Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, vấn đề việc làm đã trở thành một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại cũng như của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vấn đề việc làm cho người lao động, chính sách tạo việc làm và chống thất nghiệp là một trong những tiêu chí bảo đảm định hướng XHCN, góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân"[10, tr.216].
Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng; do đó, có vai trò quan trọng làm cầu nối Thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng, thành phố du lịch Hạ Long; cung cấp sản phẩm hàng hóa quan trọng và là địa bàn tham gia vào quá trình trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển và các thành phố, các tỉnh trong vùng và cả nước. Chính vì vậy, Hải Dương vừa đóng vai trò là một trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các thách thức trong cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi thế. Trong triển vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, du lịch thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành phố lớn và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng.
Với vị trí địa lý thuận lợi, những năm gần đây, các khu công nghiệp ở Hải Dương phát triển rất mạnh, thu hút lực lượng lao động các địa phương về Hải Dương làm việc, góp phần giải quyết việc làm ở Hải Dương. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở Hải Dương còn thấp kém, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng, chất lượng lao động còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, cung- cầu về lao động mất cân đối, dẫn đến bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở Hải Dương hiện nay.
Nhằm đánh giá chung đúng thực trạng việc làm và việc thực thi chính sách tạo việc làm để từ đó đưa ra những giải pháp giải quyết việc làm ở Hải Dương, tác giả luận văn đã chọn đề tài: "Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, có một số tác giả đã đề cập đến các khía cạnh mà đề tài nghiên cứu quan tâm. Trong số đó có:
- PTS. Nguyễn Hữu Dũng, PTS. Trần Hữu Trung (chủ biên):"Về Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. Các tác giả đã trình bày tổng quát về phương pháp luận và phương pháp tiếp cận chính sách việc làm; làm rõ thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam hiện nay. Từ đó khuyến nghị định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm trong công cuộc CNH, HĐH.
- TS. Nguyễn Bá Ngọc, KS. Trần Văn Hoan (chủ biên), "Toàn cầu hoá: cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam", Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội 2002. Các tác giả đã trình bày tổng quan tác động của toàn cầu hoá đến lao động và các vấn đề xã hội của Việt Nam, những xu hướng vận động của nguồn nhân lực, lao động và việc làm Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế, phân tích những cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó đề ra các giải pháp đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
- Thạc sĩ Nguyễn Thị Lan Hương: "Thị trường lao động Việt Nam: Định hướng và phát triển", Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2002. Tác giả đi từ việc phân tích các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam giai đoạn 2001- 2010.
- Các bài viết "Lao động việc làm thời kỳ 1991- 2000 và phương hướng giai đoạn 2001- 2010" của TS. Lê Duy Đồng, Tạp chí Lao động và xã hội, số III- 2001; "WTO và vấn đề tạo việc làm cho người lao động" của TS. Đinh Trọng Thịnh, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 6/2005. Trong đó các tác giả đi sâu vào các vấn đề như: Kết quả giải quyết việc làm, những mặt yếu kém và bất cập, phương hướng giải quyết việc làm, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế .
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề tạo việc làm ở Hải Dương dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
+ Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về lao động việc làm, quan niệm về việc làm và những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm, luận văn phân tích thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương, chỉ ra xu hướng tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp chủ yếu để tạo việc làm ở Hải Dương trong thời gian tới.
+ Nhiệm vụ:
- Làm rõ quan niệm về việc làm, chính sách tạo việc làm, những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tạo việc làm.
-Tập trung phân tích thực trạng: Số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động ở Hải Dương, thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay.
-Bước đầu nêu ra những giải pháp để tạo việc làm ở Hải Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn đề cập tới vấn đề tạo việc làm cho toàn bộ lực lượng lao động do Trung ương cũng như do tỉnh quản lý đang sinh sống và làm việc trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, có chú trọng bàn đến nhiều hơn vấn đề tạo việc làm cho lao động do tỉnh trực tiếp quản lý.
- Bối cảnh lịch sử và thực tiễn chính mà luận văn khai thác là Hải Dương thời kỳ đổi mới, cụ thể là từ 1996 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam, những chủ trương, chính sách của Nhà nước về việc làm. Đồng thời, luận văn có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp kết hợp logic với lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học.
6. Những kết quả đạt được của luận văn
- Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận chung về việc làm, chính sách tạo việc làm.
- Đánh giá đúng thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm tạo việc làm, thu hút lao động ở Hải Dương hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn về tạo việc làm ở Hải Dương để phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành trong tỉnh tham khảo trong quá trình hoạch định các chính sách nhằm tạo việc làm trên địa bàn tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
112 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5155 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghề nhằm đảm bảo cho các hộ nghèo có việc làm ổn định, tăng thu nhập, nâng cao mức sống. Đảm bảo tín dụng cho người nghèo, hỗ trợ người nghèo về y tế và giáo dục.
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM Ở HẢI DƯƠNG
3.1. Mục tiêu, phương hướng giải quyết việc làm
3.1.1. Mục tiêu
Căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Hải Dương 5 năm 2006-2010, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Hải Dương 2006-2020, có thể xác định mục tiêu giải quyết việc làm của tỉnh Hải Dương giai đoạn 2006-2010 như sau:
- Mỗi năm giải quyết tạo việc làm mới cho 2,5 vạn lao động trở lên (trong đó xuất khẩu từ 3.000 lao động trở lên).
- Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 4,5% và nâng thời gian lao động ở nông thôn lên 82-83% vào năm 2010.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 38,4%.
- Cơ cấu lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ là 55,0% - 25,5% - 19,5% vào năm 2010.
3.1.2. Phương hướng
+ Pháp triển các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp. Chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp sử dụng nhiều lao động, các làng nghề, phát triển toàn diện kinh tế-xã hội nông thôn, nông nghiệp để thu hút nhiều lao động vào làm việc. Thực hiện tốt công tác kiểm soát chỉ tiêu chỗ làm việc mới đối với các cấp, các ngành. Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm.
+ Các doanh nghiệp duy trì, đảm bảo việc làm cho người lao động, chống sa thải công nhân hàng loạt.
+ Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động.
+ Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia.
3.2. Các giải pháp tạo việc làm ở Hải Dương
3.2.1. Giải pháp tạo việc làm thông qua một số chương trình phát triển kinh tế trọng điểm thu hút nhiều lao động
+ Phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mục tiêu của chương trình là: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, đảm bảo kinh tế tăng trưởng 11%/năm, với cơ cấu kinh tế: nông, lâm, ngư nghiệp - công nghiệp, xây dựng -dịch vụ là 22% - 46% - 32%. Để đạt mục tiêu trên:
- Trong 5 năm 2005 - 2010 giải quyết việc làm mới cho từ 82.000 đến 83.000 lao động.
- Duy trì tốc độ phát triển cao của sản xuất công nghiệp, đồng thời đi đôi với nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất, năng lực cạnh tranh và bảo vệ môi trường, đa dạng hoá sản phẩm.
- Tập trung đầu tư mạng lưới kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất công nghiệp.
- Phát triển một số cơ sở sản xuất mới có khả năng thu hút nhiều lao động như: may, giày dép, chế biến nông sản, điện tử... (xem phụ lục)
- Khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống để có 50 - 60 làng nghề, xã nghề; có chính sách trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề, xã nghề để tạo việc làm mới cho người lao động.
- Rà soát lại quy hoạch các cụm công nghiệp, khu công nghiệp đã được cấp phép để triển khai thu hút các dự án đầu tư sản xuất tạo mở việc làm mới.
- Dành một quỹ đất nhất định có quy hoạch tổng thể để đưa vào sử dụng các khu tái định cư, dịch vụ, tái tạo việc làm ngay trong các cụm công nghiệp, khu công nghiệp trọng điểm.
- Tổ chức đào tạo nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng được yêu cầu sử dụng của các cụm công nghiệp, khu công nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có công nghệ cao, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, của sản xuất hàng xuất khẩu, tập trung vốn đầu tư vào các công trình trọng điểm.
- Quy hoạch tổng thể các cụm công nghiệp, khu công nghiệp và khu đô thị mới; công bố quy hoạch tổng thể và kế hoạch sử dụng lao động của các cụm công nghiệp, khu công nghiệp đến các xã, phường nằm trong quy hoạch và các cơ sở đào tạo nghề để người lao động và chính quyền địa phương có các giải pháp giải quyết việc làm trong các cụm công nghiệp, khu công nghiệp để khi Nhà nước thu hồi đất, người lao động không bị hẫng hụt, bị động trong sinh hoạt và tìm việc làm mới.
- Tỉnh trích từ ngân sách (từ tiền cho thuê đất) lập quĩ đào tạo nghề, quĩ giải quyết việc làm, quỹ xuất khẩu lao động, quỹ trợ cấp thất nghiệp cho người lao động bị thất nghiệp sau khi bàn giao đất cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng đất do các hộ gia đình bàn giao về việc tiếp nhận lao động và giải quyết việc làm.
- Xây dựng cơ chế giám sát chỉ tiêu lao động, việc làm với các chỉ tiêu vốn qua các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với các dự án trọng điểm và xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
- Xây dựng quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, mở rộng thâm canh tăng vụ, hình thành các hàng sản xuất hàng hóa tập trung phối hợp với các lợi thế của từng địa phương, tăng cường cán bộ khoa học phục vụ nông nghiệp và công tác khuyến nông để áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và sản xuất nông nghiệp, bảo quản, chế biến nông sản thực phẩm; đầu tư thâm canh và ổn định diện tích trồng lúa từ 60.000 - 65.000ha, giữ ổn định việc làm cho 580.000 lao động.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tăng tỷ trọng các nông sản thực phẩm có chất lượng cao, hiệu quả kinh tế cao.
- Đầu tư xây dựng đồng bộ các công trình hạ tầng nông thôn như: trạm bơm, kênh mương, hệ thống điện,... để tăng thời gian sử dụng lao động nông thôn.
- Để đạt được tỷ trọng lao động nông nghiệp nông thôn xuống còn 55% tổng số lao động, trong 5 năm tới phải đào tạo và truyền nghề gắn với giải quyết việc làm cho 60.000 lao động khu vực nông thôn để số lao động này chuyển sang sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, phấn đấu khu vực nông nghiệp trong 5 năm sẽ giải quyết việc làm mới cho 10.000 đến 12.000 lao động.
+ Sắp xếp lại và phát triển các ngành dịch vụ.
- Sắp xếp lại các doanh nghiệp trong thương mại - dịch vụ gọn nhẹ, giảm đầu mối để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả và giải quyết cho số lao động đang thiếu việc làm của ngành. Mở rộng liên kết giữa các thành phần kinh tế để tăng khả năng mua, bán hàng, nhất là tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Chú trọng đến các vùng sâu, vùng xa, đưa mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ tăng bình quân 10%/năm. Giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu để tiêu thụ nông sản thực phẩm, sản phẩm công nghiệp, đặc biệt quan tâm khai thác thị trường Nga, Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản, Mỹ,vv.... Đầu tư tạo một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch xuất khẩu lớn và thị trường ổn định như: giày dép, quần áo may sẵn, thịt lợn sữa cấp đông, rau quả chế biến, hàng thêu ren, đưa kim ngạch xuất khẩu đến 2010 đạt 220 triệu USD.
- Phát triển mới ngành kinh tế du lịch, xây dựng các chương trình du lịch hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước, gắn du lịch của tỉnh với các tuyến du lịch trong khu vực.
- Đẩy nhanh các dịch vụ vận tải hành hoá và hành khách đảm bảo yêu cầu vận tải hàng hóa và hành khách.
- Có quy hoạch tổng thể để phát triển các chợ, chợ đầu mối để trao đổi và tiêu thụ sản phẩm của nông dân. Hình thành các khu dịch vụ bên cạnh các khu công nghiệp, cụm công nghiệp để giải quyết việc làm cho số lao động sau khi bàn giao đất không đủ điều kiện vào các doanh nghiệp.
- Nâng cao hiệu quả của hệ thống ngân hàng, thông tin liên lạc đáp ứng được yêu cầu vốn phát triển sản xuất và thông tin liên lạc.
Dự kiến các hoạt động dịch vụ 5 năm sẽ giải quyết việc làm mới cho khoảng 55.000 lao động.
3.2.2. Giải pháp tạo việc làm bằng cải cách, duy trì và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
+ Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Cổ phần hoá DNNN là chủ trương có tính nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Nó thể hiện qua các kỳ Đại hội Đảng 7,8,9, đặc biệt là trong Nghị quyết TW3 (khoá 9). Nghị quyết đã chỉ rõ phải tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN, sắp xếp DNNN theo các hình thức đa dạng hoá sở hữu như cổ phần hóa DNNN. Hiện nay các DNNN đang nắm giữ 75% giá trị tài sản cố định, 20% tổng số vốn đầu tư xã hội, gần 50% tổng số vốn đầu tư nhà nước, gần 60% tổng sản lượng vốn tín dụng ngân hàng trong nước, trên 70% vốn vay nước ngoài, trên 90% tổng số các DNNN tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài và đang được hưởng không ít những ưu đãi trong sản xuất kinh doanh. Nhưng có đến hơn 20% DNNN làm ăn thua lỗ, số còn lại phần lớn là DNNN lãi thấp hoặc không có lãi. Dẫn đến hậu quả là sản xuất kinh doanh trì trệ, lao động không có việc làm. Do đó phải tiến hành cổ phần hóa để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN.
Cổ phần hoá là một giải pháp để hình thành và phát triển Công ty cổ phần. Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN là huy động vốn (kể cả vốn trung hạn và dài hạn), góp phần đưa doanh nghiệp nhà nước từ vô chủ đến có chủ thực sự. Thực hiện cổ phần hóa sẽ rút bớt được phần vốn của Nhà nước trong DNNN để có thêm nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng thêm tỷ trọng vốn của Nhà nước trong các xí nghiệp liên doanh, nâng cao năng lực quản lý, tăng nhanh năng suất lao động.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, năm 1991 tỉnh Hải Dương đã xấy dựng đề án sắp xếp, đổi mới DNNN đến năm 2000. Kết quả thực hiện đề án là: từ 194 DNNN năm 1991 đến năm 1998 chỉ còn 72 DNNN. Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ, Hải Dương xây dựng đề án "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN tỉnh Hải Dương giai đoạn 2001-2005", tiến hành sắp xếp, cổ phần các DNNN. Dự kiến đến hết năm 2005 sẽ cơ bản hoàn thành việc thực hiện đề án.
Hầu hết các DNNN ở Hải Dương trước khi tiến hành cổ phẩn hoá đều là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh hết sức khó khăn, chưa có thị trường ổn định, có doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng giải thể do thua lỗ triền miên như Công ty Vận tải thủy, xí nghiệp chế biến gỗ... Các DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh có khoảng 15.000 lao động trong danh sách nhưng có gần 20% thường xuyên không có việc làm. Chất lượng lao động thấp do tuổi đã cao, hầu hết được đào tạo từ thời bao cấp, chuyển sang cơ chế mới chưa được đào tạo bồi dưỡng kịp thời về nghiệp vụ chuyên môn nên không đáp ứng được đòi hỏi của cơ chế thị trường, dẫn đến tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu lao động trong các doanh nghiệp.
Sau khi tiến hành cổ phần hóa, chuyển thành Công ty cổ phần, điều nổi bật nhất ở các Công ty cổ phần là đã huy động được thêm vốn từ phía người lao động trong doanh nghiệp tham gia mua cổ phần đều cao hơn số vốn nhà nước có tại doanh nghiệp, điển hình là ở Công ty cổ phần xi măng Duyên Linh đã huy động được trên 5 lần số vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Công ty dệt may Cẩm Bình cũng đã huy động tăng thêm 40%, các doanh nghiệp khác đều bằng và cao hơn trên 40%. Từ đó đã tạo ra động lực thực sự từ những người chủ đích thực, họ lao động tự giác hơn và tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp, khuyến khích tiết kiệm và nhằm đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh cao để đảm bảo lợi ích của cá nhân họ cũng như doanh nghiệp. Vì vậy, doanh thu, tích luỹ, nộp ngân sách cũng như thu nhập của người lao động trong các Công ty đều cao hơn trước khi tiến hành cổ phần hóa.
Từ kết quả thực tế cho thấy cổ phần hóa DNNN là giải pháp quan trọng để phát huy động lực, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đem lại lợi ích tích cực cho người lao động và Nhà nước, đặc biệt là tăng thu nhập và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Dự kiến đến hết năm 2005, Hải Dương sẽ cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN.
Như vậy, có thể khẳng định cổ phần hóa DNNN có vai trò to lớn trong tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, đặt kinh tế nhà nước, DNNN vào đúng vị trí, vai trò định hướng của nó. Vì vậy cần:
- Đẩy nhanh hơn nữa quá trình sắp xếp, cổ phần hóa DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN.
- Đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa do xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh tốt, sử dụng nhiều lao động, tỉnh cần có quỹ hỗ trợ việc đào tạo lao động cho doanh nghiệp.
- Khuyến khích các doanh nhân, các nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý bỏ tiền mua cổ phần tại các doanh nghiệp cổ phần hóa. Đối với các Công ty cổ phần mới ra đời, tỉnh cần quan tâm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách chế độ mới của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và toàn xã hội đối với chủ trương cổ phần hóa, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN.
+ Phát triển kinh tế tư nhân.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, xét về phương diện xã hội hoá sản xuất, cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội thì kinh tế tư nhân có một vai trò nhất định trong việc thu hút vốn đầu tư mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng thu nhập quốc dân, nâng cao đời sống.
Trước đây, do nóng vội, chủ quan trong việc cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế, kinh tế tư nhân ở nước ta không được thừa nhận tồn tại gây thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế. Từ sau Đại hội Đảng VI, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là bảo đảm cho mọi người tự do hành nghề lập nghiệp, tự do liên doanh liên kết, hợp tác và thuê mướn lao động trên cơ sở pháp luật của Nhà nước. Nhà nước bảo vệ và khuyến khích các chủ thể kinh tế (doanh nghiệp, tư nhân, gia đình và người lao động) làm giàu hợp pháp, nhằm phát huy đến mức cao nhất nhân tố con người với khả năng sáng tạo không có giới hạn trong việc tự tạo việc làm, phát triển việc làm mới và thu hút được nhiều lao động. Vì vậy, kinh tế tư nhân ngày càng được củng cố và nâng lên phù hợp với vai trò thực tế và tiềm năng to lớn của nó trong nền kinh tế thị trường.
ở Hải Dương những năm qua, nhờ chủ trương khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân đã thu hút một số lượng khá lớn lao động vào làm việc. Chẳng hạn trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, toàn tỉnh hiện có 4 Công ty cổ phần, 54 Công ty TNHH, 48 doanh nghiệp tư nhân và trên 24.500 hộ cá thể, gia đình đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Tổng số vốn đã đầu tư vào sản xuất gần 400 tỷ đồng, thu hút gần 50 ngàn lao động xã hội, chủ yếu từ khu vực nông thôn vào sản xuất công nghiệp, tạo ra trên 90% giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh của tỉnh. Với quy mô vừa và nhỏ, trình độ công nghệ trung bình, bộ máy quản lý gọn nhẹ và năng động, quan hệ chủ - thợ rõ ràng, các doanh nghiệp tư nhân đã thích ứng nhanh với cơ chế thị trường. Nhiều doanh nghiệp đã liên tục đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, vươn mạnh ra thị trường cả nước và xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động như Công ty Bánh đậu xanh Quê Hương, Công ty Phương Anh...ở nông thôn, mô hình kinh tế trang trại phát triển, nhiều làng nghề truyền thống được phục hồi. Điều đó một phần cũng nhờ vào sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Toàn tỉnh hiện có trên 170 trang trại, sử dụng hàng ngàn lao động và ngày công lao động thời vụ. Hải Dương là một tỉnh vốn có nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống phát triển khá sớm và nổi tiếng cả nước: Mộc Cúc Bồ (Ninh Giang), gỗ Đông Giao (Cẩm Giàng), vàng bạc Châu Khê (Bình Giang), rượu Phú Lộc (Cẩm Giàng), thêu ren Xuân Nẻo (Tứ Kỳ), giày da Tam Lâm (Gia Lộc), gốm Chu Đậu (Nam Sách), sứ Cậy (Bình Giang), bánh đậu xanh (Hải Dương), bánh gai (Ninh Giang). Sau những bước thăng trầm trong chiến tranh và thời kỳ bao cấp, đến nay toàn tỉnh có trên 60 ngành nghề tiểu thủ công nghiệp khác nhau và 42 làng nghề truyền thống, thu hút gần 3 vạn lao động làm nghề. Sự phát triển của các làng nghề đã góp phần tạo nhiều việc làm tại chỗ, góp phần xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Như vậy có thể thấy tiềm năng kinh tế tư nhân ở Hải Dương rất lớn, cần phải khơi dậy để kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, tạo điều kiện cho nó đóng góp hơn nữa cho nền kinh tế. Kinh tế tư nhân khi phát triển sẽ đóng góp vào nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là có khả năng tạo nhiều việc làm cho xã hội. Vậy để phát triển kinh tế tư nhân nhằm tạo thêm nhiều việc làm cần:
- Tạo sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân được bình đẳng với DNNN về pháp luật trong tiếp cận, tìm kiếm thị trường, về tiếp cận khoa học công nghệ, về tín dụng, về sử dụng cơ sở hạ tầng, về đào tạo cán bộ.
- Hiện nay, kinh tế tư nhân đầu tư vào lĩnh vực sản xuất còn ít, phần lớn là đầu tư vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ, vì lĩnh vực này thu được lợi nhuận cao, vốn đầu tư ít, thu hồi vốn nhanh và dễ chuyển đổi hướng khi kinh doanh gặp phải rủi ro. Do đó tỉnh cần có chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng để khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vì lĩnh vực này huy động được nhiều vốn hơn, thu hút được nhiều lao động hơn và tạo thêm nhiều hàng hóa cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Gắn kết các doanh nghiệp tư nhân và làng nghề với hệ thống thương mại để thiết lập hệ thống lưu thông hàng hóa ở trong nước và xuất khẩu.
- Giành một phần diện tích đất đai để đầu tư xây dựng cụm, điểm công nghiệp nông thôn, làng nghề.
- Ưu tiên trọng điểm đầu tư vào những ngành, những sản phẩm có lợi thế so sánh và có triển vọng thị trường của tỉnh như vật liệu xây dựng, chế biến nông sản thực phẩm, may mặc, da giầy, thủ công mỹ nghệ và cơ khí điện tử, nhằm tạo nguồn thu và giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Thành lập quỹ đầu tư phát triển của tỉnh nhằm hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả cho các dự án đầu tư, các doanh nghiệp dân doanh phát triển sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.
- Khuyến khích và hỗ trợ kinh tế tư nhân nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã...để nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành, tăng chất lượng hàng hóa.
- Đào tạo, tập huấn và bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp, doanh nhân và người lao động.
+ Phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một trong những hình thức tạo việc làm hấp dẫn và được đặc biệt coi trọng trong điều kiện của nước ta hiện nay, vì nó đã giải quyết được những vấn đề cơ bản và khó khăn của Việt Nam là thiếu vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để phát triển kinh tế nói chung và tạo việc làm cho người lao động nói riêng.
Tính đến thời điểm 31/12/2003 trên địa bàn tỉnh Hải Dương có 25 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động, thu hút trên 3000 lao động tại các doanh nghiệp và hàng trăm lao động gián tiếp khác. Cho đến nay (3/2005), trên địa bàn tỉnh đã có 70 dự án đầu tư nước ngoài đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký 650,9 triệu USD (trong đó 58 dự án đầu tư bên ngoài khu công nghiệp với tổng số vốn đầu tư 54,9 triệu USD), giải quyết việc làm cho trên 12.000 lao động.
Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Hải Dương những năm vừa qua tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn nhanh, những ngành nghề dễ khai thác thị trường trong nước, những lĩnh vực tại địa phương có nhiều tiềm năng nhưng chưa khai thác như: may mặc, lắp ráp ô tô, xi măng...Các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu thu hút vốn đầu tư chủ yếu là gia công (sản phẩm may mặc, kim cương). Như vậy, vốn đầu tư nước ngoài đã hướng mạnh vào các ngành công nghiệp, các lĩnh vực trong nước chưa có khả năng đầu tư do thiếu vốn, thiếu công nghệ và kinh nghiệm quản lý, nhưng hoạt động chiều sâu và chuyển giao công nghệ gốc còn rất hạn chế.
Để phát triển hơn nữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tăng nhanh việc làm và hiệu quả việc làm, trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài như rút ngắn thời gian cấp phép, thủ tục thuê đất đai, mặt bằng sản xuất, chính sách thuế phù hợp, hấp dẫn các chủ đầu tư.
- Hải Dương là tỉnh có ưu thế về sản xuất các mặt hàng nông sản như: vải quả, chuối tiêu, hành tỏi, ớt...Các loại thực phẩm như thịt gia súc, gia cầm, thủy đặc sản...Những năm qua, tỉnh đã có những thành công nhất định trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, song số dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất chế biến nông sản thực phẩm còn ít. Cần có kế hoạch xây dựng các dự án ưu tiên gọi vốn đầu tư, trong đó đặc biệt chú trọng tới các dự án trong ngành công nghiệp chế biến nông sản phẩm trong tỉnh.
+ Đổi mới hợp tác xã (HTX)
Các hợp tác xã là nòng cốt của thành phần kinh tế tập thể.
Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các HTX được thành lập một cách ồ ạt trên cơ sở gò ép tập thể hoá đối với kinh tế cá thể. ở miền Bắc chỉ sau mấy năm tiến hành tập thể hoá đến năm 1960 có gần 90% số hộ nông dân vào HTX. Việc gò ép tập thể hoá như vậy đã vi phạm nguyên tắc hợp tác hoá và các quy luật kinh tế khách quan, dẫn đến tình hình là hầu hết các HTX sản xuất không có hiệu quả, nhiều HTX chỉ tồn tại trên hình thức. Mô hình HTX theo kiểu cũ ngày càng trở thành gánh nặng cho Nhà nước. Hiệu quả kinh tế giảm sút nghiêm trọng đã góp phần dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội cuối thập kỷ 70.
Thực trạng HTX trên đây đã dẫn đến sự ra đời của mô hình hợp tác xã mới được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ. HTX được tổ chức trên cơ sở đóng góp vốn tài sản (cổ phần) và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung.
Thời kỳ từ năm 1996 đến nay là thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của các hợp tác xã theo luật HTX, bước đầu tổ chức lại sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Toàn tỉnh Hải Dương hiện nay có 380 HTX, hầu hết các HTX đã chuyển đổi theo luật HTX, bước đầu ổn định sản xuất kinh doanh. Đã có 9 mô hình hợp tác xã mới như: HTX chăn nuôi (Nam Sách), HTX tư vấn và thủy đặc sản (Thanh Hà); HTX thủy sản (Cẩm Giàng)... Những HTX này hình thành chủ yếu ở những vùng sản xuất tập trung, đã có sự liên kết từ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Một số HTX hoạt động đạt hiệu quả, làm ăn có lãi, bước đầu tích luỹ vốn để đầu tư phát triển sản xuất. Qua tổng kết, đã có 74,8% số HTX làm ăn có lãi, bình quân 14 triệu đồng/HTX, có HTX lãi trên 100 triệu đồng trở lên như HTX Thạch Khôi, Lê Lợi (Gia Lộc), Thái Học, Nhân Quyền (Bình Giang), Lai Cách, Cẩm Đông (Cẩm Giàng). Đã xuất hiện hình thức liên doanh, liên kết giữa các HTX để giúp nhau phát triển. Hình thức này tuy chưa phổ biến, nhưng cũng đã có một số mô hình hợp tác giữa tư nhân với HTX và doanh nghiệp như: HTX Toàn Thắng, Lê Lợi, Hồng Hưng, Đức Xương (Gia Lộc), Cổ Dũng (Kim Thành) nhiều năm ký hợp đồng với Viện Ngô sản xuất tiêu thụ hàng nghìn tấn ngô giống cho các hộ xã viên, doanh thu có HTX lên đến 3,5 tỷ đồng. Nhiều HTX đã ký kết hợp đồng với Công ty Supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao cung ứng phân bón trả chậm cho nông dân, tạo được sự tin tưởng và yên tâm sản xuất của xã viên. Tuy nhiên, còn nhiều mô hình HTX trong khu vực nông nghiệp hoạt động kém hiệu quả, chưa có sự thay đổi thực sự về chất về cả nội dung và phương thức hoạt động.
Trong thời gian tới, tỉnh cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và có chính sách khuyến khích ưu đãi có hiệu quả như chính sách hỗ trợ đầu tư, tín dụng, thuế, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ...để giúp đỡ các HTX phát triển sản xuất kinh doanh, làm ăn có lãi, tạo việc làm ổn định cho xã viên.
3.2.3. Giải pháp tạo việc làm qua tài chính - tiền tệ
+ Chính sách thuế:
Thuế là nguồn thu chủ yếu, ổn định của ngân sách nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập quốc dân. Thuế còn là đòn bẩy mạnh mẽ khuyến khích phát triển sản xuất, tạo mở việc làm. Xét đến cùng thì vấn đề sau mới là quan trọng nhất, quyết định nhất. Bởi vì chỉ có khuyến khích phát triển sản xuất, tạo mở việc làm thì mới tạo ra được nguồn thu cho ngân sách ngày càng lớn.
Mặc dù nước ta đã có luật thuế, chính phủ cũng luôn thay đổi mức thuế cụ thể cho phù hợp với thực tế. Song chính sách thuế của nước ta hiện nay vẫn có nhiều nhược điểm sớm phải khắc phục và đổi mới. Để khuyến khích các chủ thể kinh tế phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, ngoài việc thực hiện theo luật thuế, Hải Dương cần có chính sách ưu đãi về thuế như: miễn giảm thuế nông nghiệp, thủy lợi phí, bảo hiểm sản xuất đối với một số sản phẩm mũi nhọn của tỉnh.
+ Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các làng nghề:
Trong khu vực này đã xuất hiện nhiều cơ sở, cá nhân làm ăn hiệu quả, có hướng phát triển tốt, nhiều người dám bỏ vốn lớn, hoặc vay vốn để phát triển sản xuất. Tỉnh cần có các chính sách như: miễn giảm thuế, tạo điều kiện thuận lợi khi vay vốn.
Đối với cụm, điểm công nghiệp nông thôn thuộc nhóm ngành, khu vực cần ưu đãi đầu tư của tỉnh được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong những năm đầu hoạt động (5 năm), giảm 50% trong những năm tiếp theo.
Đối với các khu công nghiệp tập trung thu hút nhiều lao động, cần có chính sách ưu đãi riêng về thuế nhằm khuyến khích các nhà đầu tư vào triển khai dự án...
+ Chính sách đầu tư:
Chương trình giải quyết việc làm ở Hải Dương những năm qua đã được triển khai có kết quả trên cả 3 hướng. Phát triển kinh tế tạo mới việc làm, hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, Hải Dương vẫn chưa có những giải pháp mang tính đột phá trong chính sách đầu tư để phát triển thị trường lao động và tạo mới việc làm. Đầu tư tài chính vẫn còn dàn trải và trong nhiều trường hợp còn mang dấu vết của cơ chế xin - cho. Sức ép về việc làm do gia tăng dân số, do sắp xếp lại hệ thống DNNN, do tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những thách thức đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ chính sách đầu tư trong những năm tới.
Để phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, chính sách đầu tư của tỉnh phải đáp ứng tốt một số định hướng cơ bản:
- Trước hết, cần phải tăng đầu tư cho nông ngiệp, nông thôn, bởi vì lao động nông nghiệp chiếm 77,06% lao động của tỉnh. Đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất ở nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, phù hợp với tiềm năng về đất đai, lao động và sinh thái từng vùng, xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, khôi phục và phát triển mạnh làng nghề. Có chính sách trợ giúp các làng nghề, xã nghề để tạo việc làm mới cho người lao động. Đầu tư xây dựng đồng bộ các công trình hạ tầng nông thôn như trạm bơm, kênh mương, hệ thống điện,...để tăng thời gian sử dụng lao động nông thôn.
- Đầu tư chiều sâu, tăng cường bổ sung thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hóa từng phần các ngành sản xuất công nghiệp. Đầu tư phát triển vào các ngành công nghiệp mà tỉnh có lợi thế về nguyên liệu, hình thành khu công nghiệp tập trung, tạo mở việc làm mới. Tập trung đầu tư màng lưới kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất công nghiệp.
- Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng được yêu cầu sử dụng của các cụm công nghiệp, khu công nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có công nghệ cao.
+ Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng là một trong những chính sách vĩ mô quan trọng của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Nó không chỉ nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh mà còn góp phần phát triển kinh tế, mở ra cơ hội tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Trong những năm trước mắt, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng phù hợp các đối tượng vay vốn để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách hướng vào tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Với đối tượng vay là chủ thể sản xuất kinh doanh theo đúng cơ chế thị trường thì áp dụng chính sách lãi suất thị trường.
Đối tượng vay là người chưa có việc làm, các hộ gia đình có khả năng tạo việc làm, các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ có phương án mở rộng sản xuất kinh doanh tạo thêm việc làm mới, thu hút thêm lao động, Nhà nước trợ giúp tạo mở việc làm bằng chính sách tín dụng với lãi suất nâng đỡ thông qua các quỹ xã hội, quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm, quỹ xoá đói giảm nghèo.
ở Hải Dương, đối với doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất thu hút thêm lao động vào làm việc ổn định như các doanh nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, khai thác chế biến khoáng sản...thì có thể cho vay vốn từ quỹ hỗ trợ việc làm để phát triển sản xuất. Đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ có khó khăn, cho vay vốn từ quỹ hỗ trợ để số lao động nữ khỏi mất việc làm do thiếu vốn.
Cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ sở dạy nghề cho người tàn tật, các cơ sở dạy nghề có đông người tàn tật học hoặc cơ sở sản xuất tiếp nhận người tàn tật cao hơn quy định của Nhà nước được vay vốn từ quỹ hỗ trợ để dạy nghề và tạo việc làm cho lao động là người tàn tật.
Ngoài nguồn vốn từ quỹ hỗ trợ, ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng nông nghiệp và các tổ chức tín dụng cho các hộ gia đình vay vốn để phát triển kinh tế, tạo thêm việc làm mới và tăng tỷ lệ thời gian lao động ở nông thôn.
Củng cố và hoàn thiện một bước quỹ tín dụng nhân dân để góp phần đáp ứng nhu cầu vốn phát triển công nghiệp nông thôn và làng nghề. Gắn việc cho vay với chuyển giao công nghệ, hướng dẫn cách làm ăn cho nông dân và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề truyền thống.
Các tổ chức tín dụng cần vận dụng công cụ lãi suất phù hợp huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân để đầu tư phát triển sản xuất và chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
3.2.4. Giải pháp tạo việc làm qua giáo dục đào tạo
Giáo dục đào tạo, đặc biệt đào tạo nghề là một giải pháp chiến lược để tạo việc làm bền vững ở nước ta nói chung và Hải Dương nói riêng.
Hiện nay ở Hải Dương, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, chiếm 24,45% trong LLLĐ (năm 2004). Cơ cấu lao động qua đào tạo chưa hợp lý, tỷ lệ lao động qua đào tạo theo cơ cấu công nhân kỹ thuật - trung học chuyên nghiệp - cao đẳng, đại học là 4,4-1-1,1, chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng. Đặc biệt số công nhân kỹ thuật thiếu về số lượng, yếu về chất lượng không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Vì vậy, tỉnh cần có chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề để nâng cao trình độ cho người lao động, tăng cơ hội tiếp cận việc làm cho mọi người, điều chỉnh cơ cấu lao động giữa các ngành nghề, lĩnh vực, trình độ sao cho phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động.
- Thứ nhất, về cơ chế chính sách:
Hiện nay, kinh phí đầu tư cho dạy nghề còn quá ít, chưa được ghi vào kế hoạch chi của ngân sách địa phương. Do nhiều năm chưa chú trọng việc dạy nghề nên hệ thống các cơ sở dạy nghề địa phương vừa thiếu, vừa yếu, vừa phân bố không đều. Bởi vậy, tỉnh cần đảm bảo ngân sách và vận động mọi tầng lớp nhân dân tạo nguồn kinh phí cho các cơ sở dạy nghề, các lớp dạy nghề.
- Đa dạng hoá các hoạt động dạy nghề. Có chính sách khuyến khích để các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các cá nhân...có khả năng dạy nghề đều được tham gia dạy nghề. Đặc biệt là các cơ sở dạy nghề và truyền nghề cho nông dân.
- Nâng cao năng lực của các cơ sở dạy nghề hiện có, đa dạng hoá nghề học, coi trọng dạy các nghề phục vụ nông nghiệp nông thôn, dạy nghề gắn với sản xuất nông nghiệp (trường công nhân kỹ thuật Hải Dương, trường trung cấp công nghiệp, các trung tâm dịch vụ việc làm, trung tâm giáo dục hướng nghiệp- dạy nghề và trung tâm bảo trợ xã hội) theo hướng mở rộng quy mô đào tạo công nhân kỹ thuật, đầu tư mới trang thiết bị dạy nghề, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo.
- Đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo hướng dịch chuyển dần lao động nông nghiệp sang lĩnh vực khác. Phát huy việc truyền nghề trong các làng nghề truyền thống, mở rộng hình thức chuyển giao công nghệ cho nông dân...làm tăng chất lượng lao động ở khu vực nông thôn và nông nghiệp.
- Thực hiện chương trình đào tạo liên thông giữa các cấp đào tạo (dạy nghề - trung học chuyên nghiệp - cao đẳng, đại học) để nâng cao hiệu quả kinh tế trong đào tạo, mở hướng cho những người học ở trình độ thấp có thể tiếp tục học lên ở trình độ cao hơn, đồng thời tạo thuận lợi cho việc phân luồng học sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề hợp lý hơn.
- Thành lập trường dạy nghề công nghệ cao để đào tạo nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ cho đội ngũ công nhân, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2.5. Phát triển thị trường lao động
Tạo lập và phát triển thị trường lao động là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta. Phát triển thị trường lao động vững mạnh là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định tình hình chính trị - xã hội. Thị trường lao động không chỉ là nơi gặp gỡ giữa người lao động và người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho lao động dễ dàng di chuyển từ khu vực có thu nhập thấp sang khu vực có thu nhập cao, từ những ngành dôi dư sang những ngành có nhu cầu, mà còn là nơi tạo ra nhu cầu, nơi hướng dẫn nhu cầu đào tạo lao động cho nền kinh tế.
Những năm qua, thị trường lao động ở Hải Dương đã có những đổi mới đáng khích lệ. Tính chủ động của người lao động trong việc tham gia vào hoạt động thị trường, tìm kiếm việc làm đã được nâng cao hơn. Các chủ sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế tích cực hơn trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm mới, hình thức giao dịch trên thị trường lao động rất đa dạng, từ giao dịch qua các kênh cá nhân như quan hệ gia đình, bè bạn đến các hình thức chính quy như thi tuyển, tìm việc làm qua các trung tâm dịch vụ việc làm, các hội chợ lao động...trong đó, các trung tâm dịch vụ việc làm đóng vai trò ngày càng quan trọng.
Hiện nay ở Hải Dương, các trung tâm dịch vụ việc làm đã dần dần hoàn thiện về tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động, đã gắn kết được hoạt động dạy nghề với giới thiệu việc làm. Vì vậy, đã tạo được khả năng bố trí việc làm cao hơn cho người lao động. Từ năm 2000- 2004, các Trung tâm đã tư vấn việc làm và tư vấn nghề nghiệp cho trên 40.000 lượt người, cung cấp thông tin thị trường lao động và người sử dụng lao động cho hơn 4 ngàn lượt người và dạy nghề ngắn hạn cho 23.492 người. Đến nay, các Trung tâm đã được mua sắm trang thiết bị để phục vụ cho hoạt động dịch vụ việc làm, một số trung tâm đã được nối mạng cục bộ, sử dụng phần mềm kết nối dịch vụ việc làm, nối mạng Internet. Tuy nhiên, việc trang bị trên không đồng bộ nên việc bao quát, thu thập thông tin thị trường lao động vừa thiếu, vừa không cập nhật kịp so với diễn biến của thị trường lao động, không thống nhất giữa các trung tâm, thông tin thị trường lao động bị chia cắt giữa các Trung tâm đã làm hạn chế việc cung cấp thông tin thị trường lao động cho người lao động và người sử dụng lao động.
Ngoài các hoạt động của các Trung tâm, hoạt động của hội chợ việc làm hàng năm đã góp phần tích cực vào hệ thống thông tin thị trường, hoạt động này đã thực sự là cầu nối giữa người lao động và người sử dụng lao động. Qua hội chợ việc làm giúp các nhà quản lý phát hiện được sự bất cập giữa nhu cầu việc làm và tuyển dụng lao động (thiếu kỹ sư và công nhân kỹ thuật, thừa cử nhân kinh tế, xã hội...).
Bên cạnh việc phát triển thị trường lao động trong nước, trong những năm qua, Hải Dương đã chú trọng đến việc phát triển thị trường ngoài nước, thực hiện xuất khẩu lao động. Do hệ thống cơ chế chính sách về xuất khẩu lao động được hoàn thiện, đặc biệt Hải Dương được chọn làm thí điểm mô hình liên thông giữa địa phương và các công ty xuất khẩu lao động, cùng với một số chính sách hỗ trợ của tỉnh, trong vòng 4 năm (2001- 2004) Hải Dương đã xuất khẩu được 17.228 lao động (chiếm 18,32% tổng số lao động được giải quyết việc làm), ước thực hiện đến hết năm 2005 sẽ xuất khẩu được 50.588 lao động, chủ yếu là sang Đài Loan, Malaixia và một số nước khác. Tuy nhiên, trong những năm tới, hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia phải phát triển trong hoàn cảnh trong nước và quốc tế rất khó khăn. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta vẫn còn ở mức thấp, sức ép về việc làm còn lớn, chất lượng và cơ cấu lao động còn lạc hậu, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia chưa cao. Xu thế toàn cầu hoá trong những năm gần đây và trong thời kỳ tới sẽ càng thúc đẩy sự phân công lao động trên thế giới, tạo điều kiện cho lao động và chuyên gia Việt Nam hội nhập thị trường lao động quốc tế. Mặc dù, nhu cầu lao động nước ngoài đang giảm xuống do các nước nhận nhiều lao động nước ngoài áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tập trung đầu tư đổi mới, hiện đại hoá công nghệ sản xuất hoặc chuyển dịch đầu tư sang các nước nghèo, nhưng thị trường lao động quốc tế vẫn còn nhu cầu lớn về sử dụng lao động nước ngoài, tập trung vào một số lĩnh vực: lao động đơn giản, nặng nhọc, môi trường làm việc kém: lao động dịch vụ và giúp việc gia đình, lao động kỹ thuật cao và chuyên gia trong các ngành công nghệ cao, lao động làm việc trên biển...Trong khi đó, các nước đang phát triển vẫn tăng cường xuất khẩu lao động và chuyên gia, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó,Việt Nam nói chung và Hải Dương nói riêng, nguồn lao động qua đào tạo nghề còn thấp, thiếu lao động trong các ngành mà thị trường quốc tế có nhu cầu, tác phong làm việc công nghiệp, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật của một bộ phận người lao động chưa cao. Phần lớn lao động chưa có trình độ ngoại ngữ cần thiết để giao tiếp với chủ sử dụng lao động trong làm việc, lợi thế của Việt Nam về giá nhân công thấp đang mất dần, lại chịu sự cạnh tranh gay gắt với lao động của các nước đã đi trước và đã có chỗ đứng, có uy tín trên thị trường.
Để khắc phục những hạn chế và thách thức nói trên của thị trường lao động, Hải Dương cần có những giải pháp cụ thể sau:
- Cần có các biện pháp thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động.
Tổ chức cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm đăng ký tìm việc làm tại các Trung tâm dịch vụ việc làm của tỉnh.
Cung cấp các dịch vụ việc làm miễn phí cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm đã đăng ký tìm việc làm, nội dung gồm: Tư vấn lựa chọn việc làm, nơi làm việc, tư vấn chọn nghề học, hình thức, nơi học nghề, tư vấn lập dự án tạo việc làm hoặc dự án tạo thêm việc làm, tư vấn pháp luật liên quan đến việc làm, giới thiệu việc làm, bố trí việc làm, các dịch vụ khác về việc làm khi được yêu cầu.
Tổ chức cung cấp dịch vụ việc làm cho người sử dụng lao động theo hợp đồng. Nội dung các dịch vụ việc làm đối với người sử dụng lao động gồm: Cung cấp nhân lực, tư vấn pháp luật về lao động, trao đổi thông tin về thị trường lao động, các dịch vụ khác.
Đầu tư xây dựng trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các Trung tâm dịch vụ việc làm và các vệ tinh ở tuyến huyện, khu công nghiệp để các Trung tâm làm tốt nhiệm vụ điều tra, khảo sát, thu thập, xử lý thông tin từ thị trường lao động.
- Cần có các biện pháp tăng cầu lao động.
Mục tiêu của Hải Dương là từ năm 2006- 2010 xuất khẩu được từ 20.000- 22.000 lao động. Để thực hiện mục tiêu này, trong các năm tới cần tiếp tục thực hiện mô hình liên thông giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động và địa phương để ổn định, mở rộng các thị trường trọng điểm, bao gồm: Thị trường Malaixia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Lào, Libi, Trung Đông và Châu Phi, thị trường lao động trên biển. Mở thêm một số thị trường mới, từng bước tiếp cận thị trường khác trong khu vực, cũng như tại các nước thuộc thị trường Châu Phi, Trung Đông, Liên bang Nga, Đông Âu, EU và Bắc Mỹ.
Theo dự báo của Cục quản lý lao động ngoài nước, trong 5 năm tới số lượng, cơ cấu, thị trường xuất khẩu lao động ở Việt Nam có thể xuất khẩu sang thị trường các nước từ 420.000 đến 440.000. Đây là một thuận lợi để Hải Dương thực hiện mục tiêu xuất khẩu lao động nêu trên.
Ngoài thị trường các nước nói trên, các trung tâm dịch vụ việc làm tìm kiếm khai thác một số thị trường trong nước như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp lớn để tư vấn và giới thiệu lao động đến làm việc.
- Nâng cao chất lượng nguồn lao động phục vụ xuất khẩu.
Đưa công tác đào tạo lao động để xuất khẩu vào kế hoạch của các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề. Khuyến khích các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp và người lao động cùng đầu tư đào tạo, chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ cho xuất khẩu lao động theo nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Tăng cường liên kết giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động để nâng cao chất lượng đào tạo, bổ túc tay nghề, giáo dục, định hướng, ngoại ngữ, pháp luật, phong tục tập quán của các nước cho người tham gia xuất khẩu lao động.
Nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ, hướng nghiệp dạy nghề trong giáo dục phổ thông để học sinh sau khi ra trường có đủ năng lực tham gia vào thị trường lao động ngoài nước.
KẾT LUẬN
Đối với nước ta hiện nay, vấn đề tạo việc làm cho người lao động thực sự là vấn đề kinh tế - xã hội đang được đặt ra một cách bức bách, trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và mọi người dân. Cần đổi mới căn bản về tư duy, cơ chế và tìm ra hướng đi phù hợp cho việc giải quyết nhiệm vụ khó khăn và bức bách đó. Đó là trách nhiệm của chính quyền Nhà nước các cấp, các tổ chức xã hội và của bản thân từng người lao động. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020 xác định mục tiêu quan trọng hàng đầu là giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội. Chương trình việc làm đến năm 2020 có mục tiêu là: bằng mọi biện pháp và hình thức giải quyết việc làm cho phần lớn lao động xã hội, bảo đảm việc làm có đủ thu nhập để người lao động nuôi sống được bản thân và gia đình họ; đồng thời, đóng góp một phần cho xã hội.
Nhận rõ được tầm quan trọng trên, ở Hải Dương trong những năm qua, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, các cấp, các ngành đã quan tâm đến công tác giải quyết việc làm. Các ngành sản xuất kinh doanh, các đoàn thể, huyện, thành phố trong những năm qua đã có những hoạt động thiết thực cho công tác giải quyết việc làm như: phong trào thi đua sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tìm thị trường mới, tăng khả năng cạnh tranh trong công nghiệp, phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình của các tổ chức quần chúng, các hội như: Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Công đoàn,... Hoạt động của các loại hình kinh tế phát triển nhanh, rất cơ động, đạt hiệu quả kinh tế cao đã thu hút và tạo việc làm cho nhiều lao động.
Tuy nhiên, ở Hải Dương hiện nay vấn đề tạo việc làm vẫn là một vấn đề bức xúc do lực lượng lao động ngày càng tăng, chất lượng và cơ cấu lao động chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao động. Trong thời gian tới, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ đảng và chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền với các tổ chức chính trị-xã hội, giữa các ngành ở cấp tỉnh đến cấp huyện, đến các xã, phường và cơ sở. Tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc làm, tạo ra những nhân tố mới làm thay đổi cơ bản nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội và mọi người dân về giải quyết việc làm để người lao động năng động và chủ động tự tạo việc làm cho mình và cho người khác, không ỷ lại trông chờ vào Nhà nước. Tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các Bộ, ngành Trung ương, các tổ chức quốc tế, đơn vị ngoài tỉnh trong hỗ trợ giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động. Gắn mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội với mục tiêu giải quyết việc làm, coi giải quyết việc làm là công cụ phát triển kinh tế-xã hội.
Thực trạng và giải pháp tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Song do thời gian và khả năng nghiên cứu của tác giả nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự chỉ dẫn góp ý bổ sung của các thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương (2002), Các chương trình, đề án thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII, tập I.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương (2002), Các chương trình, đề án thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII, tập II.
Bộ Kế hoạch và đầu tư, Viện Chiến lược phát triển, Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2006 - 2020.
Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (1999), Sổ tay thống kê thông tin thị trường lao động ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cục thống kê tỉnh Hải Dương (2004), Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương 2003, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đại học Kinh tế quốc dân (2000), Giáo trình chính sách kinh tế-xã hội, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (1999), Giáo trình Luật lao động Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương (2000), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII.
Lê Duy Đồng (2001), "Lao động việc làm thời kỳ 1991-2000 và phương hướng giai đoạn 2001 - 2010", Tạp chí Lao động và xã hội, (III), tr.3-7.
Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Đình Hoan - Lê Mạnh Khoa (1991), Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Thanh Hòa (2005), "Xuất khẩu lao động trong xu hướng hội nhập cơ hội và thách thức", Tạp chí Lao động và xã hội, (264), tr.13-15.
Học viện Hành chính Quốc gia, Quản lý nguồn nhân lực xã hội, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Hội đồng Lý luận Trung ương (1999), Giáo trình kinh tế học chính trị Mác- Lê nin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thị Lan Hương (2002), Thị trường lao động Việt Nam - định hướng và phát triển, Nxb Lao động-xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Mỹ Hương (2004), Thị trường lao động ở Nghệ An - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trần Thị Tuyết Hương (2005), "Chất lượng nguồn lao động ở Hưng Yên; những vấn đề đặt ra", Tạp chí Lao động và xã hội, (263), tr.26-28.
Nguyễn Thị Mai Lan (2000), Thất nghiệp ở nước ta hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Đặng Tú Lan (2001), Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C.Mác (1984), Bộ tư bản, Tập thứ nhất, quyển I, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C.Mác và Ph.Ăng ghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Bá Ngọc - Trần Văn Hoan (2002), Toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam, Nxb Lao động-xã hội, Hà Nội.
Đặng Hồng Ngự (2003), "Thái Nguyên giải quyết việc làm: Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Lao động và xã hội (219), tr.22-23.
Nguyễn Hồng Quân (2001), "Lao động-việc làm ở Quảng Ninh những năm đầu của kỷ nguyên mới", Tạp chí Lao động và xã hội, (175), tr.16-19.
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương (2004), Kết quả điều tra lao động việc làm.
Đinh Trọng Thịnh (2005), "WTO và vấn đề tạo việc làm cho người lao động", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (96), tr.39-41.
Thiện Thuật (2005), "Dạy nghề cho nông dân ở Thái Bình", Tạp chí Lao động và xã hội (263), tr.15.
Phan Chính Thức (2001), "Phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhận thức cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hướng tới nền kinh tế tri thức", Tạp chí Lao động và xã hội, (III), tr.13-15.
Hà Quý Tình (2004), Hoàn thiện các chính sách vĩ mô của Nhà nước để tạo việc làm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Học viện Tài chính.
Lưu Ngọc Trịnh (1996), Chiến lược con người trong "thần kỳ" kinh tế Nhật Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trung tâm Khoa học và nhân văn quốc gia, Viện Thông tin khoa học và xã hội (1999), Thị trường lao động trong kinh tế thị trường, Hà Nội.
Đỗ Thế Tùng (2001), "ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam", Tạp chí Lao động và xã hội, (III), tr.19-21.
ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2005), Báo cáo nghiên cứu tổng kết chương trình giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005 và phương hướng thực hiện 2006-2010 của tỉnh Hải Dương.
ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2005), Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2006-2010.
ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương, Sở Lao động Thương binh và Xã hội; Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ năm 2005 của ngành lao động thương binh và xã hội tỉnh Hải Dương.
Nông Đức Vinh (2004), Việc làm ở Lạng Sơn: Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
MỤC LỤC
PHỤ LỤC
Tổng hợp kế hoạch giải quyết việc làm từ các sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
Các chỉ tiêu tăng thêm
Đ.V tính
Sản lượng tăng hàng năm
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Số
lượng
Số LĐ
Số
lượng
Số LĐ
Số
lượng
Số LĐ
Số
lượng
Số LĐ
Số
lượng
Số LĐ
Số LĐ thu hút
68.679
12.270
13.249
14.160
14.500
14.500
Máy bơm nước
Chiếc
350
252
600
432
700
504
800
576
900
648
Xi măng
1000 tấn
1000
1230
800
984
1200
1476
0
0
0
0
Đá các loại
1000m3
435
1009
535
1110
635
1210
650
1250
650
1250
Gạch nung các loại
Tr.Viên
60
708
60
708
60
708
60
708
60
708
Sử các loại
1000 SP
2200
110
2200
110
2200
110
2200
110
-
-
Giấy XK các loại
1000 đôi
2000
1760
3000
2640
3000
2640
2000
1760
100
880
Quần áo may sẵn
1000 SP
2466
3674
2500
3700
3650
3700
3650
4150
2500
3700
Bia, nước giải khát
1000 lít
0
0
1418
314
3918
941
5918
4346
6918
1535
Sửa chữa cơ khí
-
3027
-
2651
-
2121
-
3110
-
3279
Bánh kẹo, chế biến NSTP
Tấn
1000
500
1200
600
1500
750
3000
1500
5000
2500
Nguồn: Nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm 2006-2010 của UBND tỉnh Hải Dương.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay.doc