Vai trò của đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, ta thấy nổi lên những quan điểm về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ trong thời gian rất gắn đã có rất nhiều vụ việc nói đến sự vi phạm đạo đức trong kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể: Việc sử dụng sữa có chất Melamine, nước mắn có chứa Sunfua . hay việc làm ô nhiễm môi trường của công ty Vedan, Miwon. Hơn thế nữa trong nền kinh tế còn xuất hiện những doanh nghiệp có những sản phẩm uy tín, chất lượng đã bị nhái mẫu mã và những biểu tượng của doanh nghiệp gây nhầm lẫn cho khách hàng khi mua hàng. Thời gian qua có thể nói là điểm nóng của mọi thông tin. Nhận thức được vai trò của đạo đức trong kinh doanh và đứng trước những bức xúc của mình khi được biết những vụ việc trên, em đã chọn đề tài: "Vai trò của đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế Việt Nam" là đề tài của bài tiểu luận môn Đạo đức kinh doanh lần này.

doc15 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5399 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, ta thấy nổi lên những quan điểm về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ trong thời gian rất gắn đã có rất nhiều vụ việc nói đến sự vi phạm đạo đức trong kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể: Việc sử dụng sữa có chất Melamine, nước mắn có chứa Sunfua... hay việc làm ô nhiễm môi trường của công ty Vedan, Miwon. Hơn thế nữa trong nền kinh tế còn xuất hiện những doanh nghiệp có những sản phẩm uy tín, chất lượng đã bị nhái mẫu mã và những biểu tượng của doanh nghiệp gây nhầm lẫn cho khách hàng khi mua hàng. Thời gian qua có thể nói là điểm nóng của mọi thông tin. Nhận thức được vai trò của đạo đức trong kinh doanh và đứng trước những bức xúc của mình khi được biết những vụ việc trên, em đã chọn đề tài: "Vai trò của đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế Việt Nam" là đề tài của bài tiểu luận môn Đạo đức kinh doanh lần này. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN I/ KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC 1. Khái niệm đạo đức: Đạo đức là đường đi, là lẽ sống của con người. Đạo đức là nhân đức, là các nguyên tắc luân lý Đạo đức được coi là các nguyên tắc luân lý căn bản và phổ biến mà mỗi người phải tuân theo, là một rào cản rất hiệu quả dưới sự cạnh tranh bất chính. Đạo đức là toàn bộ quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đõ con người tự giác điều chỉnh và đánh giá hành vi của mình trong quan hệ với bản thân, xã hội tự nhiên. 2. Các đặc điểm của đạo đức: a) Hình thái ý thức xã hội: Phản ánh hiện tại và hiện thực đời sống đạo đức của xã hội. Quá trình phát triển của phương thức sản xuất và chế độ kinh tế xã hội, là nguồn gốc của quan điểm đạo đức của con người trong lịch sử. b) Phương thức điều chỉnh hành vi: Sự tự điều chỉnh theo chuẩn mực đạo đức là các yêu cầu của xã hội cho hành vi của mỗi cá nhân mà nếu không tuân theo có thể sẽ bị xã hội lên án, lương tâm cắn rứt. c) Hệ thống giá trị đánh giá: Hệ thống giá trị xã hội làm chuẩn mực đánh giá các hành vi, sinh hoạt, phân biệt đúng, sai trong quan hệ con người là toà án lương tâm tự phân phán đánh giá bản thân. d) Tự nguyện, tự giác ứng xử: Đạo đức chỉ mang tính khuyên giải hay can ngăn, mang tính tự nguyện rất cao. Đạo đức không chỉ biểu hiện trong các quan hệ xã hội mà còn thể hiện bởi sự tự ứng xử, giúp con người tự rèn luyện nhân cách. 3. Định nghĩa kinh doanh: Kinh doanh là toàn bộ hay một phần quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. 4. Các hình thức kinh doanh: a) Sản xuất kinh doanh: Là hoạt động của các dạng chế tạo các sản phẩm cho xã hội, bán được trên thị trường và đạt được mức lời nhất định. b) Thương mại: Gốc ở chữ "mãi mại" mua ở chỗ nhiều, bán ở chỗ ít, mua ở chỗ rẻ, bán ở chỗ đắt. Thương mại không chỉ đơn thuần là hành vi mua bán hàng hoá, mà còn là các dịch vụ mua bán như: môi giới, đại lý... và xúc tiến thương mại. c) Dịch vụ: Là các hoạt động đáp ứng nhu cầu con người một cách hợp để hưởng thù lao. Ngày nay tỷ lệ dịch vụ đóng góp vào GDP của các quốc gia phát triển rất cao. d) Đầu tư: Phải góp vốn cụ thể để làm ăn chính đáng thì mới gọi là đầu tư. Có đầu tư trong nước và nước ngoài, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. II/VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC KINH DOANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 1. Điều tiết các quan hệ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường: Quan hệ đạo đức gắn liền "tiềm ẩn" trong các quan hệ xã hội. Các chuẩn mực đạo đức duy trì trật tự chung trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, điều hoà quan hệ lợi ích giữa con người với con người. Trong các xí nghiệp thuộc kinh tế nhà nước, vấn đề đặt ra là làm sao cho công nhân yêu mến xí nghiệp mình, làm để họ coi trọng lợi ích xí nghiệp và thành quả lao động của công nhân gắn bó chặt chẽ với vinh dự xã hội và lợi ích vật chất của họ. Ở đây không chỉ là tác động của kinh tế, chính trị mà còn là yếu tố đạo đức nữa. Đối với khu vực kinh tế tư bản tư nhân, quan hệ giữa chủ và người làm thuê cũng đặt ra nhiều vấn đề. Ngoài việc phải tuân thủ chính sách và pháp luật của nhà nước, giữa họ còn có quan hệ về mặt đạo nghĩa: tôn trọng nhân cách của người lao động, quan tâm cải thiện điều kiện lao động và đãi ngộ phúc lợi hợp lý... Trong quan hệ giữa nhà sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng, yêu cầu đạo đức phải thực hiện đúng các quy phạm đạo đức nghề nghiệp, hàng hoá phải hợp quy cách, phải đúng chất lượng, mẫu mã. Chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước người tiêu dùng về hàng hoá mình bán ra, bảo đảm "hàng thực, giá đúng". Nhà doanh nghiệp luôn có ý thức về đạo đức trong kinh doanh, ngoài lợi nhuận chính đáng còn phải suy nghĩ xem có nên sản xuất loại hàng này không? Hàng hoá này có nên bán ra thị trường không? Như vậy đạo đức có vai trò hết sức quan trọng và là yếu tố bên trong của chính nền kinh tế thị trường. 2. Nâng cao hiệu quả kinh tế: Vì sao lại nói đạo đức kinh doanh có vai trò trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế là vì khi các doanh nghiệp có ý thức về đạo đức thì họ sẽ sử dụng hợp lý, hữu hiệu các nguồn vốn và các nguồn tài nguyên hơn, điều này sẽ tiết kiệm được rất nhiều cho đất nước khi mà chúng ta đang ở trước tình trạng các nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt. Có ý thức đạo đức các nhà doanh nghiệp sẽ cho ra đời các sản phẩm tốt bảo đảm chất lượng và bảo đảm quyền lợi cho người tiêu dùng. Như vậy là họ đã làm cho khách tin tưởng, họ đã quảng bá sản phẩm của mình một cách tốt nhất. Nó sẽ làm cho doanh thu của họ cao hơn, vì vậy mà hiệu quả kinh tế sẽ được nâng cao hơn. 3. Các tiêu chuẩn của đạo đức đã cấu thành tiền đề nhân văn trong hoạt động của chủ thể kinh tế: Thực tiễn cho thấy, động lực của sự phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, ngoài những nhân tố kinh tế còn có cả nhân tố phi kinh tế, kể cả nhân tố tinh thần đạo đức: như tình thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức độc lập tự chủ, tự cường của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đó chính là những tình cảm và giá trị đạo đức cao đẹp của người Việt Nam. Dựa trên những giá trị đó, mọi tài năng sáng tạo, mọi nguồn lực to lớn của đất nước của nhân dân ta sẽ được tập hợp và phát huy để hướng vào mục tiêu đưa đất nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới. Đảng ta luôn khẳng định vai trò quyết định của nhân tốt con người, đó phải là những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về tinh thần, trong đó đạo đức mới là một động lực tinh thần to lớn thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước, hăng say lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát huy sáng kiến kỹ thuật, làm việc có chất lượng và hiệu quả cao của nhân dân lao động. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG *Giá trị đạo đức: Giá trị là cái gì làm cho một vật trở lên có ích lợi, có ý nghĩa là đáng quý về mặt nào đó. Có giá trị cá nhân và giá trị xã hội. Từ quan niệm trên, có thể hiểu giá trị đạo đức là những cái được coi người lựa chọn và đánh giá, là những cái có ý nghĩa tích cực với đời sống xã hội và phù hợp với dư luận xã hội. Đạo đức không sinh ra từ đạo đức mà là sản phẩm của những điều kiện lịch sử cụ thể. Các giá trị đạo đức là kết quả của mối quan hệ giữa người với người trong hoàn cảnh lịch sử nhất định. 1. Tổng quan về nền kinh tế trước năm 1986: Tiếp theo sự phục hồi kinh tế ngay lập tức sau khi chính thức thống nhất đất nước vào năm 1976, mức tăng trưởng kinh tế hàng năm trung bình chỉ đạt 0,4% trong 5 năm tính tới năm 1980. Với mức gia tăng dân số 2,3% mỗi năm, thu nhập bình quân đầu người cũng giảm xuống, giá cả tăng lên trung bình hơn 20% mỗi năm. Tình hình tăng trưởng kinh tế được cải thiện vào đầu những năm 80 nhưng nền kinh tế vĩ mô trở lên ngày càng mất cân đối, còn nạn lạm phát cũng phát triển nhanh hơn. Khi chính phủ tìm cách ổn định lại nền kinh vào những năm đầu cải cách thì mức tăng trưởng lại giảm xuống. Mức lạm phát trung bình vẫn còn cao nhưng đã giảm đi đáng kể cho tới cuối những năm 80. Thập kỷ 90 được đánh dấu bằng sự phát triển tăng tốc và mức ổn định của giá cả. Khi khái niệm đổi mới được giới thiệu trong Đại hội Đảng VI vào cuối năm 1986 đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Tỷ lệ lạm phát hàng năm trên 700%, xuất khẩu chưa bằng một nửa nhập khẩu thực sự không hề có bất kỳ sự đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) nào và chỉ có những hỗ trợ phát triển chính thức ở mức hạn chế. Khi diễn ra đại hội Đảng VII vào năm 1991, mức phát triển tăng trưởng kinh tế đã được đẩy nhanh, giá trị xuất khẩu tăng lên 4 lần, nhiều lạm phát đã được hãm xuống ở mức 67%. Thực hiện chủ trương mới, nước ta đã chuyển từ cơ chế kinh tế tập quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường và nó đã từng bước làm thay đổi các điều kiện kinh tế theo các hướng tích cực hơn. Trước sự thay đổi đó, nền kinh tế Việt Nam đã có sự rất nhiều sự thay đổi trong đó có cả mặt tích cực và tiêu cực: 2. Tích cực: Hiện nay nước ta đang thực hiện quá trình đổi mới toàn diện đất nước. Từ đổi mới kinh tế, đến đổi mới chính trị, đổi mới văn hoá xã hội, đổi mới quan hệ quốc tế. Do đó mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đang có sự chuyển đổi sâu sắc. Trong điều kiện mới, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đang có những chuyển biến phức tạp, có đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa thiện và ác, giữa lối sống lành mạnh, trung thực, thuỷ chung với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền. Với sự đổi mới và đấu tranh giữa cái được và cái không được nền kinh tế Việt Nam đã ngày một phát triển, các ngành nghề đã phát triển đa dạng và phong phú, các ngành dịch vụ cũng phát triển theo. Với sự phấn đấu đến năm 2020, nước ta sẽ trở thành một nước CNH-HĐH thì hiện tại bây giờ các máy móc, các kỹ thuật khoa học đã được ứng dụng vào sản xuất đã giảm bớt được rất nhiều sức lực cho người lao động. Còn thực tế đối với các nhà doanh nghiệp thì họ đã có sự cạnh tranh trong kinh doanh rất lành mạnh, có các doanh nghiệp đã hợp tác bắt tay với nhau để cùng làm chung kinh doanh. Hơn nữa có ý thức đạo đức trong kinh doanh các doanh nghiệp đã đảm bảo được chất lượng các sản phẩm họ làm ra, và bảo đảm quyền lợi cho người tiêu dùng. Đặc biệt với chính sách mở cửa của nhà nước, các công ty TNHH và các loại hình công ty khác đã được thành lập ngày càng nhiều hơn, nó đã tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các doanh nghiệp này không những tạo ra công ăn việc làm cho người lao động mà họ còn bảo vệ quyền lợi như: đóng bảo hiểm cho người lao động, và có các quy định cụ thể trong công việc với những chính sách: khi ốm thì người lao động có thể được nghỉ số ngày theo quy định và được trợ cấp, còn riêng đối với lao động nữ thì có chế độ nghỉ thai sản. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp không chỉ biết kinh doanh, biết thu lợi nhuận mà còn họ còn biết làm từ thiện, họ đã ủng hộ tiền vào quỹ cho người nghèo hay ủng hộ cho các tỉnh có bão lũ. Và có doanh nghiệp còn hỗ trợ cho các học sinh nghèo để cho các em có thể đi học. Như vậy các doanh nghiệp không những cung cấp các sản phẩm cần thiết cho đời sống mà họ còn giúp đỡ vun đắp cho các thế hệ tương lai của Việt Nam. Đây chính là biểu hiện của đạo đức trong doanh nhân. Trên thực tế nền kinh tế Việt Nam còn có sự liên kết liên doanh với các công ty nước ngoài, họ đã nhận được sự góp vốn hay đầu tư điều này đã rất phổ biến trong nền kinh tế, nó đã tác động tích cực đến các doanh nhân Việt Nam, qua sự liên kết đó họ đã học hỏi được kinh nghiệm, cách thức kinh doanh của các doanh nhân nước ngoài. Điều này đã làm phong phú và sáng tạo các cách thức và ngành nghề kinh doanh cho nền kinh tế Việt Nam. 3. Tiêu cực: Với một doanh nghiệp không thể chỉ quan tâm đến phát triển sản xuất, doanh thu, lợi nhuận mà họ còn phải quan tâm đến trách nhiệm xã hội. Nhưng hầu như các doanh nghiệp đã quên đi trách nhiệm này của mình. Hầu hết các doanh nghiệp đều công nhận đạo đức trong kinh doanh là một vấn đề quan trọng nhưng nhiều nhà doanh nghiệp lại tỏ ra lúng túng không biết phải làm thế nào để đưa vấn đề này vào trong các hoạt động của mình. Thực tế cho thấy, nhiều hành vi phí đạo đức của các nhân viên là do ảnh hưởng xấu từ cấp lãnh đạo. Nếu lãnh đạo đồng tình tiếp tay cho các hành vi như khai man thuế, làm gian, làm ẩu qua mặt đối tác... thì không thể đòi hỏi sự trung thực của nhân viên "thượng bất chính hạ tắc loạn". Tại sao những người lao động lại không làm ngược lại cho dù trong nhiều trường hợp phải chịu thua thiệt, nhưng họ có biết sự gương mẫu trong việc thực hiện những giá trị này của lao động sẽ tạo niềm tin và động lực cho mọi người cùng nhau làm ăn chân chính. Nước ta chuyển từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường và nó đã từng bước làm thay đổi các điều kiện kinh tế theo các hướng: Từ nông nghiệp hiện vật sang kinh tế hàng hoá, trao đổi lao động cho nhau qua thước đo giá trị là tiền. Chuyển từ kinh tế khép kín sang kinh tế mở, gắn với nhân công lao động trong nước và quốc tế, chuyển từ nền kinh trên phạm vi hộ gia đình, làng xóm ít cạnh tranh sang kinh tế hàng hoá cạnh tranh quyết liệt trong phạm trong nước và thế giới. Tuy nhiên những chiều hướng chuyển đổi trên cũng có sự tác động tiêu cực đến giá trị đạo đức truyền thống, đặc biệt lối sống và rất đáng kể, chuyển sang cơ chế kinh tế mới, sự phân hoá xã hội là không tránh khỏi, cạnh tranh tạo ra sáng kiến và nâng cao năng xuất lao động đồng thời cũng làm cho sự rủi ro ngày càng cao, sự phân hoá thu nhập có chiều hướng ra tăng. Do tác động lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền "có cầu sẽ có cung" trong xã hội xuất hiện những tệ nạn xã hội mới, ảnh hưởng đến chuẩn mực giá trị đạo đức truyền thống. Đó là những khách quan đã tác động trực tiếp vào những giá trị truyền thống nhất là tính cộng đồng, tình làng nghĩa xóm. Nước ra mở cửa giao lưu với thế giới đã có rất nhiều thuận lợi nhưng bên cạnh đó có rất nhiều khó khăn nó đã tác động đến nền tảng đạo đức dân tộc. Những tư tưởng tư sản chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa tự do mới và chủ nghĩa đa nguyên chính trị và các thứ văn hoá phẩm đồ trụy cũng đã xâm nhập vào nước ta. Điều này đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế của nước ta đặc biệt là trong ngành kinh doanh. Còn bây giờ trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện rất nhiều tiêu cực của các doanh nghiệp họ đã bỏ qua ý thức đạo đức chạy theo lợi nhuận và làm tất cả để đạt được mức lợi nhuận cao nhất. Các nhà doanh nghiệp bất chấp các thủ đoạn để đạt được mục đích, họ đã vi phạm đạo đức kinh doanh. Và họ đã che đậy những hành vi trên một cách khéo léo. Tuy nhiên dù họ có che đậy, có bọc kín đến đâu thì nhà nước cũng tìm ra và xử lý theo pháp luật. Người Việt Nam đã có câu "cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra". Gần đây Nhà nước đã phát hiện ra rất nhiều vụ việc vi phạm pháp luật: Như công ty Vedan, Miwon đã xả nước thải công nghiệp ra ngoài mà không qua quá trình xử lý gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người dân xung quanh. Họ đã cố tình làm hành vi trên vì lợi nhuận, họ đã thu được một số tiền khổng lồ từ việc xả nước thải ra ngoài không qua quá trình xử lý. Đó là một việc làm sai trái và họ đã vi phạm pháp luật cũng như họ đã vi phạm vào đạo đức kinh doanh. Hoặc như người ta mới phát hiện thấy trong sữa cho trẻ em có chứa chất hóa học Melamine và sự việc này đã làm cho khách hàng tiêu dùng sữa mất lòng tin vào các loại sữa mà họ đã dùng, họ không biết tin vào ai nữa. "Chúng tôi tin ai đây? Tôi không biết nữa? Một công ty lớn như vậy còn có vấn đề, thì tôi thực sự không biết ai còn đáng tin". Một phụ nữ họ Dương 31 tuổi đang chờ ở phía ngoài văn phòng của hãng Tam Lộc cho biết. Một phụ huynh khác cho biết: "Tôi lập tức đem con đi kiểm tra sức khoẻ" Như vậy đấy vì một lợi nhuận trước mắt, Công ty sữa của Trung Quốc đã đánh mất lòng tin của khách hàng và cũng đồng nghĩa là họ sẽ phải chịu thiệt hại về kinh tế và không biết đến bao giờ họ sẽ lấy lại được lòng tin của khách hàng. Tất cả các sự việc trên cho thấy, trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp đã quá chú trọng đến những lợi nhuận trước mắt mà bỏ lỡ cơ hội lâu dài. Hơn thế nữa nó còn cho thấy sự vi phạm đạo đức kinh doanh ngày càng nhiều. => Như vậy nền kinh tế Việt Nam cũng đã có sự phát triển đáng kể, trong đó vai trò của đạo đức kinh doanh đã góp phần làm nên sự phát triển kinh doanh lành mạnh, chân chính hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những doanh nhân chưa thấm nhuần ý thức đạo đức trong kinh doanh mà vẫn đặt mục đích lợi nhuân lên hàng đầu. Tình trạng này cần được sửa đổi và nhà nước lên có những biện pháp cứng rắn đối với những doanh nghiệp này. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 1. Giải pháp về chính trị: Muốn cho doanh nhân Việt Nam chứng tỏ được tài năng, đạo đức của họ cần phải xây dựng một chế độ dân chủ thực sự, một nhà nước pháp quyền XHCN. Nhà nước cần phải là người đại diện quyền lợi của toàn xã hội, là người điều chỉnh chính đáng của mọi cá nhân, mọi thành phần kinh tế. Từ đó Nhà nước phải ban hành những văn bản pháp luật có những chính sách công bằng, hợp lý để giúp cho doanh nhân được tự do "cạnh tranh lành mạnh", "phát triển bình đẳng", "phục vụ trung thực". Pháp luật cần chặt chẽ, chính xác không để cho các doanh nhân lợi dụng kẽ hở của pháp luật. Do vậy cần phải chống tiêu cực trong bộ máy quyền lực, loại bỏ những phần tử thoái hoá, biến chất ra khỏi bộ máy Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến các địa phương, các ngành, các cấp. Doanh nhân Việt Nam cần phải tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay, việc làm này rất khó nhưng có ý nghĩa to lớn. 2. Giải pháp về kinh tế: Phải xác định rõ thể chế kinh tế và chế độ sở hữu của nước ta trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trong đó lợi ích doanh nhân đến đâu? Lợi ích xã hội đến đâu? Vấn đề sở hữu như một động lực thúc đẩy hoạt động doanh nhân. Từ vấn đề này dẫn đến quan hệ đạo đức và giá trị, chuẩn mực đạo đức trong xã hội, đây là những vấn đề còn liên quan đến đạo đức của doanh nhân. Theo Forbes thì: "Việc không có một nhà tỷ phú nào cho thấy quốc gia đó còn nhiều hạn chế trong việc khuyến khích làm giàu. Tại đó còn tồn tại nhiều chính sách chưa hợp lý, hệ thống tài chính - thuế khóa chưa minh bạch, cơ chế với sự phát triển của doanh nhân còn bó buộc". Đặc biệt những doanh nhân hoạt động trong thành phần kinh tế nhà nước (DNNN) vai trò, trách nhiệm quyền lợi và nghĩa vụ của họ cần được xác định rõ nếu không sẽ có tình trạng làm tốt chưa chắc đã được đánh giá cao, làm dở chưa chắc đã bị đánh giá thấp, thậm chí còn được tôn vinh bằng danh hiệu cao quý. 3. Với doanh nghiệp nói chung: Với những quy tắc đạo đức kinh doanh đã được đặt ra thì doanh nghiệp không nên sao chép, dập khuôn các quy tắc đạo đức chung chung hoặc thuê công ty tư vấn viết thay, mà nên tổ chức cho tất cả các nhân viên cùng đóng góp xây dựng các quy tắc, tự đề ra trách nhiệm và hướng giải quyết khi xảy ra các vấn đề liên quan đến đạo đức. Các quy tắc cần được cập nhật, điều chỉnh định kỳ cho phù hợp với tình hình thực tế và nguyện vọng của nhân viên. Khi được đóng góp ý kiến thì các nhân viên sẽ coi bộ quy tắc này là của chính mình lên sẽ tự giác thực hiện nó. Khi đó đạo đức trong kinh doanh không phải là những nội quy cứng nhắc trên giấy mà sẽ trở thành một nét văn hoá sống động trong công ty. KẾT LUẬN Qua những gì nghiên cứu và tìm hiểu cụ thể về đạo đức trong nền kinh tế hiện nay đã rút ra nhiều bài học cho bản thân. Từ đây cũng mong các cấp lãnh đạo của mỗi Công ty, doanh nghiệp hãy ngồi họp bàn lại với nhau để có một phương thức kinh doanh vừa mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mình mà không làm giảm đi lòng tin của người tiêu dùng về sản phẩm của Công ty. Hãy lấy lại lòng tin và tạo mối liên hệ chặt chẽ cho người tiêu dùng. Cũng mong người tiêu dùng sẽ là người tiêu dùng thông thái để có thể lựa chọn những sản phẩm tốt nhất với nhu cầu của mình. Như vậy, đạo đức kinh doanh rất quan trọng đối với ngành kinh doanh nhất là đối với các doanh nhân, họ có ý thức đạo đức trong kinh doanh thì sự phát triển của nền kinh tế sẽ lành mạnh hơn, tiến bộ hơn. Điều này muốn nhắc nhở các doanh nhân trước khi kinh doanh phải hiểu rõ và thấm nhuần về đạo đức trong kinh doanh. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN Ngày...... tháng........ năm 200...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế Việt Nam.doc
Luận văn liên quan