Các nguồn huy động vốn Đầu tư
1.Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước là nguồn vốn hình thành từ phần tích lũy nội bộ của nền kinh tế. Bao gồm tiết kiệm của khu vực tư dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình sản xuất của xã hội. Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước, nguồn vốn của khu vực tư nhân, và thị trường vốn .
1.1. Nguồn vốn nhà nước :
Nguồn vốn nhà nước là nguồn vốn thuộc sở hữu của khu vực nhà nước, cụ thể là các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các khoản tín dụng đầu tư phát triển và vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước.
1.1.1Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước:
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước được hình thành từ nhiều nguồn thu khác nhau như thuế, phí tài nguyên, bán hay cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước . Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư.
Nguồn vốn này giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nó thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của nhà nước. Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp).
Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước sẽ chi cho các khoảntrợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp, thất nghiệp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội,trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu,các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số,chính sách việc làm,chống mù chữ,hỗ trợ đồng bào lũ lụt. Đối với các hoạt động quốc phòng và an ninh quốc gia thì ngân sách nhà nước là nguồn cung chủ yếu không thể thiếu.
1.1.2Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.Tín dụng nhà nước về thực chất có thể coi như một khoản chi của ngân sách nhà nước, vì cho vay theo lãi suất ưu đãi, tức lãi suất cho vay thường thấp hơn lãi suất trên thị trường tín dụng, nên Nhà nước phải dành ra một phần ngân sách trợ cấp bù lãi suất.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước về chi ngân sách nhà nước trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người sử dụng vốn. Vì cơ chế của tín dụng là đi vay có hoàn trả kèm lãi suất, nên dưới áp lực này buộc các đối tượng vay vốn phải tăng cường hạch toán kinh tế, giám sát chặt chẽ việc sử dụng các khoản vay để bảo đảm khả năng thanh toán nợ.
Ngoài ra, nguồn vốn này còn có 1 vai trò đáng kể trong việc phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tê vĩ mô: không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Khả năng điều tiết nền kinh tế của Nhà nước sẽ ngày càng được cải thiện khi các khoản vay được hoàn trả thay vì việc cấp phát không hoàn lại như trước đây, cho nên đầu tư của Nhà nước vào các ngành then chốt, các vùng trọng điểm, các vùng khó khăn .tăng lên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của toàn bộ nền kinh tế
1.1.3.Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước:
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo Bộ kế hoạch đầu tư, nguồn vốn của Doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm khoảng 14 – 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Vai trò chủ yếu của nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, chống lạm phát .
1.2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân:
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Chúng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Kinh tế dân doanh lại là khu vực phát triển rất nhanh và năng động, tạo ra công ăn việc làm cho nền kinh tế.Với việc xây dựng lại các ngành nghề thủ công truyền thống sẽ giải quyết thất nghiệp tại các vùng nông thôn, huy động nhiều nguồn lực xã hội tập trung đầu tư sản xuất, kinh doanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với các doanh nghiệp dân doanh, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này có đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Ở một mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong những nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
19 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5577 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm 7:v-vai trò và mối quan hệ
giữa nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài
II/ Các nguồn huy động vốn Đầu tư
Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước là nguồn vốn hình thành từ phần tích lũy nội bộ của nền kinh tế. Bao gồm tiết kiệm của khu vực tư dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình sản xuất của xã hội. Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước, nguồn vốn của khu vực tư nhân, và thị trường vốn .
1.1. Nguồn vốn nhà nước :
Nguồn vốn nhà nước là nguồn vốn thuộc sở hữu của khu vực nhà nước, cụ thể là các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các khoản tín dụng đầu tư phát triển và vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước:
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước được hình thành từ nhiều nguồn thu khác nhau như thuế, phí tài nguyên, bán hay cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước... Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư.
Nguồn vốn này giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nó thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của nhà nước. Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp).
Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước sẽ chi cho các khoản trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp, thất nghiệp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu,các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào lũ lụt. Đối với các hoạt động quốc phòng và an ninh quốc gia thì ngân sách nhà nước là nguồn cung chủ yếu không thể thiếu.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Tín dụng nhà nước về thực chất có thể coi như một khoản chi của ngân sách nhà nước, vì cho vay theo lãi suất ưu đãi, tức lãi suất cho vay thường thấp hơn lãi suất trên thị trường tín dụng, nên Nhà nước phải dành ra một phần ngân sách trợ cấp bù lãi suất.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước về chi ngân sách nhà nước trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người sử dụng vốn. Vì cơ chế của tín dụng là đi vay có hoàn trả kèm lãi suất, nên dưới áp lực này buộc các đối tượng vay vốn phải tăng cường hạch toán kinh tế, giám sát chặt chẽ việc sử dụng các khoản vay để bảo đảm khả năng thanh toán nợ.
Ngoài ra, nguồn vốn này còn có 1 vai trò đáng kể trong việc phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tê vĩ mô: không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Khả năng điều tiết nền kinh tế của Nhà nước sẽ ngày càng được cải thiện khi các khoản vay được hoàn trả thay vì việc cấp phát không hoàn lại như trước đây, cho nên đầu tư của Nhà nước vào các ngành then chốt, các vùng trọng điểm, các vùng khó khăn...tăng lên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của toàn bộ nền kinh tế
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước:
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo Bộ kế hoạch đầu tư, nguồn vốn của Doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm khoảng 14 – 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Vai trò chủ yếu của nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, chống lạm phát...
1.2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân:
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Chúng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Kinh tế dân doanh lại là khu vực phát triển rất nhanh và năng động, tạo ra công ăn việc làm cho nền kinh tế.Với việc xây dựng lại các ngành nghề thủ công truyền thống sẽ giải quyết thất nghiệp tại các vùng nông thôn, huy động nhiều nguồn lực xã hội tập trung đầu tư sản xuất, kinh doanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với các doanh nghiệp dân doanh, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này có đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Ở một mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong những nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
2.1 Khái niệm và bản chất
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Nguồn vốn nước ngoài cũng được xem xét như là các dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Thực chất các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.
2.2 Phân loại nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Theo tính chất của dòng vốn lưu chuyển, có thể chia nguồn vốn ĐTNN thành các loại sau: Tài trợ phát triển chính thức ODF, nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, thị trường vốn Quốc tế.
2.2.1 Tài trợ phát triển chính thức ODF (Official Development Finance)
Nguồn vốn này bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA (Official Development Assistance) và các hình thức tài trợ khác; trong đó ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu.
Khái niệm ODA:
Theo uỷ ban viện trợ và phát triển: ODA là nguồn vốn hỗ trợ chính thức từ nước ngoài bao gồm các khoản viện trợ cho vay với các điều kiện hết sức ưu đãi. Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức được dành cho các nước đang và kém phát triển được các cơ quan chính thức và các cơ quan thừa hành của chính phủ, các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ tài trợ.
Theo nghị định 87/CP: Viện trợ phát triển chính thức là cho vay ưu đãi hoặc không hoàn lại từ nước ngoài với phần không hoàn lại chiếm ít nhất 25% của vốn vay.
Đặc điểm của ODA:
Tính ưu đãi chiếm trên 25% giá trị vốn vay, yếu tố này được xác định dựa vào nhiều yếu tố như tỉ suất chiết khấu, thời gian ân hạn, lãi suất…Công thức tính GE, tỉ lệ yếu tố không hoàn lại như sau:
GE = 100% [1 – ][1 - ]
Trong đó: r - tỷ lệ lãi suất hàng năm
a - số lần trả nợ trong năm
d - tỷ suất chiết khấu
G - thời gian ân hạn
M - thời hạn cho vay
Nguồn viện trợ phát triển chính thức do chính phủ của một nước cấp hoặc do các tổ chức quốc tế cấp cho các cơ quan chính thức của chính phủ nước nhận viện trợ, ODA đòi hỏi phải có nguồn vốn đối ứng từ bên nhận viện trợ để họ có trách nhiệm trong việc sử dụng vốn. Đặc biệt ODA không cấp cho những dự án mang tính thương mại mà chỉ nhằm mục đích nhân đạo, thể hiện sự quan tâm, tinh thần tương thân tương ái giữa các nước, tăng cường mối quan hệ ngoại giao giữa các nước, giữa các nước với các tổ chức quốc tế.
Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
Khái niệm:
Đây là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay từ các ngân hàng thương mại quốc tế với một mức lãi suất nhất định. Sau một thời gian, các nước này phải hoàn trả cả vốn và lãi, các ngân hàng thương mại quốc tế sẽ thu được lợi nhuận từ lãi suất của khoản vay.
Đặc điểm:
Chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận thông qua lãi suất ngân hàng cố định theo khế ước vay, độc lập với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp vay, có quyền sử dụng những tài sản đã thế chấp hoặc yêu cầu cơ quan bảo lãnh thanh toán khoản vay trong trường hợp bên vay không có khả năng thanh toán. Các ngân hàng cung cấp vốn tuy không tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, nhưng trước khi nguồn vốn được giải ngân thì họ đều nghiên cứu tính khả thi của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh thế chấp các khoản vay để giảm rủi ro.
Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại, các nước tiếp nhận vốn không phải chịu bất cứ một ràng buộc nào về chính trị, xã hội, có toàn quyền sử dụng. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt. Và do đây là nguồn vốn cho vay với lãi suất thương mại nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả nguồn vốn này thì có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Đây là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
2.2.3 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Khái niệm:
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngoài góp một lượng vốn đủ lớn để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhờ đó cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ rủi ro và thu lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó.
Đặc điểm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Do vậy, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
FDI có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả.
Nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế
Khái niệm:
Là nguồn vốn huy động từ thị trường chứng khoán trên thế giới, bằng việc bán trái phiếu, cổ phiếu của chính phủ, các công ty trong nước ra nước ngoài.
Đặc điểm:
Có thể huy động vốn với số lượng lớn, trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng quan hệ cho vay để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan hệ khác.
Tạo điều kiện cho cho nước tiếp nhận vốn tiếp cận với thị trường vốn quốc tế . Với việc trực tiếp tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tốt để thúc đẩy TTCK trong nước phát triển trong tương lai. Đối với hình thức huy động này, người đi vay có thể tăng thêm tính hẫp dẫn bằng cách đưa ra một số yếu tố kích thích.
Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán, trao đổi trên thị trường thứ cấp, chính vì vậy hình thức này tương đối hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
III/ Vai trò & mối quan hệ của nguồn vốn đầu tư trong nước & nguồn vốn đầu tư nước ngoài đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Trước hết chúng ta cần khẳng định: đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một quốc gia, nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có mối quan hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định và nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng không thể thiếu.
1. Vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã từng khẳng định: “Sự phát triển của bất cứ sự vật nào đểu bắt nguồn từ sự chuyển biến, giải quyết các mối quan hệ diễn ra ngay trong bản thân sự vật đó. Điều này giữ vai trò quyết định tới tồn tại và phát triển của sự vật”. Cũng giống như vậy, để nền kinh tế một quốc gia có thể tăng trưởng và phát triển một cách bền vững thì điều đầu tiên cần chú trọng đó chính là vấn đề phát huy các yếu tố nội lực. Điều đó có nghĩa là vai trò quyết định cho quá trình tăng trưởng và phát triển đất nước phải đặt lên các nhân tố từ trong nước. Và nguồn vốn trong nước đã thể hiện được rõ những ưu điểm trong vai trò quyết định của mình. Với tính chất là nội lực của một quốc gia, chúng ta có thể chủ động trong việc đầu tư nguồn vốn trong nước vào những lĩnh vực cần thiết để phát triển nền kinh tế mà không phải chịu bất kì một sự ràng buộc lệ thuộc nào. Hơn nữa, nguồn vốn trong nước được huy động từ các thành phần kinh tế trong nước nên nó mang tính ổn định và đảm bảo hơn nguồn vốn từ nước ngoài. Không chỉ có vậy, vai trò quyết định của nguồn vốn trong nước còn được thể hiện đặc biệt rõ ràng hơn trong các ý sau.
1.1 Nguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế.
Thông qua việc sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước để đầu tư vào nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nguồn vốn đầu tư trong nước đã đóng góp 1 phần lớn vào GDP toàn xã hội. Cụ thể như việc sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đã tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực khác phát triển. Các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi nguồn vốn huy động lớn và khả năng thu hồi vốn chậm, do đó ít doanh nghiệp nào có đủ tiềm lực kinh tế để thực hiện. Vì thế nguồn vốn trong nước sẽ được đầu tư vào xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản như hệ thống điện lưới quốc gia, đường xá, giao thông liên lạc... từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và xây dựng hoạt động nhà xưởng, mở rộng hoạt động kinh doanh, qua đó phát triển kinh tế vùng, miền tạo ra nguồn GDP không nhỏ đóng góp vào tổng GDP của toàn xã hội. Còn nguồn vốn tín dụng nhà nước với ưu điểm lãi suất thấp đã bổ sung cho các doanh nghiệp một nguồn vốn rẻ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tranh thủ được các cơ hội tạo thêm lợi nhuận, vốn để mở rộng qui mô cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ đó làm tăng doanh thu đồng thời góp phần làm tăng GDP cho toàn xã hội.
1.2 Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đổi cơ cấu kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều.
Các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đa phần lựa chọn cho mình các ngành, lĩnh vực có vốn đầu tư không quá lớn, thu hồi vốn nhanh chóng để đầu tư thu lợi nhuận. Mặt khác, nền kinh tế lại có những ngành vai trò không thể thiếu nhưng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn như điện, xi măng, dầu khí; hoặc những ngành lợi nhuận thu về nhỏ, khả năng thu hồi vốn chậm ví dụ như các công trình công cộng, các hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết những thất bại của thị trường. Chỉ có thông qua nguồn vốn trong nước cụ thể là nguồn vốn nhà nước mới có thể đầu tư vào các vấn đề này. Vì vậy, nguồn vốn trong nước đặc biệt nguồn vốn nhà nước lúc này sẽ đóng vai trò chủ đạo giúp cân bằng thị trường hàng hóa trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều.
Không chí có vậy, vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng và phát triển nền kinh tế còn được thể hiện trong việc định hướng cho quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế. Bằng việc nguồn vốn đầu tư trong nước tập trung vào những ngành quan trọng như công nghiệp, dịch vụ, cơ cấu kinh tế của quốc gia sẽ từng bước biến chuyển theo định hướng đã đề ra của nhà nước: tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ; giảm tỉ trọng nông nghiệp. Theo đó, nguồn vốn nước ngoài có được định hướng đầu tư, tiếp tục trợ giúp nguồn vốn trong nước đẩy nhanh thời kì quá độ đưa nền kinh tế quốc gia tiếp tục phát triển lên một trình độ cao hơn.
1.3 Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò đảm bảo sự phát triển toàn diện, không lệch lạc giữa các vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền kinh tế tăng trưởng, phát triển mộtc cách bền vững
Trong một quốc gia việc phát triển không đồng đều giữa các vùng miền là khó tránh khỏi. Vì vậy cần có các nguồn vốn đầu tư hợp lí để giảm bớt sự không đồng đều này, làm cho nền kinh tế trở nên phát triển toàn diện hơn. Đối với những khu vực vùng sâu, vùng xa nơi mà nền sản xuất còn chưa phát triển, hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc còn lạc hậu thì việc đón nhận nguồn vốn từ nước ngoài đầu tư vào đây là rất ít có hi vọng. Lí do là nguồn vốn từ nước ngoài thường chọn những vùng, thành phố trọng điểm nơi mà có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, gần nguồn nguyên liệu và có thị trường tiêu thụ lớn. Lúc này nguồn vốn đầu tư trong nước sẽ đảm nhận vai trò đầu tư vào các vùng còn khó khăn, kinh tế chưa phát triển, giúp các vùng miền đó tận dụng và phát huy được thế mạnh, nội lực của mình. Qua đó sẽ giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong vùng, nâng cao mức sống cũng như trình độ dân trí và từ đó sẽ làm giảm khoảng cách chênh lệch giữa các vùng. Điều này cho thấy nguồn vốn trong nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển và tăng trưởng toàn diện của nền kinh tế.
1.4 Nguồn vốn trong nước góp phần kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đầu tư quá mức là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng đó là nói về đầu tư có hiệu quả. Còn nếu đầu tư không có hiệu quả, thì chẳng những tăng trưởng kinh tế phải tốn nhiều vốn đầu tư hơn, mà còn gây ra lạm phát, xét trên nhiều mặt lạm phát do "chi phí đẩy" và lạm phát do "cầu kéo". Bản thân vốn đầu tư sẽ làm cho lạm phát "cầu kéo"; còn đầu tư kém hiệu quả sẽ làm cho lạm phát do "chi phí đẩy". Lạm phát do quan hệ cung - cầu, quan hệ tiền - hàng mất cân đối thường có bề nổi, dễ nhận thấy, nhưng lạm phát do đầu tư không có hiệu quả thì thường là lạm phát ngầm, lúc đầu rất khó nhận thấy, nhưng khi nó bộc phát thì rất cao, rất khó trị và việc trị nó thường phải kèm theo cái giá phải trả không nhỏ, thậm chí còn có thể rơi vào cuộc khủng hoảng. Do đó việc kiểm soát cả về mặt lượng và mặt chất của việc sử dụn nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp được nêu ra để chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Một trong số những vai trò không thể không kể đến của nguồn vốn trong nước đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế đó là : nguồn vốn đầu tư trong nước đặc biệt là nguồn vốn dồi dào của khu vực dân cư và tư nhân là tác động lớn nhất thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh chóng và đồng bộ. Từ đó giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.5 Nguồn vốn trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một trình độ nhất định tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như tăng tính hiệu quả, nhanh chóng của việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, tạo nền tảng vững chãi cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Nền tảng cơ sở kiến trúc hạ tầng của quốc gia cũng có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thu hút nguồn vốn, triển khai thực hiện trong các giai đoạn của quá trình sử dụng vốn đầu tư. Mục tiêu của phát triển kinh tế là phải xây dựng được các cơ sở kiến trúc hạ tầng kinh tế ở một trình độ nhất định: điện, nước, đường xá giao thông đi lại, các công trình văn phòng hiện đại, các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung… để đảm bảo sao cho có thể khai thác tốt nhất các nguồn nguyên nhiên liệu, nguồn lao động, công nghệ… cần thiết.
Bên cạnh các khu vực kinh tế nổi bật, trọng điểm dễ thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài luôn còn có các khu vực có tiềm năng nhưng còn đôi chút hạn chế về địa hình, công nghệ, lực lượng lao động… thì lúc này vai trò của nguồn vốn trong nước để khắc phục các hạn chế này là rất quan trọng. Nguồn vốn trong nước sẽ đóng vai trò mở đường, đầu tư vào việc san lấp và giải phóng mặt bằng, xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản, đầu tư đổi mới trang thiết bị trong các nhà xưởng và mở các lớp đào tạo tay nghề cho đội ngũ công nhân. Nhờ có nguồn vốn trong nước mà các vấn đề về địa điểm, công nghệ, trình độ tay nghề của đội ngũ lao động được giải quyết, tạo nên một môi trường đầu tư thuận lợi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa việc đó cũng tạo cho quốc gia một lợi thế so sánh về môi trường đầu tư với các nước trong khu vực, tạo ấn tượng trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ có nguồn vốn trong nước mà các vùng có điều kiện chưa thật sự thuận lợi đã có khả năng thu hút và đón nhận vốn đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội phát triển kinh tế của vùng.
1.6 Sự lớn mạnh, ổn định nguồn lực vốn trong nước giúp hạn chế những mặt tiêu cực của nguồn lực nước ngoài tới nền kinh tế, đồng thởi tạo dựng một khung xương vững chắc cho nền kinh tế, chống lại những cơn sóng gió từ thị trường kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
Trong tình hình hội nhập với nền kinh tế trên thế giới như hiện nay thì việc bị ảnh hưởng do các biến động kinh tế từ bên ngoài là điều không thể tránh khỏi. Khi những biến động đó xảy ra thì nền kinh tế quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng ít nhiều, gặp những khó khăn như giá cả tăng cao kéo theo lạm phát, sản xuất bị đình trệ, xảy ra tình trạng thất nghiệp... Lúc đó thì ta càng không thể trông chờ vào các nguồn lực từ phía bên ngoài. Do đó, vai trò của nguồn vốn trong nước trong lúc này mang tính quyết định đối với sự tăng trưởng phát triển của một quốc gia. Sự ổn định và lớn mạnh nguồn vốn trong nước sẽ tạo thành một khung xương vững chắc giúp chúng ta thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và các biện pháp cần thiết để tránh và khắc phục các ảnh hưởng do các cú sốc bên ngoài gây ra cho nền kinh tế như điều chỉnh cung cầu, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội…
Không chỉ có vậy, các nguồn vốn và nguồn lực trong nước, quan trọng là các nguồn chi từ ngân sách nhà nước, các khoản tín dụng, các khoản đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế: tài chính, dầu khí, viễn thông... Mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài song các chính sách của chính phủ vẫn quy định rõ ràng những ngành nghề mà nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận. Đó là sự cẩn trọng để kiểm soát việc tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm hạn chế những mặt trái mà nguồn vốn này có thể đem theo: thâu tóm về chính trị, sự phụ thuộc về kinh tế (trở thành sân sau của các cường quốc...). Có như vậy nền kinh tế mới có thể phát triển ổn định, bền vững.
Tuy nguồn vốn trong nước có một vai trò quyết định không thể thay thế như vậy, nhưng nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế mà không xem xét đến nguồn vai trò của nguồn vốn nước ngoài thì sẽ là một sự thiếu sót lớn. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước ta mới phát triển được hơn 30 năm, khả năng tích lũy của nền kinh tế còn thấp trong khi nhu cầu phát triển lại vô cùng cấp bách, đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn thì nguồn vốn đầu tư trong nước sẽ là không đủ. Do đó, nguồn vốn trong nước luôn rơi vào tình trạng thiếu và bị hạn chế về cả qui mô và số lượng. Lúc này, sự bổ sung của nguồn vốn nước ngoài đối với nhu cầu về vốn là rất quan trọng và kịp thời. Bên cạnh đó việc sử dụng vốn đầu tư trong nước còn chưa hiệu quả, chưa tương xứng với tổng số vốn đã chi, gây tổn thất cho nền kinh tế. Nhưng nếu được sự bổ sung kết hợp của nguồn vốn đầu tư nước ngoài cùng với sự chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lí thì tổn thất đó sẽ phần nào được giảm bớt. Như vậy trong mối quan hệ giữa hai nguồn vốn, nguồn vốn nước ngoài có vai trò tác động ngược trở lại nguồn vốn trong nước, là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong việc hỗ trợ, khắc phục những nhược điểm của nguồn vốn trong nước trong tác động đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia.
2. Vai trò quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Trong mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài tác động đến tăng trưởng và phát triển nền kinh tế của một quốc gia, có thể khẳng định nguồn vốn nước ngoài đóng một vai trò rất quan trọng. Sở dĩ nguồn vốn đầu tư nước ngoài có được vai trò này là do nội bản thân nó chứa đựng nhiều ưu điểm nổi bật, đặc biệt là có thể huy động được một lượng vốn lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài giúp bổ sung cho lượng vốn thiếu hụt mà vốn trong nước không đáp ứng đủ trong việc phát triển nền kinh tế, mở ra và phát triển các lĩnh vực mới trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước giao lưu và hội nhập với bên ngoài, từ đó nâng cao vị thế của quốc gia trên chính trường quốc tế. Dòng đầu tư nước ngoài chảy vào còn mang theo khoa học công nghệ, kĩ thuật, mức thu nhập cao cho đất nước tiếp nhận vốn, giúp cho nước đó nâng cao được trình độ sản xuất, tạo công ăn việc làm và đào tạo một lượng lớn lao động có kĩ thuật cao. Đây là điều mà bất kỳ quốc gia nào cũng cần, nhất là các quốc gia đang phát triển. Hơn nữa tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn được thể hiện rõ trong các vấn đề sau:
2.1 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, tăng tỷ trọng của những ngành quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành nền kinh tế. Nền kinh tế một quốc gia muốn phát triển thì phải có được một cơ cấu kinh tế hoàn thiện, hợp lí. Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả một quốc gia để hướng tới sự hoàn thiện và hợp lí đó không phải là một vấn đề đơn giản; nó cần có sự tham gia của rất nhiều yếu tố trong đó yếu tố nguồn vốn đầu tư đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài là yếu tố mang tính chất quyết định.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài làm thay đổi: thứ nhất là cơ cấu ngành của nước nhận đầu tư, từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ, sau cùng là sản xuất dịch vụ; thứ hai là thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất, từ năng suất thấp công nghệ lạc hậu, lao động nhiều sang năng suất cao, công nghệ hiện đại, lao động ít nhưng chất lượng trình độ cao; thứ ba là thay đổi cơ cấu bên trong một lĩnh vực sản xuất, từ sản xuất lĩnh vực có hàm lượng công nghệ thấp sang lĩnh vực sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao. Từ đó năng lực sản xuất trong nền kinh tế được nâng cao, thể hiện rõ ràng nhất trong sản xuất công nghiệp, những ngành quan trọng cần thiết để phát triển kinh tế vì thế cũng được chú trọng đầu tư hiệu quả chất lượng hơn.
2.2 Nguồn vốn nước ngoài giúp nước nhận đầu tư có một sự quan tâm toàn diện hơn tới các mục tiêu xã hội tạo nền tảng vững chắc để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển lâu dài.
Quá trình mở cửa hội nhập kinh tế làm cho số lượng doanh nghiệp tăng lên đáng kể, cùng với đó là nhu cầu về việc làm tăng lên. Bằng cách tuyển dụng lao động địa phương vào các doanh nghiệp trong khu vực vốn đầu tư nước ngoài, công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động nhàn rỗi trong xã hội đã được giải quyết. Nhìn từ một khía cạnh khác, các nguồn vốn nước ngoài khi vào nước nhận đầu tư có kèm theo một số lượng lớn các nhà đầu tư nước ngoài. Họ có thể tới nước nhận đầu tư với nhiều mục đích khác nhau như thăm dò thị trường đầu tư, giám sát quá trình đầu tư, du lịch… Điều này tạo ra nhu cầu tiêu dùng lớn về các ngành như dịch vụ, du lịch, nhà ở, giải trí... tạo ra thị trường cho nhiều doanh nghiệp cũng như các hộ gia đình khai thác; tiếp tục giải quyết thêm một lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động trên quy mô toàn xã hội. Tỉ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế được cải thiện, các vấn đề về tệ nạn xã hội, nghèo đói vì thế giảm đáng kể.
Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn là công cụ quan trọng hỗ trợ các nước đang và chậm phát triển thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo. Công cụ chủ yếu để thực hiện mục tiêu này là nguồn viện trợ ODA. Đối với các nước nghèo, ODA là một cơ hội để nâng cao chất lượng cuộc sống của những người nghèo. Nhờ có nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nước sở tại nhận được nhiều sự hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp để có một sự quan tâm đầu tư toàn diện sâu sắc hơn đến các mục tiêu xã hội, tạo một nền tảng để nền kinh tế có thể tăng trưởng và phát triển bền vững, lâu dài.
2.3 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ khoa học công nghệ của nước nhận đầu tư để từ đó, tạo đà tăng trưởng phát triển kinh tế.
Khoa học công nghệ luôn được coi là yếu tố then chốt tác động đến tăng trưởng kinh tế. Đây là yếu tố quyết định để các nước có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện được cuộc sống. Trong đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển khoa học công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ, phổ biến công nghệ và phát minh công nghệ. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài luôn mang theo công nghệ sản xuất cao vào nước tiếp nhận đầu tư, khi đó, nước sở tại sẽ có cơ hội được tiếp cận và học hỏi các công nghệ cao này. Từ đó, năng lực sản xuất và năng suất lao động được cải thiện. Các sản phẩm sản suất trong nước sẽ nâng cao được tính cạnh trạnh trên thị trường thế giới cũng như là so với sản phẩm ngoại nhập. Nền tảng công nghệ vững chắc, tiên tiến sẽ là một bệ phóng cho nền kinh tế của quốc gia tăng trưởng & phát triển đến một trình độ cao hơn.
2.4 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, nâng cao tiềm lực giúp nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Không những chuyển giao công nghệ mà các dòng vốn ngoài nước còn tác động gián tiếp tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thông qua chất lượng của thị trường lao động. Cụ thể, các dự án có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn muốn tận dụng nguồn lao động đông giá rẻ ở nước nhận đầu tư, khi đó các doanh nghiệp FDI sẽ phải bỏ ra chi phí, công sức và thời gian ko nhỏ để đào tạo 1 nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi, có năng lực quản lí để sử dụng trong doanh nghiệp của họ... Vậy là, điều đầu tiên nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã tác động đến sự phát triển của quốc gia mà chúng ta đã đề cập đến trong phần 2.1 đó là việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế, bước đầu góp phần xây dựng một nền kinh tế khỏe mạnh, chất lượng. Đi kèm với đó, trong sự vận hành của nền kinh tế luôn tồn tại dòng chuyển dịch lao động từ khu vực này sang khu vực khác. Một số lượng không nhỏ lao động trình độ cao từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển dịch sang khu vực có vốn đầu tư trong nước. Nguồn lao động trong khu vực đầu tư trong nước vì thế cũng được nâng cấp, cải thiện. Nguồn vốn đầu tư nói chung cũng vì thế có thể nâng cao hiệu quả chất lượng sử dụng, từ đó nâng cao tiềm lực giúp nền kinh tế tăng trưởng và phát triển
2.5 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tác động làm hoàn thiện, tăng khả năng cạnh tranh, tăng tính hiệu quả của thị trường tài chính của nước nhận đầu tư.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là một nguồn lực dồi dào thúc đầy thị trường tài chính nước nhận đầu tư phát triển đặc biệt thể hiện rõ ràng nhất ở thị trường chứng khoán. Vốn đầu tư nước ngoài vào cổ phiếu trong nước sẽ giúp giảm chi phí vốn và đa dạng hóa rủi ro. Sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài vô hình chung tạo một áp lực cải thiện thể chế và chính sách lên nước nhận đầu tư. Không chỉ có vậy, đi kèm với nguồn vốn đầu tư nước ngoài là các công ty đánh giá mức độ tín nhiệm sẽ có tác động tích cực, góp phần cải thiện chất lượng thông tin trên thị trường và nhờ đó tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán. Cơ chế cáo bạch sẽ tăng lên và giúp nước sở tại phát triển các dịch vụ về kế toán, kiểm toán, các dịch vụ môi giới và kinh doanh chứng khoán. Vậy là, cùng với nguồn vốn đầu tư nước ngoài thị trường tài chính trong nước sẽ từng bước được cải thiện, hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia.
2.6 Dòng vốn đầu tư nước ngoài giúp tạo dựng một môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế tạo động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Điều đầu tiên chúng ta cần khẳng định: cạnh tranh luôn là động lực cho sự phát triển. So với các nhà đầu tư trong nước, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài luôn lợi thế hơn do có nguồn vốn lớn, công nghê, kinh nghiệm quản lý hiện đại, và nhiều ưu đãi, khuyến khích mà chính phủ nước nhận đầu tư dành cho họ. Vì vậy, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài là rất cao. Để có thể cạnh tranh với các đối tác nước ngoài trên sân nhà, các doanh nghiệp nước sở tại buộc phải tự mình đổi mới, mở rộng quy mô hoạt động, gia tăng sô lượng và chất lượng các nguồn vốn đầu tư (đi vay, liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp..) đồng thời cải tiến công nghệ, học hỏi các kỹ năng và kinh nghiệm trong quản lý sản xuất. Như vậy, chính nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra động lực cạnh tranh làm cho nguồn vốn trong nước phải được sử dụng hiệu quả hơn, hợp lý hơn. Tựu chung lại, nền kinh tế của quốc gia nhận đầu tư sẽ có được những bước phát triển đáng kể nhờ hiệu quả và chất lượng của việc huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
2.7 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn cung ngoại tệ đáng kể, đảm bảo cho nhu cầu ngoại tệ của đất nước, nâng cao năng lực xuất nhập khẩu, đầu tư ra nước ngoài và trả nợ, tạo đà tăng trưởng vả phát triển
Khi đất nước càng phát triển thì nhu cầu hội nhập càng cao, nhu cầu xuất nhập khẩu càng lớn. Đối với các nước đang phát triển, ngay trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhu cầu về máy móc công nghệ cao là rất lớn, việc này đòi hỏi phải nhập khẩu từ bên ngoài, muốn nhập khẩu thì ngoại tệ là thứ không thể thiếu. Mặt khác, việc trả nợ nước ngoài cũng yêu cầu một lượng ngoại tệ không nhỏ. Lúc đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài phát huy vai trò của mình là phần cung ngoại tệ đáng kể: làm gia tăng gián tiếp lượng ngoại tệ tại các ngân hàng trong nền kinh tế thông qua các nguồn viện trợ bằng ngoại tệ, chuyển trực tiếp vào ngân sách chính phủ, các nhà đầu tư trực tiếp hay gián tiếp mua bán chứng khoán cũng phải thực hiện đầu tư qua thao tác chuyển đổi ngoại tệ qua nội tệ. Bên cạnh đó, nguồn vốn này cũng có tác động tới các khoản tiết kiệm ngoại tệ quốc gia, có mặt trong chính sách quản lý tỷ giá hối đoái trên thị trường tiền tệ, ổn định tỷ giá trong nước khi cần thiết; từ đó giúp ổn đinh vĩ mô nền kinh tế. Nền kinh tế có ồn định mới đảm bảo môi trường đầu tư an toàn và hoạt động có hiệu quả của các nguồn vốn trong và ngoài nước.
2.8 Đầu tư nước ngoài giúp tiếp cận thị trường quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới
Khi có luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sẽ tạo ra một thị trường vốn quốc tế mà tại đó các quốc gia có thể thu hút và huy động vốn một cách dễ dàng và hiệu quả. Không những thế, nguồn vốn nước ngoài còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu, giao lưu, trao đổi hàng hoá tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Mối quan hệ của nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế:
“Nguồn vốn trong nước” + “nguồn vốn nước ngoài”
Có đơn giản chỉ là một phép tính 1 + 1 = 2 ???
Tác động đầu tiên của mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài đối với tăng trưởng - phát triển kinh tế mà chúng ta nhắc đến, đó là sự kết hợp giữa hai nguồn vốn làm gia tăng tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Xét về mặt số lượng, sự kết hợp này có thể nói đơn thuần là phép tính 1+1= 2, nó làm tổng vốn đầu tư của một quốc gia tăng lên.
Như chúng ta đã biết, các nguồn vốn huy động thường được sử dụng trước hết cho mục tiêu lợi nhuận kinh tế. Song một nền kinh tế muốn phát triển bền vững và lâu dài thì các vấn đề đầu tư phát triển xã hội cũng phải được chú trọng. Đối với tất cả các quốc gia, tỷ trọng các khoản chi cho sự nghiệp phát triển xã hội là không hề nhỏ trong tổng chi của tổng vốn đầu tư. Cũng chính vì thế, khoản vốn cho các dự án đầu tư phát triển kinh tế sẽ bị thu hẹp lại. Với sự bổ sung đóng góp của các nguồn vốn ngoài nước (như ODA, FDI..) thì chính phủ có thể phân bổ và sử dụng các nguồn vốn một cách hợp lý hơn.
Chẳng hạn các ưu đãi của nguồn vốn ODA được sử dụng để bổ sung cho khoản vốn tín dụng cho các doanh nghiệp vay của nhà nước, và một phần dòng vốn này được sử dụng cho các dự án mang tính chất xã hội cao ở các lĩnh vực như giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, các dự án cung cấp nước sạch, xây dựng các công trình đường giao thông… Chính nhờ có nguồn vốn này mà trách nhiệm xã hội của các nguồn vốn trong nước được san sẻ. Tính một cách hợp lý, chúng ta sẽ có phần lớn hơn các khoản vốn đầu tư phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, trước hết là từ trong nước sau là từ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, Vậy là, từ phép cộng nguồn vốn đầu tư trong nước với nguồn vốn đầu tư nước ngoài, việc đầu tư cho tăng trưởng phát triển của quốc gia có một tiềm lực lớn mạnh hơn, sẽ có thêm nhiều lĩnh vực được đầu tư hơn, đồng thời, các lĩnh vực sẽ được đầu tư theo chiều sâu hơn, nâng cao hiệu quả của các dự án.
Song nói đến sự tăng trưởng và phát triển của một quốc gia nhận được gì từ mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài, chúng ta có thể khẳng định rằng phép tính 1+1 xét dưới phương diện kinh tế đã làm được nhiều hơn con số 2. Mối quan hệ kết hợp giữa hai nguồn vốn mà kết quả của nó không chỉ dừng lại ở sự gia tăng về quy mô, số lượng, mà đi kèm với nó còn là sự ra đời của nhiều loại hình doanh nghiệp mới, nhiều ngành kinh tế mới... Cùng với sự ra đời cuả các loại hình doanh nghiệp mới với các hình thức sở hữu phong phú là sự xuất hiện của các phương thức kinh doanh linh hoạt, đa dạng, ngày càng hiện đại: các hợp đồng hợp tác kinh doanh, đại lý ủy quyền, hình thức góp vốn cổ phần… Những lĩnh vực, thành phần kinh tế mới ra đời càng ngày càng mở rộng và tăng thêm tiềm năng phát triển của nền kinh tế.
Không dừng lại ở đó, mối quan hệ giữa hai nguồn vốn còn là một cú hích cho năng lực khoa học công nghệ quốc gia. Đối với mỗi quốc gia, khoa học công nghệ là nguồn lực phải được xây dựng lâu dài, nếu chỉ dựa vào nội lực (nguồn vốn đầu tư trong nước) thì quá trình phát triển rất chậm không theo kịp với trình độ phát triển chung của khu vực và thế giới, vì thế cần có sự bổ sung từ nguồn vốn nước ngoài. Sự bổ sung đó làm nguồn vốn dành cho việc đầu tư khoa học công nghệ trở nên phong phú đa dạng hơn, không chỉ từ ngân sách Nhà nước mà còn từ các quỹ, tổ chức trong ngoài nước. Khoa học công nghệ vì thế có một nền tảng vững chãi hơn để phát triển, từ đó gia tăng năng lực sản xuất, năng suất lao động, cải tiến và nâng cao chất lượng của các sản phầm, đưa nền kinh tế lên một trình độ cao.
Tuy vậy không phải lúc nào phép cộng “nguồn vốn trong nước” và “nguồn vốn nước ngoài” cũng đem lại cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế những thuận lợi và ưu thế. Đó là lúc phép cộng trong mối quan hệ của hai nguồn vốn này thể hiện giá trị 1+1 < 2
Một điều hiển nhiên là các khoản vay từ nước ngoài mang lại một gánh nặng nợ rất lớn cho nước nhận vốn, có nhiều trường hợp, khoản nợ này kéo dài nhiều năm, nhiều thập kỷ, gây nên tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài, gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc đầu tư phát triển trong tương lai. Mặt khác, các khoản viện trợ, vay ưu đãi không bao giờ đi một mình, các khoản này luôn luôn đi kèm với các điều kiện rằng buộc về chính trị. Điều này gây nên tình trạng phụ thuộc, mất tự chủ của quốc gia tiếp nhận vốn trọng một số lĩnh vực xã hội cũng như là chính trị. Không chỉ tạo điều kiện cho việc hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới, mặt trái của việc này là làm cho nền kinh tế trong nước dễ bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới.
Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, một mặt làm gia tăng nguồn dự trự ngoại tệ quốc gia, đồng thời lại có những ảnh hưởng không nhỏ tới đồng nội tệ, đến cán cân thương mại của nước nhận đầu tư, từ đó ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá hối đoái của đất nước đó; đặc biệt, các nguồn vốn này có mức biến động cao, và có mức độ tự do lưu thông trên thị trường lớn, điều này trước hết đặt ra những khó khăn cho sự quản lý giám sát của nhà nước với nguồn ngoại tệ trên thị trường, sau đó nó chính là một thực tế khó khăn lớn đối với các chính sách quản lí kinh tế, cách ra quyết định kinh tế của Nhà nước nhằm đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển ổn định, đồng đều và bền vững của một quốc gia
Chính vì thế, trong mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài, mặc dù nguồn vốn đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng song nguồn vốn đầu tư trong nước phải đặc biệt phát huy vai trò quyết định của mình, định hướng cho dòng chảy nguồn vốn đầu tư nước ngoài và hạn chế những tiêu cực của nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có một mối quan hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau, tác động trực tiếp và gián tiếp đến quá trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế một quốc gia. Có rất nhiều những tác động tích cực mà chính mối quan hệ này đã giúp hỗ trợ và thúc đẩy vai trò của từng nguồn vốn riêng biệt, song bên cạnh đó vẫn còn nhiều vấn đề bất cập mà mỗi quốc gia cần giải quyết để phát huy hơn nữa những đóng góp tích cực kể trên. Tuy vậy, chúng ta vẫn cần phải khẳng định lại một lần nữa vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước và vai trò quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong mối quan hệ giữa hai nguồn vốn tác động đến tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài.doc