Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam

Tài chính kiềm chế là gì? Tài chính kiềm chế là một cơ chế tài chính được đặc trưng hóa bởi sự can thiệp quá mức của nhà nước vào các hoạt động và các quá trình tài chính. Trong đó, nhà nước sẽ ấn định những mức lãi suất trần, trực tiếp điều tiết quá trình phân phối tín dụng bằng các quyết định hành chính nhiều hơn là thông qua cơ chế thị trường, ưu tiên cho khu vực kinh tế nhà nước và đặt ra các tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá cao và kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn trong và ngoài nước. 1.1.2. Hậu quả của tài chính kiềm chế. Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế cũng như sự mất ổn định kinh tế vĩ mô như:  Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế cũng như sự mất ổn định kinh tế, tiềm năng tài chính không được sử dụng và đầu tư vào sản xuất bởi vì lãi suất thấp thì công chúng sẽ không muốn gởi tiết kiệm mà sẽ hiện vật hóa dưới dạng vàng, đá quý, ngoại tệ mạnh, hàng hóa tiêu dùng. Vì vậy, gây ra tình trạng thiếu vốn đầu tư, khan hiếm hàng hóa giả tạo, mất cân đối nghiêm trọng trên thị trường hàng hóa.  Cầu về vốn vượt xa khả năng của các nguồn cung cấp nên các danh mục đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao phải hủy bỏ hoặc sử dụng vốn từ các thị trường ngầm.  Ngân sách nhà nước luôn phải bao cấp và thiếu hụt vì các doanh nghiệp nhà nước luôn được ưu tiên vay vốn với lãi suất bao cấp dẫn tới luôn ỷ lại, không sản xuất và kinh doanh có hiệu quả.  Hệ thống tài chính không được phát triển và không thể thực hiện được những chức năng trong việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.  Thị trường tài chính có thể không có hoặc manh mún, phân tán và đầy rủi ro, lạm phát và tỷ giá biến động không thể kiểm soát được.

doc89 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3770 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thương mại Nhà nước hay từng Doanh nghiệp nhà nước nếu không, một bộ phận tài sản của Nhà nước sẽ có xu hướng rơi vào tay cá nhân các nhà đầu cơ. Đào tạo và từng bước phổ cập kiến thức phổ thông về cung ứng và “mua” các dịch vụ tiện ích từ Ngân hàng. Mở rộng việc chuyển quan hệ tín dụng trực tiếp giữa cá nhân với Ngân hàng sang quan hệ tín dụng gián tiếp thông qua các Công ty, Nhà máy chế biến, Tập đoàn công nghiệp, Tập đoàn thương mại đồng thời có chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ việc mở tài khoản thanh toán qua Ngân hàng của cả Pháp nhân và thể nhân để cùng với các giải pháp công nghệ nhanh chóng nhất thể hóa thẻ thanh toán trên lãnh thổ Việt nam... Tự do hóa tài chính do đó trước hết luôn gắn chặt với năng lực minh bạch và khả năng kiểm soát lưu thông tiền tệ, khả năng thanh tra giám sát các dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế cũng như chu chuyển vốn giữa trong nước với nước ngoài của Ngân hàng trung ương để thúc đẩy nền kinh tế nói chung, các chủ thể kinh tế nói riêng ngày càng phát triển một cách vững chắc. Điều đó cũng có nghĩa rằng không thể có cái gọi là tài chính tự do hoàn toàn ở bất kỳ quốc gia hay tổ chức kinh tế quốc tế nào. Mức độ tự do hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực quản trị, công nghệ, kiểm soát rủi ro và tính minh bạch trong các quan hệ theo Luật pháp liên quan ở trong nước và thông lệ quốc tế từng thời kỳ phát triển. Mặt khác, tự do hoá tài chính cũng là một xu thế khách quan không thể nhẫn nại “ngồi chờ” sự hoàn thiện năng lực và môi trường Luật Pháp của từng quốc gia thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organazation – WTO), vì vậy nhất thiết Việt nam phải chủ động và tích cực tiếp cận với tự do hoá tài chính bằng một thái độ kiên quyết và cẩn trọng cần thiết nhất có thể được. Theo một số nhận định của các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế thế giới: “Việt Nam cần phối hợp chặt giữa chính sách giá, tiền tệ và tài khóa. Chính sách tiền tệ chặt chưa đủ. Ngoài ra Chính phủ cũng cần giảm thiểu những xáo trộn và gánh nặng đối với các ngân hàng và cả nền kinh tế". Theo ADB (Asian Developing Bank), trong quá trình này, Việt Nam không nên cắt giảm đầu tư công mà nên cải thiện hiệu quả đầu tư công và bảo vệ lợi ích của người nghèo. Việt Nam cũng cần tiếp tục tiến trình cải cách theo hướng thị trường, tăng cường quản lý dòng vốn, nâng cao năng lực thể chế của các cơ quan Chính phủ và năng lực của những người có trách nhiệm quản lý chính sách kinh tế vĩ mô. Đối với khu vực tài chính, cần tăng cường cơ chế đảm bảo an toàn, giám sát. Theo ông Martin Rama, chuyên gia kế toán trưởng của Ngân hàng Thế giới (World bank – WB) cũng lưu ý rằng thắt chặt chi tiêu của khu vực công không phải là giải pháp tốt nhất. “Nếu xuất khẩu giảm mạnh thì chi tiêu công cũng bị duy trì ở mức thấp làm cho các hoạt động của nền kinh tế không triển khai được nữa, và như vậy đây cũng không phải là một giải pháp tốt” Chính sách hướng nhiều hơn vào cơ chế thị trường. Hiện nay, đã có biện pháp cắt giảm tín dụng vận hành thông qua việc bán trái phiếu của Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, một số cơ quan nhà nước (trong đó có Bảo hiểm xã hội Việt Nam) hiện đang nắm giữ một phần vốn khả dụng đáng kể trong các Ngân hàng thương mại. Một cơ chế quản lý quỹ dự trữ hưu trí hiện đại hơn sẽ đòi hỏi BHXH Việt Nam phải mua vào trái khoán trao đổi được. Lượng mua vào của BHXH Việt Nam trên thị trường nội địa có thể giúp hợp nhất trái khoán (có hàng trăm loại nhỏ khác nhau). Chính sách tiền tệ Một trong những vấn đề trọng tâm của kinh tế vĩ mô nói chung và thị trường tài chính nói riêng hiện nay và cả trong tầm nhìn xa hơn đối với Việt Nam là phải bảo vệ giá trị sức mua của đồng nội tệ. Vậy giải pháp nào để bảo vệ giá trị sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền Việt Nam? Trước hết, cần nhận diện và vận dụng các qui luật của tiền tệ: lượng tiền nội tệ cung ứng vào lưu thông càng lớn (bất luận từ kênh nào) so với mức đã bão hòa trước đó thì tỷ giá càng tăng (đo bằng số đồng nội tệ/một đồng ngoại tệ), cũng đồng nghĩa với lạm phát càng cao. Và ngược lại, bất kể lúc nào có lạm phát là có hiện tượng cung tiền các kỳ trước đó quá cao so với nhu cầu thực của nền kinh tế. Cầu về ngoại tệ càng lớn thì tỷ giá cũng càng tăng (nhưng chỉ trong ngắn hạn, nếu nền kinh tế không bị đô la hóa) và ngược lại, tức là khi lãi suất huy động ngoại tệ phải càng tụt thì tỷ giá mới sẽ phải tụt theo. Lãi suất nội tệ càng tăng thì ngược lại, không những tỷ giá sẽ càng tụt mà chỉ số lạm phát cũng sẽ càng giảm... Suy cho cùng, sức mua đối nội và đối ngoại của đồng nội tệ phải tăng tiến tới ổn định thì mới chống được lạm phát và giảm phát – Đó là nguyên lý lý thuyết bất di bất dịch. Thứ hai: từ những nguyên lý mang tính qui luật nói trên, để chống gia tăng tỷ giá lúc này cần phải có các giải pháp tương ứng để làm “xì hơi” từ từ các áp lực đang làm cho tỷ giá và lạm phát tăng. Trong đó giải pháp mạnh để làm “xì hơi” có hiệu ứng rõ nhất chính là dùng ngoại tệ dự trữ (ngay cả rất hiếm cũng phải cân nhắc, sử dụng) để mua tiền đồng vào, bán ngoại tệ ra theo các địa chỉ được xem là đang có áp lực lớn nhất và thiết thực nhất. Đồng thời với việc này là hàng loạt các giải pháp khác mang tính ngắn hạn như phải có tín hiệu siết chặt hơn nữa chính sách tiền tệ và giảm rõ rệt sự chi tiêu của Chính phủ, tăng lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu trên thị trường tiền tệ sơ cấp. Nếu cần, cũng phải tăng cả dự trữ bắt buộc tiền gửi, sử dụng nhiều hơn các công cụ của chính sách tiền tệ để tạo sóng lan tỏa tới thị trường tín dụng, lấy “đà” để tự thị trường có điều kiện giảm dần lãi suất nội tệ theo qui luật, về hành chính, phải công bố giảm mạnh lãi suất huy động ngoại tệ, tăng mạnh lãi suất cho vay bằng ngoại tệ và tiến tới giảm dần, từng bước có lộ trình chấm dứt tín dụng ngoại tệ và tín dụng vàng, buộc các tổ chức tín dụng phải chuyển khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp từ nguồn huy động sang dư nợ tín dụng thay vì hạch toán vào mục “đầu tư”, cân đối lại chi và tiêu ngân sách nhà nước, tạm dừng nhập khẩu những đơn hàng không thiết yếu, đa dạng hóa cơ cấu danh mục tiền dự trữ cũng như phương tiện thanh toán quốc tế... Tách rời ảnh hưởng của đồng đôla Mỹ. “Nếu muốn đảm bảo Việt Nam là quốc gia xuất khẩu có tính cạnh tranh lớn thì cần đảm bảo khả năng cạnh tranh của Việt Nam theo giỏ ngoại tệ chung. Kiến nghị rõ ràng của chúng tôi với Việt Nam là nên dựa vào cả giỏ ngoại tệ chứ không chỉ dựa vào một đồng Đôla Mỹ” Về xu hướng tự do hóa tài chính trong nước: Chắc chắn sẽ phải vận động theo sức hút của tiến trình tự do hoá tài chính không biên giới của thế giới trong kỷ nguyên WTO. Các xu hướng rõ nhất có thể nhìn thấy và dự báo bao gồm: nới rộng các giới hạn về quyền của các thành phần tham gia cung ứng dịch vụ Ngân hàng, tỷ lệ sở hữu cổ phần thông qua việc mua cổ phần và các thương vụ mua, bán, sáp nhập; tỷ lệ chuyển tiền; điều kiện tham gia mạng thanh toán quốc tế; sự hình thành các khu vực đồng tiền chung; các giới hạn về biên độ tỷ giá; các hình thức thanh toán qua biên giới...Để hiện thực hoá các xu hướng nói trên, chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều loại mô hình Định chế tài chính và nghiệp vụ mới theo hướng: chuyển mạnh từ đơn sở hữu sang đa sở hữu, từ Công ty hoá sang Tập Đoàn hoá, từ chuyên doanh thuần sang đa năng và từ đa năng chung chung (hạch toán gộp) sang “chuyên doanh” trong đa năng (phân cấp quản trị kinh doanh theo nhóm sản phẩm, loại khách hàng và hạch toán độc lập trong hạch toán tổng...). Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải phát triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó. Chúng ta không thể nôn nóng, cũng như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như phần đầu bài viết đã đề cập, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng khoán. Tăng cường các biện pháp mạnh về quản lý nhà nước để chống đô la hóa bằng luật và hệ thống hành chính một cách cương quyết sao cho trên đất Việt Nam nhất thiết chỉ tiêu tiền Việt Nam đối với mọi thành phần, mọi khu vực kinh tế. Xác định lộ trình để không còn tín dụng ngoại tệ và tín dụng vàng trong thị trường vốn. Quản lý chặt việc cung ứng tín dụng và sử dụng phương tiện thanh toán của tất cả các nhóm ngân hàng, kể cả các ngân hàng có nhân tố nước ngoài. Tiến tới khuyến khích các dòng ngoại tệ chảy vào Việt Nam chỉ được đi qua thị trường ngoại hối và thị trường trái phiếu chính phủ, mà không cho phép đi qua thị trường tín dụng. Tăng cường mở chi nhánh và/hoặc mở ngân hàng 100% vốn Việt Nam tại nước ngoài để vừa phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng ra nước ngoài, vừa đáp ứng nhanh nhất các nhu cầu tiền đồng ngay từ ngoài biên giới lãnh thổ cho khách vào đầu tư hay du lịch tại Việt Nam. Phát triển mạnh hệ thống các doanh nghiệp phụ trợ để cải thiện rõ rệt cơ cấu chi phí trong giá thành sản phẩm hàng hóa xuất khẩu theo hướng chi phí mua nguyên, nhiên liệu, sức lao động cũng như thiết bị máy móc do Việt Nam sản xuất sẽ chiếm tỷ trọng lớn, tăng mạnh hàm lượng nội địa hóa giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam. Có lộ trình chuyển dứt khoát mô hình Ngân hàng Nhà nước hiện nay sang mô hình Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ, hình ảnh đồng tiền Việt Nam phải ngày càng được cải thiện không chỉ về niềm tin vào sức mua ổn định, mà tiến tới cả về mệnh giá và tính độc lập được bảo vệ, được tin tưởng trong mọi tầng lớp công chúng. Tóm lại: Khu vực dịch vụ tài chính trên thế giới đã thể hiện rõ xu hướng toàn cầu hoá trong vòng hai thập kỷ gần đây. Tự do hoá tài chính toàn cầu đã mang lại những lợi ích to lớn xét trên cả khía cạnh hiệu quả và chất lượng dịch vụ. Thật không may, trong thời gian trước đây, một số nền kinh tế chuyển đổi theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính đã lâm vào những cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng. Nỗi ám ảnh về khả năng xảy ra khủng hoảng đã trở thành một trong những nguyên nhân chính khiến các nước thành viên WTO tỏ ra do dự trong việc cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong đa số các trường hợp, lợi ích của tự do hoá tài chính, hoàn toàn có thể vượt trội những chi phí rủi ro có thể xảy ra trong quá trình cải cách. Khủng hoảng tài chính diễn ra ở một số nước trên thế giới không có nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ việc tự do hoá tài chính mà bắt nguồn từ chính những yếu kém tiềm ẩn trong hệ thống ngân hàng, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát có hiệu quả cũng như những sai lầm trong chính sách quản lý tiền tệ và chính sách tỷ giá hối đoái. Ngay từ năm 1973, khi viết cuốn “Tiền và Vốn trong phát triển kinh tế” Mckinnon đã nêu ra tầm quan trọng của việc tự do hóa tài chính đối với phát triển kinh tế. Trong nhiều nghiên cứu sau đó của ông và nhiều học giả nổi tiếng khác như Shaw, Stiglitz… đã đề xuất một tiến trình tự do hóa tài chính với các bước đi hết sức rõ ràng và chặt chẽ. Và để có thể tự do tài khoản vốn, bước cuối cùng trong tiến trình tự do hóa tài chính, cần phải đảm bảo thâm hụt ngân sách ở mức vừa phải, giảm thiểu các áp chế tài chính về dự trữ bắt buộc, trần lãi suất, sở hữu và can thiệp của nhà nước trong các ngân hàng thương mại, tăng cường tạo sân chơi bình đẳng và giảm dần tín dụng chỉ định. Song song với các cải cách này, cần có những bước đi cải cách thương mại và quản lý theo hướng nới lỏng tỷ giá hối đoái phù hợp. CHƯƠNG 5 THỰC TIỄN TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM Đồng tiền tự do chuyển đổi Khái niệm về tiền tệ: Sự hình thành và phát triển của tiền tệ Ngày nay, với sự phát triển của khoa học, công nghệ, việc trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ hết sức nhanh chóng và an toàn. Không chỉ dừng lại ở phạm vi lãnh thổ, việc thanh toán cho các giao dịch từ quốc gia này sang quốc gia khác cũng hết sức đơn giản, không còn giới hạn về không gian, thời gian. Để có được sự tiến bộ như ngày nay, văn minh loài người đã trải qua hàng triệu năm tiến hóa, từ thời săn bắt, hái lượm mang tính cá thể, tự phát trong thời kỳ đồ đá, xã hội loài người từng bước nâng lên hướng tới quan hệ cộng đồng, từ đó phát sinh nhu cầu trao đổi, thông thương hàng hóa với nhau. Từ phương tiện trao đổi sơ khai như đá, vỏ sò, da thú, lông thú, vật nuôi, …đến sự hình thành phương tiện trao đổi bằng các kim loại quý như sắt, bạc, vàng với mục đích thuận tiện, dễ dàng cho người có nhu cầu bán hàng hóa họ có cho người cần mua với quy ước là vật ngang giá chung. Cho tới ngày nay, sự hình thành các loại tiền giấy, séc phục vụ trong trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ đã giúp loài người giải quyết được bài toán khan hiếm các nguồn kim loại quý tạo ra phương tiện thanh toán như trước đây. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của xã hội và nhu cầu vô tận của loài người, một lần nữa, nhu cầu tìm kiếm một loại tiền tệ mới vừa có thể đảm bảo việc thanh toán ổn định vừa đảm bảo việc tích trữ lại đặt ra một thách thức mới cho xã hội ngày nay. Khái niệm Theo C.Mác: “tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hóa, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hóa khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa”. Theo các nhà kinh tế hiện đại: Tiền được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hóa, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ. Chức năng của tiền tệ Với đôi nét về sự hình thành và phát triển của tiền tệ từ xưa đến nay, trên cơ bản, tiển tệ có thể được chia thành các chức năng sau: chức năng thước đo giá trị, chức năng trao đổi, chức năng phương tiện thanh toán, chức năng lưu trữ và chức năng tiền tệ thế giới. Chức năng thước đo giá trị Với ý nghĩa này, tiền được xem là chuẩn mực chung để đo lường, biểu hiện giá trị của tất cả hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Việc dùng tiền làm phương tiện đo lường giúp giảm chi phí thời gian giao dịch trong nền kinh tế, đặc biệt là những nước có nền kinh tế quy mô lớn, phức tạp. C. Mác cho rằng, tiền tệ để thực hiện chức năng thước đo giá trị phải là tiền thực, là tiền có đủ giá trị nội tại. Chức năng phương tiện trao đổi Khi tiền tệ xuất hiện, hình thái trao đổi trực tiếp bằng hiện vật (Hàng – Hàng) dần dần nhường chỗ cho hình thái trao đổi trực tiếp thông qua trung gian của tiền tệ. Hình thái trao đổi này trở thành phương tiện và động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, sản xuất kinh doanh trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. Có thể xem tiền tệ là chất xúc tác giúp cho sự lưu thông hàng hóa trôi chảy hơn. Như vậy, tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi khi tiền tệ là môi giới, trung gian cho quá trình trao đổi hàng hóa. Để thực hiện tốt chức năng này, tiền tệ của một quốc gia phải có sức mua ổn định, số lượng tiền tệ phải đủ đáp ứng cho nhu cầu trao đổi trong mọi hoạt động kinh tế. Chức năng phương tiện thanh toán Ngoài chức năng thước đo giá trị và phương tiện trao đổi, trong xã hội còn phát sinh những nhu cầu khác, như vay mượn, nộp thuế, nộp địa tô,….trong trường hợp này, tiền tệ trở thành phương tiện thanh toán Lúc này, tiền tệ không còn là khâu trung gian, môi giới trong trao đổi hàng hóa mà còn là khâu bổ sung cho quá trình trao đổi, tức là tiền tệ vận động tách rời sự vận động của hàng hóa. Qua đó tiền tệ lúc này phải đáp ứng yêu cầu sức mua ổn định, bền vững theo thời gian, từ đó tạo nên niềm tin, sự tín nhiệm vào tiền tệ. Chức năng lưu trữ Khi tiền tệ chưa xuất hiện, nhu cầu tích trữ tài sản của con người bằng các hiện vật đòi hỏi không gian tích trữ rộng lớn, tuy nhiên những loại tài sản này thường không đảm bảo được an toàn, khó bảo quản hoặc hư hỏng, mất mác. Lúc này, tiền tệ lại có thêm chức năng tích lũy tài sản, khắc phục được những trở ngại của những hình thái trước đây. Tuy nhiên, hình thái này có nhược điểm là dễ mất giá khi nền kinh tế xuất hiện lạm phát. Do đó, chức năng tiền tệ lúc này đòi hỏi hệ thống tiền tệ quốc gia phải đảm bảo được sức mua. Chức năng tiền tệ thế giới Đảm bảo được tất cả chức năng trên, lúc này tiền tệ của một nước sẽ được xem là “mạnh” và được các nước trên thế giới tin dùng và sử dụng như chính đồng tiền của nước mình trong trao đổi, thông thương hàng hóa. Tóm lại, điều kiện quan trọng nhất của một vật được sử dụng làm tiền tệ là chúng phải có sức mua ổn định, bền vững, tạo được niềm tin và tín nhiệm trong dân chúng. Vai trò của tiền tệ Với những chức năng cơ bản trên, tiền tệ trong nền kinh tế được biểu hiện ở 3 mặt: Thứ nhất, tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng hóa, nó giúp cho sự vận động của hàng hóa diễn ra một cách trôi chảy. Thứ hai, tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng quan hệ quốc tế. cùng với ngoại thương, các quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế, tiền tệ phát huy vai trò của mình để trở thành phương tiện mở rộng quan hệ quốc tế, nhất là các ói quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia, giúp cho sự hình thành và hội nhập quốc tế trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tài chính, ngân hàng, hợp tác khoa học kỹ thuật giữa các nước. Thứ ba, tiền tệ là công cụ phục vụ cho mục đích của người sử dụng chúng. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa phát triển cao như hiện nay thì hầu hết các mối quan hệ đều được “tiền tệ hóa”. Tiền tệ trở thành công cụ có sức mạnh, quyền lực vạn năng trong xử lý, giải tỏa các mối ràng buộc về kinh tế phát sinh không những trong phạm vi quốc gia mà vươn ra toàn thế giới. Đồng tiền tự do chuyển đổi Khái niệm Tiền tệ tự do chuyển đổi là những tiền tệ mà luật tiền tệ của nước hoặc khối kinh tế có tiền tệ đó cho phép bất cứ ai có thu nhập tiền tệ này đều có quyền yêu cầu Ngân hàng nước đó chuyển đổi tự do tiền tệ này ra các tiền tệ nước khác mà không cần phải có giấy phép. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền của một nước hội viên mà IMF nhận thấy đồng tiền đó được sử dụng rộng rãi để thanh toán các giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị trường ngoại hối chủ chốt. Hiểu một cách đơn giản hơn thì những đồng tiền mạnh như USD, Yên Nhật, EURO,…như hiện nay là những đồng tiền có thể sử dụng tại nhiều nước trên thế giới. Theo đó, đồng tiền tự do chuyển đổi gắn chặt với sức mạnh của nền kinh tế, đó phải là nền kinh tế có sức cạnh tranh cao và tính ổn định kinh tế vĩ mô bền vững. Hay nói cách khác, đồng tiền đó phải mang tính chuyển đổi, có nghĩa là đồng tiền đó có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ mà không có bất kỳ hạn chế nào. Có hai loại tiền tệ tự do chuyển đổi: Tự do chuyển đổi toàn bộ: Tiền tệ tự do chuyển đổi toàn bộ có thể chuyển đổi ra bất cứ loại tiền quốc gia nào mà không cần phải thỏa mãn một điều kiện nào, chẳng hạn như USD của Mỹ, EURO của châu Âu, GBP của Anh, JPY của Nhật Bản, AUD của Australia, CHF của Thụy Sĩ, CAD của Canada,…đây là những đồng tiền mạnh của các nền kinh tế phát triển và ổn định Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, thường quy định đồng tiền thanh toán là tiền tự do chuyển đổi để tránh rủi ro đồng tiền xuống giá và linh hoạt đổi ra bất cứ tiền nước nào nếu người xuất khẩu muốn Tự do chuyển đổi một phần Với tiền tệ tự do chuyển đổi một phần, việc chuyển đổi của nó phụ thuộc vào một trong 3 yếu tố sau: Chủ thể chuyển đổi: Theo luật quản lý ngoại hối của các quốc gia, chủ thể chuyển đổi bao gồm người cư trú và người phi cư trú. Trong đó, người cư trú muốn chuyển đổi tiền tệ đang nắm giữ phải được cấp giấy phép chuyển đổi; còn người phi cư trú được quyền chuyển đổi tự do. Mức độ chuyển đổi (hạng mức chuyển đổi): Đây là hạng mức chuyển đổi do luật định, muốn chuyển đổi ngoại tệ phải có giấy phép chuyển đổi, dưới hạn mức luật định thì có thể chuyển đổi tự do. Nguồn thu nhập tiền tệ: Tính chuyển đổi của tiền tệ còn phụ thuộc vào nguồn thu nhập bằng tiền của người phi cư trú có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại, dịch vụ, đầu tư nước ngoài,…tại nước có tiền tệ đó sẽ được chuyển đổi tự do; còn các nguồn thu nhập khác từ hoạt động phi thương mại, phi đầu tư muốn chuyển đổi ngoại tệ thì phải có giấy phép. Các yếu tố để đồng tiền được xem là tự do chuyển đổi: Tự do hóa các giao dịch vãng lai Tài khoản vãng lai (hay còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc gia là tài khoản ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ. Theo đó, các hoạt động của tài khoản vãng lai bao gồm: Cán cân thương mại hàng hóa Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại phi hàng hóa Cán cân dịch vụ Vận tải Du lịch Các dịch vụ khác Cán cân thu nhập Kiều hối Thu nhập từ đầu tư Các chuyển khoản Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp chung vào trong tính toán này Trên cơ sở đó, tự do hóa giao dịch vãng lai là những giao dịch dẫn tới sự thanh toán giữa người cư trú và người phi cư trú bằng đồng ngoại tệ phải được dễ dàng, thông suốt, không có bất cứ cản trở nào. Nới lỏng các giao dịch tài khoản vốn Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh toán của một quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có thặng dư tài khoản vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai. Tự do hóa giao dịch tài khoản vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng đối với những giao dịch này. Đối với người dân, tự do hóa giao dịch vốn cho phép họ thực hiện các hoạt động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hữu những công ty khác, các dòng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất sinh lợi cao. Thả nổi tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá của một đồng tiền này tính bằng giá của một đồng tiền khác Tỷ giá thả nổi là tỷ giá biến động theo cung cầu ngoại tệ, ngân hàng trung ương không can thiệp vào thị trường ngoại hối. Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi là cán cân thanh toán tổng thể có xu hướng cân bằng. Tuy nhiên, khá khó khăn trong việc kiểm soát, điều chỉnh vì tỷ giá có thể biến động rất mạnh Có thị trường tài chính, đặc biệt thị trường hối đoái mở Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định. Thị trường tài chính là tổng hòa các quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Hay nói cách khác, thị trường tài chính là kênh dẫn vốn từ người có vốn đến người cần vốn. Giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi thông qua hình thức mua bán bên ngoài là các loại giấy tờ có giá trị, gọi chung là chứng khóan. Một thị trường tài chính lành mạnh không những giúp cho sự ổn định kinh tế vĩ mô, thu hút đầu tư nước ngoài mà còn là một trong những tiền đề mở rộng thông thương với các quốc gia trên thế giới bằng việc từng bước nâng cao vị thế cạnh tranh từ đồng nội tệ của quốc gia. Bên cạnh đó, một thị trường tài chính lành mạnh cần có sự ổn định của thị trường hối đoái, là một thị trường phi tập trung, là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị ngoại tệ khác. Đây cũng là nơi hình thành tỷ giá hối đoái theo quan hệ cung cầu, là một bộ phận của thị trường tài chính có trình độ phát triển cao. Tuy nhiên, do tính chất biến động cao của các đồng ngoại tệ, việc đầu cơ trên thị trường hối đoái sẽ rất dễ dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính nếu như không có các công cụ dự đoán mạnh mẽ ở tầm vĩ mô. Một ví dụ là hiện nay các đồng tiền mạnh, có tính chuyển đổi cao được giao dịch nhiều nhất là Đôla Mỹ, Yên Nhật, Mác Đức,... Ba thị trường hối đoái lớn nhất thế giới là London, Tokyo, New York.Thị trường hối đoái có quy mô giao dịch trong một ngày trên một nghìn tỷ đôla, ví dụ năm 1998 doanh số trung bình hàng ngày của thị trường ngoại hối là 1600 tỷ USD. Vì vậy, thị trường này tác động rất lớn đến tình hình kinh tế của các nước đang phát triển. Việc đầu cơ trên thị trường hối đoái, ví dụ đầu cơ đồng Baht đã dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường tài chính Thái Lan. Tác hại của đồng nội tệ mất uy tín: Khi đồng nội tệ không được tín nhiệm, nó sẽ không đáp ứng được đồng thời cả ba chức năng: phương tiện thanh toán, dự trữ giá trị và đơn vị tính toán. Vì vậy, nếu không được “ưa chuộng”, đồng nội tệ có thể gây ra ba tác hại kinh tế cơ bản. Thứ nhất, theo quy định của pháp luật, mọi người buộc phải sử dụng đồng nội tệ làm phương tiện thanh toán; nhưng xuất phát từ lợi ích kinh tế, người dân sẽ có xu hướng sử dụng các đồng tiền khác làm phương tiện dự trữ giá trị và đơn vị tính toán cho một phần tài sản hoặc một số các dự án kinh tế của mình. Khi người dân sử dụng những đồng tiền khác thay vì đồng bản tệ để tiết kiệm, lãi suất huy động đồng bản tệ của các ngân hàng thương mại buộc phải duy trì ở mức cao, dẫn đến lãi suất huy động vốn của các doanh nghiệp cũng phải cao tương ứng. Với mức lãi suất này, các doanh nghiệp trong nước sẽ khó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp của những quốc gia mà lãi suất huy động thấp. Thiệt hại cũng đến với cả người dân khi phải sử dụng phương tiện khác như ngoại tệ mạnh hoặc vàng để tiết kiệm. Lãi suất của những phương tiện này đều thấp. Hơn nữa, người dân lại còn phải trả các chi phí chuyển đổi khi phải chuyển qua lại giữa đồng nội tệ với các phương tiện dự trữ giá trị đó. Thứ hai, việc đồng nội tệ không được tín nhiệm còn khiến các đơn vị kinh doanh dễ gặp phải sai lầm khi tính toán và xây dựng các kế hoạch kinh doanh. Khi đồng nội tệ không được sử dụng làm đơn vị tính toán, trong khi vẫn phải dùng làm phương tiện thanh toán, các chủ thể kinh tế sẽ liên tục phải điều chỉnh giá cả đầu vào và đầu ra mỗi khi tỷ giá biến động để đảm bảo mức lợi nhuận kỳ vọng theo kế hoạch của mình. Vì vậy, rất khó có thể tránh được sai lầm khi phải làm công việc này liên tục. Thứ ba, đồng nội tệ không được tín nhiệm còn dẫn đến bất bình đẳng kinh tế. Khi đồng nội tệ luôn trong tình trạng mất giá, một bộ phận nhỏ dân chúng có khả năng tiếp cận nhanh chóng với các cơ hội đầu tư cũng như phương tiện dự trữ giá trị khác sẽ không những tránh được các tổn thất mà còn thu được lợi nhuận cao. Trong khi đó, bộ phận dân chúng lớn hơn, như những người làm công ăn lương, công nhân và nông dân, sẽ có ít cơ hội hoặc luôn chậm chân hơn so với các bộ phận dân chúng kia trong việc chuyển đổi tài sản tích lũy của mình. Kết quả là nhóm người này sẽ ngày càng trở nên nghèo đi do tài sản của họ bị mất giá nhiều hơn so với tài sản của nhóm người kia. Thực tiễn tính chuyển đổi đồng tiền Việt Nam Với những khái niệm cơ bản trên, ta có thể thấy mục tiêu tăng trường kinh tế luôn là mục tiêu chiến lược, hàng đầu của mọi quốc gia trong mục tiêu phát triển đất nước lớn mạnh. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần có sự chuẩn bị chu đáo các giai đoạn thực hiện và mang tính lâu dài, không thể nóng vội mà sẽ có tác dụng trái ngược. Không nàm ngoài mục tiêu đó, Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng lớn về mọi mặt, có tình hình chính trị ổn định, thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài, tuy nhiên về mặt phát triển kinh tế vĩ mô còn những hạn chế nhất định, cần có chiến lược đúng đắn, từng bước và lâu dài. Trong đó, đã và đang từng bước tái lập cơ cấu quản lý, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và dần tiến tới mục tiêu nâng cao vị thế đồng nội tệ (VND), từng bước hướng tới giao thương quốc tế. Do đó, một trong những mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô từ năm 2011 là mục tiêu nâng cao vị thế đồng nội tệ, từng bước tiến tới một đồng tiền tự do chuyển đổi theo chuẩn quy ước quốc tế. Chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này thông qua những chính sách cải cách về mặt kính tế của Việt Nam những năm gần đây. Nguyên nhân tình trạng mất giá đồng tiền hiện nay Một số lý do dẫn đến tình trạng mất giá VND như hiện nay có thể kể đến: VND được/bị chủ trương làm yếu để hổ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. VND được/bị phát hành thêm nhiều hơn hệ thống bản vị vàng hay USD bản vị và hàng hóa trên thị trường gây nên lạm phát cao trong nước. VND chưa được giao dịch quốc tế rộng rãi tạo điều kiện cho USD và Vàng là sự lựa chọn tất yếu trong giao dịch trong và ngoài nước Các chính sách pháp luật chưa thực sự nâng đỡ và bảo vệ giá trị VND khiến uy tín VND mất dần vai trò trong các giao dịch thương mại. Các yếu tố đầu cơ tiền tệ trong và ngoài nước cũng như mất cân đối tiền - hàng do cung - cầu trong và giữa các nền kinh tế. Tâm lý và niềm tin của người dân vào đồng VND phụ thuộc vào chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước và các thành quả điều hành trong quá khứ. VND bị suy yếu sẽ làm giảm giá trị tài sản của người dân, những ai lựa chọn VND làm hệ quy chiếu để cất giữ tài sản, những ai mua bán, thanh toán giao dịch hàng hóa sử dụng tiền VND, gửi tiết kiệm bằng VND, cất giữ tiền VND ..v.v.. đều gặp rủi ro khi VND mất giá so với USD và vàng và lạm phát cao. Tình trạng này như hiện nay đã dần đến hiện tượng “Đô la hóa” hoặc đầu cơ Vàng đang là nỗi bức xúc của người dân và Chính phủ hiện nay. Thông tin về chính sách tiền tệ không minh bạch, rõ ràng ra công chúng. Mục tiêu: Trước hết, chúng ta có thể khẳng định rằng, đồng bản tệ của quốc gia nào trở thành đồng tiền chuyển đổi, thì nó sẽ có vai trò tích cực đối với việc phát triển nền kinh tế quốc dân của quốc gia đó. Chuyển đổi tiền tệ chỉ tồn tại trong một nền kinh tế phát triển bền vững, tự do cạnh tranh và không bị ràng buộc bởi bất cứ một hạn chế nào về quan hệ thương mại và thanh toán. Tính chuyển đổi của đồng tiền có vai trò định hướng cho các nhà sản xuất cũng như tiêu thụ hàng hoá. Trong điều kiện hội nhập, thì thị trường nội địa là một phần của thị trường thế giới, và ngược lại, thị trường thế giới sẽ là cầu nối cho sự phát triển của thị trường nội địa. Khi đồng bản tệ của một quốc gia có cơ chế tự do chuyển đổi thì các nhà sản xuất và tiêu thụ hàng hoá của quốc gia đó, khi có kế hoạch định hướng thị trường, sẽ có phương án lựa chọn thị trường tối ưu hơn so với điều kiện đồng bản tệ không tự do chuyển đổi. Vì vậy, có thể nói rằng tính chuyển đổi của tiền tệ làm cho thị trường nội địa và thế giới liên kết lẫn nhau chặt chẽ hơn, tạo khả năng cho thị trường nội địa phản ứng một cách linh hoạt đối với biến đổi trên thị trường thế giới và như vậy, nó có thể tác động tích cực đến việc phát triển nền kinh tế quốc gia có đồng bản tệ chuyển đổi. Với những ưu việt trên, cần có những động thái tức thời, tích cực để khôi phục vị thế đồng nội địa trong dân chúng, do đó, mục tiêu trước mắt và lâu dài của Chính phủ trong việc nâng cao VND hiện tại là: Để trở thành một đồng tiền mạnh như các đồng Đô la Mỹ, Bảng Anh, Euro, Yên Nhật,…như hiện nay, các quốc gia này đã trải qua một giai đoạn biến chuyển lâu dài và sóng gió. Trong lịch sử nước Việt Nam, Nhà nước chúng ta cũng đã không ngừng thay đổi, nâng cao vị thế của đồng Việt Nam trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên, với hạn chế về mặt quản lý, tầm nhìn vĩ mô, chiến lược khiến đồng tiền của chúng ta vẫn chưa có những khởi sắc rõ rệt. Qua đánh giá của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, tính chuyển đổi đồng tiền của Việt Nam (VND) của chúng ta hiện nay vẫn được xem là khá thấp, còn nhiều hạn chế để có thể trở thành một đồng tiền tự do chuyển đổi trong một thời gian khá dài. Do đó, mục tiêu ngắn hạn trước mắt của Chính phủ và Nhà nước ta là từng bước nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền, phù hợp với mức độ tăng trưởng của Việt Nam về nhiều mặt. Cụ thể vào ngày 04/07/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 98/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa” trong nền kinh tế, bước đầu xây dựng cơ chế để VND tham gia thanh toán xuất nhập khẩu, tham gia quan hệ vay, trả nợ nước ngoài và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Đây là những mục tiêu không phải vừa được đề ra mà là mong muốn từ rất lâu của Nhà nước ta cũng như của nhân dân Việt Nam. Qua đó, đã từng bước có được những kết quả khả quan, tạo tiền đề cho việc đạt mục tiêu này. Một số kết quả đạt được Như đã đề cập, một đồng tiển để có thể chuyển đổi hoàn toàn phụ thuộc vào 4 yếu tố: Tự do hóa giao dịch vãng lai Nới lỏng giao dịch tài khoản vốn Tỷ giá thả nổi Có thị trường tài chính, đặc biệt thị trường ngoại hối ổn định Qua đó, theo nhìn nhận của các chuyên gia kinh tế, đặc biệt là các tổ chức tài chính Thế giới, nước chúng ta đã có những kết quả khả quan sau: Điều kiện 1: Tự do hóa giao dịch vãng lai Bản thông cáo báo chí được phát đi từ trụ sở Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Mỹ ngày 5.1.2006 vừa qua, đã chính thức công nhận Việt Nam đã hoàn toàn chấp nhận các quy định tại điểm 2, 3 và 4 tại điều VIII của điều lệ IMF. Nội dung của điều này là các nước thành viên của IMF cam kết không áp dụng những hạn chế trong thanh toán và chuyển tiền đối với những giao dịch quốc tế vãng lai và không tiến hành hoặc không cho phép bất kỳ tổ chức tài chính nào áp dụng bất kỳ hình thức phân biệt đối xử về tiền tệ hoặc chế độ đa đồng tiền, trừ phi được IMF chấp thuận. Bằng việc chấp thuận các nghĩa vụ này, Việt Nam gửi tín hiệu đến cộng đồng quốc tế là Việt Nam sẽ theo đuổi những chính sách kinh tế mà không cần thiết phải áp dụng những hạn chế về thanh toán hoặc chuyển tiền đối với các giao dịch quốc tế vãng lai, và sẽ góp phần làm cho hệ thống thanh toán đa phương hoàn toàn không có bất kỳ hạn chế nào. Theo Ngân hàng Nhà nước, đối với các giao dịch vãng lai, trước đó, về cơ bản Việt Nam đã tự do hóa việc chuyển đổi ngoại tệ và thanh toán đối với hầu hết các giao dịch loại này, nhưng các quy định về hồ sơ, chứng từ trên thực tế còn rườm rà, khó triển khai, chưa đáp ứng yêu cầu đơn giản hóa. Các giao dịch hiện đại áp dụng gần đây như thanh toán điện tử, thanh toán thẻ thậm chí chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể nên gây ra khó khăn cho doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại. Việc chấp nhận tuân thủ Điều khoản VIII Điều lệ quỹ về tự do hóa các giao dịch vãng lai là điều kiện quan trọng để Việt Nam từng bước thực hiện mục tiêu chuyển đổi đồng tiền của mình. Điều kiện 2: Nới lỏng giao dịch tài khoản vốn Theo Pháp lệnh Ngoại hối được ban hành ngày 13/12/2005 và Nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006, các giao dịch vốn từng bước đã được tự do hóa. Cụ thể: Với vay vốn nước ngoài, chỉ các khoản vay trung, dài hạn của tổ chức mới phải đăng ký tại NHNN và mở rộng vay vốn nước ngoài đối với cá nhân là người cư trú. NHNN quản lý thông qua tổng hạn mức vay vốn nước ngoài của các tổ chức kinh tế và cá nhân và hoạt động đăng ký khoản vay nước ngoài tại NHNN. Với hoạt động cho vay ra nước ngoài, Pháp lệnh cho phép người cư trú là Tổ chức kinh tế thực hiện khi được phép của Thủ tướng Chính phủ; Tổ chức kinh tế thực hiện theo quy định của NHNN, các khoản cho vay của Chính phủ hay các tổ chức được Nhà nước, Chính phủ uỷ quyền thực hiện theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Với đầu tư gián tiếp, cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khóan theo một tỷ lệ nhất định và được nới lỏng theo thời gian. NHNN chỉ giám sát thông qua tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng Việt Nam. Với đầu tư trực tiếp, các hạn chế về việc chuyển đổi ngoại tệ đã được xoá bỏ, NHNN chỉ giám sát thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ trong đó quy định các nội dung thu, chi của tài khoản này. Với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, người cư trú được phép sử dụng ngoại tệ sẵn có của mình hay đi mua hoặc đi vay để đầu tư sau khi được phép của cơ quan có thẩm quyền về việc đầu tư ra nước ngoài. Do các giao dịch vốn đã tương đối được tự do hóa nên NHTW cần phải mua ngoại tệ cho dự trữ ngoại hối khi các luồng vốn đổ vào Việt Nam để duy trì sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và phải bán ra khi đến hạn trả nợ hay có hiện tượng đảo chiều của các luồng vốn ngắn hạn của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khóan Điều kiện 3: Tỷ giá thả nổi Tiếp đến, vào ngày 11/02/2011, Chính phủ đã công bố chính thức Nghị quyết số 02/NQ-CP (09/01/2011) về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2011. Trong đó, nổi bật là nội dung điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường, đảm bảo tính thanh khoản của ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối. Nghị quyết này đã có tác dụng tức thời và không gây sốc do đã có chuẩn bị trước, cụ thể: với giá USD trong giao dịch liên ngân hàng đã tăng 1.700 đồng, từ mức 18.932 VND lên mức 20.693 VND/USD - tức tăng hơn 9,3 % so với mức tăng 2,1% trong đợt điều chỉ tỷ giá ngày 18/8/2010, và tăng 3,36% ngày 11/2/2010. Như vậy, trong vòng đúng 1 năm qua, NHNN đã chính thức 3 lần điều chỉnh tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng với mức tăng tổng cộng 14,46%, tức xấp xỉ mức lạm phát tháng 2/2011 so với tháng 2/2010 Tổng cục Thống kê cho biết, CPI tháng 1/2011 của cả nước đã tăng tới 1,74% so với tháng 12/2010 và tăng 12,17% so với cùng kỳ năm 2010 Biểu đồ 5: Tỷ giá USD/VND các tháng năm 2010 Biểu đồ 6: Tỷ giá USD/VND thời gian gần đây Về tổng quát, việc điều chỉnh tỷ giá này có tác dụng tốt nhằm hạn chế, giải tỏa tình trạng găm giữ, cũng như kỳ vọng đầu cơ, góp phần cân đối theo nguyên tắc thị trường cung-cầu về ngoại tệ, kích thích xuất khẩu và tăng cường sản xuất trong nước, từ đó góp phần kiềm chế vững chắc lạm phát. Không chỉ giúp tăng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam, mà còn hạn chế nhập siêu, nhất là những sản phẩm trong nước có thể sản xuất thay thế. Việc tiền đồng giảm giá khiến các nhà xuất khẩu sẽ được lợi, còn hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên đắt hơn. Đặc biệt, sự điều chỉnh tỷ giá đã thu hẹp chênh lệch tỷ giá chính thức với tỷ giá trên thị trường tự do sẽ giúp cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam do không phải gia tăng bán USD theo tỷ giá thấp, giảm bớt kỳ vọng đầu cơ và cả hoạt động buôn bán vốn và ngoại tệ lòng vòng kiếm lời dựa trên chênh lệch giữa 2 tỷ giá. Điều này còn giúp tăng cường tập trung và quản lý kinh doanh ngoại tệ trên thị trường có tổ chức. Đồng thời, nó cũng giúp cho các doanh nghiệp được tính đúng, tính đủ chi phí vốn ngoại tệ trong bảng hạch toán kinh doanh của mình, mà trước đó thường phải che giấu, hợp lý hóa các khoản mua USD trên thị trường chợ tự do với giá cao hơn giá chính thức. Nói cách khác, tình trạng chênh lệch cao hai tỷ giá chính thức và không chính thức tồn tại kéo dài trong nhiều tháng qua gây căng thẳng giả tạo cung-cầu trên thị trường ngoại tệ, cũng như gây thiệt hại “kép” cho doanh nghiệp và nhiều hệ lụy tiêu cực khác trong việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Nguyên nhân là doanh nghiệp nhận ngoại tệ qua ngân hàng phải bán lại cho ngân hàng theo giá chính thức thấp, trong khi muốn mua ngoại tệ để thanh toán thì lại khó mua được ngoại tệ với giá chính thức. Điều kiện 4: Có thị trường tài chính, đặc biệt thị trường ngoại hối ổn định Đối với yêu cầu cuối cùng thì Việt Nam vẫn chưa xây dựng được hoàn chỉnh. Việc phải có thị trường tài chính và thị trường hối đoái mở ở đây được hiểu là thị trường phải được thông thương với thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế. Theo ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ chiến lược Phát triển Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước , điều này có nghĩa TP. HCM hoặc Hà Nội sẽ phải trở thành trung tâm giao dịch tiền tệ lớn và các tác động từ bên ngoài vào Việt Nam và các tác động từ Việt Nam có thể vào ra tương đối dễ dàng. Với những kết quả đạt được, trên cơ bản Việt Nam đã từng bước cố gắng thay đổi cơ cấu quản lý kinh tế theo hướng thị trường Thế giới. các điều kiện đặt ra và những gì đạt được, thực chất chỉ là phần nền, còn rất nhiều việc phải làm để hoàn thiện từng yêu cầu cho việc chuyển đổi đồng tiền, ngay cả những điều kiện đã đạt ở mức tốt, nhưng nếu không thể duy trì, kiểm soát chặt chẽ thì lại quay lại tình trạng ban đầu. lúc đó, mục tiêu nâng cao tính chuyển đổi đồng tiền Việt Nam khó có thể đạt được, thậm chí trong thời gian dài. Khó khăn, hạn chế Bên cạnh những kết quả khả quan đạt được, tồn tại song song với nó những mặt hạn chế cần phải nghiêm túc nhìn nhận và tìm cách khắc phục, một số hạn chế có thể xem xét như sau: Quy định pháp lý về tài khoản vãng lai và tài khoản vốn Theo ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ chiến lược Phát triển Ngân hàng, cho rằng tự do hóa các giao dịch vãng lai, về mặt các quy định pháp lý tưởng chừng như không có gì khó khăn, nhưng trên thực tế có vô vàn những giấy phép con. Còn đối với tự do hóa giao dịch tài khoản vốn cũng tương tự, vốn vào - ra Việt Nam không đơn giản chút nào. Thực tế đã xảy ra là doanh nghiệp muốn chuyển tiền về thì NHNN nói cần phải có giấy phép kinh doanh loại ngành hàng đó, doanh nghiệp đi xin giấy phép kinh doanh ngành hàng đó thì Sở Kế hoạch và Đầu tư trả lời là cần phải được chấp nhận của NHNN về chuyển tiền vào. Theo ông Nghĩa, câu chuyện “con gà - quả trứng” như vậy rất phổ biến, đó là những nhân tố làm cho khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam rất kém. Do đó, không chỉ gỡ về mặt pháp lý mà còn phải gỡ cả thói quen quản lý cũ. Ngoài những vấn đề trên, Việt Nam còn có những ràng buộc khác như tỷ lệ đầu tư của nước ngoài vào DN Việt Nam tối đa chỉ là 49%, tỷ lệ đầu tư của ngân hàng nước ngoài vào ngân hàng Việt Nam tối đa là 30%. Đó là những hạn chế khiến cho tự do hóa giao dịch vãng lai và giao dịch vốn không phải hoàn toàn tự do như pháp luật quy định, như là chúng ta mong muốn Đồng tiền Việt Nam không được tín dụng trong dân chúng Lạm phát luôn là một nỗi ám ảnh trong tâm trí của người Việt, trong khi các nước trong khu vực (Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan) liên tục duy trì được CPI dưới hoặc xấp xỉ 5% trong một khoảng thời gian rất dài thì Việt Nam chỉ có duy nhất vài năm 1989 - 2003 duy trì được CPI dưới 5%. Trong những năm khác, CPI thường xuyên ở mức 8 - 9%. Quá khứ lạm phát trên hai con số, thậm chí ba con số, vẫn còn khá gần. Biểu đồ 7: tăng trưởng CPI tính theo năm VND cũng mất giá nhiều so với các đồng tiền khác, thể hiện qua việc tỷ giá danh nghĩa VND/USD thường xuyên tăng. Nếu loại trừ giai đoạn đặc biệt 1980 - 1985, khi cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) nâng lãi suất USD lên rất cao để kiềm chế lạm phát dẫn đến USD tăng giá so với hầu hết các đồng tiền khác trên thế giới, và loại trừ giai đoạn khủng hoảng tiền tệ khu vực năm 1997 - 1998, thì bốn nước trong khu vực mà ta đang so sánh đã duy trì được tỷ giá đồng bản tệ so với USD tương đối ổn định trong suốt lịch sử phát triển của mình. Trong khi đó, tuy VND không bị mất giá nhiều khi xảy ra khủng hoảng tài chính khu vực, nhưng lại liên tục bị giảm giá kể từ năm 1996. Trong gian đoạn 1996 - 2008, VND bị mất giá khoảng 45% so với USD, trong khi các đồng tiền khác chỉ mất giá trong khoảng từ 18 - 27% so với USD bất chấp một số nước trong đó đã có lúc mất giá đến gần 100% trong giai đoạn khủng hoảng. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay chủ yêu phát triển theo chiều rộng Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu vẫn theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng chưa cao, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp so với thế giới. Báo cáo đánh giá năng lực trạnh tranh tại Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2010 cho thấy, xếp năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2009 - 2010 đứng thứ 75/133 (năm 2008 - 2009 đứng thứ 70/132). Có sự mất cân đối kinh tế vĩ mô như thâm hụt lớn giữa tiết kiệm và đầu tư, vấn đề nợ công ngày càng tăng, tiềm ẩn nguy cơ lạm phát… Thị trường tài chính tiềm ẩn những bất ổn Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những bất cập của nền kinh tế Việt Nam được biểu hiện rõ nét trong năm 2008 và 2009 vừa qua (lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn, đầu tư nước ngoài giảm...), cùng với hệ lụy của các giải pháp, chính sách chống suy giảm kinh tế đã gây nên những hạn chế nhất định đến mức độ chuyển đổi của VND, đó là gây sự ép giảm giá VND, gây khan hiếm ngoại tệ, nhu cầu thanh toán ngoại tệ của doanh nghiệp có những lúc không được đáp ứng đầy đủ và kịp thời... Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các bộ, ngành thực hiện hàng loạt biện pháp đồng bộ như điều chỉnh biên độ tỷ giá, chống đầu cơ ngoại tệ, thắt chặt kỷ luật thị trường ngoại hối, hạn chế nhập siêu, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa lãi suất VND với lãi suất ngoại tệ và tỷ giá, xử lý vấn đề sàn vàng... Chính sách tỷ giá thả nổi Bằng việc mạnh dạn nâng cao tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng lên mức tương đương tỷ giá thị trường đã thu hẹp khoảng cách tỷ giá bấy lâu nay, hạn chế tình trạng “hai tỷ giá”. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần rút ngắn khoảng cách trong nhất thời mà không có những động thái kiểm soát thị trường chợ đen theo đó thì việc hình thành hai tỷ giá như trước sẽ lại hình thành. Ngoài ra, thực hiện chính sách này phải đảm bảo lượng dự trữ ngoại tệ đủ mạnh của ngân hàng trung ương. Giải pháp Qua những khó khăn, hạn chế trên, để đồng tiền Việt Nam có thể từng bước nâng cao vị thế chuyển đổi của mình, một số giải pháp nhằm khắc phục có thể đề cập như sau: Thông tin rõ ràng, đơn giản hóa các thủ tục pháp lý, quy trình trong việc tự do hóa vòng luân chuyển tài khoản vãng lai, tài khoản vốn, tạo điểu kiện cho đối tượng cư trú và phi cư trú trên lãnh thổ Việt Nam dễ dàng tham gia các giao dịch mang lại nguồn lợi cho quốc gia nơi đối tượng cư trú. Tăng cường nâng cao, thay đổi chính sách quản lý cho thị trường ngoại hối nói riêng, thị trường tài chính nói chung, tạo điều kiện thuận lợi, có chính sách hỗ trợ đặc biệt để các đối tượng tham gia hiểu, an tâm sử dụng VND vào hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, từng bước nâng cao vị thế VND. Xóa bỏ các ràng buộc về cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (hiện nay tỷ lệ đầu tư của nước ngoài vào DN Việt Nam tối đa chỉ là 49%, tỷ lệ đầu tư của ngân hàng nước ngoài vào ngân hàng Việt Nam tối đa là 30%) Hạn chế nhập khẩu, giải quyết tình trạng căng thẳng về ngoại tệ bấy lâu nay. Từng bước thực hiện việc chủ trương “chống Đô la hóa” để không gây tác động tiêu cực đến các đối tượng tham gia hoạt động kinh doanh thực sự có nhu cầu. Cụ thể: Nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc của đồng ngoại tệ cao hơn đồng nội tệ. Tạo sự chênh lệch về lãi suất một cách hợp lý giữa đồng ngoại tệ và đồng nội tệ, giúp người dân nhận thấy việc gửi tiết kiệm bằng đồng nội tệ sẽ có lợi nhiều hơn. Từng bước hạn chế đến chấm dứt hẳn cho vay bằng ngoại tệ. Tuy nhiên cần cân nhắc một số đối tượng thực sự có nhu cầu Có như vậy, ta mới có thể chấm dứt hoàn toàn hiện tượng “Đô la hóa”, lúc đó người dân sẽ chuyển sang sử dụng đồng nội tệ, từng bước xây dựng lại hình ảnh, niềm tin vào sức mạnh của đồng nội tệ, tiến tới mục tiêu cuối cùng là tiền đồng VND có thể tự do chuyển đổi hoàn toàn song song đó là giảm thiểu tình trạng lạm phát. Cần minh bạch, nhất quán các chính sách tỷ giá, lãi suất ngân hàng, các chương trình hỗ trợ, thắt chặt kinh tế,… từ đó tạo lập niềm tin vào đồng nội địa trong dân chúng, giúp đồng nội địa có thể tự do chuyển đổi, trở thành đồng tiền mạnh như các quốc gia phát triển trên thế giới. Giảm lạm phát đến mức thấp nhất bằng các chính sách tiền tệ, thắt chặt cung tiền và tín dụng đồng thời cân đối thu-chi ngân sách một cách hợp lý, giảm bớt chi thường xuyên vào đầu tư công (hỗ trợ giá điện, xăng dầu,…) Ngoài các giải pháp trên, một phần trong việc tạo lập niềm tin cho VND trong dân chúng là cải thiện giá trị của đồng Việt Nam, cụ thể là cải tiến chất liệu tạo tiền, tránh tình trạng tiền polymer Việt Nam hiện nay không được bền, dễ bay màu, rách, không tạo được sự yêu quý, trân trọng đồng tiền. Học hỏi kinh nghiệm từ các nước có nền kinh tế như Việt Nam. Trường hợp của Indonesia có thể được coi là “tấm gương” cho Việt Nam học tập trong việc nâng cao uy tín cho đồng nội tệ. Năm 2008 và 2009, hoàn cảnh của Indonesia về cơ bản giống Việt Nam ở chỗ: nền kinh tế cũng bị “đô la hóa” và độ uy tín của nền kinh tế theo đánh giá của giới phân tích đều tương tự. Nhưng từ 2009 và 2010, Indonesia có những bước điều chỉnh và phối hợp chính sách rất nhịp nhàng giữa tiền tệ và tài khóa nên vừa giảm lạm phát, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế và nhờ đó, đồng tiền lên giá so với USD, trái phiếu Chính phủ phát hành rất thuận lợi, dòng vốn đầu tư nước ngoài liên tục chảy vào. Để có được kết quả như vậy, nước này đã có những bước đi rất khôn ngoan, mà biểu hiện rõ nét nhất là sự minh bạch. Hàng tháng, Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Indonesia chủ động tổ chức họp báo và công bố tất cả các số liệu liên quan đến tình hình nợ quốc gia, chi tiêu chính phủ, dự trữ ngoại hối, lạm phát, tăng trưởng… cho các nhà đầu tư nước ngoài. Theo các chuyên gia kinh tế, sự minh bạch có thể là nơi nuôi dưỡng niềm tin, từ đó tạo nên sự ổn định của các biến số kinh tế vĩ mô, trong đó có tỷ giá. Giải quyết được các vấn đề trên, tiền đồng Việt Nam trước mắt sẽ giải quyết được tình hình kinh tế đang lạm phát như hiện nay, tiếp đến là tạo được bước chuyển biến tích cực trong mục tiêu trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTự do hóa tài chính ở Việt Nam – Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam (90trang).doc
Luận văn liên quan