LỜIMỞĐẦU
Nước ta đang trong thời kỳ quáđộ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, do đó sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đó cũng có những điểm khác so với trước đây.
Trước những năm 1986, do nhận thức và vận dụng sai lầm lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến những thất bại to lớn như sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN ở Liên xô và các nước Đông Âu, còn ở Việt nam do nhận thức và vận dụng sai lầm đã dẫn đến tụt hậu về kinh tế và khủng hoảng về chính trị.
Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đãđồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mớỉ nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của đảng đã khẳng định”xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từđổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chinhs sách đối nội đối ngoại. Không có sựđổi mới đó thì không có sựđổi mới khác.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về nhiệm vụ xây dựng CNXH trong thời kỳ quáđộ lên CNXH, tôi đã lựa chọn đề tài "Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng CNXH ở Việt nam hiện nay".
Đề tài tập trung nghiên cứu Quá trình xây dựng CNXH ở Việt nam từ trước và sau đổi mới đến nay, và một số kiến nghị vận dụng quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác-Lênin vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thế giới quan duy vật biện chứng, căn cứ vào một số quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI.
Kết cấu đề tài, ngoài lời nói đầu và kết luận gồm hai chương
Chương 1: Lý luận chung về quan điểm toàn diện
Chương 2: Vận dụng quan điểm toàn diện vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt nam.
MỤCLỤC
LỜIMỞĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
LÝLUẬNCHUNGVỀQUANĐIỂMTOÀNDIỆN 3
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 3
1.2 - Quan điểm toàn diện trong triết học Mác- Lênin 5
CHƯƠNG 2 8
VẬNDỤNG QUANĐIỂMTOÀNDIỆNVÀOSỰNGHIỆP 8
XÂYDỰNG CNXH ỞNƯỚCTA 8
2.1-Quáđộ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chếđộ TBCN ở Việt nam là một tất yếu lịch sử. 8
2.2- Vận dụng quan điểm toàn diện vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt nam 9
2.2.1 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm trước đổi mới 9
2.2.2 Vận dụng quan điểm toàn diện vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 11
2.2 Đánh giá những thành tựu và những hạn chế trong công cuộc xây dựng CNXH thời gian qua. 15
2.2.1 Những thành tựu nước ta đạt được sau hơn 20 năm đổi mới đất nước. 15
2.2.2 Những hạn chế còn tồn tại trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. 18
2.2.3 Những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong công cuộc đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. 21
KẾTLUẬN 23
TÀILIỆUTHAMKHẢO 24
26 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 17931 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng CNXH ở Việt nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, do đó sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đó cũng có những điểm khác so với trước đây.
Trước những năm 1986, do nhận thức và vận dụng sai lầm lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến những thất bại to lớn như sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN ở Liên xô và các nước Đông Âu, còn ở Việt nam do nhận thức và vận dụng sai lầm đã dẫn đến tụt hậu về kinh tế và khủng hoảng về chính trị.
Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mớỉ nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của đảng đã khẳng định”xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chinhs sách đối nội đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có sự đổi mới khác.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về nhiệm vụ xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tôi đã lựa chọn đề tài "Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng CNXH ở Việt nam hiện nay".
Đề tài tập trung nghiên cứu Quá trình xây dựng CNXH ở Việt nam từ trước và sau đổi mới đến nay, và một số kiến nghị vận dụng quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác-Lênin vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thế giới quan duy vật biện chứng, căn cứ vào một số quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI.
Kết cấu đề tài, ngoài lời nói đầu và kết luận gồm hai chương
Chương 1: Lý luận chung về quan điểm toàn diện
Chương 2: Vận dụng quan điểm toàn diện vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt nam.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
Quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
1.1. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
Theo quan điểm siêu hình, các sự vật hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau, những mối liên hệ có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt, bề ngoài mang tính ngẫu nhiên. Một số người theo quan điểm siêu hình cũng thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó nhưng laị phủ nhận khả năng chuyển hoá lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Ngược lại, quan điểm biện chứng cho rằng thế giới tồn tại như một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.
Về nhân tố quy định sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới, chủ nghĩa duy tâm cho rằng cơ sở của sự liên hệ, sự tác động qua lại giữa các sự vật và hiện tượng là các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, ở cảm giác của con người. Xuất phát từ quan điểm duy tâm chủ quan, Béccơli coi cơ sở của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là cảm giác. Đứng trên quan điểm duy tâm khách quan, Hêghen lại cho rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng là ở ý niệm tuyệt đối.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Theo quan điểm này, các sự vật hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả ý thức, tư tưởng của con người vốn là những cái phi vật chất cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, các quá trình, mà nó còn nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại: có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới, có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại được thể hiện thông qua một hay một số khâu trung gian, có mối liên hệ bản chất, có mối liên hệ tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên, có mối liên hệ giữa các sự vật khác nhau và mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động, phát triển qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau, tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các quá trình tương ứng.
Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát triển của chính các sự vận động và phát triển của các sự vật hiện tượng.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật, nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói chung nó không có ý nghĩa quyết định, Hơn nữa, nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn vai trò của mối liên hệ bên ngoài đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi có thể giữ vai trò quyết định.
Mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên cũng có tính chất tương tự như đã nói ở trên. Ngoài ra chúng còn có những nét đặc thù. Chẳng hạn như, cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này lại là cái tất nhiên khi xem xét trong mối liên hệ khác, ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của cái tất yếu, hiện tượng là hình thức biểu hiện ít nhiều đầy đủ của bản chất. Đó là những hình thức đặc thù của sự biểu hiện những mối liên hệ tương ứng.
Như vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại các mối liên hệ. Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá như vậy có thể diễn ra hoặc do thay đổi phạm vi bao quát khi xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật và hiện tượng.
Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy con người, phép biện chứng duy vật, tập trung nghiên cứu những loại liên hệ chung, mang tính chất phỏ biến. Những hình thức và những kiểu liên hệ riêng biệt trong các bộ phận khác nhau của thế giới là đôí tượng nghiên cứu của các ngành khoa học khác.
1.2 - QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng, triết học Mác - Lênin rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức.
Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật hiện tượng. Một mặt, chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau trong chính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng đó, mặt khác chúng ta phải xem xét trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật hiện tượng đó với với các sự vật, hiện tượng khác, tránh cách xem xét phiếm diện, một chiều. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng; tránh chủ nghĩa triết chung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm cẩu thuật ngụy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự sai lệch, xuyên tạc bản chất của sự vật hiện tượng.
Trong nhận thức phương pháp toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận khoa học, cho phép chính tính đến mọi khả năng của sự vận động, phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là xem xét sự vật, hiện tượng trong một chính thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận , các yếu tố các thuộc tính, cùng các mối liên hệ của chúng. Đề cập đến hai nội dung này, V.I. Lênin viết "muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó".
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, nhận thức của con người về sự vật cũng chỉ là tương đối, không trọn vẹn, đầy đủ. Có ý thức được điều này chúng ta mới tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát triển. Để nhận thức được sự vật , cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, "cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc."
Quan điểm toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối lập với chủ nghĩa triết chung và thuật ngụy biện. Không chỉ ở chỗ nó chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ vẫn có thể là phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những quy định khác nhau của của sự vật được thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
Như vậy, quan điểm toàn diện cũng không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật, hiện tượng. Nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hiện tượng đó.
Có thể kết luận, quá trình hình thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật sẽ phải trải qua các giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể để để nhận thức một mặt, một mối liên hệ nào đó của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đó và cuối cùng, khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật.
Quan điểm toàn diện vừa khác chủ nghĩa chiết trung vừa khác thuật nguỵ biện. Chủ nghĩa chiết trung tuy cũng tỏ ra chú ý tới nhiều mặt khác nhau nhưng lại kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thành một hình ảnh không đúng về sự vật. Chủ nghĩa chiết trung không biết rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản nên rơi vào chỗ cào bằng các mặt, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, do đó hoàn toàn bất lực khi cần phải có quyết sách đúng đắn. Thuật nguỵ biện cũng chỉ chú ý đến những mặt , những mối liên hệ khác nhau của sự vật nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Cả chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện đều là những biểu hiện khác nhau của phương pháp luận sai lầm trong việc xem xét các sự vật, hiện tượng.
CHƯƠNG 2
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG CNXH Ở NƯỚC TA
2.1-QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, BỎ QUA CHẾ ĐỘ TBCN Ở VIỆT NAM LÀ MỘT TẤT YẾU LỊCH SỬ.
Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu lịch sử bởi vì:
- Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Thực tiễn đã khẳng định CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới, CNTB thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. CNTB không phải là tương lai của loài người. Quá trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa không phải là quá trình cải lương, duy ý chí mà là quá trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan phù hợp với quy luật của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích của những người lao động, là hình thái xã hội cao hơn CNTB. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự nghiệp phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.
- Cách mạng Việt nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm cách mạng tháng Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên CNXH mới giữ vững được độc lập dân tộc, tự do cho dân tộc, mới thực hiện đựoc mục tiêu làm cho mọi người được ấm no, tự do hạnh phúc. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta như vậy là sự lựa chọn cuả chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng thể hiện sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta là một tất yếu lịch sử.
2.2- VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM
Để đảm bảo có được nhận thức đúng đắn về một vấn đề, chúng ta phải xem xét vấn đề đó theo quan điểm toàn diện. Điều này có nghĩa là phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ tác động qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của sự vật, hiện tượng cũng như trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đối với các sự vật khác và trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
Với mục đích có được nhận thức đúng đắn, từ đó đề ra những chủ trương, chính sách đúng nhằm góp phần hoàn thành thắng lợi sự nghiệp cao cả là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam cuả nhân dân ta thì trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta phải có một cái nhìn toàn diện đối với các nhân tố cuẩ lực lượng sản xuất cũng như các nhân tố của quan hệ sản xuất trong mối quan hệ qua lại với nhau một cách biện chứng, không xem nhẹ hay bỏ qua bất cứ một nhân tố nào, có như vậy các chủ trương, chính sách đưa ra mới góp phần vào thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.2.1 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm trước đổi mới
Sau khi đất nước được giải phóng (năm 1976) và đất nước thống nhất năm (1976). Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặc dù có nỗ lực rất lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế, Nhà nước đã đầu tư khá lớn nhưng vì trong chính sách có nhiều điểm duy ý chí nên trong 5 năm đầu (1976 - 1980) tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp chỉ đạt 0,4%/năm (kế hoạch là 13 - 14%/năm) thậm chí có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng hoảng. Biểu hiện ở các mặt.
Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai và ba không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho năm 1976 - 1980 đều không đạt được, thậm chí tỉ lệ hoàn thành còn ở mức rất thấp. Chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50 - 80% so với kế hoạch (điện, cơ khí, khai hoang, lương thực, chăn nuôi lợn, than, nhà ở) còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 - 48% (trồng rừng, gỗ tròn, vải lụa, cá biẻn, giấy, xi măng, phân hoá học, thép).
Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế Quốc dân còn yếu kém, thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình độ kỹ thuật của những năm 1960 trở về trước) lại chỉ phát huy được công suất ở mức 50% là phổ biến công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu; công nghiệp nhẹ bị phụ thuộc 70 - 80% nguyên liệu nhập khẩu. Do đó đa bộ phận lao động vẫn là lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ. Phân công lao động xã hội kém phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp.
Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Sản xuất phát triển chậm, không tương xứng vưói sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Sản xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn. Toàn bộ qũy tích luỹ (rất nhỏ bé) và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài (riêng lương thực phải nhập 5,6 triệu tấn trong thời gian 1976 - 1980. Năm 1985 nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỉ Rup cái hố ngăn cách giữa nhu cầuvà năng lực sản xuất ngày càng sâu.
Phân phối lưu thông bị rối ren. Thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định. Ngân sách Nhà nước liên tục bị bội chi và ngày càng lớn năm 1980 là 18,1%, 1985 là 36,6% dẫn đến bội chi tiền mặt. Năm 1986, trên phạm vi cả nước, lạm phát đã xuất hiện và ngày càng nghiêm trọng giá cả tăng nhanh. Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, do đó tiêu cực và bất công xã hội tăng lên. Trật tự xã hội bị giảm sút. Những điều đó chứng tỏ trong giai đoạn này nước ta bị khủng hoảng kinh tế chính trị, xã hội.
2.2.2 Vận dụng quan điểm toàn diện vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đi lên CNXH là con đường tất yếu của nước ta. Chúng ta phê phán những khuyết tật, sai lầm trong quá trình xây dựng CNXH nhưng không quan niệm những lệch lạc đó là khuyết tật của bản thân chế độ, coi khuyết điểm là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó dao động về mục tiêu và con đường đi lên CNXH. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu CNXH, mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Điều cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng CNXH và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới, Đảng phải kiên trì vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm thích hợp. Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực, nội dung của đổi mới cũng bao gồm nhiều mặt; từ đổi mới quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Nếu chỉ đổi mới một lĩnh vực hoặc một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới không thể đạt kết quả mong muốn. Đồng thời trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng khâu then chốt để tập trung sức giải quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác và lĩnh vực khác.
Về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Kinh tế và chính trị là hai mặt cốt lõi của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thì kinh tế giữ vai trò quyết định chính trị, vì:
Kinh tế là nội dung vật chất của chính trị, còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Cơ sở kinh tế với tính cách là kết cấu hiện thực sản sinh ra hệ thống chính trị tương ứng với quy định hệ thống đó. Nói cách khác, tính chất xã hội, giai cấp của chính trị bao giờ cũng phản ánh tính chất xã hội và gia cấp của cơ sở hạ tầng. Từ đó dẫn đến ự biến đổi căn bản của kinh tế lẫn chính trị.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế: Chính trị được biểu hiện tập trung bằng nhà nước, có sức mạnh vật chất tương ứng. Nhà nước có tác dụng quyết định năng lực hiện thực hoá những tất yếu kinh tế. Ănghen nói" Bạo lực ( quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế".
Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, chúng ta chủ chương tiến hành đổi mới đồng bộ phải kết hợp ngay từ đầu, đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội. Trong đó, đổi mới kinh tế là trọng tâm, còn đổi mới chính trị thúc đẩy đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế chính là đổi mới ở lĩnh vực CSHT, đó là đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, phương thức phân phối, quy trình công nghệ…nhằm làm cho nền kinh tế nước ta phát triển hoà nhập với trình độ phát triển kinh tế thế giới.
Đổi mới kinh tế là tiền đề cho đổi mới chính trị, nó tạo ra nền tảng vật chất cho ổn định về chính trị xã hội, nó làm nảy sinh nhu cầu đổi mới hệ thống chính trị, làm cho nó năng động và trở thành động lực thực sự của sự phát triển kinh tế.
Đổi mới chính trị phải xuất phát từ yêu cầu đổi mới kinh tế, phải phù hợp với đổi mới kinh tế.
Đổi mới chính trị chính là đổi mới ở bộ phận quan trọng của KTTT, đổi mới chính trị thể hiện ở đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, phân cấp lãnh đạo của Đảng, dân chủ hoá trước hết từ trong Đảng.
Đổi mới chính trị, tạo điều kiện cho đổi mới kinh tế
Khi đường lối chính trị, thiết chế chính trị được đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì chính trị trở thành định hướng cho phát triển kinh tế. Đồng thời tạo môi trường phát triển về an ninh trật tự để phát triển kinh tế và chính trị còn đóng vai trò can thiệp điều tiết, khắc phục những mặt trái do đổi mới kinh tế đưa đến.
Một trong những đặc trưng cơ bản của CNXH đó là nền kinh tế nhiều thành phần, trước đây do nhận thức sai lầm chúng ta đã xóa bỏ mọi thành phần kinh tế, chỉ còn 2 lại thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, thì nay chúng ta phải chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và đi đôi với vai trò tăng cường quản lý của nhà nước về kinh tế-xã hội.
Trước đại hội VI, chúng ta đã nóng vội và nhất loạt xây dựng QHSX một thành phần dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, làm như vậy là chúng ta đã đẩy QHSX đi quá xa so với trình độ phát triển của LLSX tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là LLSX thấp kém với một bên là QHSX được xã hội hoá giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của LLSX làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội.
Từ đại hội VI đến nay, khắc phục sai lầm trên, chúng ta thực hiện xây dung nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và coi nó là nhiệm vụ cơ bản cho quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế. Vậy nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Xuất phát từ tính chất và trình độ của LLSX nước ta là đa dạng, không đồng đều và chưa cao.
Thực tiễn 20 năm đổi mới đã khẳng định chủ chương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với phát triển LLSX ở nước ta. Nó đã thực sự giải phóng, phát triển, khơi dây các tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất, đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế xã hội.
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay đã không tạo được động lực phát triển và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Do đó, đại hội VI đã chủ trương đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế và chỉ ra thực chất của cơ chế mới đó là: "Cơ chế kế hoạch hoá theo hướng phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ"(1)
Việc xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cũng có nghĩa là chúng ta chấp nhận đa dạng hoá các hình thức sở hữu để phát triển kinh tế nước nhà.
Phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Trên cơ sở đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ Đại hội Đảng ta tiếp tục làm rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng "xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN" (2). Điều đó thực chất là quá trình đổi mới cả hệ thống các công cụ, chính sách quản lý và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước.
Và một trong những nội dung quan trong trong công cuộc đổi mới đất nước đó là Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đại hội VI đã chỉ rõ:"Cùng với việc mở rộng xuất nhập khẩu tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn cần vận dụng nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại" (1). Thực hiện chủ trương đó, Nhà nước đã ban hành chính sách "mở cửa" để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, từng bước gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trường trong nước với thị trường quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, đảm bảo độc lập, chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia.
- Về ngoại thương, cải cách ngoại thương được thực hiện theo hướng từng bước mở cửa và hội nhập quốc tế.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước là: Đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu, coi xuất khẩu là một trong 3 chương trình trọng điểm của chặng đường đầu tiên, là hướng ưu tiên của kinh tế đối ngoại trong suốt thời kỳ đổi mới. Các giải pháp cụ thể là:
+ Nhà nước xoá bỏ bao cấp bù lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các DNNN từ cuối năm 1987 các doanh nghiệp này phải tự hạch toán kinh doanh sao cho có hiệu quả.
+ Nhà nước bỏ nguyên tắc độc quyền ngoại thương (từ năm 1990)
+ Điều chỉnh tỷ giá hối đoái để khuyến khích xuất khẩu. Từ năm 1991 chế độ 2 tổ quốc được xoá bỏ, chuyển sang thực hiện tỷ giá linh hoạt có quản lý củ Nhà nước.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Cùng với nguồn vốn huy động trong nước, nguồn vốn huy động từ bên ngoài hết sức quan trọng đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng như trong những năm tiếp theo. Việc mở rông tham gia hợp tác kinh tế thế giới có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội khi chúng ta cần thu hút nhiều nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước và xây dựng những tiền để cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH.
Năm 1987, Nhà nước ban hành luật đầu tư nước ngoài, sau đó được bổ sung và sửa đổi nhiều lần nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư.
Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài như đơn giản hoá thủ tục hành chính, xây dựng các khu chế xuất, cơ sở hạ tâng thuận tiện.
Những chính sách trên nhằm đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế và thu hút đầu tư của nước ngoài, kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế.
2.2 Đánh giá những thành tựu và những hạn chế trong công cuộc xây dựng CNXH thời gian qua.
2.2.1 Những thành tựu nước ta đạt được sau hơn 20 năm đổi mới đất nước.
Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh: Nhưng đầu thập kỷ 90, nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng ổn định và đạt đến đỉnh cao là 9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế hoạch 5 năm (1991-1995), lần đầu tiên ta đã hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu của kế hoạch này. Tất cả các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm (1996-2000) và chiến lược kinh tế 10 năm (1991-2000) đều đạt và vượt kế hoạch; GDP trong 10 này tăng bình quân hàng năm 7,56%/năm nhờ vậy GDP năm 2000 đã gấp 2,07 lần năm 1990. Riêng 2 năm 1998-1999 nền kinh tế tăng trưởng châm hơn trước (5,8% và 4,8%) vì bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ cùng với thiên tai xảy ra trong nhiều vùng trên cả nước. Tuy nhiên đến năm 2000-2002 tốc độ tăng trưởng lại tăng lên đạt 6,7%; 6,8% và 7,0% đặc biệt năm2005 là 8,0% đưa tốc độ tăng trưởng bình quân trong 5 năm 2001-2005 từ 7,5%. Năm 2006 nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức 7,4% và năm 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8,4%, nước ta trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trên thế giới.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, từ chỗ nước ta là nước phải nhập khẩu lương thực trước đây trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới( đứmg thứ 2 sau Thái lan).
Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (gồm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhưng tỉ trọng đã giảm xuống, trong khi đó tỉ trọng của khu vực II (gồm công nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực II (các ngành dịch vụ đã tăng lên). Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ 2 con số. Bình quân thời kỳ 1991-1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996-2000 tăng 13,2%. Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp như điện, than, vải, thép, xi măng… tăng nhanh trong những năm đổi mới và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất, đời sống nhân dân và xuất khẩu.
Lạm phát được kiềm chế và đẩy lùi. Trong những năm 1986-1988 lạm phát đã tăng tới 3 con số làm cho nền kinh tế chao đảo. Từ năm 1989, lạm phát được chậm lại ở mức 2 con số sau đó giảm xuống 1 con số. Năm 1986: 774,7%; năm 1990: 67,4%; năm 1995: 12,7%; năm 1997: 3,7%; năm 1999: 0,1%. Thời gian gần đây tốc độ lạm phát trong nền kinh tế mặc dù có tăng nhưng vẫn nó vẫn nằm trong vòng kiểm soát của nền kinh tế. Cũng là hệ quả tất yếu của việc mở rộng thị trường khi nước ta chính thức trở thành thành viên của WTO.
Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng tự hào, đặc biệt năm 2007, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam( FDI) đạt hơn 20 tỷ USD.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Hiện tại nước ta được hầu hết các nước trên thế giới công nhận là nước có nền kinh tế thị trường. Việt Nam là một trong những nước có nền chính trị, an ninh ổn định bậc nhất trên thế giới. Là điểm đến an toàn cho mọi người trên thế giới. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao; không chỉ là thành viên của ASEAN từ năm 1995, thành viên của APEC… Năm 2008 đánh dấu cột mốc lịch sử trong quan hệ đối ngoại của nước ta khi Việt Nam được bầu cử đại diện cho châu á là thành viên không thường trực tại Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.2 Những hạn chế còn tồn tại trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong khi khẳng định những thành tựu nói trên, cần thấy rõ, cho đến nay nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, còn nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...Cụ thể:
Thứ nhất:. Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm
Các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế chưa thật vững chắc, dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động từ bên ngoài. Trình độ khoa học, công nghệ, năng suất lao động thấp; giá thành nhiều sản phẩm còn cao so với khu vực và thế giới. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước dàn trải, hiệu quả chưa cao, thất thoát nhiều. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách nhà nước và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng. Môi trường tự nhiên ở nhiều nơi bị huỷ hoại, ô nhiễm nặng.
Lĩnh vực dịch vụ phát triển chậm. Nội dung và các biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn chưa cụ thể. Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, nhất là cổ phần hoá, còn nhiều vướng mắc. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động chưa qua đào tạo vẫn là phổ biến, lao động nông nghiệp còn chiếm tỉ lệ cao. Hoạt động kinh tế đối ngoại còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chưa đủ sức vượt qua những khó khăn về cạnh tranh và thị trường.
Việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển và vận hành hệ thống thị trường chưa đồng bộ; một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm; tư duy bao cấp chưa được khắc phục triệt để.
Thứ hai: Cơ chế, chính sách về văn hoá - xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt
Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra. Nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt.
Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp. Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hoá, nghệ thuật, xu hướng xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo lợi ích vật chất đơn thuần chưa được khắc phục. Quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực trong giáo dục, y tế, thể dục thể thao còn yếu kém.
Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Tội phạm và một số tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng. Tai nạn giao thông gây nhiều thiệt hại về người và của.
Thứ ba: Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế.
Sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang chưa được phát huy đầy đủ. ở một số địa bàn, còn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh, đối ngoại chưa theo kịp diễn biến của tình hình. Sự phối hợp giữa an ninh, quốc phòng và đối ngoại trong việc giải quyết một số vấn đề cụ thể thiếu chặt chẽ.
Thứ tư: Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới.
Quốc hội còn lúng túng trong việc thực hiện chức năng giám sát. Bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở còn yếu kém. Tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức, nhất là ở các cơ quan trực tiếp giải quyết công việc của dân và doanh nghiệp, chậm được khắc phục. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương, nhất là tổ chức hội đồng nhân dân, còn những điểm bất hợp lý. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi còn mang tính hành chính, hình thức. Dân chủ trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm.
Cuối cùng: Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng còn thiếu tính thuyết phục. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
2.2.3 Những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong công cuộc đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khoá của thành công.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
KẾT LUẬN
Nước ta quá độ lên CNXH từ xuất phát điểm rất thấp; nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc, còn ở tình trạng phổ biến của tái sản xuất giản đơn, lực lượng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, quan hệ sản xuất yếu kém…
Để xây dựng thành công CNXH, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp và để đảm bảo mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, đòi hỏi chúng ta phải có chủ trương đổi mới toàn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội, phải kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo mọi điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển, có như vậy mới tạo ra nhiều của cải vật chất tạo tiền đề cho sự ra đời và phát triển của CNXH. Và những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới đã tiếp thêm cho chúng ta những niềm tin và hy vọng về khả năng thành công của xã hội mà chúng ta đang vươn tới đó là Chủ nghĩa Xã hội mà xa hơn nữa đó là Cộng sản Chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Triết học Mác – Lênin – Nhà xuất bản Lý luận Chính trị – Chủ biên: PGS.TS Đoàn Quang Thọ.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
Trang web: www.vnn.vn ; www.cpv.org.vn ; www.chungta.com ;
www.mpi.gov.vn ;
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng CNXH ở Việt nam hiện nay.docx