Tóm lại, cuộc đời và tư tưởng của Trần Nhân Tông có thể được
nghiên cứu và tiếp cận trên nhiều bình diện khác nhau như nhà vua,
nhà thơ, nhà tư tưởng. Và, ở bìnhdiện nào chúng ta cũng phát hiện ra
những điều thú vị và mới lạ mang giá trị, ý nghĩa sâu sắc và vĩnh cửu
về ông. Là một vị vua, một vị tướng ông có một bản lĩnh vững vàng
và ý chí quyết đoán. Là một nhà chính trị, ông có cái nhìn sắc bén và
thái độ bình tĩnh, tự tại khoan hòa, thấu hiểu tâm can mọi người, thu
phục nhân tâm con người; là một thiền sư, ôngcó một trí huệ thâm
trầm sâu sắc mà dung dị, và cao hơn cả là tấm lòng yêu nước thương
dân thiết tha của ông. Đặc biệt cuộc đời ông đã chịu ảnh hưởng khá
sâu đậm bởi triết lý đạo đức của Phật giáo – một triết lý sau hai thế
kỷ chiếm địa vịquốc giáo dưới thờiLý, và đến thời kỳ nhà Trần, nó
đã đủ chín muồi để hòa nhập vào truyền thống văn hóa dân tộc Việt.
232 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4094 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a là cách mạng tư sản, Cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng
hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó
áp bức thuộc địa” [42, t.2, tr.274].
189
Theo Hồ Chí Minh, giai cấp tư sản dựng lên khẩu hiệu tự do,
bình đẳng, bác ái, đồng bào là để lừa dân, xúi nhân dân đánh đổ
phong kiến. Khi đấu tranh đánh đổ phong kiến rồi thì nó lại thay
phong kiến mà áp bức nhân dân. Giai cấp tư sản đã lợi dụng sức
mạnh của nhân dân, xúi nhân dân bằng những lời hoa mỹ để lôi kéo
nhân dân vào cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến. Khi giành
được chính quyền, thiết lập bộ máy nhà nước tư sản thì giai cấp tư sản
quay lại đàn áp, bóc lột nhân dân, không thực hiện những điều mà họ
đã khẳng định trong tuyên ngôn. Quyền lực nhà nước không thuộc về
nhân dân, do đó quyền lợi chính đáng của nhân dân không được thực
hiện. Đối với Hồ Chí Minh, đã hy sinh làm cách mạng, thì nên làm
cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền giao cho dân
chúng số nhiều, thế dân chúng mới được hạnh phúc. Trên mọi diễn
đàn và trong hoạt động thực tiễn, Người đều khẳng định sự khát vọng
của mình: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất
cả những gì tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi hiểu” [42, t.1, tr.274].
Theo Hồ Chí Minh cách mạng Việt Nam không thể đi theo khuynh
hướng dân chủ tư sản, nhà nước Việt Nam sau khi giành được chính
quyền không mang bản chất tư sản, mà theo cách mạng vô sản. Vì
cách mạng vô sản thật sự đề cao vai trò của nhân dân.
Tiếp thu có chọn lọc tư tưởng nhân loại, trong nhiều bài viết, Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh đến vai trò, vị trí của nhà nước, pháp luật và
đạo đức trong việc giáo dục nhân dân, tổ chức quản lý xã hội. Thực
chất của pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền. Pháp luật đúng đắn
190
sẽ tạo nên sự ổn định của nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước vận
hành đúng quỹ đạo và người dân dễ thực hành quyền dân chủ của
mình.
Ngay từ năm 1919, trong Yêu sách của người dân An Nam gồm 8
điều mà Nguyễn Ái Quốc gởi đến hội nghị Vécxây thì đã có 4 điều
liên quan đến vấn đề pháp quyền như:
Điều 1: Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị ở tù chính
trị phạm.
Điều 2: Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho
người bản xứ cũng được quyền hưởng những quyền đảm bảo về mặt
pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các Tòa án đặc biệt
dùng làm công cụ khủng bố và đàn áp bộ phận trung thực nhất trong
nhân dân An Nam.
Điều 7: Thay thế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
Điều 8: Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ do người
bản xứ bầu ra bên cạnh Nghị viện Pháp để giúp Nghị viện biết được
nguyện vọng của người bản xứ [42,t.1, tr.435-436]. Sau đó để dễ phổ
biến và tuyên truyền trong người Việt Nam, Người đã chuyển bản
Yêu sách thành Việt Nam yêu cầu ca, trong đó có câu:
“Hai xin pháp luật sửa sang
Người Tây, người Việt hai phương cùng đồng
Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” [42, t.1, tr. 438].
191
Với những nội dung trên, Hồ Chí Minh đã làm rõ sự thật về nhà
nước “bảo hộ”, một nhà nước chuyên sử dụng các Tòa án đặc biệt
như một công cụ để khủng bố và đàn áp nhân dân An Nam và áp
dụng các chế độ ra các sắc lệnh chứ không phải chế độ ra các đạo
luật. Hồ Chí Minh đã chú ý đến pháp luật, đến công lý và quyền con
người, chứng tỏ Người đã thấy tầm quan trọng của một nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật, xem pháp luật như một công cụ, phương tiện
để xây dựng và củng cố nhà nước, nhưng phải là pháp luật của nền
dân chủ. Người kiên quyết lên án chế độ cai trị không có pháp luật.
“Chúng tôi bị cai trị bằng chế độ sắc lệnh do viên toàn quyền ban bố
chứ không phải bằng những đạo luật đã được thảo luận và được biểu
quyết ở Nghị viện” [42,t.1, tr.403]. “Các ông là nhà toàn quyền muốn
làm gì thì làm chứ không có pháp luật nào cả” [42,t.1, tr.120]. Ngay
trong bài viết đầu tiên lấy tên Nguyễn Ái Quốc với đầu đề: “Tâm địa
thực dân”, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nước Pháp là nước cộng hòa, nhưng
hành động bóp nghẹt quyền tự do dân chủ ở thuộc địa lại là phi cộng
hòa. Hồ Chí Minh thường lên án cái gọi là “công lý” của nhà nước tư
sản. Trong bài Công lý trong tập sách Đông Dương (1923 – 1924),
Người dẫn lời một nghị sĩ Pháp về nền công lý Pháp: “Pháp luật, công
lý với người bản xứ ư? Thôi đi! chỉ có ba toong, súng lục, súng trường,
đó mới là những thứ xứng đáng với lũ sâu mọt ấy’ [42, t.1, tr.420].
Người còn vạch rõ sự thật về công lý ở xứ Đông Dương dưới sự cai trị
của thực dân Pháp: “Ở Đông Dương có hai thứ công lý. Một thứ cho
người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở
192
Pháp. Người An Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không có
luật sư người An Nam. Thường người ta xử án và tuyên án theo giấy
tờ, vắng mặt người bị cáo. Nếu có vụ kiện giữa người An Nam với
người Pháp thì lúc nào người Pháp cũng có lý cả, mặc dù tên này ăn
cướp hay giết người” [42, t.1, tr.420].
Trong các cuộc cách mạng điển hình diễn ra từ thế kỷ XVII,
XVIII, XIX đến đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh chỉ thấy duy nhất có
cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) là thành công đến nơi đến
chốn. Cuộc cách mạng đó chẳng những xóa bỏ hoàn toàn chế độ
phong kiến và giai cấp tư sản phản động, “biến người nô lệ thành
người tự do”, mà còn thiết lập được chế độ dân chủ vô sản và đưa đất
nước phát triển theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định pháp luật và nhà nước ta là
ý chí căn bản của giai cấp công nhân và của cả dân tộc, bảo vệ
quyền lợi của người lao động, đấu tranh loại trừ áp bức bất công và
thiết lập sự công bằng xã hội. “Pháp luật của ta là pháp luật thật sự
dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động” [42, t.1, tr.186-187]. Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin cùng ánh sáng
Cách mạng Tháng Mười đã làm cho Người bừng tỉnh và hiểu rằng:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản” [42, t.9, tr.314]. Chúng ta có thể hình
dung logích trong tư tưởng của Người như sau: muốn có dân sinh, dân
chủ, muốn có được tự do bình đẳng bác ái thì phải đầu tiên là đánh đổ
đế quốc phong kiến. Nhưng đánh đổ đế quốc phong kiến để rồi lại
193
dựng lên chế độ tư sản thì cũng chưa có tự do dân chủ thực sự mà muốn
có tự do dân chủ thực sự phải làm cách mạng vô sản để tiến tới cộng
sản chủ nghĩa.
Với tầm hiểu biết sâu sắc về nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng nhà nước hợp
hiến, hợp pháp, đặt nền móng cho một nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
là hết sức đặc biệt trong tư tưởng của Người, nó được thể hiện ở các
tác phẩm chủ yếu như: Bản yêu sách của nhân dân An Nam năm 1919,
Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925, Đường cách mệnh năm 1927,
Chánh cương vắn tắt năm 1930, Chương trình Việt Minh (10 điểm)
năm 1941. Đó là những mốc son đánh dấu quá trình hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới – nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, chính
quyền về trong tay nhân dân, chỉ trong một thời gian ngắn đã lần lượt
ra đời hai văn kiện lớn gắn liền với tên tuổi của Hồ Chí Minh, đó là
Tuyên ngôn độc lập ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp
tháng 10 năm 1946. Hai văn kiện này là sự kết tinh trí tuệ của một
phần ba thế kỷ hoạt động cách mạng của Người. Tuyên ngôn độc lập
thật sự có ý nghĩa là một bản tổng kết lịch sử trọng đại, trong đó có sự
tổng kết về những tội ác gần 100 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp
đối với dân tộc Việt Nam.
Bằng Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã làm nên kỳ tích:
khôi phục lại nền độc lập dân tộc sau gần 100 năm đô hộ, lập nên chế
194
độ dân chủ cộng hòa, xóa bỏ chế độ quân chủ đã tồn tạo mấy thế kỷ.
Trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh đã
lựa chọn rồi tổ chức xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân, một kiểu
nhà nước chưa từng có tiền lệ trong lịch sử phát triển lâu dài của nhân
loại. Việc ban hành Hiến pháp tháng 10 năm 1946 và cuộc Tổng
tuyển cử năm 1946 là thể hiện tư tưởng và ý chí sắc bén của Hồ Chí
Minh về việc thiết lập một nhà nước hợp hiến và hợp pháp, tạo tiền
đề cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là nét
đặc sắc trong tư duy lý luận của Người; một định hướng chính trị đúng
đắn và vô cùng sáng suốt.
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền
nhà nước. Trong đó, vấn đề cốt lõi làm nên bản chất của chính quyền
đó là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi của ai. Do đó sau khi
cách mạng thành công, nước nhà độc lập, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung tương đến xã do nhân dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [42, t.5,
tr.698]
195
Mệnh đề “dân là chủ nước nhà” được Hồ Chí Minh sử dụng
nhiều lần, rất có chủ định, thể hiện rõ nét bản chất và tính vượt trội
của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa là nhà nước mà quyền lực thuộc về nhân
dân. Tính dân chủ của nhân dân, quyền lực nhà nước là của dân trở
thành một nguyên tắc đặt nền móng trong tổ chức, xây dựng nhà nước
mới và được quyết định rõ ràng trong các bản Hiến pháp nước ta.
Điều 1 Hiến pháp năm 1946 xác định: “Nước Việt Nam là một nước
dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”. Còn Điều 4 Hiến pháp năm 1959 ghi rõ: “Tất cả quyền
lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân.
Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân thể hiện quan
niệm truyền thống có giá trị phổ quát xác định rõ dân là gốc nước.
Điều này khẳng định tính chất dân chủ là nét đặc trưng nổi bật của
chính quyền nhà nước kiểu mới. Nó khẳng định nguồn gốc, sức mạnh
và chủ thể quyền lực nhà nước mới là ở nhân dân lao động. Trong
nước ta, nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan
nhà nước do nhân dân bầu ra, nhân viên nhà nước là người ủy quyền,
thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, trở thành công bộc của
nhân dân.
196
Thể chế cộng hòa đã làm thay đổi tận gốc rễ quan hệ quyền lực
chính trị và thực hiện quyền lực chính trị, nhân dân được đặt ở vị trí
cao nhất, nhà nước không còn là công cụ thống trị, nô dịch dân như
trong thời kỳ phong kiến tư sản. Chính phủ do nhân dân bầu ra, nhân
dân lập lên nhà nước dưới hình thức phổ thông đầu phiếu, dân chủ
trực tiếp. Quyền chính trị của nhân dân được đảm bảo, giá trị pháp lý
cho quyền lực nhà nước đều được đảm bảo. Mọi hoạt động của cơ
quan nhà nước cũng như mọi hoạt động của công chức đều phải vì lợi
ích của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, nhà nước ta không có
lợi ích nào khác. Vì vậy, “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh” [42, t.4, tr. 56-57].
Trong nhà nước dân chủ, nhân dân là người có địa vị cao nhất. Kế
thừa có chọn lọc và phê phán quan điểm của Nho giáo “dân vi quý,
xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, Hồ Chí Minh đã từng khẳng định trong
bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Chỉ có nhân dân, do địa vị
cao nhất của mình, mới có quyết định những vấn đề quan trọng nhất
của quốc gia, dân tộc và đất nước; chỉ có nhân dân mới trở thành cơ
sở, nền tảng vững chắc của nhà nước mà thôi. Nhà nước phải dựa vào
dân, sứ mạng của nhà nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của
quần chúng lao động; đó là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước pháp quyền không chỉ là
nhà nước của dân mà còn là nhà nước do dân. Đã là nhà nước của
dân, do dân và vì dân thì mọi quyết định của nhà nước có liên quan
197
đến sự sinh tồn và lợi ích của nhân dân lao động phải được đông đảo
quần chúng nhân dân tham gia bàn bạc, thảo luận và quyết định. Nhà
nước phải biết “đem tài dân, sức dân của dân làm lợi cho dân… Chính
phủ chỉ giúp đỡ kế hoạch cổ động”, chứ không phải bao cấp, làm thay
dân để làm cho dân ỷ lại, chờ đợi. Để làm được điều đó, đương nhiên
phải có cơ chế, một kế hoạch thể chế, luật hóa – quá trình nhà nước
thể hiện là cơ quan quyền lực của nhân dân và nhân dân tham gia xây
dựng nhà nước của mình. Nhân dân không chỉ là lực lượng xây dựng
mà còn lực lượng gìn giữ, hoàn thiện nhà nước, là lực lượng quyết
định sức mạnh, yếu của nhà nước. Nhà nước phải dựa vào dân, sức
mạnh của nhà nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của quần
chúng lao động. Nhà nước của dân, do dân là nhà nước tin dân, thấy
được rằng mọi lực lượng là ở dân; “chính quyền từ xã đến Chính phủ
Trung ương do dân cử ra, đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên” [42, t.5, tr.698]. Nhà nước do dân là nhà nước tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, “nhân dân là chủ nhà nước” nó không chỉ quy định nguồn gốc
quyền lực, nguồn gốc sức mạnh của nhà nước, xác định rõ vị trí của
nhân dân mà còn giải quyết tốt mối quan hệ cơ bản có ý nghĩa quyết
định là mối quan hệ giữa người dân với nhà nước, quan hệ giữa công
dân với công dân. Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất
nước là trách nhiệm của dân. Do đó phải phát huy vai trò, tính sáng
tạo của mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản lý nhà nước và xã
hội. Nhà nước muốn quản lý và điều hành xã hội có hiệu lực hiệu quả,
198
nhất định phải dựa vào lực lượng nhân dân, dựa vào sáng kiến và trí
tuệ của dân.
Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự
lo thông qua các mối quan hệ xã hội, qua các đoàn thể, chứ không
phải nhà nước bao cấp lo thay cho dân. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có một
nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên
thực tế mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó phải là nhà nước phục
vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có đặc
quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính. Thật vậy,
nhà nước ta là nhà nước dân chủ, dân chủ trên thực tế và trong hành
động. Bản chất dân chủ của nhà nước thể hiện trước hết ở chỗ quản lý
xã hội, lo cho dân, chứ không phải đè đầu, cưỡi cổ dân. Hồ Chí Minh
lấy việc đáp ứng và thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của nhân dân lao
động làm tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực quản lý của
nhà nước. Do đó mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đều nhằm mục đích nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân. Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là nhà
nước phục vụ nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm mục đích. Quan
điểm này của Hồ Chí Minh được xây dựng trên một triết lý phát triển
mang đầy bản chất nhân văn; coi con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của mọi cuộc cách mạng, của sự phát triển xã hội. Vì thế, Hồ
Chí Minh xem việc phục vụ nhân dân là một vinh dự cao quý và “Mọi
công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà làm” [42, t.6, tr.66]… “Trong
199
xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân”
[42, t.8, tr.276].
Trong một nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhân dân là
người chủ, địa vị cao nhất trong xã hội thuộc về nhân dân thì mối
quan hệ giữa nhân viên Nhà nước và nhân dân được xây dựng trên cơ
sở tin cậy, tôn trọng và yêu quý nhau. Chính vì thế Hồ Chí Minh
thường xuyên giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ nhà nước tinh thần
phục vụ nhân dân vô điều kiện. Đội ngũ cán bộ nhà nước không phải
là “quan cách mạng” đè đầu cưỡi cổ dân, mà phải vừa là người lãnh
đạo nhân dân, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
“Chúng ta có yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Hồ Chí
Minh nhắc nhở: “phải gần dân, hiểu biết dân, học hỏi dân”. Người kịch
liệt phê phán những người” “Miệng thì nói dân chủ, nhưng việc làm thì
theo lối “quan chủ”. “Miệng thì nói “phụng sự quần chúng” nhưng họ
lại làm trái với lợi ích của quần chúng. Theo Hồ Chí Minh “nguyên
nhân bệnh ấy là: xa nhân dân, khinh dân… sợ nhân dân… không tin cậy
nhân dân… không hiểu biết nhân dân… không thương yêu nhân dân” [42,
t.6, tr.292].
Kế thừa tư tưởng của Người, trong các nghị quyết và văn kiện
của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn chú trọng đến sự
nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chính vì thế, Văn kiện Đại đội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: nhà nước ta là công cụ chủ
200
yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân.
Tiếp thu tinh thần ấy, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục khẳng định: “Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân” [25, tr. 47].
Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng cũng chú ý rằng: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường
pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương
xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích
quốc gia, dân tộc, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội.” [25, tr. 48]
Kết luận chương 3
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong
những nhà tư tưởng lớn và có vị trí đặc biệt. Tính chất vĩ đại và đặc biệt
của Trần Nhân Tông không chỉ ở chỗ ông được mệnh danh là Phật
hoàng hay là người sáng lập ra thiền phái lớn nhất Việt Nam – Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử, mà còn là ở trong chính nội dung tư tưởng triết
học của ông. Mặc dù tư tưởng triết học, đặc biệt là triết lý thiền của Trần
201
Nhân Tông chưa thực sự trở thành một hệ thống chặt chẽ nhưng bản thân
nó đã mang những đặc điểm và giá trị riêng, đặc sắc và vĩnh cửu.
Với tư cách là một nhà chính trị, Trần Nhân Tông là một vị vua
anh minh, nhân từ, hòa nhã luôn đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, chủ
trương một nền chính trị thân dân và thực hiện chính sách “khoan thư
sức dân”, đoàn kết toàn dân xây dựng một nước Đại Việt vững mạnh,
có nền văn hóa văn minh độc lập, là linh hồn tổ chức và chỉ huy sức
mạnh toàn dân tộc đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của giặc
Nguyên – Mông, giữ yên bờ cõi.
Với tư cách là một nhà văn hóa, Trần Nhân Tông đã có công
lớn với nền văn học Quốc âm, phát triển thơ văn chữ Nôm, cải tiến
chế độ thi cử, chỉ đạo biên soạn các bộ sách quan trọng và các hoạt
động văn hóa, nghệ thuật khác thời bấy giờ, góp phần thúc đẩy văn
hóa Đại Việt thời kỳ Lý – Trần phát triển lên đỉnh cao.
Với tư cách là một nhà tư tưởng, Trần Nhân Tông là người đã
sáng tạo nên hệ thống tư tưởng triết học có nội dung phong phú và
đặc sắc cả về thế giới quan, nhân sinh quan lẫn quan điểm luân lý
đạo đức, trong đó nổi bật là triết lý thiền với cái tâm tĩnh lặng, lòng
trong sạch là vấn đề cốt lõi và quan trọng nhất. Tư tưởng triết học của
ông thể hiện những đặc điểm riêng biệt của thiền Việt Nam và mang
những giá trị lịch sử sâu sắc, đó là tính kế thừa, dung hợp sáng tạo và
tinh thần thiền hành động, nhập thế tích cực với tính nhân văn sâu
đậm. Tinh thần thiền hành động, nhập thế tích cực và tính nhân văn
sâu sắc của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông trước hết thể hiện
202
mong muốn của ông đưa triết lý Phật giáo xâm nhập sâu rộng và trở
thành nền tảng đạo đức của nhân dân Đại Việt; đem triết lý Phật giáo
gắn với đời sống xã hội thể hiện bằng hoạt động và thái độ sống tích
cực, không kêu gọi xa lánh cuộc đời, không tu hành ép xác khổ hạnh
mà luôn đề cao đức nhân nghĩa, tính thiện và cái tâm từ bi hỷ xả, cứu
dân, giúp nước. Đó chính là điểm đặc sắc riêng có trong triết lý thiền
của Trần Nhân Tông nói riêng và thiền Việt Nam nói chung. Tính
nhân văn trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông còn thể hiện ở chỗ,
tư tưởng ấy luôn quan tâm đến con người, đề cao vai trò, giá trị đời
sống con người, luôn lo cho đời sống của dân, giáo hóa đạo đức cho
dân và thể hiện bằng hành động cao cả là đánh giặc cứu nước, cứu
dân, xây dựng một chế độ chính trị thân dân, khoan thư sức dân và
một nền quân sự hùng mạnh, nền giáo dục tiến bộ. Tư tưởng triết học
của ông không chỉ là cơ sở lý luận để hình thành nên một trường phái
thiền mang màu sắc Việt Nam, mà còn là chỗ dựa tinh thần của một
quốc gia độc lập thống nhất cũng như của xã hội Đại Việt thống nhất.
203
KẾT LUẬN CHUNG
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, thời đại nhà Trần là một
trong những giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của lịch sử dân tộc ta. Đó
là thời đại mà vua tôi nhà Trần và toàn dân đã đồng lòng xây dựng
nên một quốc gia Đại Việt độc lập, tự chủ và thống nhất, với một thể
chế chính trị của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền khá quy
mô chặt chẽ, có nền kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương
nghiệp khá phát đạt thời bấy giờ; “Vua thánh tôi hiền”, “muôn họ hát
vui thời thịnh trị” [90, tr. 518]. Đó là thời đại cả dân tộc ta “tướng sĩ
một lòng phụ tử”, hừng hực hào khí “Sát Thát” làm nên ba lần chiến
thắng giặc Nguyên – Mông vang dội; và, tương ứng với nó, đó là thời
đại đã hun đúc nên một nền văn hóa rực rỡ với những con người có
nhân cách, tư tưởng và ý chí lớn như Trần Thái Tông, Tuệ Trung
Thượng sĩ, Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh
Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Pháp Loa…
làm rạng danh lịch sử dân tộc. Trong đó, Trần Nhân Tông nổi lên như
một trong những nhân vật kiệt xuất nhất.
Về cốt cách và tinh thần, Trần Nhân Tông là một vị vua hiền
minh, một vị vua anh hùng, có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần
dân tộc cao cả. Lên nối ngôi vua trong tình thế đất nước đang đứng
trước hiểm họa bởi cuộc xâm lăng của đế quốc Nguyên – Mông, ông
đã cùng với vua cha lãnh đạo triều đình và dân chúng, khẩn trương
chuẩn bị về mọi mặt, để cuối cùng giành thắng lợi rực rỡ trong hai lần
204
đọ sức với 50 vạn quân giặc (năm 1285 và năm 1288). “Ông còn
giành những thắng lợi quan trọng trong các cuộc hành binh về phía
Tây và phía Nam, củng cố vững vàng biên giới của Tổ quốc” [95, tr.
451]. Không những thế, Trần Nhân Tông còn là một ông vua nổi
tiếng khoan hòa và nhân ái, luôn chăm lo cho dân cho nước (ưu quốc)
“cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước” [85, tr.
44].
Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn ở thế kỷ
XIII. “Thơ ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học
và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha
của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do
thích thảng của một nhà nghệ sĩ. Ở đấy cũng thể hiện sự hòa hợp khó
chia tách giữa một ngòi bút vừa cung đình vừa bình dị, có cả những
kiến thức sách vở uyên bác lẫn với sự từng trải lịch lãm” [95, tr. 451].
Không những thế, ông còn là người có công đầu trong việc xây dựng
nền Quốc âm, với bài phú Cư trần lạc đạo nổi tiếng mọi thời đại.
Về mặt tư tưởng, Trần Nhân Tông là một thiền sư lỗi lạc, người
sáng lập ra một dòng thiền mang bản sắc và tính chất riêng của Việt
Nam; đó là tính chất thiền hành động nhập thế tích cực và thấm đượm
tính nhân văn sâu sắc. Ông đã biết dung hợp các nguồn tư tưởng của
quá khứ dân tộc với các quan điểm triết lý đạo đức nhân sinh thâm
trầm, sâu sắc của Nho, Phật, Lão, bằng sự kế thừa, tiếp nối các dòng
thiền của Việt Nam trước đây của thời nhà Lý như Tỳ Ni Đa Lưu Chi,
Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và triết lý thiền của Trần Thái Tông,
205
Tuệ Trung Thượng sĩ, nhằm đưa triết lý đạo đức của nhà Phật thành
một trong những nền tảng đạo đức cho xã hội Đại Việt đương thời và
xây dựng một tổ chức Phật giáo Việt Nam thống nhất, làm chỗ dựa
tinh thần của dân tộc thời kỳ nhà Trần.
Trong vấn đề bản thể luận, tiếp tục truyền thống của thiền và
trên cơ sở kế thừa nội dung khái niệm về “tâm” được hình thành từ
các thế hệ trước như thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông,
Thảo Đường cũng như quan điểm về tâm hư không của Trần Thái
Tông và tâm thể của Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông đã coi
tâm vô niệm hay tâm tĩnh lặng là bản thể của thế giới. Chữ “bản”,
theo Trần Nhân Tông nghĩa là cái gốc, là bản nguyên của vũ trụ, vạn
vật. Cái tâm tĩnh lặng, vô niệm là gốc của thế giới, theo Trần Nhân
Tông là cái ban đầu, vốn có trong con người, là cái bản nhiên, thanh
tịnh, trong sáng, viên đồng tất cả, không hình, không tướng, thường
trụ bất biến, vượt lên mọi đối đãi, nhị nguyên, không sinh không diệt,
không thiện không ác, không thị không phi… Nhưng trong cuộc sống
do vọng niệm, tham dục chi phối, nên con người đã nó làm lu mờ đi,
quên mất cái gốc là của báu trong mỗi con người ấy (khuây bản). Vì
thế mới chạy Đông, chạy Tây tìm bụt, chứ thực ra bụt ở trong nhà,
chẳng phải tìm đâu xa cả. Bởi vậy, theo ông để trở về với cái gốc như
trở về quê hương xứ sở (gia hương), người ta phải tu tập, thiền định.
Trong tư tưởng triết học của mình, Trần Nhân Tông cũng đã đưa ra
nhiều cái tên khác nhau, để chỉ bản thể như tính sáng, tính gương,
giác tính, thể tính, lòng trong sạch, Bụt, thực tướng, Pháp thân, chân
206
như… Tuy nhiên, trong quan điểm về “tâm”, Trần Nhân Tông đã chú
trọng đến khía cạnh hình tướng, trạng thái của tâm, và nó đã được
ông diễn đạt một cách bình dị, gần gũi hơn với cuộc sống đời thường.
Ông cũng cho rằng Phật tính, Pháp thân, tâm, tính có quan hệ với
nhau “như hình với bóng, khi ẩn khi hiện”, “không dính không rời”
[95, tr. 660], “Pháp tức là tính, Phật tức là tâm… Tâm là Phật mà tâm
cũng là Pháp” [80, tờ 38a – 38b]. Trần Nhân Tông cũng cho rằng, thế
giới hiện tượng là biến ảo vô thường. Vạn pháp là do duyên khởi y
tha nên tồn tại đan bện vào nhau, rắc rối như sắn bìm bụi cỏ, chúng
sinh sinh, hóa hóa biến đổi vô thường. Thế giới hiện tượng ấy chỉ là
giả tướng, nó có đấy nhưng không thật, giống như giấc chiêm bao,
vừa hư vừa thực; sự xuất hiện của nó là do phân biệt kén chọn, hay
vọng niệm của con người mà ra, nếu diệt được vọng niệm, trở về với
cái tâm tĩnh lặng thì những thiên sai, vạn biệt ấy cũng biến mất.
Để trở về với quê hương xứ sở, để đạt tới cái tâm tĩnh lặng, cái
bản thể chân như vốn có, thanh tịnh, trong sáng, bản nhiên, viên mãn
trong mỗi người, theo Trần Nhân Tông người ta không phải bắt đầu từ
nhận thức, lý luận, đặt tên tìm ý, bám víu vào câu chữ của giáo lý,
“lập tông lập chỉ”, “lý thuyết ồn ào, liến láu tranh cãi”; “khắc thuyền
tìm gươm”, “ôm cây đợi thỏ”, “quên trăng ngắm ngón” [95, tr. 490],
kén chọn phân biệt hữu vô, phải trái, có tính chất biên kiến đối đãi…
mà phải chứng ngộ trong chính cuộc sống của mình bằng quá trình tu
tập giới hạnh và thiền định, từ tu hạnh đầu đà, đến vong nhị kiến, phá
chấp và đạt tới tâm tĩnh lặng. Đó là quá trình công phu như đãi cát tìm
207
vàng, cần phải gắng sức dùi mài để ngừng nguồn tham ái, lặng tiếng
thị phi, gìn tính sáng, nén niềm vọng, dứt nhân ngã, trừ tham sân, xét
tâm thân, rèn tính thức, cầm giới, công danh chẳng trọng, phú quý
chẳng màng, sống thanh tao, đạm bạc, giác tính sáng trong, thân tâm
vui vẻ, rũ hết duyên trần, chẳng còn bỉ thử, nhất tâm bất loạn vượt
qua biên kiến để đạt tới vô ngôn, vô niệm. Đó chính là con đường trở
về với bản thể, biến tâm mình thành vô tâm, hay tâm hư của Trần
Thái Tông và tâm vô trụ trong Kinh Kim cương. Sự trở về này không
thể thực hiện bằng ngôn ngữ, văn tự hay luận lý, giảng giải, bởi lẽ:
“Nhận văn giải nghĩa, lạc lài nên Thiền khách bơ vơ” [95, tr. 507]. Ở
đây, Trần Nhân Tông đã học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm, lý luận về
thiền của các thiền sư đi trước để vạch ra cho mình một con đường và
cách thức thiền độc đáo, tổng hợp tinh túy của tư tưởng tu tập, thiền
định của các thế hệ trước nhưng lại mang một sắc thái mới, sống
động, thực tiễn, táo bạo hơn. Đó không phải là cách tu thiền xuất thế,
lánh đời, ép xác khổ hạnh, cũng không phải bằng sự “trầm tư mặc
tưởng”; mà là tính chất thiền hành động, nhập thế tích cực, thể hiện;
một mặt, bằng chính những hành động sống bình dị và tích cực thường
nhật để giữ giới luật như ăn cháo, tưới cây, uống trà, đến ăn chay,
niệm Phật, sống hòa vào thiên nhiên, tự tại…; và, cao hơn, đó còn là
những hành động mang ý nghĩa đạo đức, luân lý xã hội lớn lao như
chỉ dạy Mười điều thiện (Thập thiện) giáo hóa đạo lý, nhân nghĩa cho
dân chúng để khuyến thiện trừ tà cho dân; thương yêu dân và lo cho
nước (ưu quốc), đánh giặc trừ gian, cứu dân, cứu nước.
208
Tóm lại, cuộc đời và tư tưởng của Trần Nhân Tông có thể được
nghiên cứu và tiếp cận trên nhiều bình diện khác nhau như nhà vua,
nhà thơ, nhà tư tưởng. Và, ở bình diện nào chúng ta cũng phát hiện ra
những điều thú vị và mới lạ mang giá trị, ý nghĩa sâu sắc và vĩnh cửu
về ông. Là một vị vua, một vị tướng ông có một bản lĩnh vững vàng
và ý chí quyết đoán. Là một nhà chính trị, ông có cái nhìn sắc bén và
thái độ bình tĩnh, tự tại khoan hòa, thấu hiểu tâm can mọi người, thu
phục nhân tâm con người; là một thiền sư, ông có một trí huệ thâm
trầm sâu sắc mà dung dị, và cao hơn cả là tấm lòng yêu nước thương
dân thiết tha của ông. Đặc biệt cuộc đời ông đã chịu ảnh hưởng khá
sâu đậm bởi triết lý đạo đức của Phật giáo – một triết lý sau hai thế
kỷ chiếm địa vị quốc giáo dưới thời Lý, và đến thời kỳ nhà Trần, nó
đã đủ chín muồi để hòa nhập vào truyền thống văn hóa dân tộc Việt.
Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông đã trở thành cơ sở lý luận cho
việc xây dựng một chế độ chính trị thân dân, một quốc gia thống nhất,
độc lập, tự chủ và là chỗ dựa tinh thần cho quân dân Đại Việt trong
công cuộc chấn hưng đất nước, chống giặc Nguyên – Mông thời bấy
giờ.
209
PHỤ LỤC
TOÀN CẢNH CHÙA ĐỒNG YÊN TỬ
(Ảnh do Bùi Huy Du chụp)
MỘT GÓC TRÚC LÂM YÊN TỬ
(Nguồn:
210
MỘT CUỘC HÀNH HƯƠNG VỀ CÕI PHẬT
(Nguồn:
Yen-Tu-Mot-cuoc-hanh-huong-ve-coi-Phat.btml)
CÕI THIÊNG YÊN TỬ NGÀY KHAI HỘI
(Ảnh do Bùi Huy Du chụp)
211
KHU THÁP TỔ
(Nguồn:
tu-phan-2-duong-tung-va-khu-vuon-thap-to-12734.html)
CHÙA VÂN TIÊU
(Nguồn:
212
CHÙA TRÚC LÂM TẠI YÊN TỬ
(Ảnh do Bùi Huy Du chụp)
CHÙA ĐỒNG TẠI YÊN TỬ
(Nguồn:
213
MẪU TƯỢNG TRẦN NHÂN TÔNG TRÊN YÊN TỬ
(Nguồn: E1%BB%A3ng-
tr%E1%BA% A7n-nhan-tong-tren-yen-t%E1%BB%AD-thi% E1%BA%BFu-ki%E1%BA%BFn-
th%E1%BB%A9c-v%E1% BB%81-ph%E1%BA%ADt-h%E1%BB%8Dc/)
MẪU TƯỢNG TRẦN NHÂN TÔNG
(Nguồn:
21263456.html)
214
TƯỢNG VÀ THÁP MỘ ĐỨC VUA TRẦN NHÂN TÔNG
(Nguồn:
trong-lich-su/20113/140530.datviet)
VUA TRẦN NHÂN TÔNG
(Nguồn:
215
TƯỢNG ĐÁ AN KỲ SINH
(Nguồn:
TƯỢNG TRẦN NHÂN TÔNG
(Nguồn:
tu-phan-2-duong-tung-va-khu-vuon-thap-to-12734.html)
216
TƯỢNG TAM TÒA THÁNH MẪU TRÊN YÊN TỬ
(Nguồn:
tu-phan-3-chua-hoa-yen-chua-mot-mai-chua-van-tieu-12735.html)
TƯỢNG TAM TỔ TRÊN YÊN TỬ
(Nguồn:
tu-phan-3-chua-hoa-yen-chua-mot-mai-chua-van-tieu-12735.html)
217
(Nguồn:
tu-phan-2-duong-tung-va-khu-vuon-thap-to-12734.html)
KHU THÁP TỔ
(Nguồn:
tu-phan-2-duong-tung-va-khu-vuon-thap-to-12734.html)
218
THÁP HUỆ QUANG
(Nguồn:
Viet-Nam/2011/02/41AF7DBF/)
LĂNG MỘ VUA TRẦN NHÂN TÔNG TẠI YÊN TỬ
(Ảnh do Bùi Huy Du chụp)
219
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Tp.
Hồ Chí Minh.
2. Ban Phật giáo Việt Nam – Ban Phật học chuyên môn (1995),
Thiền học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
3. Thích Minh Châu – Minh Chi (1991), Từ điển Phật học, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Doãn Chính – Nguyễn Ngọc Phượng, Tư tưởng triết học của
Trần Thái Tông, Tạp chí Triết học, số 1 (212), 2009, tr. 41 – 47.
5. Doãn Chính (2008), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Dỗn Chính (2009), Từ điển triết học Trung Quốc, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
7. Doãn Chính (1999), Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí (Bản
dịch), tập 1, Nxb. Sử học, Hà Nội.
9. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí (Bản
dịch), tập 2, Nxb. Sử học, Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ biên, 2006), Lịch sử tư tưởng triết
học Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Trương Văn Chung (1998), Tư tưởng triết học của Thiền phái
Trúc Lâm đời Trần, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
220
12. Trương Văn Chung, Doãn Chính (Chủ biên, 2008), Tư tưởng
Việt Nam thời Lý – Trần, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Trương Văn Chung (2005), "Tư tưởng của Nagarjuna về
những vấn đề bản thể luận trong triết học Phật giáo", Tạp chí Khoa
học xã hội, 1 (77).
14. Đoàn Trung Cịn (1951), Phật học từ điển, Phật học tịng thơ,
Sài Gịn.
15. Daisetzteitaro Suzuki (1988), Thiền luận, trọn bộ 3 tập, Nxb.
Tp. Hồ Chí Minh.
16. Ngô Di (1973), Thiền và Lão Trang, Nxb. Hạnh Phúc, Sài Gòn.
17. Nguyễn Đức Diện (1994), "Tư tưởng về bản thể trong thiền
học của Tuệ Trung Thượng sĩ", Tạp chí Triết học, (4).
18. Lê Anh Dũng (1994), Con đường Tam giáo Việt Nam, Nxb.
Tp. Hồ Chí Minh.
19. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hoá Việt Nam,
Nxb. Hà Nội.
20. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Văn hoá –
Thông tin.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm
Ban chấp hành Trung ương khĩa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
221
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Trần Văn Giáp (1968), Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến
thế kỷ XII, Ban tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gịn.
27. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ
thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
28. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
29. Thích Thanh Kiểm (1965), Lịch sử Phật giáo Trung Hoa, Đại
học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
30. Kinh Pháp cú, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1993,
(Thích Thiện Siêu dịch và chú giải).
31. Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc
Lâm Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo
Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Nguyễn Hùng Hậu (Chủ biên, 2002), Đại cương lịch sử tư
tưởng triết học Việt Nam, tập 1, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Hùng Hậu (1996), Gĩp phần tìm hiểu tư tưởng triết
học Phật giáo Trần Thái Tơng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Nguyễn Duy Hinh (1989), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
222
36. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận (3 tập),
Nxb. Văn học, Hà Nội.
37. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh
(1983), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb. khoa học xã hội, Hà Nội.
38. Tạ Ngọc Liễn (1976), "Vài nhận xét về Thiền tông và phái
Trúc lâm Yên Tử đời Trần", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử.
39. Thích Duy Lực (1995), Danh từ Thiền học chú giải, Thành
hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn Công Lý (1997), Bản sắc dân tộc trong văn học
Thiền tông thời Lý Trần, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
41. C.Mác và Ph.Ăng ghen (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, 12 tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
43. Hà Thúc Minh (2000), Lịch sử triết học Trung Quốc, 2 tập,
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
44. Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện
Triết học, 1984.
45. Huệ Năng (1992), Pháp bảo đàn kinh, Thích Thanh Từ dịch
và chú giải, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh.
46. Nguyễn Thế Nghĩa – Doãn Chính (Chủ biên, 2002), Lịch sử
triết học, tập 1: Triết học cổ đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách (1999), Từ điển Phật
học, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
223
48. O.O Rozenberg (1990), Phật giáo những vấn đề triết học,
Trung tâm tư liệu Phật học xuất bản, Hà Nội.
49. Phân viện nghiên cứu Phật học (1990), Thiền uyển tập anh,
Nxb. Văn học, Hà Nội.
50. Phật giáo – Ấn Độ giáo – Đạo giáo – Thiền: Từ điển minh
triết phương Đông, Nxb. Khoa học xã hội, 1997.
51. Nguyễn Danh Phiệt (1990), "Chế độ phong kiến trong lịch
sử Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV và những di sản của nó", Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, 3 (250).
52. Nguyễn Danh Phiệt, "Giáo dục khoa cử thời Lý – Trần",
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử.
53. Ngô Văn Phú (1995), Trần Thủ Độ và sự nghiệp nhà Trần,
Nxb. Văn học, Hà Nội.
54. Nguyễn Hoàng Phương (1996), Tích hợp đa văn hoá Đông
Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
55. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2005),
Đại cương lịch sử Việt Nam (3 tập), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
56. Phạm Hồng Sơn (1987), "Đại thắng chống Mông – Nguyên
thời Trần thế kỷ XIII", Tạp chí Lịch sử quân đội, (19).
57. Thích Phụng Sơn (1995), Những nét văn hoá của đạo Phật,
Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
58. Lê Đình Sỹ – Nguyễn Danh Phiệt (1994), Kế sách giữ nước
thời Lý Trần, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
224
59. Taisen Deshimaru (1992), Chân thiền, Nxb Văn nghệ Tp.
Hồ Chí Minh.
60. Hoàng Minh Thảo (1978), "Mấy bài học lịch sử về cuộc kháng
chiến chống Nguyên của nhà Trần", Tạp chí Lịch sử quân đội (21).
61. Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1,
Nxb. Thuận Hoá, Huế.
62. Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam,
3 tập, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
63. Lê Mạnh Thát (2004), Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh,
Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
64. Lê Sĩ Thắng (1995), "Vấn đề giải phóng và giải thoát con
người trong tư tưởng hai vua Trần", Tạp chí Triết học, (1).
65. Hà Văn Tấn – Phạm Thị Tâm (1975), Cuộc kháng chiến chống
xâm lược Nguyên Mơng thế kỷ XIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Thích Mật Thể (1942), Việt Nam Phật giáo sử lược, Tổng
hội tăng ni Bắc Việt, Hà Nội.
67. Thiền học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật giáo Việt Nam,
Tp. Hồ Chí Minh, (1992).
68. Thiền sư Trung Hoa (2002), trọn bộ 3 tập, HT. Thích Thanh
Từ soạn dịch, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
69. Thích Tâm Thiện (1995), Tìm hiểu nhân sinh quan Phật
giáo, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh.
70. Nguyễn Đăng Thục (1996), Thiền học Trần Thái Tơng, Nxb.
Văn hĩa - Thơng tin, Hà Nội.
225
71. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên, 1988), Lịch sử Phật giáo Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội.
72. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên, 1993), Lịch sử tư tưởng Việt
Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
73. Ngô Tất Tố (1960), Thơ văn đời Trần, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn.
74. Trần Thái Tơng (1974), Khĩa hư lục, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
75. Trần Thái Tông (1992), Khoá hư lục, Thành hội Phật giáo
Tp. Hồ Chí Minh.
76. Thích Thanh Từ (Chủ biên, 1995), Thiền học đời Trần, Viện
nghiên cứu Phật học Việt Nam.
77. Thích Thanh Từ (1992), Thiền tơng Việt Nam, Thành hội Phật
giáo Tp. Hồ Chí Minh.
78. Thích Thanh Từ (1997), Tam tổ thực lục giảng giải, Thiền
viện Thường Chiếu, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
79. Trang Tử (1961), Nam Hoa kinh, (Bản dịch của Nhượng
Tống), Tân Việt, Sài Gịn.
80. Trần triều dật tồn Phật điển lục (1943), Tổng hội Phật giáo
Bắc kỳ, Hà Nội.
81. Kim Cương Tử (Chủ biên) (1992), Từ điển Phật học Hán
Việt, 2 tập, Phân viện nghiên cứu Phật học.
82. Lão Tử (1991), Đạo đức kinh, Nxb. Văn học, Hà Nội.
83. Trương Lập Văn (chủ biên), (1999), "Tâm" – Triết học
Phương Đông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
226
84. Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại việt sử ký toàn
thư, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
85. Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại việt sử ký toàn
thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội , Hà Nội.
86. Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sự ký toàn
thư, tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
87. Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn
thư, tập 4, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
88. Trung tâm nghiên cứu Hán nơm (1993), Tuệ Trung Thượng sĩ
với Thiền tơng Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng.
89. Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (1995), Tam tổ thực lục
(Thích Phước Sơn dịch và chú giải).
90. Viện Sử học (1980), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý –
Trần, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
91. Viện Triết học (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển,
tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Viện Triết học (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển,
tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Viện Triết học (1984), Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư
tưởng Việt Nam, Hà Nội.
94. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
95. Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển
thượng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
227
96. Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý - Trần, tập 3, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
97. Viện Văn học (1998), Hoàng đế Lê Thánh Tông nhà chính trị
tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
98. Viện Văn học (1981), Văn học Việt Nam trên những chặng
đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
99. Vũ Văn Vinh (1999), Một số nội dung cơ bản của tư tưởng
Nho giáo Việt Nam dưới thời Trần, Luận án Tiến sĩ Triết học.
100. Việt sử lược (1959), Nxb. Sử học, Hà Nội.
101. Thái Vũ (1999), Trần Hưng Đạo Đại Vương – Trời Nam khí
mạnh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
102. Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn (1960), Lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
103. Will Durant (1971), Lịch sử văn minh Ấn Độ, Nxb. Lá Bối,
Sài Gòn.
104. Will Durant (1970), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb. Lá
Bối, Sài Gòn.
228
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Bùi Huy Du: Tìm hiểu tư tưởng triết học Trần Nhân Tông, Tạp
chí Khoa học xã hội, số 6 (130), 2009.
2. Bùi Huy Du: Phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với việc
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh
thái ở Nam Bộ, Tạp chí Phát triển nhân lực, số 04 (14), 2009.
3. Bùi Huy Du: Tuệ Trung Thượng sĩ – nhà thiền học thông tuệ,
Tạp chí Triết học, số 8 (219), 2009.
4. Bùi Huy Du: Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông, Luận
văn Thạc sĩ Triết học, Thành phố Hồ Chí Minh, 2009.
5. Bùi Huy Du: Tìm hiểu cơ sở xã hội và tiền đề lý luận hình
thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông, Tạp chí Khoa học xã hội, số
1 (149), 2011.
6. Bùi Huy Du: Trần Nhân Tông – đệ nhất tổ thiền Trúc Lâm
Yên Tử, Tạp chí Triết học, số 7 (242), 2011.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cao_hoc_0951.pdf