Từ những kết quả trên cho thấy Artemia là loại thức ăn ưa thích của cá
thát lát còm. Khi ương cá bằng Artemia cho tăng trọng và tỷ lệ sống cao nhất.
Vì vậy, nếu kết hợp ương cá thát lát trong mùa sản xuất trứng bào xác và sinh
khối Artemia thì có thể tận dụng được nguồn sản phẩm dư thừa từ ao nuôi
(Artemia tươi sống và đông lạnh) để ương cá.
39 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3028 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ử dụng các loại sinh khối artemia để ương cá thát lát còm(notopterus chitala) từ hương lên giống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
non,
con trưởng thành) (Sorgeloos et al., 1996). Hàm lượng protein trong sinh khối
Artemia chiếm khoảng 56 ± 5,6% trong khi lipid là 11,8 ± 5,0%, carbohydrate
chiếm khoảng 12,1 ± 4,4% và tro chiếm 17,4 ± 6,3% nên có thể đáp ứng cho hầu
hết các đối tượng thuỷ sản (Leger et al., 1987).
Vùng ven biển ĐBSCL, đặc biệt là vùng Sóc trăng – Bạc Liêu, nơi mà
nuôi Artemia thu trứng phát triển mạnh ở các ruộng muối và hàng năm cung cấp
một lượng lớn sinh khối Artemia tươi. Sinh khối Artemia có thể sản xuất từ các
ao nuôi chuyên hoặc sản phẩm thu tỉa hay tận thu từ các ao chuyên nuôi Artemia
để thu trứng bào xác (Trần Hữu Lễ và ctv, 2008). Tuy nhiên, khả năng sử dụng
chúng cho các đối tượng thủy sản ở nước ta còn rất hạn chế do thiếu nguồn
thông tin. Vì vậy đề tài “Sử dụng các loại sinh khối Artemia để ương cá Thát
Lát Còm từ hương lên giống”, được tiến hành nhằm cung cấp thông tin về khả
năng tận dụng các loại sinh khối Artemia có sẵn ở địa phương, không những
giải quyết được nguồn thức ăn cần thiết cho cá Còm, hạn chế được tình trạng ô
nhiễm môi trường do sử dụng cá tạp, mà còn tăng thêm thu nhập cho người sản
xuất Artemia (nhờ tiêu thụ cả hai sản phẩm là trứng bào xác và sinh khối).
1.2 Mục tiêu:
Tìm hiểu khả năng sử dụng các lọai sinh khối Artemia khác nhau để ương
cá thát lát Còm từ hương lên giống.
1.3 Nội dung:
- Theo dõi tỷ lệ sống
7
- Theo dõi tốc độ tăng trưởng của cá thát lát Còm giai đọan ương từ
hương lên giống khi sử dụng các lọai Artemia sinh khối (tươi sống, đông lạnh)
so với thức ăn truyền thống.
1.4 Thời gian và địa điểm
Thời gian thực hiện đề tài từ ngày 08-04-09 đến ngày 18-05-09.
Địa điểm thực hiện tại Trại thực nghiệm Vĩnh Châu, thuộc Khoa Thủy
sản, Đại học Cần Thơ (ấp Biển Dưới, xã Vĩnh Phước, huyện Vĩnh Châu, tỉnh
Sóc Trăng).
8
Phần 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1.Đặc điểm sinh học cá thát lát Còm
2.1.1.Phân lọai
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) thì cá Thát Lát
Còm có hệ thống phân lọai như sau:
Ngành có dây sống Chordata
Ngành phụ có xương sống Vertebrata
Tổng lớp miệng có hàm Gnathostomata
Lớp cá xương Osteichthyes
Bộ: Osteoglossiformes
Họ: Notopteridae
Giống: Notopterus
Loài: Notopterus chitala (Hamilton, 1822)
Tên khoa học khác: Notopterus maculatus, Chitala chitala
Tên địa phương: cá Còm, cá Nàng Hai,…
2.1.2.Hình thái
Hình 2.1 Cá Thát Lát Còm
9
Theo Nguyễn Chung (2006) thì cá Thát Lát Còm là loài cá nước ngọt có
xương, hình lưỡi dao bề ngang thân dẹp nhưng rộng bề bản lưng, thân gồ ở
phần thân và nhỏ ở phần đầu và đuôi. Toàn thân phủ vảy nhỏ mịn nhưng vảy
đường bên chạy giữa thân tương đối lớn. Miệng tương đối to và gạch miệng kéo
dài đến trước ổ mắt. Vây hậu môn dính liền với vây đuôi tạo thành lớp viền
mỏng. Vây lưng nhỏ và trong.
Cá có màu xám sáng, nhưng cá có màu sậm hơn ở lưng kéo dài tới đầu,
trắng bạc ở bụng, phía dưới viền xương nắp mang màu sáng hơn.
Theo Dương Nhựt Long (2003) cá trưởng thành có 4 – 10 đốm đen, viền
trắng nằm dọc trên vây hậu môn. Lúc cá còn nhỏ thân có 10 – 15 sọc đen ngang
thân. Khoảng hai tháng tuổi phần dưới của các sọc này xuất hiện các đốm nâu
tròn. Cá càng lớn sọc mờ dần rồi mất hẳn.
Phần đầu cá chỉ chiếm 1/8 so với cơ thể cá nên chế biến lấy thịt làm chả
cá xuất khẩu rất có hiệu quả kinh tế so với các loài cá khác, thường chỉ khoảng
1,6 – 1,7 kg cá nguyên liệu được 1 kg thịt chả cá (Nguyễn Chung, 2006).
2.1.3. Phân bố
Cá Thát Lát Còm phân bố rộng, chúng có mặt khắp các thủy vực, từ thượng
lưu đến hạ lưu sông Chaophraya và sông Mêkông. Ở Myanma, TháiLan, Lào cá có
số lượng quần đàn tương đối nhiều, còn ở Campuchia, Việt Nam chỉ rải rác
(Nguyễn Chung, 2006).
Cá Thát Còm phân bố ở Borneo, Sumatra, Lào, M Lai, Thái Lan, Miến
Điện, Campuchia. Ở nước ta cá sống chủ yếu ở một số nhánh sông lớn đổ vào
sông Mêkông (thuộc Tây Nguyên) và các thủy vực thuộc sông Cửu Long
(Dương Nhựt Long, 2003).
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), cá Thát Lát
Còm sống ở kênh, rạch, đồng, ruộng,…Có thể chịu đựng được môi trường thiếu
oxy nhờ có cơ quan hô hấp phụ thở bằng khí trời. Cá ăn động vật tươi sống chủ
yếu là côn trùng, giáp xác và các loại cá sống nổi.
2.1.4.Đặc điểm dinh dưỡng
Hệ tiêu hóa cá Thát Lát Còm gồm miệng, thực, quản. dạ dày, ruột.
Miệng trước rộng, rạch miệng xiên kéo dài ra khỏi mắt, xương hàm trên phát
triển. Răng nhiều nhọn mọc trên hàm dưới trên phần giữa xương trước hàm,
trên xương khẩu cái, lá mía và lưỡi. Ngoài ra còn có đám răng nhỏ mịn trên
10
xương bướm phụ vì vậy chúng có thể bắt giữ cắn xé con mồi. Thực quản ngắn
rộng và có vách hơi dày. Dạ dày hình chữ J có vách hơi dày. Ranh giới giữa
ruộn non và ruột già không phân biệt rõ ràng. Tỷ lê Li/Lo = 0,3 cho nên đây là
loài ăn đông vật (Dương Nhựt Long, 2003).
Theo Nguyễn Chung (2006) khi còn nhỏ cá ăn các loài thủy sinh cở nhỏ
hay phiêu sinh động vật như Moina, Daphnia, trùng chỉ, tôm tép con; khi cá lớn
cá ăn tôm cá con và các thủy động vật khác như trùng đất, ấu trùng của côn
trùng và các loài giáp xác. Chúng cũng ăn phiêu sinh thực vật và thực vật có
trong nước nhưng chỉ chiếm 20% - 30% trong tổng lượng thức ăn của cá. Khi
đói chúng hung dữ tấn công săn bắt những con cá khác làm mồi ăn. Tuy vậy,
tính ăn của cá không ổn định, cá có thể bỏ ăn cho tới khi kiệt sức và nhiễm
bệnh chết nếu có dấu hiệu sốc môi trường, thay đổi mồi ăn đột ngột hay bắt cá
phải ngừng ăn lâu khi chuẩn bị vận chuyển. Do đó, khi nuôi cá thịt phải tập cho
cá ăn quen dần với thức ăn chế biến từ các phế liệu nông nghiệp, thực phẩm hay
thức ăn công nghiệp. Cá thường săn mồi bắt nhiều vào buổi chiều tối. Cá bơi
chúc đầu xuống để tìm thức ăn phiêu sinh vật, trùng chỉ, tép, ruốc ở dưới ao hồ
sông ngòi. Cá 3 – 4 năm tuổi có thể trở nên hung dữ, săn bắt những con cá khác
nơi chúng sinh sống.
2.1.5.Đặc điểm sinh trưởng
Trong tự nhiên, ở các lưu vực sông hay các ao hồ lâu năm có thể đánh
bắt được những con cá Thát Lát Còm nặng 3 – 5 kg. Cá Thát Lát Còm có thể
sống 8 – 10 năm, đạt tới chiều dài 80 cm, nặng 8 – 10 kg (Nguyễn Chung,
2006).
So với cá cùng họ thì cá Thát Lát Còm có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn
cá thát lát thường (sau 12 tháng nuôi cá thát lát thường có thể đạt 100 g/con
(Dương Nhựt Long, 2004)). Thời gian từ lúc trứng thụ tinh, ấp nở là 7 ngày, cá
bột mới nở đến cá con phải mất từ 35 – 40 ngày mới đạt 3 – 4cm, cá giống lớn
chậm phải kéo dài thêm 30 – 40 ngày mới đạt chiều dài 12 – 15 cm, về sau cá
sẽ lớn nhanh, cá càng lớn thì thịt càng dai và thơm. Cá đạt chiều dài 15 cm ở 3
tháng tuổi, từ giai đọan này cá tăng trọng nhanh mức tiêu thụ thức ăn giảm, mỗi
năm có thể tăng trọng 1- 1,2 kg/con.
Đặc tính của cá Thát Lát Còm là sống thành quần đàn, khi cá lớn thì đặc
tính này vẫn còn nhưng cá tự phá bầy săn mồi riêng lẻ. Trong ao nuôi mật độ cao
có thể thấy được sự phân đàn rõ sau 2 tháng nuôi. Những con cá cạnh tranh thức
11
ăn kém sẽ không lớn được, cơ thể gầy yếu và chết. Cá hoạt động mạnh về ban
đêm do đó cần chú ý đặc điểm này trong quá trình nuôi để chăm sóc cá tốt hơn.
Điểm nổi bật của cá Thát Lát Còm là khi nuôi thương phẩm cá nuôi càng
lâu thì càng hiệu quả kinh tế, tiêu tốn thức ăn giảm (Nguyễn Chung, 2006).
Trước lúc cá đạt trạng thái thành thục sinh dục lần đầu cá chủ yếu tăng nhanh
về kích thước, sau khi đạt trạng thái thành thục sinh dục, tốc độ tăng trưởng về
chiều dài giảm nhường bước cho sự tăng trưởng về khối lượng (Phạm Phú
Hùng, 2007).
2.1.6. Đặc điểm sinh sản
Cá Thát Lát Còm một năm tuổi trưởng thành nặng 1 – 1,2 kg. Cá thành
thục sinh sản là khoảng 2kg. Cá trưởng thành nhìn bề ngoài khó phân biệt đực
cái.
Trong thiên nhiên mùa sinh sản cá Thát Lát Còm là suốt mùa mưa từ
tháng 5 – 11. Cá cái và cá đực tự bắt cặp giao phối, cá cái tiết ra trứng, cá đực
phun bắn tinh trùng để thụ tinh, trứng có kích thước 2 – 3mm. Trứng thụ tinh và
hút trương nước bám vào các hốc đá và các giá thể thủy sinh vật. Cá đực bảo vệ
trong suốt thời gian ấp trứng cho đến khi cá nở thành cá bột và lúc này cá đực
rất hung dữ và có thể tấn công những con cá khác xâm nhập đến khu vực cá
đang bảo vệ (Nguyễn Chung, 2006).
Theo Trần Hạnh Dung (2006) có thể sinh sản nhân tạo cá Thát Lát Còm
với các lọai kích thích tố là HCG và LRH – A. Với HCG với liều lượng 4000
UI/kg cho kết quả cao nhất (66,6 – 100%), HCG với liều lượng 3000 UI/kg cá
không tham gia sinh sản, với LRH – A ở liều lượng 100 microgram/kg + 5 mg/kg
DOM gây ra rụng trứng trên cá Thát Lát Còm nhưng cho tỷ lệ thụ tinh thấp
(33,3 %) ở liều lượng 150 microgram + 5 mg/kg cá không sinh sản.
Theo Nguyễn Chung (2006) mỗi con cá cái đẻ từ 2000 – 7000 trứng tùy
trọng lượng cá. Ở nhiệt độ 28 – 30 oC, thời gian ấp trứng là 7 ngày trứng sẽ nở.
Theo Dương Nhựt Long (2003) số lượng trong một lần đẻ khoảng 100 –
150 trứng và đẻ thành nhiều đợt, mỗi đợt khoảng 10 – 15 trứng. Tùy vào nhiệt
độ mà thời gian nở sẽ khác nhau ở 24 oC trứng sẽ nở 5 – 6 ngày.
2.1.7. Môi trường sống cá Thát Lát Còm
Môi trường nước nuôi cá Thát Lát Còm rất quan trọng vì tòan bộ đời
sống của cá và các thủy sinh động vật làm thức ăn cho cá đều gắn bó với chất
12
lượng nước. Môi trường nước càng ổn định cá Thát Lát Còm càng phát triển
tốt , có sức đề kháng tốt, ký sinh trùng mầm bệnh khó xâm nhập. Mọi biến động
gây sốc từ môi trường nước dễ làm cho cá mất sức và yếu đi, cá rất mẫm cảm
với các loại hóachất nông dựơc và ngay cả các hóa chất xử lý môi trường nước
nuôi cá (Nguyễn Chung, 2006).
Ở giai đọan cá giống, cá dưới 12 cm dễ bị sốc và thường chết hàng loạt,
các chỉ tiêu l ý hóa thích hợp cho cá Thát Lát Còm sinh sống và phát triển bao
gồm:
Nhiệt độ nước từ 25 – 30oC
Độ trong từ 10 – 20 cm
Độ mặn tối đa 6ppt
Màu nước xanh đọt chuối
Độ pH: 6,5 – 8,6
Oxy từ 3 – 5 mg/l
CO2 3 – 10 mg/l
NH4+; 1 mg/l
Hữu cơ: 10 – 20 mg O2/l
PO4: 0,5 mg/l
Cá Thát Lát Còm sống chủ yếu ở nước ngọt, có thể sinh trưởng và phát
triển ở độ mặn dưới 6ppt. Nếu nhiệt độ dưới 15 oC kéo dài cá sẽ không ăn, sức
đề kháng yếu dễ bị mầm bệnh và ký sinh trùng tấn công dễ gây tử vong
(Nguyễn Chung, 2006).
Theo Dương Nhựt Long (2003) trong điều kiện tự nhiên cá Thát Lát
Còm sống ở tầng giữa và tầng đáy. Ban ngày chúng thường ẩn nấp trong đám
thực vật thủy sinh. Ban đêm cá hoạt động nhiều hơn, cá bơi lội chậm, nhẹ
nhàng, vây hậu môn hoạt động liên tục như làn sống. Cá thích sống môi trường
có nhiều thực vật thủy sinh lớn, nước trung tính pH dao động 6,5 – 7, nhiệt độ
thích hợp cho cá là 26 – 28oC.
2.2 Kỹ thuật ương
2.2.1 Ương trong bể (Theo Nguyễn Thành Trung và ctv., 2000)
Điều kiện bể ương:
Bể ương có kích thước 1,5m x 2,5m x 0,5m, không bị rò rỉ thoát nước,
bể không có mái che.
13
Nguồn nước phải trong sạch, cấp đủ suốt thời gian ương. pH=7-7,5, oxy
hòa tan từ 3mg/lít trở lên.
Chuẩn bị bể ương
Trước khi cho nước vào bể ương, bể được dọn sạch và khử trùng bằng với
liều 0,01 kg/bể, sau đó bể được phơi nắng 1 ngày, rửa sạch và cho nước vào ngập
0,4 m.
Do tập tính sống ẩn nấp nên trong bể ương có thể đặt nhiều vật che tối
cho cá trú ẩn ban ngày (như gạch ống, gạch tàu…).
Mật độ ương: 200 con/m2.
Thức ăn:
Động vật tươi sống: gồm trùng chỉ và trứng nước (phiêu sinh động vật).
Thức ăn nhân tạo:
Lòng đỏ trứng gà luộc chín.
Cho ăn 3 ngày đầu với liều lượng 1 trứng/vạn cá/ngày. Mỗi ngày cho ăn
3 lần vào thời gian: 7 giờ sáng, trưa 12 giờ và buổi chiều 17 giờ, lượng thức ăn
bằng 2/3 của lượng thức ăn cả ngày.
Cám mịn + bột cá xay mịn:
Thức ăn trộn theo tỷ lệ 70% bột cá và 30% cám mịn. Khẩu phần cho ăn
là 100g thức ăn/vạn cá/ngày, sau đó tăng dần hoặc giảm theo sự bắt mồi của cá.
Mỗi ngày cho ăn 3 lần, lượng thức ăn buổi sáng là 1/5, trưa là 1/5 và chiều là
3/5 tổng lượng thức ăn cả ngày.
Quản lý và chăm sóc
Cách cho ăn:
Thức ăn là động vật tươi sống:
- 7 ngày đầu cho ăn trứng nước, mỗi lần cho ăn 100 g/vạn cá/ngày
- Từ ngày thứ 8 đến ngày 30 cho ăn trùn chỉ, thức ăn để trong đĩa đặt
trong đáy bể và chỉ cung cấp khi quan sát thấy thức ăn trong đĩa đã hết .
Thức ăn nhân tạo:
Lòng đỏ trứng luộc chín, bóp nhuyển hòa tan trong nước và rải đều trong
đáy bể.
14
Thức ăn chế biến được nấu chín và bóp nhuyễn hòa tan trong nước. Khi
cho ăn rãi đều trên mặt bể và khi cá được 8 ngày tuổi vò thành viên cho vào đĩa
đặt ở đáy bể .
Thay nước :
Trong quá trình ương, chỉ cấp nước thêm khi nước bị giảm do bốc hơi.
Khi bể bị nhiễm bẩn, phải rút bớt nước trong bể còn lại 1/3 sau đó thêm nước
mới vào tránh làm ảnh hưởng đến cá ương .
2.2.2 Ương cá trong ao
Điều kiện ao ương:
Nguồn nước:
Ao ương phải có nguồn nước sạch không bị ô nhiễm, điều kiện cấp
nước thuận lợi.
Nhiệt độ nước từ 26-300C, pH từ 7 - 8,5, oxy hòa tan 3mg/lít trở lên, độ
đục từ 20-30 cm.
Ao ương:
Ao hình chữ nhật, tỷ lệ chiều dài và chiều rộng là 3:1 hoặc 4:1, có điều
kiện diện tích từ 100-400 m2, độ sâu là 0,8-1,2m.
Đáy ao phải bằng phẳng, lớp bùn đáy nhỏ hơn 0,1m, có độ dốc nghiên về
cống thoát.
Bờ ao phải chắc chắn, không có hang hốc để tránh thất thoát cá và dễ
thu hoạch.
Chuẩn bị ao ương
Trước khi thả cá nuôi 1 tuần thì tiến hành cải tạo ao.
Ao được tát cạn, vét bùn đáy lấ han mọi, bón vôi diêt tạp với liều
lượng 7-10 kg vôi/100m2 ao, phơi nắng ao 2-3 ngày, dùng phân chuồng đã ủ
bón lót gây nguồn thức ăn tự nhiên phù du sinh vật liều lượng 20 30 kg/100m2.
Phân chuồng bón đều với bùn đáy ao, sau 2 ngày cho nước vào sâu từ 0,8 -
1m, nếu thiếu nguồn phân chuồng có thể bón thêm phân NPK bổ sung với liều
lượng 2-4 kg/100 m2.
Đặt giá thể để cá ẳn nấp bằng các chà. Chà được bó thành từng bó, đặt
quanh ao để thuận lợi khi cho ăn và khi chăm sóc thu hoạch.
15
Mật độ ương ao:150-200 con/m2 ao.
Thức ăn:
Thức ăn nhân tạo:
Lòng đỏ trứng gà luộc chín:
Cho ăn 3 ngày dầu với liều lượng 1 trứng/vạn cá/ngày. Mỗi ngày cho ăn
3 lần: vào buổi sáng 7 giờ, buổi trưa vào 12 giờ và buổi chiều vào 17 giờ.
Lượng thức ăn buổi chiều bằng 2/3 lượng thức ăn cả ngày.
Cám mịn + bột cá xay mịn:
Cho ăn theo tỷ lệ 70% bột cá và 30% cám mịn. Khẩu phần ăn 100g/vạn
cá/ngày sau đó tăng dần hoặc giảm theo sự bắt mồi của cá. Mỗi ngày cho ăn 3
lần, sáng 1/5, trưa 1/5và chiều 3/5.
Quản lý chăm sóc
Cách cho ăn:
Lòng đỏ trứng gà luộc chín, bóp nhuyễn, hòa tan trong nước và rải đều
quanh ao nơi đặt chà.Thức ăn chế biến được nấu chín và bóp nhuyễn hòa tan
trong nước. Khi cho ăn rải quanh ao và khi cá được 8 ngày tuổi vò thành viên
rải nơi đặt chà.
Kiểm tra hoạt động của cá và ao nuôi:
Cá thường có tập tính sống ẩn nấp thành từng nhóm nơi đặt chà. Sau khi
ương 4 tuần tuổi cá bắt đầu ngoi lên mặt nước thở khí trời.
Nếu quan sát thấy cá nổi trên mặt nước, vớt bỏ và tiến hành xử lý ao
nuôi. Màu nước ao phải được theo dõi thường xuyên (màu đọt chuối là màu
thích hợp cho ao nuôi), nếu ao ương bị nhiễm bẩn do tảo nở hoa phải tiến hành
thay 1/3 nước mới. Khi bơm nước mới tránh làm xáo trộn ao nuôi.
Sau khi ương 30 ngày cá đạt chiều dài 3-4 cm.
Tỷ lệ sống:
Tỷ lệ sống của cá tùy thuộc vào chất lượng cá bột và chất lượng thức ăn
cung cấp. Tỷ lệ này đạt cao nhất trong điều kiện cho cá ăn thức ăn là động vật
sống.
16
Bảng 2.1. Tỷ lệ sống của cá thát lát sau 30 ngày ương (theo Nguyễn Thành
Trung và ctv., 2000)
Số TT Thức ăn Tỷ lệ sống (%)
1 Bón phân gây màu nước 23,6 ± 1,47
2 Thức ăn chế biến 45,7 ± 5,49
3 Động vật sống 77,3 ± 5,67
Thu hoạch và vận chuyển cá giống :
Trước khi thu hoạch để tránh hao hụt và đảm bảo sức khỏe cho cá phải
thực hiện luyện cá trước khi đánh bắt 5-7 ngày và lúc sáng sớm hoặc chiều
mát.Việc đánh bắt cá cần thực hiện nhẹ nhàng.
Cá sau khi đánh bắt được giữ trong bể hoặc giai, sau đó được tấm trong
nước muối nồng độ 2-3 % thời gian 15-20 phút.
Vận chuyển cá có thể bằng xô có sục khí, hoặc túi nilon bơm oxy
(Nguyễn Thành Trung, Trần Ngọc Nguyên và ctv, 2005).
2.3 Một số kết quả ương cá Thát Lát
Theo Dương Nhựt Long (2003), mật độ ương tốt nhất là 150-200 cá
bột/m3. Trong quá trình ương sử dụng lòng đỏ trứng gà đã luộc chín kết hợp bột
cá mịn và sửa đậu nành để cung cấp cho cá ương với khẩu phần dao động là 10-
30%/trọng lượng thân/ngày.
Theo Nguyễn Thành Trung, Trần Ngọc Nguyên (2000), cá bột sau khi
nở 3-4 ngày, noãn hoàng bắt đầu teo nhỏ lại, có thể vận chuyển cá bột đem đi
ương, mật độ ương trên bể ximăng là 200 con/m2. Khi ương cá 3 ngày đầu
(ngày thứ 5 đến thứ 7 sau khi nở) cho ăn bằng lòng đỏ trứng hoặc thức ăn chế
biến bóp nhuyển, khi cá được 8 ngày tuổi cho ăn bằng thức ăn chế biến vò
thành viên (đối với lô bố trí thức ăn chế biến), và trùn chỉ (đối với lô cho ăn
thức ăn tươi sống), và bón phân (đối với lô thức ăn tự nhiên). Kết quả thí
nghiệm cho thấy: thức ăn tươi sống cho tỷ lệ sống cao nhất 92%, kế đến là lô
thức ăn chế biến, lô thức ăn tự nhiên cá có kích thước nhỏ nhất và tỷ sống thấp
nhất. Theo tác giả có thể do lượng thức ăn tự nhiên trong thí nghiệm không đủ
cho nhu cầu thức ăn của cá. Cá bột khi bắt đầu ăn thức ăn ngoài có thể ăn được
thức ăn tươi sống như: trứng nước, trùn chỉ, thức ăn tự nhiên (phiêu sinh vật),
17
thức ăn chế biến có hàm lượng Protein 30%, hay ăn cám mịn, bột cá, lòng đỏ
trứng.
Trong thời gian ương trên bể, ban ngày cá có tập tính chui rúc vào các
góc tối trong bể như các ống gạch, dưới đáy đĩa đựng thức ăn, ban đêm cá mới
bơi lội linh họat khắp bể.
Sau 30 ngày cá đạt chiều dài 3-4cm/con, tỷ lệ sống đạt từ 40-50% nếu sử
dụng thức ăn tự chế có hàm lượng đạm 30%, đạt từ 70-80% nếu sử dụng trùn
chỉ làm thức ăn cho cá.
Một số chỉ tiêu môi trường ương cá thát lát được theo dõi như sau: nhiệt
độ dao động từ 26,6-32,70C; Oxy: 4,1-10 mg/l; pH nước: 7,3-7,5.
Theo báo cáo các đợt chuyển giao công nghệ sản xuất giống cá thát lát
đến 12 tỉnh từ Đồng Bằng Sông Cửu Long đến Bình Định, tỷ lệ sống của cá
ương đến 30 ngày tuổi chưa ổn định, nhất là khi sử dụng thức ăn chế biến để
ương (Chi cục Bảo vệ và Phát triển Nguồn lợi Thủy sản Cần Thơ, 2001-2003).
Thực tế sản xuất giống ở trại cá Thạnh Hòa (Phụng Hiệp- Hậu Giang) do
Chi cục Bảo vệ và Phát triển Nguồn lợi Thủy sản Cần Thơ chịu trách nhiệm kỹ
thuật, sản xuất cá bột đã ổn định, nhưng ương cá giống còn gặp nhiều khó khăn
(Lê Ngọc Diện, 2004).
Theo Nguyễn Văn Dẫn (2000- 2003), cá thát lát nuôi tứ cá bột đến 12
tháng tuổi đạt trọng lượng từ 80-120gam/con, tương đương chiều dài cơ thể 20-
25cm.
Theo báo cáo của Chi cục Bảo vệ và Phát triển Nguồn lợi Thủy sản cần
Thơ (2004), cá thát lát sau khi nuôi 8 tháng từ cá bột, có thể đạt chiều dài 20-
22cm, trọng lượng 60-100gam/con.
Theo báo cáo tổng hợp về Hội thảo Quốc Gia mở đầu dự án “Nuôi trồng
Thủy sản các loài cá bản địa sông Mê Kông” tháng 10/2000, cá cườm
(Notopterus chitala) là loài cùng giống với cá thát lát đã sinh sản nhân tạo thàng
công từ năn 1999. Theo Lê Quang Nha (1999), cá bột cá cườm 5 ngày tuổi dù
còn nõan hòang nhưng cá đã bắt mồi bên ngoài, từ ngày thứ 10 cá ăn được trùn
chĩ. Theo Nguyễn Bá Cường và ctv, (2000), cá cườm sau khi nở 72 giờ có thể
chuyển đi ương, mật độ ương là 400con/m2, thức ăn là phiêu sinh vật từ ngày
thứ nhất, sau khi hết nõan hòang đến ngày thứ 7, từ ngày thứ 8 bắt đầu cho ăn
18
trùn chỉ đến ngày 30, sau 30 ngày ương cá đạt chiều dài bình quân từ 39-42cm,
tỷ lệ sống đạt từ 73-84%.
2.4. Vài nét sơ lược về Artemia
2.4.1 Artemia
Artemia là tên Latin của một loài giáp xác nhỏ chuyên sống ở vùng nước
mặn có biên độ muối rộng (từ vài ‰ đến 250‰ như ở ruộng muối). Trong tự
nhiên người ta thấy có sự xuất hiện của quần thể Artemia những đầm, hồ nước
mặn.
Artemia được biết đến vào những năm đầu thập niên 30 khi chúng được
xác định là một loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao cho việc ương nuôi các
giống loài thủy sản như tôm cá, nhuyễn thể.
Nauplii (0.5 mm)
Juveniles (3-5 mm)
Pre-Adults (6-8 mm)
Adults (9-12 mm)
Hình 2.2. Nhu cầu sử dụng Artemia trong ương tôm cá
Ở Việt Nam Artemia được du nhập từ đầu thập niên 80 dưới dạng bào xác
để làm thức ăn cho tôm càng xanh. Sau dó nguồn giống này được sử dụng làm
giống để muôi thử nghiệm trong phòng và thả nuôi trên ruộng muối Vĩnh Châu,
Bạc Liêu, Cam Ranh, Phan Thiết…và hiện nay nó trở thành một đối tượng nuôi
phổ biến kết hợp với nghề làm muối của diêm dân vùng ven biển Sóc Trăng, Bạc
Liêu.
2.4.2 Vai trò của Artemia trong nuôi trồng thủy sản
Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng Artemia là nguồn thức
ăn tươi sống lí tưởng cho các loài ấu trùng cá và giáp xác (Seal,1933; Gorros,
1937; Rollefsen, 1939; Sorgeloos, 1980a; Lim et al, 2001 được trích bởi
Nguyễn Văn Hòa, 2007). Theo Leger et al., 1986 chính nhờ vào khả năng tạo
nên trứng nghỉ (hay còn gọi là trứng bào xác) mà Artemia trở thành sản phẩm
thích hợp, là nguồn thức ăn rất tốt trong ương nuôi ấu trùng tôm cá. Trứng nghỉ
19
tồn tại quanh năm với khối lượng lớn ven bờ các vùng đầm, hồ nước mặn các
vùng ruộng muối ở năm châu lục (Persoone và Sorgeloos, 1980 được trích bởi
Nguyễn Văn Hòa, 2007). Sau khi thu họach và chế biến trứng nghỉ có thể được
sử dụng bất cứ lúc nào theo yêu cầu bằng cách ấp nở chúng trong nước biển,
sau 24 giờ, ấu trùng Artemia mới nở có thể dùng ngay làm thức ăn cho đa số ấu
trùng các loài tôm cá.
Ngoài ra Artemia tiền trưởng thành và trưởng thành (thành phần chính
tạo nên là sinh khối), có giá trị dinh dưỡng cao hơn Artemia mới nở từ trứng
(Sorgeloos, 1980; Naessens ctv., 1997; Wouters ctv., 1999 được trích dẫn bởi
Nguyễn Văn Hòa, 2007) và được sử dụng làm thức ăn phổ biến trong các trại
giống, trại ương hoặc nuôi vỗ tôm cá bố mẹ.
Artemia trưởng thành có giá trị dinh dưỡng rất cao (lớp vỏ giáp mỏng hơn
1µm), chiếm 60% lượng đạm và rất giàu amino acid tính trên trọng lượng khô.
Thêm vào đó, Artemia còn chứa một lượng đáng kể về vitamin, kích dục tố, sắc
tố, (Sorgeloos et al., 1987). Người ta khám phá rằng sử dụng sinh khối Artemia
trưởng thành có thể gây phát dục cho tôm bố mẹ mà không cần cắt mắt
(Sorgeloos, 1987; Tackaert và Sorgeloos, 1991 được trích bởi Nguyễn Văn Hòa,
2007).
Nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh việc sử dụng Artemia sinh khối
để nuôi vỗ tôm cá bố mẹ đã kích thích sự thành thục của buồng trứng, gia tăng
số lần đẻ và cải thiện chất lượng ấu trùng (Browdy el al., 1989; Naessens et al.,
1997; Wouter et al., 1999a theo trích dẫn của Wouter et al., 2001 được trích bởi
nguyễn Văn Hòa, 2007).
Sinh khối Artemia còn được sử dụng để làm thành phần hoặc chất kích
thích trong thức ăn chế biến cho ấu trùng tôm cá (Leger et al., 1986).
Tuy nhiên, khá phổ biến là vịêc sử dụng hòan tòan sinh khối đông lạnh
Artemia để thay thế cho ấu trùng Artemia mới nở trong sản xuất giống tôm he
Marsupenaeus japonicus (Guimares và De Hass, 1985 theo Leger et al., 1986
được trích bởi Nguyễn Văn Hòa, 2007), các tác giả này đã nêu lên rằng để sản
xuất một trịêu con tôm he giống chỉ cần khỏang 1,8 kg bột sinh khối Artemia.
20
Phần 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.Vât liệu nghiên cứu
Cá giống: cá Thát Lát Còm thí nghiệm là cá hương 21 ngày tuổi được
mua từ các trại giống ở Hậu Giang (do trường ĐHCT cung cấp). Con giống có
khối lượng ban đầu là 0,45±0,18g và chiều dài 4,16±0,41cm.
Hình 3.1.Cá hương Thát Lát còm.
Thức ăn: Artemia sinh khối tươi sống và đông lạnh được thu trực tiếp từ
các ao nuôi tại khu trại Thực nghiệm Vĩnh Châu, cá biển (cá tạp) được mua ở
chợ địa phương.
Hình 3.2. Artemia sinh khối tươi sống
21
Xô nhựa 60 lít (15 cái), máy đo pH, oxy, nhiệt độ, bộ test kid: NO2-,
NH4+, cân điện tử, thước đo, nguồn nước giếng. Hóa chất xử lý nước: EDTA,
chlorine, thuốc thử Chlor và một số trang thiết bị khác.
Hình 3.3 Một số thiết bị thí nghiệm
Hình 3.3 Một số thiết bị thí nghiệm
3.2.Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí gồm 15 xô nhựa (60 lít/xô) chứa 30 lít nước. Bố
trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 lọai thức ăn khác nhau, tương ứng với
5 nghiệm thức (NT) và 3 lần lập lại. Mật độ thả giống cá Thát Lát Còm là
1con/lít.
Các thí nghiệm được bố trí như sau:
Nghiệm thức I (NT I): Artemia sinh khối tươi sống.
Nghiệm thức II (NT II): Artemia đông lạnh.
Nghiệm thức III (NT III): 50% cá tạp + %0% Artemia sinh khối tươi sống.
Nghiệm thức IV (NT IV): 50% cá tạp + %0% Artemia sinh khối đông lạnh.
Nghiệm thức V (NT V): cá tạp (cá biển) là nghiệm thức đối chứng.
Hình 3.3. Một số thiết bị thí nghiệm
22
Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau:
11 12 13 14 15
NT II NT V NT V NT I NT III
6 7 8 9 10
NT IV NT I NT II NT II NT IV
1 2 3 4 5
NT IV NT III NT I NT III NT V
3.2.2.Chăm sóc và quản lý
Hàng ngày cho cá ăn với khẩu phần từ 10 – 30 % trọng lượng thân tùy
theo nhu cầu của cá.
Cho cá ăn mỗi ngày 2 lần: sáng 8h và chiều 17h.
Theo dõi và ghi nhận về hoạt động ăn, bơi lội, bắt mồi của cá, số cá chết.
Thức ăn thừa, phân cá được si phon hàng ngày.
3.2.3. Phương pháp thu và phân tích mẫu
Khi bố trí thí nghiệm cá được xác định trọng lượng bằng cách cân, đo
ngẫu nhiên 30 con ban đầu.
Hình 3.4 Đo chiều dài cá thí nghiệm
23
Định kỳ kiểm tra tốc độ tăng trưởng của cá bằng cách cân 10 con cá /xô.
Khi kết thúc thí nghiệm cá được cân, đo từng con để xác định mức độ
sinh trưởng của cá ở từng nghiệm thức.
Các yếu tố thủy lý hóa như: Nhiệt độ, pH được đo bằng máy đo nhiệt độ
và pH (2 lần/ngày lúc 7h và 14h), oxy hòa tan được đo bằng máy đo oxy (1
lần/ngày lúc 7h). NO2- và NH4+ được kiểm tra định kỳ 3 ngày/lần bằng bộ test
kid.
3.3 Các công thức tính toán và phương pháp xử lí số liệu
Các công thức tính tóan
Tỷ lệ sống
Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (Specific growth rate - SGR)
Trong đó:
Wf: khối lượng cuối
Wi: khối lượng đầu
T: thời gian nuôi
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (Daily weight gain - DWG)
Phương pháp xử lí số liệu
Số liệu được tính theo giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của 3 lần lặp
lại ở mỗi nghiệm thức với chương trình Microsoft Exel và xử lí thống kê
(ANOVA một nhân tố và phép thử Turkey (HSD) bằng chương trình Statistica
5.0)
Tỷ lệ sống =
Số cá thể cuối
Số cá thể đầu
x 100
SGR
(%/ngày)
=
LnWf - LnWi
T
x 100
DWG
(g/ngày) =
Wf - Wi
T
24
Phần 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1.Các yếu tố môi trường
Các yếu tố môi trường như: Nhiệt độ, pH, Oxy hòa tan, NO2-, NH4+ có
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của động vật thủy sản. Vì vậy việc theo dõi
các yếu tố này là hết sức cần thiết để đánh giá chính xác ảnh hưởng của thức ăn
lên sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá.
4.1.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ được ghi nhận trong quá trình thí nghiệm ương cá Thát Lát
Còm từ hương lên giống tại Trại thực nghiệm Vĩnh Châu – Sóc Trăng cho thấy
nhiệt độ trung bình ở các nghiệm thức biến động từ 27,6 – 28,5 oC (Bảng 1).
Dao động nhiệt độ trong ngày không vượt quá 1oC và nằm trong khoảng thích
hợp để cá sinh trưởng và phát triển (Dương Nhựt Long, 2003). Theo Boyd
(1998) cho rằng cá nhiệt đới tăng trọng tốt nhất ở nhiệt độ từ 25 – 32 oC. Trong
quá trình ương cá thấy không có sự khác biệt về nhiệt độ ở các nghiệm thức.
Bảng 4.1 Yếu tố thủy lý trong xô ương cá Thát Lát Còm
Nghiệm thức Nhiệt độ sáng (oC) Nhiệt độ chiều (oC)
NT I 27,6 ± 0,0 28,4 ± 0,0
NT II 27,7 ± 0,2 28,4 ± 0,0
NT III 27,6 ± 0,0 28,5 ± 0,1
NT IV 27,6 ± 0,0 28,4 ± 0,1
NT V 27,6 ± 0,0 28,3 ± 0,3
Ghi chú:Các giá trị được ghi trên bảng là giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.
4.1.2 pH
pH là một trong những nhân tố môi trường có ảnh hưởng rất lớn trực
tiếp và gián tiếp đến đời sống cùa thủy sinh vật như: sinh trưởng, tỷ lệ sống,
dinh dưỡng và sinh sản. Theo Boyd (1998) thì pH nước thích hợp cho sự phát
triển của cá trong khoảng từ 6,5 – 9. pH thấp hay quá cao cũng ảnh hưởng đến
sự sinh trưởng và sinh sản của cá.
25
Trong suốt quá trình ương, kết quả cho thấy sự biến động pH trung
bình ở các nghiệm thức tương đối ổn định và dao động từ 7.84 - 7.97 (Bảng
2), mức pH này do nguồn nước cấp cho bể quyết định và nằm trong khoảng
thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cá.
Bảng 4. 2 Các yếu tố thủy hóa trong xô ương cá Thát Lát Còm
Nghiệm
thức
pH
(Sáng)
pH
(Chiều)
Oxy (ppm)
(Sáng)
NH4+
(mg/l)
NO2-
(mg/l)
NT I 7,85 ± 0,01 7,98 ± 0,01 5,2 ± 0,0 0,5 - 5 0,5 - 5
NT II 7,84 ± 0,02 7,97 ± 0,02 5,2 ± 0,1 0,5 - 5 0,5 - 5
NT III 7,84 ± 0,00 7,97 ± 0,01 5,2 ± 0,0 0,5 - 5 0,5 - 5
NT IV 7,84 ± 0,00 7,97 ± 0,01 5,2 ± 0,0 0,5 - 5 0,5 - 5
NT V 7,84 ± 0,02 7,97 ± 0,02 5,2 ± 0,1 0,5 - 5 0,5 - 5
Ghi chú:Các giá trị pH, oxy được ghi trên bảng là giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.
4.1.3 Oxy hòa tan
Trong suốt thời gian thí nghiệm oxy được cấp chủ yếu là từ máy sục khí
oxy nên hàm lượng oxy trung bình ở các nghiệm thức khác biệt không có ý
nghĩa và nằm trong khoảng 5 ppm vào buổi sáng (Bảng 2). Theo Swingle (1969)
trích bởi Trương Quốc Phú (2006) thì hàm lượng oxy hòa tan lý tưởng cho tôm
cá là > 5ppm. Vì vậy oxy trong thí nghiệm này rất thích hợp cho sự sinh trưởng
và phát triển của cá Thát Lát Còm.
4.1.4 NH4+
NH4+ được tạo thành bởi sự hòa tan NH3 trong nước. NH3 có trong thủy
vực do quá trình phân hủy các protein, xác bã động vật phù du, sản phẩm bài
tiết của thủy sinh vật hay từ phân bón vô cơ, hữu cơ.
NH3 là khí độc đối với thủy sinh vật còn ion NH4+ không độc là nguồn
dinh dưỡng tốt mà thủy sinh vật dễ hấp thu nhất tạo nên các hợp chất hữu cơ
trong thủy vực.
Tỷ lệ khí NH3 và NH4+ trong nước phụ thuộc vào nhiệt độ và pH của
nước. Khi nhiệt độ và pH của nước gia tăng, hàm lượng NH3 trong nước sẽ gia
tăng và ngược lại.
NH3 + H2O ↔ NH4+ + OH-
26
NH4+ trong nước rất cần thiết cho sự phát triển của sinh vật làm thức
ăn tự nhiên nhưng nếu hàm lượng quá cao sẽ làm thực vật phù du phát triển
quá mức không có lợi cho cá. Theo Boyd (1990) thì hàm lượng NH4+ thích
hợp cho cá là 0.0 – 2 mg/l. Qua kết quả thí nghiệm cho thấy hàm lượng
NH4+ ở các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa và nằm trong khoảng
0.5 – 5 mg/l vượt khoảng thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cá.
4.1.5 NO2-
NO2- có trong thủy vực là sản phẩm của quá trình Nitrite hóa hay phản
Nitrate hóa. Là dạng đạm độc đối với thủy sinh vật, tác dụng độc của nó đối cá
là chúng kết hợp với Hemoglobine trong máu hình thành Methemoglobine (làm
cho máu cá có màu chocolate) ngăn cản việc oxy kết hợp với Hemoglobine
hình thành Oxyhemoglobine làm cá chết ngạt. Theo Trương Quốc Phú (2006)
thì hàm lượng NO2- thích hợp cho nuôi cá là < 1ppm. Qua kết quả thí nghiệm
cho thấy hàm lượng NO2- dao động từ 0.5 – 5 mg/l (Bảng 2). Đối với cá thí
nghiệm sự biến động NO2- như vậy là quá cao so với khoảng thích hợp.
Mặc dù NH4+ và NO2- trong bảng 2 là không thuận lợi cho cá nhưng theo dõi
thực tế cho thấy cá vẫn tăng trưởng bình thường và không có phản ứng sốc,
điều này có thể là do kết quả sai số từ Test-Kít và hơn nữa bể nuôi được thay
nước hàng ngày cho nên cá không phải chịu đựng lâu với môi trường bất lợi.
4.2 Tăng trưởng của cá
4.2.1 Tăng trưởng về trọng lượng (khối lượng)
Tăng trọng của cá theo thời gian nuôi được trình bày trong bảng 4.3.
Bảng 4.3 Tăng trọng của cá theo thời gian nuôi (g) (TB ± ĐLC)
NT 10 ngày 20 ngày 30 ngày 40 ngày
NT I 1,01 ± 0,01b 2,96 ± 0,16c 4,28 ± 0,58c 7,45 ± 0,61c
NT II 0,86 ± 0,04ab 2,57 ± 0,14cb 4,52 ± 0,36cd 7,77 ± 0,48c
NT III 0,82 ± 0,14ab 2,2 ± 0,38b 3,71 ± 0,41cbd 5,39 ± 0,16b
NT IV 0,81 ± 0,01ab 2,04 ± 0,02b 3,24 ± 0,25cb 5,6 ± 0,31b
NT V 0,65 ± 0,13a 1,23 ± 0,16a 1,7 ± 0,3a 2,04 ± 0,35a
Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có nghĩa thống kê ở mức
p<0,05.
Trọng lượng cá ban đầu thí nghiệm là như nhau (0,45 ± 0,18), ở 10 ngày
đầu sau khi bố trí thí nghiệm (lần thu mẫu thứ nhất) tốc độ tăng trưởng của cá
27
đã thể hiện sự khác biệt về tăng trưởng. Cá cho ăn Artemia tươi sống có tăng
trọng cao nhất (1,01 ± 0,01) khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức (p<0,05) với
nghiệm thức V (thức ăn cá tạp) tăng trọng thấp nhất (0,65 ± 0,13) nhưng không
khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại.
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
0 10 20 30 40Ngày
T
rọ
n
g
lư
ợ
n
g
(
g
)
TN I
NT II
NT V
NT III
NT IV
Hình 4.1 Tốc độ tăng trưởng của cá về trọng lượng.
Sự khác biệt về tăng trọng của cá với các loại các loại thức ăn trở nên rõ
rệt từ sau ngày ương thứ 20 trở đi do cá bắt đầu quen với thức ăn (Artemia tươi
sống, Artemia đông lạnh và cá tạp). Tăng trọng của cá có khuynh hướng tăng
dần nhưng tốc độ tăng trọng nhanh nhất ở nghiệm thức có sử dụng Artemia và
khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức (p<0,05) so với nghiệm thức V (thức ăn cá
tạp). Do Artemia là loại thức ăn tự nhiên giàu chất dinh dưỡng, hàm lượng
protein cao phù hợp với tập tính dinh dưỡng của cá, đặc biệt là giai đọan cá
giống nên khi cho cá ăn khả năng bắt mồi sẽ tốt hơn cá tạp. Giai đọan cá nhỏ
khả năng bắt mồi rất kém con nào bắt mồi nhiều hơn thì tốc độ tăng trọng sẽ lớn
hơn (Lê Thanh Hùng, 2008).
Sang ngày ương thứ 30 tăng trưởng của cá có những bước chuyển biến.
Sự khác biệt về tăng trọng của cá với các loại thức ăn đã thể hiện rõ hơn . Bốn
nghiệm thức có sử dụng Artemia cho cá ăn đều có trọng lượng tăng gấp đôi so
với nghiệm thức V (thức ăn cá tạp). Nghiệm thức II (Artemia đông lạnh) cho
tăng trọng nhanh nhất, thấp nhất vẫn là nghiệm thức cho ăn bằng cá tạp
(nghiệm thức V). Ở NTII sử dụng Artemia đông lạnh thì cho tăng trọng nhanh
28
nhất có lẽ vì đối với Artemia còn sống, cá mất năng lượng để rượt mồi hơn là
Artemia đông lạnh.
Sau 40 ngày ương cá đạt trọng lượng trung bình từ (2,04 – 7,77g). Khối
lượng của cá đạt cao nhất ở nghiệm thức cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn
Artemia tươi sống (7,45± 0,61) và Artemia đông lạnh (7,77± 0,48) khác biệt có
ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức sử dụng thức ăn cá tạp
(nghiệm thức V) và thức ăn kết hợp (50% Artemia + 50% Cá tạp). Cho cá ăn
hoàn toàn bằng Atemia thì tăng trưởng đạt cao nhất. Nguyên nhân là do Artemia
là loại thức ăn tự nhiên, thành phần dinh dưỡng rất cao. Theo Sorgeloos et
al.,(1996), hàm lượng protein trong sinh khối Artemia hầu như không biến động
lớn giữa sinh khối được nuôi thâm canh trong bể (49,7 – 62,5%) và sinh khối
nuôi ngoài tự nhiên (50,2 – 69,0%) nên rất phù hợp với tập tính dinh dưỡng của
cá ở giai đoạn ương giống.
Bảng 4.4. Tốc độ tăng trọng ngày (DWG), tốc độ tăng trưởng đặc biệt (SGR).
(TB ± ĐLC)
NT I II III IV V
DWG (g/ngày) 0,18 ± 0,01c 0,18 ± 0,01c 0,12 ± 0,00b 0,13 ± 0,01b 0,04 ± 0,01a
SGR (%/ngày) 7,05 ± 0,16c 7,12 ± 0,16c 6,21 ± 0,08b 6,3 ± 0,14b 3,76 ± 0,46 a
Các giá trị trên cùng một hàng có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý
nghĩa thống kê ở mức ( p< 0,05)
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DWG) của các nghiệm thức khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05), dao động từ (0,04g – 0,18g/ngày). Ở các nghiệm thức
sử dụng Artemia tươi sống và Artemia đông lạnh cho tốc độ tăng trọng cao nhất
(0,18 ± 0,01 g/ngày). Thấp nhất là nghiệm thức cho ăn bằng cá tạp (0,04 ±
0,01g/ngày). Tốc độ tăng trọng ở nghiệm thức kết hợp giữa Artemia và cá tạp
cao hơn tốc độ tăng trọng của cá cho ăn bằng cá tạp nhưng vẫn thấp hơn
nghiệm thức cho ăn độc lập Artemia. Đối với tốc độ tăng trưởng tương đối
(SGR) giữa 5 nghiệm thức thức ăn cho thấy có sự khác biệt với nhau. Tăng
trưởng tương đối nhanh nhất là nghiệm thức Artemia đông lạnh 7,12 ± 0,16
(%/ngày) bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng chậm nhất là nghiệm thức cá tạp 3,76
± 0,46 (%/ngày) (bảng 4.4)
Theo Phạm Thanh Hùng (2007), khi ương cá Thát Lát Còm bằng Moina,
Trùn chỉ và thức ăn công nghiệp (32% đạm) trong bể ximăng (4m2 x 1m) với
mật độ 1con/lít thì cho kết quả là: cá ăn thức ăn tươi sống (Moina, trùn chỉ) có
29
tốc độ tăng trưởng cao hơn (171,9±21,4 mg/ngày) khi cho cá ăn bằng thức ăn
công nghiệp (81,1±14,2 mg/ngày). Kết quả này khá tương đồng với NTI và II.
Một nghiên cứu khác của Trần Thị Thanh Hiền (2007), khi ương cá Thát
Lát còm 20 ngày tuổi trong bể nhựa có thể tích 20 lít/bể, nuớc chảy tràn, có sục
khí và đặt giá thể, cho ăn bằng các loại thức ăn khác nhau cá xay, thức ăn chế
biến, cá xay + thức ăn chế biến, trùn chỉ + thức ăn chế biến, trùn chỉ. Thì tốc độ
tăng trọng cao nhất là khi ương cá bằng trùn chỉ (37±1,7 mg/ngày), kế tiếp là
trùn chỉ + thức ăn chế biến (32±2,9 mg/ngày). Tốc độ tăng trưởng này khá thấp
so với kết quả sử dụng Artemia độc lập hoặc kết hợp trong nghiên cứu này. Thí
nghiệm của Trần Thị Thanh Hiền (2007) cũng chứng minh rằng ương cá thát
lát còm bằng thức ăn chế biến, cá xay + thức ăn chế biến không mang lại hiệu
quả cao.
4.2.2 Tăng trưởng về chiều dài
0
2
4
6
8
10
12
NT I NT II NT III NT IV NT V
Nghiệm thức
C
h
iề
u
d
ài
(
cm
)
Hình 4.2 Tốc độ tăng trưởng của cá về chiều dài.
Tương tự như tăng trưởng về khối lượng, tăng trưởng về chiều dài của cá
đạt từ 7,3 – 10,85 cm. Chiều dài của cá đạt cao nhất ở nghiệm thức II cho ăn
hoàn toàn bằng Artemia đông lạnh (10,85 ± 0,38 cm), thấp nhất ở nghiệm thức
(nghiệm thức đối chứng) cho ăn bằng cá tạp (7,3 ± 0,63 cm). Các nghiệm thức
cho ăn bằng Artemia độclập có tốc độ tăng trưởng về chiều dài cao hơn các
nghiệm thức kết hợp.
30
Bảng 4.5 Chiều dài đầu (Li), chiều dài cuối (Lf), tốc độ tăng trưởng về chiều
dài (DLG) (TB ± ĐLC)
Nghiệm
thức
Li (cm) Lf (cm) DLG (cm/ngày)
NT I 4,16 ± 0,41 10,65 ± 0,51b 0,16 ± 0,01b
NT II 4,16 ± 0,41 10,85 ± 0,38b 0,17 ± 0,01b
NT III 4,16 ± 0,41 9,96 ± 0,07b 0,12 ± 0,00b
NT IV 4,16 ± 0,41 9,86 ± 0,53b 0,13 ± 0,01b
NT V 4,16 ± 0,41 7,3 ± 0,63a 0,08 ± 0,02a
Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức ( p<
0,05).
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài/ngày (DLG) của cá rất khác
nhau tùy theo nghiệm thức thí nghiệm. DLG đạt từ 0,08-0,17cm/ngày.
Ở các nghiệm thức cho ăn bằng Artemia hoàn toàn, tăng trưởng về chiều
dài của cá đạt cao nhất nghiệm thức II (0,17± 0,01cm/ngày), kế đến là nghiệm
thức I (0,16± 0,01 cm/ngày). Ở các nghiệm thức cho ăn bằng thức ăn kết hợp
(50% Artemia + 50% Cá tạp) thì tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá là
0,13±0,01 cm/ngày, và thấp nhất là nghiệm thức cho ăn bằng cá tạp 0,08±0,02
cm/ngày. So sánh với kết quả về ương cá Thát Lát Còm (Trần Thị Thanh Hiền,
2007) thì tốc độ tăng trưởng về chiều dài ở thí nghiệm này tương đương.
Tương quan giữa chiều dài và trọng lượng
Phân tích mối tương quan giữa chiều dài và trọng lượng (Hình 4.2) cho
thấy phương trình tương quan đã chứng minh giữa trọng lượng và chiều dài có
mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, hệ số tương quan R2 = 0,9512 gần bằng 1 và
mối tương quan này tỷ lệ thuận với nhau dù nhanh hay chậm thì vẫn tăng. Nhìn
chung sự tăng trưởng về trọng lượng có sự khác biệt lớn giữa 5 nghiệm thức.
Còn chiều dài chỉ có nghiệm thức V (cá tạp) là khác biệt có ý nghĩa thống kê ở
mức (p<0,05) so với 4 nghiệm thức còn lại. Tuy nhiên, khả năng tăng trọng về
trọng lượng và chiều dài của thức ăn Artemia đông lạnh (NT II) là nhanh nhất
(7,77 ± 0,48 g) tương ứng với chiều dài (10,85 ± 0,38 cm) và thấp nhất là thức
ăn cá tạp (NT V) với trọng lượng (2,04 ± 0,35 g) và chiều dài (7,3 ± 0,63 cm).
31
Hình 4.3 Phương trình tương quan giữa chiều dài và trọng lượng
Hình 4.3. Phương trình tương quan giữa chiều dài và trọng lượng.
4.3 Tỷ lệ sống
0
20
40
60
80
100
NT I NT II NT III NT IV NT V
Nghiệm thức
T
ỷ
lệ
s
ố
n
g
(
%
)
Hình 4.4 Tỷ lệ sống của cá sau 40 ngày ương
Tương quan giữa chiều dài và trọng lượng
y = 5.8605x0.3029
R2 = 0.9512
0
2
4
6
8
10
12
0 2 4 6 8 10
Trọng lượng (g)
C
hi
ều
d
ài
(
cm
)
32
Sau 40 ngày ương cho thấy tỷ lệ sống dao động từ 57,78-73,33% (Hình
4.4, bảng 4.6). Cao nhất ở NT I (73,33%), thấp nhất ở NT V (57,78%). Tuy
nhiên sự khác biệt về tỷ lệ sống giữa các nghiệm thức không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05) do có sự biến động lớn giữa các lặp lại trọng cùng một nghiệm
thức. NT I có tỷ lệ sống cao nhất là do cá được cho ăn bằng Artemia tươi sống,
thức ăn này phù hợp với đặc điểm sinh học của cá. Từ những ngày đầu
chuyển đổi thức ăn từ trùn chỉ sang Artemia cá bắt mồi mạnh hơn so với các
nghiệm thức còn lại, NT V từ lúc chuyển mồi sang thức ăn cá tạp, cá hầu như
bắt mồi yếu, trở về sau cá bắt mồi mạnh hơn nhưng không mạnh bằng các
nghiệm thức khác.
Điều này phù hợp với nghiên cứu của Phạm Phú Hùng (2007), khi
ương Thát Lát Còm trong bể ximăng 4m2 x 1m (mật độ 1 con/lít) bằng thức ăn
tự nhiên (Moina, Trùn chỉ) thì cho tỷ lệ sống cao nhất (77-85%) so với các
loại thức ăn khác. Một nghiên cứu khác của Trần Thị Thanh Hiền (2007), khi
ương cá Thát Lát Còm 20 ngày tuổi trong bể nhựa 20 lít (mật độ 2,5con/lít)
bằng thức ăn tự nhiên (Moina, Trùn chỉ) cũng cho tỷ lệ sống cao nhất (93,2%).
Tuy nhiên với kết quả trong nghiên cứu này thì khi ương cá Thát Lát
còm với các khẩu phần thức ăn có sự hiện diện của Artemia (Artemia tươi
sống, Artemia đông lạnh, cá tạp, 50% Artemia tươi sống + 50% cá tạp, 50%
Artemia đông lạnh + 50% cá tạp) thì dường như không ảnh hưởng nhiều đến
tỷ lệ sống.
Bảng 4.6 Tỷ lệ sống (%) (TB ± ĐLC)
NT I II III IV V
TLS (%) 73,33±8,22a 67,78±3,85a 67,78±1,92a 66,77±5,09a 57,78±13,33a
Các giá trị trên cùng một hàng có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý
nghĩa thống kê ở mức ( p< 0,05)
4.4 Mức độ phân hóa kích cỡ
Kết quả cho thấy NT I và II cho cá ăn bằng Artemia tươi sống và đông
lạnh có sự phân hoá kích cỡ về trọng lượng (10-11 cỡ), chủ yếu tập trung vào
cỡ cá có trọng lượng từ 6 – 10 g và chiếm tỷ lệ cao nhất là cỡ cá 8 – 9 g chiếm
từ 20- 25 %. Bên cạnh cũng có cỡ cá 2 - 4 g và 12- 13 g nhưng chiếm tỷ lệ rất
thấp.
33
Hình 4.5 Mức độ phân hoá kích cỡ về trọng lượng của NT I
Hình 4.6 Mức độ phân hoá kích cỡ về trọng lượng của NT II
Ở NT III cá sử dụng thức ăn kết hợp (50% Artemia tươi sống + 50% cá
tạp) nên cá tăng trọng thấp hơn nghiệm thức I, II . Sự phân hoá về kích cỡ khá
lớn (13 cỡ) và có đầy đủ các kích cỡ nhưng tập trung chủ yếu vào cỡ cá có
trọng lượng từ 3 – 6,5 g . Cá có sự phân hoá kích cỡ lớn là do cá sử dụng thức
ăn không đồng đều.
Variable: NT I, Distribution: Normal
Chi-Square test = 5.76532, df = 4 (adjusted) , p = 0.21737
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
Category (upper limits)
0
5
10
15
20
25
30
R
el
at
iv
e
Fr
eq
ue
nc
y
(%
)
Variable: NT II, Distribution: Normal
Chi-Square test = 2.35606, df = 4 (adjusted) , p = 0.67058
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
Category (upper limits)
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
R
el
at
iv
e
Fr
eq
ue
nc
y
(%
)
34
Hình 4.7 Mức độ phân hoá kích cỡ về trọng lượng của NT III
Hình 4.8 Mức độ phân hoá kích cỡ về trọng lượng của NT IV
Ở NT IV cá sử dụng thức ăn kết hợp (50% Artemia đông lạnh + 50% cá
tạp) có sự phân hoá về kích cỡ rất lớn (17 cỡ) nhưng chủ yếu tập trung vào cá
có trọng lượng 3 – 9 g, cá có kích cỡ từ 3 – 3,5 g và 5 – 5,5 g chiếm tỷ lệ cao
nhất gần 12%. Cá có sự phân hoá kích cỡ lớn là do cá sử dụng thức ăn không
đồng đều dẫn đến tăng trọng cũng khác nhau.
Variable: NT III, Distribution: Normal
Chi-Square test = 2.52194, df = 5 (adjusted) , p = 0.77319
2.0 2.5 3.0 3.5 4.0 4.5 5.0 5.5 6.0 6.5 7.0 7.5 8.0 8.5 9.0 9.5 10.0
Category (upper limits)
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
R
el
at
iv
e
Fr
eq
ue
nc
y
(%
)
Variable: NT IV, Distribution: Normal
Chi-Square test = 6.71175, df = 6 (adjusted) , p = 0.34833
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
4.0
4.5
5.0
5.5
6.0
6.5
7.0
7.5
8.0
8.5
9.0
9.5
10.0
Category (upper limits)
0
2
4
6
8
10
12
14
R
el
at
iv
e
Fr
eq
ue
nc
y
(%
)
35
Hình 4.9 Mức độ phân hoá kích cỡ về trọng lượng của NT V
Ở nghiệm thức V cho cá ăn bằng cá tạp ít thể hiện tính phân hoá về kích
cỡ, mặc dù tăng trọng thấp nhất nhưng cá ở nghiệm thức này khá đồng đều và
tập trung ở cỡ cá có kích thước nhỏ.
Qua kết quả của 5 nghiệm thức cho thấy, ở các nghiệm thức sử dụng các
loại thức ăn khác nhau thể hiện tính phân hoá kích cỡ cũng khác nhau. Từ đó
cho thấy trong quá trình ương nuôi phải phân cỡ và cho ăn thỏa mãn để hạn chế
tối đa hiện tượng phân hoá kích cỡ (Qin Jian Guang et al., 1996 được trích bởi
Trần Thị Thanh Hiền, 2007).
Từ những kết quả trên cho thấy Artemia là loại thức ăn ưa thích của cá
thát lát còm. Khi ương cá bằng Artemia cho tăng trọng và tỷ lệ sống cao nhất.
Vì vậy, nếu kết hợp ương cá thát lát trong mùa sản xuất trứng bào xác và sinh
khối Artemia thì có thể tận dụng được nguồn sản phẩm dư thừa từ ao nuôi
(Artemia tươi sống và đông lạnh) để ương cá. Và nếu không phải là mùa sản
xuất trứng bào xác và Artemia sinh khối, khi ương cá thát lát nên sử dụng thức
ăn là 50% Artemia sinh khối đông lạnh + 50% cá tạp sẽ mang lại hiệu quả kinh
tế cao.
Variable: NT V, Distribution: Normal
Chi-Square test = 3.81772, df = 3 (adjusted) , p = 0.28183
0.0 0.5 1.0 1.5 2.0 2.5 3.0 3.5 4.0 4.5 5.0
Category (upper limits)
0
5
10
15
20
25
R
el
at
iv
e
Fr
eq
ue
nc
y
(%
)
36
Phần 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận
Artemia chứng tỏ là một loại thức ăn tốt cho cá thát lát còm.
Ương cá thát lát còm bằng Artemia đông lạnh (NTII) thì tốc độ tăng trọng
(DWG) đạt cao nhất (0,17g/ngày), kế tiếp là Artemia tươi sống (NTI) (0,16g/ngày)
và cho ăn cá tạp (NTV) có tốc độ tăng trọng thấp nhất (0,08g/ngày). Trong khi đó
sử dụng Artemia (tươi sống và đông lạnh) kết hợp với cá tạp cho tăng trọng
không khác biệt lớn (0,12 g/ngày và 0,13 g/ngày).
Ương cá Thát Lát còm bằng các loại sinh khối Artemia cho cá tăng trọng
và tỷ lệ sống cao nhất.
Tỷ lệ sống của cá thí nghiệm tương đối cao 57,78-73,33%, đồng thời
không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức. Vì vậy ương cá với các loại thức
ăn khác nhau không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá.
Cá tạp không phải là thức ăn ưa thích của cá Thát Lát còm (giai đoạn
hương lên giống).
5.2. Đề xuất
Nên tiến hành lại thí nghiệm với hệ thống nước chảy tràn để so sánh với
hệ thống thay nước hàng ngày.
Nếu có điều kiện tiến hành lại thí nghiệm ở vùng nước ngọt để so sánh các
chỉ tiêu môi trường ở vùng nuớc lợ (Vĩnh Châu – Sóc Trăng).
37
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Thủy sản, 2007. Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2007 và biện
pháp thực hiện kế hoạch nuôi trồng thủy sản năm 2008.
2. Chi cục BV&PTNL Thủy sản Cần Thơ (2001-2003) báo cáo các đợt chuyển
giao công nghệ sinh sản nhân tạo cá thát lát đến 12 tỉnh ĐBSCL và Bình
Định.
3. Dương Nhựt Long, 2004. Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Khoa thủy sản _
trường ĐHCT.
4. Leger, p., D.A. Bengston, K.I. Simposon and P. Sorgeloos (1986): The use
and nutritional value of Aartemia as food source. Oceanogr. Mar.Biol.
Ann.Rev. 24: 521-623.
5. Lê Ngọc Diện, 2004. Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ và hàm lượng
protein trong thức ăn viên lên tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá thát lát
(Notopterus notopterus) giai đọan ương giống và nuôi thương phẩm. Luận
vă thạc sĩ khoa học. 51 trang.
6. Lê Quang Nha, 1999. Tóm tắt kết quả nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá còm
Notopterus chitala tại Bến Tre. Báo cáo Hội thảo Quốc gia mở đầu dự án
“Nuôi trồng thủy sản các loài cà bản địa Sông MêKông, 2000). Viện nghiên
cứu nuôi trồng thủy sản II.TP Hồ Chí Minh. tr. 38-39.
7. Lê Thanh Hùng, 2008. Thức ăn và dinh dưỡng thủy sản. Nhà xuất bản nông
nghiệp. Thành Phố Hồ Chí Minh. 299 trang.
8. Nguyễn Bá Cường et al, 2000. Bước đầu nghiên cứu sản xuất gống cá còm
Notopterus chitala Hamilton.phòng Nông Nghiệp & PTNT Thốt Nốt, Phòng
Công Thương, Khoa học Huyện Thốt Nốt. 36 tr.
9. Nguyễn Chung, 2006. Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá Nàng Hai.Nhà
Xuất Bản Nông Nghiệp.
10. Nguyễn Thành Trung, Trần Ngọc Nguyên et.al, 2005. Quy trình kỹ thuật
sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá thát lát (Notopterus notopterus
Pallas, 1767). Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Hòa, 2007. Artemia_ Nghiên cứu và ứng dụng trong nuôi
trồng thủy sản. Nhà xuất bản nông nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh.
38
12. Phạm Phú Hùng, 2007. Nghiên cứu biện pháp sản xuất giống cá Thát Lát
Còm (Chitala chitala). Luận văn thạc sỹ Đại Học Cần Thơ.
13. Sorgeloos (editor), Dhont, J and Levens, P, 1996. Tank production and use
of ongrown Artemia. In: Manual on the Production and use of life food for
Aquaculture Lavens, P.and Sorgeloos; P., Fao Fisheries technical, 1996,
paper No.361, Rome, Italy.
14. Sorgeloos, P., Bengtson, D.A., Decleir, W., Jaspers. E. (Eds.).1887. Artemia
Reseach and its Applications. Ecology, culturing, Use in Aquaculture,
vol.3.Universa Press, Wetteren, Belgium, pp. 201-213.
15. Theo Nguyễn Văn Dẫn, 2000,2003.Báo cao kết quả nuôi cá thát lát thịt ở
huyện Thốt Nốt, cần Thơ.
16. Trần Hữu Lễ, Nguyễn Văn Hòa, và Dương Thị Mỹ Hận, 2008. Nghiên cứu
sử dụng sinh khối artemia sống để ương cá chẽm. Tạp chí khoa học, 2: 106 -
11.
17. Trần Ngọc Nguyên, Nguyễn Thành Trung và ctv, 2000. Nghiên cứu sinh sản
cá thát lát Notopterus notopterus Pallas. Báo cáo khoa học. Chi cục
BV&PTNL Thuỷ sản Cần Thơ. Sở Nông Nghiệp và PTNT, Sở Khoa học –
Công nghệ - Môi trường cần Thơ.
18. Trần Thị Thanh Hiền, 2007. Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng và khả năng
sử dụng thức ăn chế biến để ương cá Thát lát còm (Notopterus chitala) từ
bột lên giống. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
19. Trương Quốc Phú, 2006. Quản lý chất lượng nước. Khoa Thủy Sản. Đại
Học Cần Thơ.
20. Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993. Định lọai cá nước ngọt
vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Khoa Thủy Sản – Trường Đại Học Cần
Thơ.tr.34.
39
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv_lh_phuc_5717.pdf