỳ trọng tài viên nào cũng có thể bị khước từ,.. một bên chỉ có thể khước từ trọng tài viên do chính mình chỉ định. Phù hợp với thông lệ quốc tế, quy tắc tố tụng VIAC cũng có những quy định tương tự. Điều 11 quy tắc tố tụng VIAC cũng quy định: “Các bên đương sự có quyền khước từ trọng tài viên… nếu đương sự nghi ngờ về sự vô tư của trọng tài viên.”
Sau khi thành lập hội đồng trọng tài, hoạt động tố tụng trọng tài sẽ được tiếp tục với thủ tục chuẩn bị xét xử. Địa điểm xét xử và ngôn ngữ xét xử cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình tố tụng, chi phí đi lại và phiên dịch có thể sẽ là không nhỏ nếu các bên không khôn khéo trong vấn đề này. Tuy nhiên, nếu các bên không thể thống nhất được vấn đề này thi Hội đồng xét xử sẽ quyết định.
Trong tố tụng trọng tài, nguyên đơn phải ứng trước lệ phí trọng tài theo quy định của biểu phí trọng tài. Lệ phí trọng tài của các trung tâm trọng tài được quy định trong biểu phí trọng tài căn cứ theo trị giá vụ kiên.
Trong quá trình tố tụng trọng tài, tính khách quan và việc xét xử công bằng phải được đảm bảo. Hội đồng trọng tài xét xử không được có thành kiến với các bên khi tố tụng, các bên phải được đối xử bình đẳng và được quyền trình bày về vụ việc. Các bên tranh tụng phải được thông báo về việc mở phiên xử và có quyền tranh luận trực tiếp, đưa ra mọi phương tiện chứng minh để bảo vệ lý lẽ của mình.
Tố tụng trọng tài sẽ được đình chỉ nếu các bên đạt được sự hoà giải. Biên bản hoà giải (nếu được uỷ ban trọng tài chấp thuận) sẽ trở thành phán quyết trọng tài về điều kiện được thoả thuận. Phán quyết này có giá trị hiệu lực như phán quyết về nội dung vụ kiện.
Tố tụng trọng tài sẽ được chấm dứt bởi một phán quyết chung thẩm hoặc khi nguyên đơn rút đơn kiện, bị đơn chấp thuận và uỷ ban trọng tài công nhận lợi ích chính đáng của họ trong việc có được một giải pháp cuối cùng về giải quyết tranh chấp hoặc khi uỷ ban trọng tài thấy rằng việc tiếp tục tố tụng có những nguyên nhân trở nên không cần thiết và không thể được.
2.3. Ưu thế của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với toà án
Qua việc phân tích những khía cạnh trên, ta có thể thấy những ưu thế nổi bật của tố tụng trọng tài. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa phương pháp hoà giải, thương lượng và phương pháp giải quyết tại toà án. Những ưu thế của trọng tài so với toà án chính là những ưu điểm của phương pháp hoà giải, thương lượng đã được lồng vào một cơ chế pháp lý mới là trọng tài.
Với đặc trưng tôn trọng thoả thuận của các bên đương tụng, hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cho phép các bên có quyền tự định đoạt khi có tranh chấp xảy ra. Các bên có quyền lựa chọn hình thức trọng tài, có thể là trọng tài Ad-hoc hoặc trọng tài quy chế tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh giữa các bên, các bên có thể lựa chọn trọng tài viên, thời gian xét xử, địa điểm xét xử… Điều này giảm bớt sự cứng nhắc trong tố tụng đối với các bên.
Về thời gian tố tụng, nếu nói rằng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ đảm bảo nhanh hơn giải quyết bằng toà án thì có thể không hoàn toàn chính xác. Bởi vì, nếu như tranh chấp được giải quyết tại toà án sơ thẩm và không phải trải qua thủ tục xét xử tại các toà án cấp cao hơn thì có khi thời gian giải quyết tranh chấp bằng toà án còn ngắn hơn thời gian giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tuy nhiên, bản án xét xử sơ thẩm của toà án không có tính chung thẩm nó dễ dàng bị kháng cáo và trải qua các thu tục xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm của toà án cấp cao hơn…cho nên trong nhiều trường hợp, thời gian giải quyết tranh chấp bị kéo dài ra rất nhiều gây căng thẳng về tinh thần và tốn kém về chi phí cho các bên. Trong những trường hợp như vậy thì giải quyết tranh chấp bằng trọng tài với thủ tục xét xử một cấp và phán quyết chung thẩm rõ ràng tiết kiệm và lợi hơn nhiều cho các bên tranh chấp.
Đối với các vụ tranh chấp phát sinh từ thương mại quốc tế, một bên tranh chấp thường là người nước ngoài (có khi cả hai bên), việc lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài giúp bên nước ngoài gạt bỏ được mặc cảm về việc đưa vụ tranh chấp ra xét xử tại toà án của nước khác. Đây cũng là một lý do làm cho hình thức trọng tài được sử dụng nhiều trong giải quyết tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế.
Với những đặc trưng như thủ tục giải quyết dân chủ, đơn giản, linh hoạt, xét xử nhanh chóng, đảm bảo bí mật, phán quyết tin cậy, tiết kiệm, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá bằng phương pháp trọng tài mang tính thương mại và phù hợp tâm lý chung cũng như đòi hỏi của các nhà kinh doanh. Như vậy, có thể nói, các trung tâm trọng tài đã góp phần giảm bớt các gánh nặng của công tác xét xử, góp phần vào sự phát triển các quan hệ kinh tế. Thực tiễn đã và đang chứng minh điều đó, trọng tài ngày càng phổ biến và trở thành phương thức chủ yếu để giải quyết tranh chấp không chỉ trong thương mại quốc tế mà còn trong các quan hệ thương mại khác.
3. Phán quyết trọng tài
3.1. Khái niệm phán quyết trọng tài
Như đã nói, việc xét xử được kết thúc bằng một quyết định của uỷ ban trọng tài. Quyết định trọng tài là quyết định chung thẩm, các bên tranh chấp buộc phải thi hành.
Với ý nghĩa là một phán quyết của một cơ quan tài phán, quyết định trọng tài kết thúc quá trình tố tụng. Về hình thức, quyết định trọng tài tạo ra một sự kiện pháp lý mà theo đó tranh chấp chấm dứt. Về nội dung, quyết định trọng tài đưa ra các kết luận khách quan về tranh chấp, qui định các quyền và nghĩa vụ mà các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện. Thông thường, quyết định trọng tài hàm chứa các nội dung:
Các yêu sách, khiếu kiện của các bên đương sự
Phần giải thích nội dung sự việc trọng tài.
Các kết luận cuối cùng của trọng tài về vu việc tranh chấp.
Quyết định trọng tài đề cập đến những vấn đề liên quan đến tranh chấp, phân tích nội dung tranh chấp, nghĩa vụ, trách nhiệm của bên vi phạm v.v…từ đó thoả mãn hay không thoả mãn yêu cầu của bên đi kiện.
Trong một chừng mực nhất định, quyết định trọng tài đóng vai trò là một căn cứ pháp lý, theo đó một bên có thể yêu cầu bên kia thực hiện đúng những nghĩa vụ được qui định trong phán quyết hoặc có thể dùng phán quyết như là một chứng cứ pháp lý để yêu cầu những cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế nếu như phán quyết không được tự nguyện thi hành.
Qui tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam cũng qui định: “Nếu phán quyết không được tự nguyên thi hành trong thời hạn qui định, sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo pháp luật của nước nơi phán quyết được thi hành và theo các điều ước quốc tế hữu quan có hiệu lực với loại vụ kiện này”.
Phán quyết trọng tài được công bố cho các bên ngay sau khi phiên xét xử kết thúc hoặc có thể công bố cho các bên sau trong thời hạn luật định. Pháp luật trọng tài của hầu hết các nước đều qui định thời hạn tối đa mà cơ quan trọng tài phải ra quyết định.
Ví dụ: Điều 26, qui tắc trọng tài của Viện trọng tài Bộ tư pháp Thái Lan qui định: “Trừ khi có thoả thuận khác, quyết định sẽ được ra trong vòng 180 ngày kể từ ngày mà người trọng tài viên cuối cùng được chỉ định”.
Có thể nói, qui định này là cần thiết, nó làm cho cơ quan trọng tài có trách nhiệm hơn trong qua trình tiến hành tố tụng để giải quyết dứt điểm tranh chấp.
Phán quyết trọng tài sau khi công bố, Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên không được sửa chữa, trừ trường hợp có sai sót về chính tả hoặc tính toán.
3.2. Hiệu lực của phán quyết trọng tài
Pháp luật trọng tài hầu hết các nước đều qui định phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm. Điều 32 bản qui tắc trọng tài UNCITRAL qui định: “Quyết định trọng tài phải làm bằng văn bản và là quyết định cuối cùng ràng buộc đối với các bên. Các bên có trách nhiệm thực hiện ngay quyết định trọng tài”. Phù hợp với thông lệ quốc tế, pháp luật Việt Nam cũng qui định như: “Quyết định này là quyết định chung thẩm không thể kháng cáo tại bất cứ toà án hay tổ chức nào khác” hay “Quyết định giải quyêt tranh chấp của trung tâm trọng tài kinh tế có hiệu lực thi hành không thể bị kháng cáo”. Các qui định nêu trên xét về mặt tinh thần có nghĩa là: một khi trọng tài đã ra quyết định thì các quyết định đó bất di bất dịch, chỉ được phép chỉnh lý những vấn đề nhầm lẫn về tính toán, ghi chép (nếu có)
Tuy nhiên, để một phán quyết trọng tài đạt được tính hiệu lực chung thẩm như trên, phán quyết trọng tài phải là kết quả của một quá trình xét xử công minh, vô tư và phải được tuyên bố theo đúng thủ tục ra quyết định trọng tài mà pháp luật qui định.
Nhìn chung, các qui tắc trọng tài ban hành đều tìm cách làm cho phán quyết trọng tài là quyết định cuối cùng. Điều này làm cho phán quyết trọng tài mang tính chung thẩm, tạo điều kiện giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng. Các trường hợp huỷ quyết định của trọng tài do có sai sót liên quan đến thủ tục tố tụng và rất hiếm khi xảy ra. Do đó, giá trị chung thẩm của phán quyết trọng tài hầu như được đảm bảo.
4. Thi hành phán quyết trọng tài
Trên nguyên tắc, một khi trọng tài đã đưa ra phán quyết thì phán quyết đó là chung thẩm, không thể kháng cáo trước bất kỳ một Toà án hay tổ chức nào khác.
Phán quyết trọng tài được chia làm hai loại: phán quyết trọng tài trong nước và phán quyết trọng tài ở nước ngoài. Về nguyên tắc, các phán quyết trọng tài trong nước không liên quan gì đến yếu tố nước ngoài (như tổ chức trọng tài, địa điểm xét xử, quy tắc tố tụng) và nắm trong phạm vi thẩm quyền xem xét của một quốc gia trong khuôn khổ các vấn đề nội bộ mà các vấn đề đó không thuộc phạm vi xem xét theo luật pháp quốc tế. Trong khi đó phán quyết trọng tài nước ngoài lại liên quan đến nhiều hơn một nước, liên quan đến quan hệ giữa các nước đó. Do đó, nếu như phán quyết trọng tài trong nước chỉ chịu sự điều chỉnh bởi luật quốc gia thì phán quyết trọng tài nước ngoài lại chịu sự điều chỉnh của không những luật quốc gia mà còn các điều ước quốc tế, các tập quán, thông lệ quốc tế…Như vậy việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài trong nước và nước ngoài cũng không giống nhau.
4.1. Thi hành phán quyết trọng tài trong nước
Để đảm bảo đặc trưng trên của tố tụng trọng tài, luật pháp các nước đều qui định nguyên tắc chung là phán quyết phải được các bên tự nguyện thi hành. Trong trường hợp một bên không tự nguyện thi hành, bên kia có quyền yêu cầu toà án công nhận và cho thi hành tức là Nhà nước hoá phán quyết trọng tài. Khi nhận được yêu cầu đó, toà án phải công nhận và cho thi hành phán quyết trừ khi toà nhận thấy rằng phán quyết có những điểm sai sót. Khi phán quyết đã được công nhận, phán quyết sẽ có hiệu lực như một quyết định của toà án và có thể được cưỡng chế thi hành bằng lực lượng thi hành án theo qui định của pháp luật về thi hành án.
Ở hầu hết các nước có truyền thống về trọng tài thương mại phi chính phủ, đều có những quy định tương tự về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài trong nước. Tuy nhiên, ở Việt Nam mãi cho tới Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 mới có quy định về vấn đề này, còn trước đây, phán quyết trọng tài trong nước vẫn chưa được công nhận và thi hành trong bất cứ một văn bản pháp luật nào.
4.2. Thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài
Có thể nói nhu cầu về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài xuất phát từ sự giao lưu quốc tế, đặc biệt từ sự phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Do đó, đối với mỗi nước, việc công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài được xem là một trong những yếu tố quan trọng của môi trường đầu tư, kinh doanh, một điều kiện quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế
Khi vụ việc được giải quyết tại toà án, toà án sử dụng quyền lực của Nhà nước mà ở đây là quyền lực tư pháp để xét xử. Kết quả của quá trình xét xử là một bản án hay quyết định. Để cho bản án hoặc quyết định đó được thực thi trên thực tế, toà án sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong đó quan trọng và hữu hiệu nhất là sử dụng bộ máy cưỡng chế của mình. Khác với toà án, trọng tài thương mại với tính cách là một tổ chức xã hội - nghề nhiệp đứng ra giúp hai bên giải quyết tranh chấp, trọng tài không có bộ máy cưỡng chế riêng của mình. Do đó, các phán quyết trọng tài rất khó được thực thi trên thực tế. Hơn nữa, về nguyên tắc, quyết định trọng tài được tuyên ở nước nào thì chỉ có hiệu lực thi hành trên lãnh thổ nước đó, tự chúng không thể có giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành trên lãnh thổ nước khác.
Muốn cho quyết định trọng tài có giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành ở nước khác thì theo pháp luật và tập quán quốc tế, nó phải được pháp luật hoặc cơ quan tư pháp có thẩm quyền (thường là toà án) của nước đó công nhận và quyết định thi hành. Do đó, đã hình thành các chế định công nhận và thi hành quyết định trọng tài trong công pháp quốc tế.
Các quy định pháp lý về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài được ghi nhận một mặt trong pháp luật của mỗi nước và mặt khác trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương, trong các hiệp định thương mại…như công ước NewYork năm 1958, công ước Châu Âu năm 1961 về trọng tài thương mại.
*/ Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài trong các điều ước quốc tế
Việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài ở nhiều nước trên thế giới dựa trên nguyên tắc “có đi có lại”. Các nước ký kết với nhau các điều ước song phương và đa phương qui định một nước có trách nhiệm phải công nhận và thi hành quyết định trọng tài của nước còn lại.
Tuy nhiên, đáng chú ý nhất trong các điều ước quốc tế là công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài. Công ước này được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/8/1958 và có hiệu lực thi hành ngày 7/6/1959.
Công ước NewYork với những nội dung cơ bản về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài tại Điều I, Điều II và III Điều IV, Điều V và Điều VI
Mặc dù các diều ước quốc tế về vấn đề này đều quy định rằng các nước ký kết phải đảm bảo công nhân và thi hành phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể từ chối cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài trong các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Một bên đương sự vắng mặt tại phiên toà xét xử của trọng tài do sơ suất của trọng tài.
Trường hợp 2: Phán quyết trọng tài chưa có giá trị chung thẩm xét theo luật của nước trọng tài.
Trường hợp 3: Phán quyết trọng tài buộc bên thua kiện phải làm một hành động không được phép làm theo luật của nước công nhận thi hành phán quyết trọng tài.
Trường hợp 4: Việc thi hành phán quyết trọng tài trái với trật tự công cộng của nước mà ở đó phán quyết được thi hành.
Bên thua kiện có nghĩa vụ chứng minh trước cơ quan có thẩm quyền của nước công nhận và thi hành những tình hình này. Ngoài ra, có thể từ chối công nhận và thi hành phán quyết cuả trọng tài nước ngoài nếu cơ quan có thẩm quyền của nước công nhận và thi hành phán quyết đó thấy rằng tranh chấp chiếu theo luật nước này không phải là đối tượng của việc xét xử bằng trọng tài hoặc việc công nhận và thi hành phán quyết trái với trật tự công cộng của nước đó.
II. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CÓ LIÊN QUAN
1. Qui định hiện hành về trọng tài ở Việt Nam
Với việc Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật trọng tài thương mại 2010 vào ngày 29/6/2010, hầu hết các bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn trong các qui định về trọng tài ở nước ta đã được giải quyết một cách khá triệt để. So với các văn bản trước đây, Luật này có những điểm mới (và đồng thời cũng là những ưu điểm), đặc biệt trong mối tương quan so sánh với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.
2. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC)- bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, căn cứ theo luật tổ chức chính phủ ngày 30/9/1992 và theo đề nghị của Chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, đã ký quyết định số 204/TTg hợp nhất hai cơ quan trọng tài là Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải thành một tổ chức trọng tài duy nhất là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam vào ngày 28/04/1993.
Theo quyết định số 204/TTg nêu trên, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam là tổ chức phi chính phủ bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như hợp đồng ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán quốc tế…Bằng quyết định số 114/TTg ngày16/2/1996, Thủ tướng Chính phủ cho phép Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết các tranh chấp kinh tế không có yếu tố nước ngaòi nếu các bên tranh chấp thoả thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại Trung tâm này.
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bao gồm các trọng tài viên là những người có kiến thức kinh nghiệm trong các lĩnh vực pháp luật, ngoại thương, đầu tư, tài chính, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm…do Ban thường trực Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chọn. Trọng tài viên có nhiệm kỳ bốn năm và sau mỗi nhiêm kỳ trọng tài viên có thể được chọn lại. Hiện nay danh sách trọng tài viên của VIAC gồm 75 người. Về cơ cấu tổ chức VIAC bao gồm một chủ tịch, hai phó chủ tịch do các trọng tài viên bầu ra, một thư ký thường trực. Giống như các trọng tài viên, chủ tịch và hai phó chủ tịch có nhiệm kì bốn năm. Thư kí thường trực do chủ tịch chỉ định. Ngoài ra, VIAC còn có thể mời các chuyên gia nước ngoài làm tư vấn
VIAC hoạt động dưới hình thức trọng tài quy chế (trọng tài thường trực) tiến hành xét xử theo quy tắc tố tụng của chính VIAC. Nguyên tắc chọn và chỉ định trọng tài viên cũng giống như các trung tâm trọng tài quốc tế khác.
3. Thực tiền giải quyết tranh chấp thương mại tại VIAC
Tại Việt Nam, Trọng tài phi chính phủ đã có lịch sử 40 năm (1963-2003), song do nhiều nguyên nhân, trọng tài phi chính phủ vẫn nhưa phát triển rộng rãi. Cả nước hiện nay có 6 trung tâm trọng tài, nhưng số vụ tập trung chủ yếu ở Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) và có đến 94% số vụ là những tranh chấp thương mại quốc tế
Điều này chứng tỏ uy tín rất cao và sự độc tôn của VIAC trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, đồng thời ta cũng thấy trọng tài chưa đủ hấp dẫn đối với tranh chấp trong nước.
Rõ ràng, đối với số vụ tranh chấp kiện ra trọng tài như trên, thật khó có thể thu được một cái nhìn tổng thể về tranh chấp thương mại ở Việt Nam. Số vụ tranh chấp kiện ra VIAC vượt trội hơn hẳn so với các Trung tâm trọng tài khác vì nhiều lý do. Trước hết, đó là do vị trí độc quyền của VIAC trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Thứ hai, hiện nay trong các văn bản pháp luật nước ta chỉ có quy tắc tố tong của VIAC là ghi rõ “phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm”. Cuối cùng phải kể đến ưu thế của VIAC về đội ngũ trọng tài viên giỏi, quy tắc tố tụng linh hoạt và sự hỗ trợ của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Đến hết năm 2002, số vụ kiện và tổng trị giá của các năm được thống kê như sau:
Đối với VIAC số vụ trung bình mỗi năm là 21 vụ và trị giá tranh chấp được chia làm 4 mức nhỏ, vừa, lớn và rất lớn.
Trong số các tranh chấp của VIAC, nhóm tranh chấp có giá trị nhỏ dưới 10.000 DSD (tương đương khoảng 15 triệu đồng Việt Nam) chiếm một lượng nhỏ, trung bình mỗi năm chỉ từ 1-2 vụ, chiếm 7,6%.
Nhóm tranh chấp có số lượng nhiều nhất là nhóm tranh chấp có giá trị vừa (10.000 USD- 100.000 USD) với số vụ trung bình năm là 10 vụ, chiếm 50% tổng số vụ đưa ra VIAC mỗi năm. trị giá trung bình của tranh chấp này là 393.000 USD/năm và 38.000 USD/vụ.
Thứ ba là nhóm có giá trị tranh chấp lớn (100.000-200.000 USD) với trung bình 4,8 vụ/năm chiếm 28%, trị giá trung bình của tranh chấp này là 690.800 USD/năm và 134.900 USD/vụ.
Cuối cùng là nhóm có giá trị tranh chấp rất lớn trên 200.000 USD với trung bình 5 vụ/năm chiếm 24,4%, trị giá trung bình tranh chấp này là 2.953.900 USD/năm và 590.780 USD/vụ. Tuy nhiên, mức độ đồng đều trong nhóm này không cao, có những tranh chấp lên tới 2 triệu USD, song cũng có những vụ chỉ 200.000 USD và những vụ này có xu hướng ngày càng cao..500 USD/vụ năm 1996 đến 408.300; 527.300; 560.900 USD tương ứng với các năm 1998, 1999, 2000. Điều này càng chứng tỏ tranh chấp thương mại kiện ra VIAC có giá trị tăng dần lên trong thời gian qua. Nó phản ánh và phù hợp với một thực tế là hoạt động thương mại trong giai đoạn này rất phát triển. Trị giá các thương vụ tăng lên kéo theo trị giá các tranh chấp cũng tăng nhanh. Mật độ tranh chấp tập trung vào các thương vụ có giá trị vừa từ 10.000 đến 100.000 USD . Đối với nước ta, doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chiếm một lượng lớn trong cơ cấu doanh nghiệp của nền kinh tế, các thương vụ vì vậy cũng ở quy mô vừa. Mặt khác, ở nước ta, các doanh nghiệp không phải lúc nào cũng tìm được một nguồn tín dụng lớn để đầu tư vào các thương vụ. Chẳng hạn, một hợp đồng trị giá 100.000 USD thì đã tương đương 1,5 tỷ VND mà cơ chế tín dụng của nước ta thì chưa đủ độ linh hoạt, mềm dẻo để đáp ứng nhu cầu lớn như vậy. Cuối cùng, nguyên tắc đa dạng hoá để phân chia rủi ro trong kinh doanh khiến các nhà doanh nghiệp ưa chuộng các thương vụ trung bình để có thể thu được một khoản lợi nhuận khá và rủi ro cũng không bị “trắng tay”.
4. Một số kiến nghị đối với các trung tâm trọng tài ở Việt Nam
Như phần trên của khoá luận đã trình bày, trọng tài phi chính phủ ở Việt Nam đã có lịch sử khá lâu song đến nay vẫn chưa phát triển rộng rãi, vẫn chưa hấp dẫn được các thương nhân trong giải quyết tranh chấp. Nếu có chọn giải quyết tranh chấp tại trọng tài thì chỉ tập trung ở Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC, còn hầu như là không biết đến các trung tâm trọng tài khác. Để các trung tâm trọng tài hoạt động có hiệu quả, thu hút sự quan tâm của các thương nhân, thì theo tôi có một số vấn đề như sau:
Thứ nhất là về bộ máy tổ chức. Ngoài VIAC ra, các trung tâm trọng tài ở Việt Nam còn chưa chú trọng trong công tác xây dựng bộ máy tổ chức quản lý trung tâm. Cần xây dựng một bộ máy tổ chức với cơ cấu gọn nhẹ nhưng hiệu quả, tránh cồng kềnh, chồng chéo. Ban giám đốc, thư ký phải là những người có năng lực trong quản lý cũng như trong chuyên môn. Các trọng tài viên được lựa chọn mọt cách cẩn thận, kỹ càng nhằm đảm bảo những người này không những là những chuyên gia trong các lĩnh vực của mình mà còn phải là người có đạo đức tốt, công minh, chính trực, xét xử một cách vô tư, không thiên vị. Có như vậy thì phán quyết mà trọng tài đưa ra mới đảm bảo tính khách quan. Từ đó mới tạo lòng tin đối với các thương nhân khi giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, là về thủ tục xét xử của các trung tâm. Thủ tục xét xử phải linh hoạt, chặt chẽ, nhanh chóng, đơn giản để dễ dàng cho các bên trong qua trình tranh tụng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên.
Cuối cùng là vấn đề phí trọng tài. theo như ý kiến của các doanh nghiệp thì phí trọng tài ở Việt Nam còn cao hơn so với phí toà án. Các doanh nghiệp Việt Nam thường làm các thương vụ có giá trị nhỏ, nhiều khi do chi phí kiện tụng quá lớn cho nên tuy có tranh chấp nhưng cũng đành không đưa ra giải quyết tại trọng tài. Theo ý kiến của tôi thì không nên đưa ra một biểu phí chung như hiện nay mà nên tuỳ theo trị giá vụ kiện mà thu phí sao cho phù hợp.
Tóm lại, các trung tâm trọng tài Việt Nam muốn để các tranh chấp đến “gõ cửa” thì nên có những cải cách trong tổ chức bộ máy cũng như trong đội ngũ trọng tài viên hay trong qui tắc, thủ tục tố tụng, phí trọng tài sao cho khi xét xử đảm bảo công bằng, nhanh chóng, và tiết kiệm thời gian cũng như chí phí cho các bên đương tụng.
5. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Hiện nay, do những ưu điểm của trọng tài như một phương pháp giải quyết tranh chấp nhanh gọn, khẩn trương, bảo toàn bí mật… nên đã có nhiều doanh nghiệp chọn lựa giải quyết tranh chấp trong thương mại bằng trọng tài. Tuy nhiên, do không hiểu rõ về phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mà đã chịu nhiều thiệt thòi do sự lựa chọn của mình.
Vì không hiểu rõ về những đặc điểm của phương pháp xét xử bằng trọng tài nên ký thoả thuận trọng tài không rõ ràng, cụ thể, hoặc trái với pháp luật của nước trọng tài hay trái với quy tắc của trung tâm trọng tài lựa chọn….Kết quả là giữa họ tồn tại một thoả thuận trọng tài trái pháp luật hoặc không thể thực hiện được, và chính thoả thuận này lại là căn cứ để trọng tài từ chối thẩm quyền xét xử. Lúc này doanh nghiệp không thể giải quyết tranh chấp ở trọng tài mặc dù ý trí lúc đầu là muốn như vậy.
Do vậy, thứ nhất, khi thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì thoả thuận trọng tài phải có đủ các nội dung cơ bản, cần thiết đảm bảo tổ chức trọng tài được lựa chọn sẽ có đủ điều kiện để đứng ra giải quyết tranh chấp, tránh những trường hợp đáng tiếc xảy ra.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào một thoả thuận trọng tài cần nẵm rõ quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài mà mình thoả thuận đưa tranh chấp nếu có phát sinh. Khi đã nắm rõ qui tắc tố tụng, các doanh nghiệp sẽ tận dụng được các ưu điểm của qua trình trọng tài, hạn chế được nhược điểm của qúa trình này đảm bảo tổ chức trọng tài được lựa chọn sẽ thụ lý hồ sơ, phán quyết do tổ chức trọng tài này ra sẽ có giá trị thi hành…Như vậy, khi xảy ra tranh chấp sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng, công bằng, bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Khi tranh chấp xảy ra, các doanh nghiệp Việt Nam là người đi kiện thì nên chuẩn bị đầy đủ hồ sơ tài liệu, các bằng chứng, chứng cứ để đi kiện. Gửi đơn kiện trong thời hiệu khởi kiện để tránh việc đơn kiện bị bác vì đã hết hạn đi kiện.
Còn trong trường hợp, các doanh nghiệp Việt Nam bị kiện ra trọng tài thì nên nhờ cậy tới sự giúp đỡ của các chuyên gia, cố vấn, luật sư, trọng tài viên có uy tín trong lĩnh vực tranh chấp để có giải pháp hợp lý kịp thời nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Các doanh nghiệp cần phải có mặt tại phiên xét xử để phát biểu, biện hộ. Ngoài ra cần tìm ra những chứng cứ thuyết phục để đưa ra trước trọng tài để tự biện hộ cho mình chứ không nên sử dụng những biện pháp gian lận.
Về việc thi hành phán quyết trọng tài, khi doanh nghiệp Việt Nam tham gia thoả thuận chọn trọng tài nước ngoài, tổ chức trọng tài nước ngoài đã giải quyết tranh chấp và đã đưa phán quyết trọng tài (đối với Việt Nam đây là phán quyết trọng tài nước ngoài) thì:
Nếu doanh nghiệp Việt Nam là bên phải thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, chúng ta phải chứng minh các căn cứ từ chối thi hành phán quyết trọng tài để trình lên Hội đồng xét đơn yêu cầu thi hành phán quyết để Hội đồng xem xét và quyết định.
Nếu xét thấy quyết định của toà án về việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài là chưa thoả đáng thì bên đương sự Việt Nam phải khẩn trương làm đơn kháng cáo lên toá án nhân dân tối cao.
Tuy nhiên không phải là bất cứ phán quyết nào chúng ta cũng không tự nguyện thi hành và phải đến lúc có quyết định cưỡng chế của toà án thì mới thi hành, mà các doanh nghiệp nên tự nguyện thi hành nếu thấy rằng lỗi tranh chấp là do mình và phán quyết của trọng tài là thoả đáng để giữ uy tín về lâu dài trong làm ăn kinh doanh vì ngày nay chữ tín là rất quan trọng trên thương trường. Có nhiều doanh nghiệp Việt Nam vì cái lợi trước mắt mà quên đi cái lợi lâu dài đã cố tình chây ì không chịu thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài, như vậy là đã tự đánh mất uy tín, thanh danh của mình vì bên thắng kiện ngoài việc yêu cầu tòa án công nhận và thi hành phán quyết, họ còn áp dụng nhiều cách khác và một trong số đó là đăng báo, dùng chính sức ép trong giới thương gia và uy tín trọng tài viên để buộc bên thua kiện phải thi hành phán quyết.
Nếu doanh nghiệp Việt nam là bên được thi hành.
Nếu bên thua kiện nước ngoài không tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài thì bên thắng kiện Việt Nam phải tìm hiểu thủ tục cộng nhận và thi hành phán quyết của nước bên thua kiện để làm hồ sơ yêu câù cho thi hành.
Còn trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam tham gia thoả thuận chọn trọng tài Việt Nam, tổ chức trọng tài Việt Nam đã ra phán quyết thì:
Nếu doanh nghiệp Việt nam là bên phải thi hành, các doanh nghiệp nên nhanh chóng thi hành phán quyết. Các doanh nghiệp khồg có lý do gì để từ chối thi hành trừ khi doanh nghiệp xét thấy thoả hiệp trọng tài không có hiệu lực theo luật Việt Nam hoặc theo như thoả thuận trọng taì thì tổ chức trọng tài xét xử là sai thẩm quyền. Khi đó, các doanh nghiệp nên viết đơn từ chối thi hành nêu rõ lý do gửi cho Bộ tư pháp để Bộ quyết định có huỷ phán quyết trọng tài hay không.
KẾT LUẬN
Để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại các thương nhân có thể dùng phương pháp thương lượng, hoà giải hoặc nhờ bên thứ ba đứng ra can thiệp hoà giải. Nhưng không phải khi nào thương lượng, hoà giải cũng đem lại thành công. Khi lợi ích của chủ thể tham gia hợp đồng đối kháng sâu sắc, thương lượng hay hoà giải đều không thành công, các bên phải kiện ra cơ quan tài phán có thẩm quyền để bảo vệ quyền lợi của mình. Có hai cơ quan tài phán là toà án và trọng tài. Tuỳ vào ý chí của các bên mà một trong hai cơ quan này sẽ đứng ra giải quyết tranh chấp. Do tính chất và nguyên tắc hoạt động khác nhau, thủ tục giải quyết tranh chấp ở toà án và trọng tài cũng có nhiều điểm khác nhau, các thương nhân nên nhận thức được những điểm khác biệt đó để lựa chọn sao cho hiệu quả nhất. Giải quyết tranh chấp trong thương mại bằng trọng tài hiện nay được phần đông các thương gia trên thế giới ưa chuộng do những ưu điểm của trọng tài là giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, xét xử một cấp, bí mật, ít chi phí, phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Luật trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được những bất cập, chồng chéo trong hệ thống pháp luật về trọng tài của nước ta từ trước đến nay, các thương nhân có thể yên tâm hơn khi lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp trong kinh doanh của mình đặc biệt là kinh doanh quốc tế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nguyễn Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006;
Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nxb. Giáo dục, 2008;
Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Đoàn Trung Kiên, Vũ Phương Đông, Trần Quỳnh Anh, Nguyễn Như Chính, Hỏi và đáp luật thương mại, Nxb. Chính trị-hành chính, 2011;
Luật trọng tài thương mại 2010;
Đạo luật mẫu về thương mại quốc tế của UNCITRAL;
Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài;
Qui tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam năm 1993;
Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ năm 2000, NXB Chính trị quốc gia;
Luật thương mại Việt Nam 2005;
Luật trọng tài Liên bang Mỹ;
Qui tắc trọng tài UNCITRAL 1976 ;
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam (2002: 50 Phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc ;
Webside :
www.iccwbo.org/court/english/intro-court/introduction.asp
www.iccwbo.org/court/english/new-archives/2003/court.asp
www.adr.org/index2.1.jsp?JSPssid=15765
www.adr.org/index2.1.jsp?JSPssid=15765
www.adr.org/index2.1.jsp?JSPssid=16185
www. cietac.org.cn/english/eindex.htm
www.cmac.org.cn/
www.siac.org.sg
Sunflower.singnet.com.sg/~arbiter/thairule.html
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trọng tài thương mại, một phương thức giải quyết tranh chấp.doc