Đề tài Hợp đồng tín dụng và những vấn đề thực tiễn

Ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân cho khách hàng như đã cam kết. Các tổ chức tín dụng không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Nhiều tổ chức cho vay không tiến hành quy trình thẩm định theo nguy ên tắc 6cs, điều mà các định chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo là: 6cs tính cách người vay (character), năng lực trả nợ (capacity), dòng tiền mặt (cash folow), tài sản thế chấp (collaral), các điều kiện môi trường (conditions), sự kiểm soát (control), mà vẫn dựa vào cảm tính của các nhân viên ngân hàng. Điều này, tạo điều kiện cho các tổ chức “tín dụng đen” ngày càng được tổ chức ở phạm vi rộng rãi hơn, quy mô hơn và nhiều người đã trở thành nạn nhân của các tổ chức này. Trên thực tế, bên cho vay khi tiến hành thẩm định cũng không thể kiểm tra được bên vay có thông qua một tổ chức tín dụng đen nào không.

pdf30 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3537 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng tín dụng và những vấn đề thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về tính chính xác và hợp pháp của các thông tin, tài liệu cung cấp cho ngân hàng. 10 - Sử dụng tiền vay đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và các cam kết khác với ngân hàng. - Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả thuận về việc trả nợ và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. - Trong số các nghĩa vụ của bên vay, thì nghĩa vụ trả nợ là quan trọng nhất. Nghĩa vụ này chỉ được miễn trừ nếu bên cho vay đồng ý, còn lại thì sẽ không bao giờ được miễn trừ, kể cả xảy ra tình trạng bất khả kháng. III.3. Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay III.3.a. Quyền của bên cho vay Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án, phương án vay vốn khả thi, khả năng tài chính của mình và người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay; - Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn; dự án, phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc ngân hàng không có đủ nguồn vốn để cho vay. - Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. - Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng. - Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc khởi kiện bên thứ ba cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo quy định của pháp luật. - Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác thì ngân hàng có quyền bán tài sản bảo đảm tiền vay theo sự thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay để thu nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người thứ ba thực hiện nghĩa vụ cầm cố, thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay vốn. - Miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định của ngân hàng; gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ theo quy định. - Mua bán nợ, đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ và cơ cấu lại nợ theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam. III.3.b. Nghĩa vụ của bên cho vay Giải ngân cho bên vay theo đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật. 11 - Trong số các nghĩa vụ của bên cho vay, thì nghĩa vụ giải ngân là quan trọng nhất. Nếu nghĩa vụ này không được thực hiện, thì sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ khác của hai bên. III.4. Các đối tượng không được vay (Điều 77 luật các TCTD 1997) - Thành viên HĐQT, Ban kiểm soát của ngân hàng. - Tổng giám đốc hoặc Giám đốc và Phó tổng giám đốc hoặc Phó giám đốc của ngân hàng. - Bố, mẹ, vợ, chồng, con của các đối tượng trên. - Người thẩm định, xét duyệt cho vay. III.5. Các đối tượng hạn chế tín dụng (Điều 78 luật các TCTD 1997) - Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên đang kiểm toán tại ngân hàng. - Kế toán trưởng, Thanh tra viên. - Các cổ đông lớn của ngân hàng. - Doanh nghiệp có một trong những đối tượng bị cấm cho vay nói trên sở hữu trên 10% vốn Điều lệ của doanh nghiệp đó. III.6. Giới hạn tín dụng (Điều 79 luật các TCTD 1997) Tổng dư nợ cho vay đối với tất cả các đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng nói trên không được vượt quá 5% vốn tự có của ngân hàng (§ 78.2, Luật các TCTD). Vốn tự có bao gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, dự phòng và một số khoản vốn khác. Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là ngân hàng khác hoặc được Thủ tướng hay Thống đốc NHNN cho phép (§ 79.1 và 79.2, Luật các TCTD). Bảng tổng hợp một số giới hạn cho vay, bảo lãnh của ngân hàng STT Tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh Giới hạn 1 Cho vay đối với các đối tượng bị cấm cho vay 0% 2 Cho vay đối với các đối tượng bị hạn chế cho vay < 05% vốn tự có 3 Cho vay đối với 1 khách hàng < 15% vốn tự có 4 Cho vay + Bảo lãnh đối với 1 khách hàng < 25% vốn tự có 5 Cho vay đối với 1 nhóm khách hàng liên quan < 50% vốn tự có 12 STT Tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh Giới hạn 6 Cho vay + Bảo lãnh đối với 1 nhóm khách hàng < 60% vốn tự có 7 Cho vay để đầu tư và kinh doanh chứng khoán < 20% vốn điều lệ Nếu bên vay có nhu cầu vay vượt quá giới hạn nói trên, thì các ngân hàng cho vay theo hình thức hợp vốn (uỷ thác hoặc đồng tài trợ). CHƯƠNG 3 – THỰC TRẠNG TRANH CHẤP HĐTD VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT Trong thời gian qua, tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại trong đó có tranh chấp HĐTD không ngừng gia tăng đó là chưa kể đến các tranh chấp được các bên thoả thuận giải quyết bằng các phương thức khác như thương lượng, hoà giải hay trọng tài thương mại. I. Thực trạng các dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng trên thực tế I.1. Dạng tranh chấp về hành vi vi phạm nghĩa vụ của một hoặc các bên trong hợp đồng. Đây là dạng tranh chấp HĐTD phổ biến, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong HĐTD. Hành vi vi phạm nghĩa vụ này, có thể là hành vi của bên cho vay (các ngân hàng và các định chế tài chính khác). Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, HĐTD là một dạng của hợp đồng ưng thuận có hình thức bắt buộc bằng văn bản (văn bản viết hoặc văn bản điện tử). Tại khoản 4 Điều 404 BLTTDS: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản”; tại Điều 405 quy định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Vì thế, sau khi HĐTD có hiệu lực, việc giải ngân khoản tín dụng mà hai bên đã thoả thuận là nghĩa vụ của bên cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp sau khi ký kết HĐTD với khách hàng bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên vay như bên vay không tiến hành kế hoạch kinh doanh như dự kiến, không có vốn đầu tư vào dự án đầu tư, đấu thầu đã được đăng ký. Hậu quả là bên cho vay làm tổn thất rất lớn về hiệu quả kinh tế cũng như uy tín, danh dự, thậm chí thương hiệu của bên vay. Tranh chấp HĐTD còn có thể xuất phát từ việc vi phạm nghĩa vụ trả lãi và thậm chí cả gốc và lãi. Trên thực tế, có trường hợp hai bên không thoả thuận rõ 13 ràng về lãi suất đối với cả thời hạn vay hoặc ban đầu do cần tiền để thực hiện kế hoạch của mình nên khách hàng chấp nhận mức lãi suất đó nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng nhận thấy lãi suất đó cao quá nên không đồng ý. Tuy nhiên, đa phần là dạng tranh chấp về vi phạm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng khi đáo hạn. Năm 1995, do nhu cầu sản xuất kinh doanh mở rộng, công ty trách nhiệm hữu hạn Phương Đông (CTPĐ) đã vay của Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn (NH NN&PTNT) số tiền là 400,667 triệu VNĐ, trong đó lần vay cuối cùng ngày 24/6/1996 là 80 triệu VNĐ do trung tâm tư vấn doanh nghiệp bảo lãnh. Số vay còn lại được công ty Phương Đông thế chấp bằng ngôi nhà ba tầng có diện tích 482m2, là trụ sở làm việc và mặt bằng sản xuất của công ty. Nhưng sau đó, do hoạt động kinh doanh thua lỗ nên khi đến hạn công ty Phương Đông đã không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn như đã cam kết. Vì thế, ngày 12/4/1999 NH NN&PTNT đã khởi kiện công ty Phương Đông phải thanh toán cả gốc và lãi là 802.877 triệu VNĐ. Sau đây, chúng ta xem xét một vài ví dụ cụ thể về hành vi của bên cho vay và bên vay về tranh chấp lãi suất trong hợp đồng tín dụng. I.1.a. Thỏa thuận thay đổi lãi suất khi thời hạn chưa kết thúc Về mặt lí luận, khi các bên đã thỏa thuận về lãi suất cố định trong HĐTD thì lãi suất sẽ không được điều chỉnh trong suốt thời hạn vay. Tuy nhiên, pháp luật không cấm điều chỉnh lãi suất trong trường hợp các bên có sự thống nhất ý chí. Do đó, tranh chấp về thỏa thuận thay đổi lãi suất khi thời hạn vay chưa kết thúc chỉ xảy ra trong hai trường hợp: một là, khách hàng yêu cầu giảm lãi suất hoặc miễn lãi; hai là, TCTD yêu cầu tăng lãi suất.  Khách hàng yêu cầu giảm lãi suất hoặc miễn lãi Trong quá trình thực hiện HĐTD, không phải bên vay luôn có khả năng trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Có nhiều trường hợp do một số lí do khách quan như: tai nạn, rủi ro hoặc thị trường biến động dẫn đến tình hình kinh doanh bị ảnh hưởng… nên khách hàng vay vốn không có khả năng trả nợ cho TCTD. Trong những tình huống như vậy thông thường khách hàng làm đơn xin giảm lãi suất hoặc miễn một phần lãi, TCTD sẽ xem xét và chấp thuận yêu cầu này tùy thuộc vào tình hình thực tế. Thông thường TCTD sẽ chấp nhận kèm theo một vài yêu cầu. Cũng có trường hợp phía đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn, khi TCTD yêu cầu nhiều lần vẫn không thanh toán, TCTD khởi kiện ra tòa và trong quá trình hòa giải hai bên có thỏa thuận nếu khách hàng thanh toán ngay khoản nợ gốc thì TCTD sẽ giảm lãi suất đồng nghĩa với việc giảm một phần tiền lãi mà khách hàng phải trả hoặc miễn một phần lãi. Vụ việc như vậy sẽ không có tranh chấp nếu hai bên thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, trên thực tế vẫn có tình huống khách hàng không thực hiện đúng cam kết dẫn đến tranh chấp xảy ra. 14 Trường hợp ông Nguyễn Văn M. và NHTMCP P. dưới đây là một ví dụ cho tình huống này. Ngân hàng P. khởi kiện ông M. vì đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho khoản vay 150.000.000 đồng theo HĐTD số 102/TDG/08 TGB ngày 12/02/2008. Theo biên bản hòa giải, hai bên đã thỏa thuận ngân hàng P. sẽ giảm lãi suất, giảm một phần tiền phạt chậm trả cho ông M. và rút đơn khởi kiện với điều kiện ông M. phải thanh toán 150.000.000 đồng tiền nợ gốc làm hai kì ngay sau đó. Tại phiên tòa sơ thẩm, ngân hàng P cho rằng ông M. chưa thực hiện đầy đủ việc thanh toán tiền nợ gốc nên ngân hàng vẫn áp dụng lãi suất cũ. Ông M. lại cho rằng ông đã thực hiện được một kì trả nợ gốc là 75.000.000 đồng như thỏa thuận tại phiên hòa giải nên yêu cầu ngân hàng P. giảm một phần lãi suất tương ứng với phần ông đã trả được. Tòa cấp sơ thẩm đã xem xét và chấp thuận yêu cầu của ngân hàng vì ông M. chưa thực hiện đầy đủ điều kiện theo thỏa thuận nên nghĩa vụ giảm lãi suất và giảm tiền phạt chậm trả của ngân hàng P. không phát sinh. Đối với những vụ tranh chấp như vậy, nguyên nhân chủ yếu thuộc về lỗi của bên vay, bởi vì nghĩa vụ giảm lãi của TCTD chỉ phát sinh khi khách hàng vay vốn đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận.  TCTD yêu cầu nâng lãi suất cho vay Điều khoản về lãi suất trong HĐTD là điều khoản vô cùng quan trọng. Thông thường để hạn chế rủi ro lãi suất, TCTD không thỏa thuận lãi suất cố định với hợp đồng trung – dài hạn mà quy định trong HĐTD lãi suất cho vay tính bằng lãi suất tiền gửi cộng một biên độ và thay đổi định kì. Trong một số hợp đồng vay ngắn hạn, lãi suất cho vay được thỏa thuận là lãi suất cố định trong suốt thời gian vay. Khi thị trường có những biến động khiến TCTD phải nâng lãi suất huy động để thu hút nguồn vốn trong dân cư, việc cho vay với lãi suất thấp hơn (ở những HĐTD kí kết từ trước đó nhưng vẫn trong quá trình giải ngân) so với lãi suất huy động hiện tại sẽ khiến TCTD mất đi một phần lợi nhuận. Vì vậy, không ít TCTD đã yêu cầu khách hàng chấp nhận tăng lãi suất cho vay mới tiếp tục giải ngân. Đây chính là tình trạng xảy ra rất nhiều trong thời gian giữa năm 2008 khi áp dụng chính sách điều hành lãi suất “thắt chặt” của NHNN, lãi suất huy động và lãi suất cho vay được đẩy lên rất cao. Tình trạng này không chỉ xảy ra ở đơn lẻ một TCTD nào hay đối với một đối tượng cụ thể nào, chính vì thế đã có những tác động to lớn đối với người dân tham gia vào quan hệ tín dụng. Dưới đây là một vụ việc điển hình trong số ít những vụ việc có sự phản ứng mạnh mẽ từ phía người đi vay, trong khi hầu hết những vụ việc khác bên vay thường chịu thiệt thòi tăng mức lãi suất nhằm có được khoản vốn phục vụ nhu cầu của mình. Theo HĐTD được kí vào ngày 02/11/2007, NHTMCP X đồng ý cho ông Nguyễn Thành Kham (cư xá Chu Văn An, quận Bình Thạnh, TPHCM) vay gần 400 triệu đồng, phục vụ mục đích tiêu dùng, thời hạn giải ngân tối đa đến hết ngày 31/12/2008. Lãi suất cho vay là 0,88%/tháng (tương đương 10,56%/năm) và mức 15 lãi suất này là cố định trong thời gian 12 tháng kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Ngân hàng X đã giải ngân cho ông Kham làm hai đợt với tổng số tiền hơn 150.000.000 đồng. Đến ngày 12/6/2008, khi ông Kham đề nghị giải ngân hơn 200.000.000 đồng còn lại thì ngân hàng yêu cầu mức lãi suất mới là 1,75%. Giải thích cho điều này, lí do mà ngân hàng X đưa ra là mặt bằng lãi suất huy động tăng cao, lãi suất cho vay bình quân đang áp dụng là 1,75%/tháng (tương đương 21%/năm). Sau đó khi có sự yêu cầu khắc phục thiệt hại do tỷ giá USD tăng đồng thời phải làm đúng như hợp đồng ban đầu về mức lãi suất cho vay từ phía khách hàng, ngân hàng X lại đưa ra lí do chưa thu xếp được nguồn vốn giá thấp, vì Điều 2 HĐTD quy định: “Theo yêu cầu của bên vay và khả năng nguồn vốn của ngân hàng, số tiền cho vay sẽ được ngân hàng giải ngân theo HĐTD kiêm khế ước nhận nợ”. Tuy nhiên, khách hàng đã kí vào khế ước nhận nợ, thể hiện sự đồng ý về lãi suất mới nên không có cơ sở để khởi kiện. Phân tích vụ việc trên, thời điểm Ngân hàng X yêu cầu tăng lãi suất lên 1,75%/tháng là lúc NHNN đang áp dụng trần lãi suất cho vay bằng 150% lãi suất cơ bản. Căn cứ vào Quyết định số 1317/QĐ-NHNN quy định lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 14%/năm áp dụng từ ngày 11/6/2008, trần lãi suất cho vay là 21%/năm, tương đương 1,75%/tháng, ngân hàng X yêu cầu tăng lãi suất không vượt quá mức trần. Tuy nhiên, trước đó NHNN đã có Công văn 5004/NHNN- CSTT ngày 04/6/2008 quy định đối với các HĐTD kí kết trước ngày 19/5/2008, các bên tiếp tục thực hiện những nội dung trong hợp đồng đã kí kết (phù hợp với các quy định của pháp luật có hiệu lực thi hành tại thời điểm kí kết HĐTD đó). Như vậy ở trường hợp trên, lẽ ra ngân hàng X phải thực hiện hợp đồng với lãi suất như đã thỏa thuận trước đó trong HĐTD, việc tăng lãi suất là trái với quy định của pháp luật. Ngoài dạng tranh chấp lãi suất liên quan đến hành vi của người cho vay và bên đi vay, trên thực tế ta còn các dạng tranh chấp lãi suất trong hợp đồng tín dụng khác như: tranh chấp về lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn, tranh chấp lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với các khoản nợ quá hạn. I.1.b. Lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn Với Thông tư số 12/2010/TT-NHNN và Luật Các tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, TCTD được cho vay bằng đồng Việt Nam với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Khi chuyển sang cơ chế trần lãi suất cho vay, nhiều TCTD với những HĐTD kí kết trước 19/5/2008 lâm vào cảnh vượt quá mức trần là 150% lãi suất cơ bản. Trước đây cơ chế lãi suất thỏa thuận từng được áp dụng trong khoảng thời gian từ tháng 6/2002 đến tháng 5/2008. Tại Thông tư số 04/2011/TT-NHNN ngày 10/3/2011 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất tối đa bằng mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp nhất của tổ chức tín dụng theo từng đồng tiền trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn. Có thể thấy rằng, mỗi lần NHNN thay đổi chính 16 sách lãi suất cho vay, những HĐTD đang có hiệu lực cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ, nhất là khi có tranh chấp xảy ra. Đây là một vụ việc điển hình cho vấn đề này: Đơn cử trường hợp tháng 12/2009, TAND quận Gò Vấp (TPHCM), xử sơ thẩm vụ tranh chấp HĐTD giữa NHTMCP T. với khách hàng L.Đ.H. Diễn biến vụ việc như sau: tháng 02/2008, ông H. kí hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng T., thỏa thuận trong hợp đồng hàng tháng ông H. có trách nhiệm thanh toán toàn bộ dư nợ tối thiểu cho ngân hàng trước ngày đến hạn. Sau khi được cấp thẻ tín dụng hạn mức 15.000.000 đồng, ông H. đã rút gần 14.500.000 đồng để tiêu xài. Tháng 4/2008, ông H. thanh toán được khoảng 1.500.000 đồng cho ngân hàng. Tháng 7/2009, ngân hàng khởi kiện, và hai bên thỏa thuận ông H. trả góp mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Tại tòa, đại diện ngân hàng xác định số tiền nợ cả gốc lẫn lãi của ông H. tính đến ngày xét xử là gần 40.000.000 đồng. Trong trường hợp hai bên hòa giải được, ngân hàng sẽ giảm cho ông H. hơn 8.500.000 đồng tiền phí vượt hạn mức và một phần phí thanh toán trả chậm. Số nợ còn lại ông H. phải thanh toán làm ba lần trong vòng hai tháng kể từ ngày hòa giải thành. Ngược lại, ông H. không đồng ý hòa giải bởi cho rằng ngân hàng tính lãi quá cao và đề nghị tòa xem xét. Tòa sơ thẩm cho rằng ngân hàng tính lãi không đúng như thỏa thuận trong HĐTD. Cụ thể, theo hợp đồng, tiền lãi được tính trên số tiền khách hàng rút kể từ ngày rút tiền nhưng thực tế ngân hàng lại tính lãi theo từng tháng trên số dư cuối kì của tháng trước (gồm nợ gốc, lãi tháng trước và các khoản phí phải trả của tháng trước). Đây là cách tính lãi cộng dồn nên từ số nợ gốc ban đầu chỉ hơn 14.000.000 đồng, sau 22 tháng, số nợ cả gốc lẫn lãi đã lên gần đến 40.000.000 đồng. Như vậy, lãi suất áp dụng theo cách tính này là khoảng 8%/tháng, cao hơn rất nhiều so với quy định pháp luật về cách tính lãi suất theo thỏa thuận giữa TCTD đối với khách hàng (thời điểm một số NHTM áp dụng lãi suất cao nhất sau khi tính cả các chi phí là 23 – 24%/năm). Bên cạnh đó, theo hợp đồng thì sau 90 ngày kể từ ngày lập bản thông báo giao dịch, nếu chủ thẻ không thanh toán, thanh toán không đủ số tiền tối thiểu thì toàn bộ số dư nợ của chủ thẻ là nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo quy định của ngân hàng. Tính từ cuối tháng 5/2009 là đã quá 90 ngày ông H. không thanh toán đủ số tiền tối thiểu nên ngân hàng phải có trách nhiệm chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn, nhưng ngân hàng vẫn tiếp tục tính lãi suất theo cách cộng dồn lãi, phí vào nợ gốc. Tòa xác định lại tiền lãi và các khoản phí phát sinh theo hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng giữa hai bên chỉ là 21.000.000 đồng. Rõ ràng việc tính lãi cộng dồn là hoàn toàn sai so với quy định của pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của người đi vay. Tranh chấp về lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn tập trung ở ba vấn đề: Một là, cơ quan xét xử không nhất quán khi vừa áp dụng trần lãi suất cho vay bằng 150% lãi suất cơ bản cho cả giai đoạn được phép thỏa thuận lãi suất 17 trước ngày 19/5/2008; vừa không áp dụng mức trần với thỏa thuận lãi suất trong giai đoạn từ 19/5/2008 về sau. Hai là, tranh chấp lãi suất do TCTD tính lãi cộng dồn gây thiệt hại cho khách hàng. Ba là, cơ quan xét xử chia bình quân lãi suất trong thời gian vay để xác định tính hợp pháp của thỏa thuận lãi suất trong từng giai đoạn tương ứng với từng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. I.1.c Lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với khoản nợ quá hạn Lãi suất nợ (gốc) quá hạn là một trong những nội dung thường xảy ra tranh chấp trong hoạt động tín dụng. Trên thực tế việc áp dụng cách tính lãi suất nợ quá hạn còn nhiều vấn đề chưa được rõ ràng. Hiện nay trong pháp luật Việt Nam có hai quy định không thống nhất về cách thức tính lãi suất quá hạn. Cách thứ nhất theo quy định tại Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005 thì lãi suất quá hạn được tính không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Trong khi đó cách tính thứ hai căn cứ vào pháp luật chuyên ngành là Khoản 2 Điều 11 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN lãi suất quá hạn không vượt quá 150% lãi suất trong hạn. Theo đó, có nhiều tranh chấp xảy ra về cách tính lãi suất nợ quá hạn mà nhiều bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị vì lí do này. Trên thực tế, cơ quan tài phán cũng không hoàn toàn nhất quán trong quá trình giải quyết. Việc áp dụng quy định của pháp luật chuyên ngành hay quy định của BLDS cũng chứng tỏ không ít sự lúng túng của cơ quan có thẩm quyền. Một số vụ việc cụ thể như sau có thể chứng minh rằng việc áp dụng pháp luật vẫn còn nhiều bất cập khiến quyền lợi của các bên tranh chấp bị ảnh hưởng. Dưới đây là 2 vụ xét xử về hợp đồng tín dụng ở TAND tỉnh Sóc Trăng sau đó được phúc thẩm lại tại TANDTC ở TP Hồ Chí Minh. NHTMCP Việt Nam Thương Tín (sau đây gọi là VietBank) kiện bà Phan Ngọc H. Nội dung vụ việc như sau:  HĐTD số 686/NHVNTT ngày 26/11/2007 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01/HĐSĐ,BS ngày 04/7/2008.  Số tiền vay 250.000.000 đồng.  Thời hạn vay là 12 tháng từ ngày 27/11/2007 đến 27/11/2008.  Lãi suất vay được tính từ ngày 27/11/2007 đến 04/7/2008 là 1,05%/tháng, từ ngày 04/7/2008 trở đi là 1,75%/tháng. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay.  Ngày 28/12/2008, bà H. kí cam kết sẽ trả đủ số tiền vốn vay 250.000.000 đồng và tiền lãi cho ngân hàng sau 3 tháng kể từ ngày đến hạn trả nợ. Bản án sơ thẩm số 06/2009/KDTM-ST ngày 28/9/2009 căn cứ vào Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 và Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 và Quyết định số 2538/QĐ-NHNN ngày 31/10/2007 về lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản, vậy lãi suất cho vay tối đa 18 là 12,375%/năm (bằng 1,03%/tháng). Ngân hàng thỏa thuận cho phía bị đơn vay mức lãi suất là 1,05%/tháng là cao hơn mức trần lãi suất cho vay. Do đó, tòa điều chỉnh tính lãi trong hạn từ ngày 27/11/2007 đến 04/7/2008 là: 250.000.000 x 7 tháng 7 ngày x 1,03%/tháng = 18.625.833 đồng. Tương tự, TAND tỉnh Sóc Trăng giải quyết tranh chấp HĐTD giữa nguyên đơn cũng là VietBank và bà Trần Thị Hoàng A. và ông Võ Minh T. (Phụ lục 2).  HĐTD số 739/NHVNTT ngày 14/12/2007 và hợp đồng sửa đổi, bổ sung số 01/HĐSĐ,BS ngày 04/7/2008.  Số tiền vay 120.000.000 đồng.  Thời hạn vay 12 tháng từ ngày 14/12/2007 đến 14/12/2008.  Lãi suất từ 14/12/2007 đến 04/7/2008 là 1,05%/tháng, từ ngày 04/7/2008 trở đi là 1,75%/tháng.  Bà A. và ông T. đã trả lãi cho VietBank từ ngày vay đến ngày 14/9/2008 và chưa thanh toán nợ gốc. Trong quá trình giải quyết, tòa cấp sơ thẩm TAND tỉnh Sóc Trăng cũng tuyên áp dụng lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố vào thời điểm xét xử sơ thẩm là 7%/năm (theo Quyết định số 2232/QĐ-NHNN ngày 24/9/2009). Ở cả hai vụ việc này, VietBank đều kháng cáo về việc áp dụng lãi suất nợ quá hạn. VietBank cho rằng theo Khoản 2 Điều 11 của Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, lãi suất quá hạn phải được xác định bằng 150% lãi suất trong hạn trong hợp đồng là 150% x 1,75%/tháng. Tòa phúc thẩm TANDTC tại TPHCM xét xử phúc thẩm cho rằng việc áp dụng quy định của BLDS 2005 là hợp pháp và không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn tại bản án số 56/2010/KDTM-PT và 57/2010/KDTM-PT cùng ngày 08/4/2010. Khác với hai vụ việc trên, trong vụ “Ly hôn và tranh chấp tài sản” sau đây, cơ quan chức năng lại đưa ra cách giải quyết ngược lại. Ông Trịnh Xuân B. và bà Lê Thị Thanh N. kí với NHTMCP Á Châu (sau đây gọi là ACB) hai HĐTD.  Hợp đồng thứ nhất PHT.CN.01080907 ngày 10/9/2007 và HĐTD trung, dài hạn số 29900799 ngày 10/9/2007, nợ vốn 1.744.447.000 đồng nợ gốc và lãi 146.533.546 đồng.  Hợp đồng thứ hai PHT.CN.01171107 ngày 19/11/2007 và HĐTD trung, dài hạn số 32276929 ngày 20/11/2007, tổng số tiền 633.326.000 đồng nợ vốn và 34.075.314 đồng nợ lãi. Bản án sơ thẩm số 61/2009/HNST ngày 31/12/2009 của TAND quận 10 (TPHCM) tuyên tiền lãi của ACB sẽ được tính tiếp tục kể từ ngày 01/01/2010 với mức lãi suất cơ bản theo quy định của NHNN trên tổng số dư nợ gốc thực tế cho đến khi trả hết nợ gốc căn cứ vào BLDS 2005. Sau đó ACB kháng cáo cho rằng ông B., bà N. phải chịu lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn từ 19 01/01/2010 đến ngày trả dứt nợ. Tòa phúc thẩm TANDTC tại TPHCM chấp nhận kháng cáo của ACB. Có thể thấy rằng cùng một tình tiết và cùng Tòa phúc thẩm TANDTC nhưng cách thức giải quyết vụ việc lại khác nhau, tương ứng với hai cách tính lãi suất quá hạn. Cách thứ nhất theo quy định tại Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005 thì lãi suất quá hạn được tính không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Trong khi đó cách tính thứ hai căn cứ vào pháp luật chuyên ngành là Khoản 2 Điều 11 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN lãi suất quá hạn không vượt quá 150% lãi suất trong hạn. Khi áp dụng quy định về lãi suất nợ quá hạn của BLDS, người bị thiệt hại sẽ là TCTD, vì lãi suất cho vay trong hạn luôn cao hơn so với lãi suất cơ bản của NHNN quy định. I.2. Dạng tranh chấp về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với những HĐTD có bảo đảm bằng tài sản Dạng tranh chấp chiếm một tỷ lệ khá lớn trong HĐTD là dạng tranh chấp về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với những HĐTD có bảo đảm bằng tài sản. Đối với những hợp đồng cho vay tiêu dùng, việc xác định tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của vợ chồng hay tài sản riêng của từng người có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động xử lý tài sản này. Có nhiều trường hợp các nhân viên ngân hàng thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn đến chấp nhận những tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Đối với những hợp đồng cho vay kinh doanh, liên quan tới xác định tài sản bảo đảm có thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên khách hàng hay không, tổ chức đó có đủ tư cách pháp lý theo quy định của pháp luật để tiến hành ký kết hợp đồng không? Trên thực tế, khi HĐTD được ký kết thì phía ngân hàng mới biết bên khách hàng ký không đúng thẩm quyền. Trường hợp giả định: Ngân hàng A có nhận được hồ sơ vay vốn của 1 khách hàng B là vừa mới ly hôn có quyết định của của Toà án, nhưng trong quyết định của Toà không có phân xử về tài sản mà chỉ giao việc nuôi con chung. Trước khi có quyết định của Toà khách hàng B và vợ cũ B đã có biên bản thoả thuận phân chia tài sản (có gởi cho Toà). Vậy ngân hàng có thể căn cứ vào Biên bản phân chia tài sản giữa ông B và vợ để nhận thế chấp tài sản được không? (Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đứng tên cả 2 người). Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Trong quá trình yêu cầu ly hôn, vợ chồng ông không có yêu cầu Tòa án giải quyết mà chỉ cung cấp Biên bản thỏa thuận phân chia tài sản. Vì vậy, Biên bản thỏa thuận nói trên chỉ là sự ghi nhận ý chí của các bên trong việc phân chia tài sản chứ chưa đủ giá trị pháp lý để ông B bảo lãnh thế chấp vay vốn. 20 Tranh chấp phát sinh từ HĐTD còn là những tranh chấp về luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp trường hợp một trong hai bên là bên nước ngoài mà khi ký kết hợp đồng các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp cũng như luật áp dụng. Tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều, diễn biến cũng đa dạng và có tính chất phức tạp. Do đó, việc tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hết sức cần thiết. Từ đó, có những biện pháp, đường lối, chính sách nhằm khắc phục tình trạng tranh chấp để tiến tới giảm đáng kể số lượng tranh chấp. II. Những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp hợp đồng tín dụng Nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD rất đa dạng, có thể xem xét theo nhiều tiêu thức khác nhau. Một trong những cách tiếp cận thông dụng là phân tích nguyên nhân gây ra từ phía bên cho vay, bên vay và những quy định của pháp luật. II.1. Nguyên nhân từ phía bên cho vay có thể bao gồm : Ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân cho khách hàng như đã cam kết. Các tổ chức tín dụng không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Nhiều tổ chức cho vay không tiến hành quy trình thẩm định theo nguyên tắc 6cs, điều mà các định chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo là: 6cs tính cách người vay (character), năng lực trả nợ (capacity), dòng tiền mặt (cash folow), tài sản thế chấp (collaral), các điều kiện môi trường (conditions), sự kiểm soát (control), mà vẫn dựa vào cảm tính của các nhân viên ngân hàng. Điều này, tạo điều kiện cho các tổ chức “tín dụng đen” ngày càng được tổ chức ở phạm vi rộng rãi hơn, quy mô hơn và nhiều người đã trở thành nạn nhân của các tổ chức này. Trên thực tế, bên cho vay khi tiến hành thẩm định cũng không thể kiểm tra được bên vay có thông qua một tổ chức tín dụng đen nào không. Chính sách và quy trình cho vay chưa thực sự chặt chẽ, chưa có quy trình quản trị rủi ro hữu hiệu, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng, xếp loại rủi ro tín dụng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ của khách hàng khi đáo hạn. Ở Việt Nam, các ngân hàng thường dựa chủ yếu vào giá trị tài sản bảo đảm để quyết định cho vay nên nhiều khi bỏ qua nhiều khách hàng tiềm năng. Bên cho vay chấp hành chưa đầy đủ các điều kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay của Ngân hàng Nhà nước, chưa phân tích, đánh giá các điều kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay. Nhiều tổ chức tín dụng khi đánh giá về biện pháp bảo đảm tiền vay chỉ dựa vào nguồn số liệu khách hàng cung cấp chưa có sự kiểm chứng các sổ sách kế toán và thực tiễn kiểm kê. Phần lớn các nhân viên tín dụng phân 21 tích, đánh giá chưa chính xác khi tiến hành thẩm định nên kết quả thường phán ánh không đúng thực tế hoạt động của khách hàng. Thiếu thông tin khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng tin cậy, kịp thời, chính xác để xem xét, phân tích trước khi đưa ra quyết định cấp tín dụng. Dó đó, nhiều tổ chức tín dụng cho vay mà không biết một cách đầy đủ chính xác các thông tin cụ thể về khách hàng. Ngày 18/4/2000, bà Nguyễn Minh Hoa (chủ tịch Hội đồng thành viên công ty ISACO) ký hợp đồng với ISACO cam kết góp 3 tỷ đồng nhưng sau đó không có tiền nên Hoa xin góp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trị giá 10 tỷ đồng. Sau đó, lợi dụng danh nghĩa công ty bà Hoa đã vay gần 20 tỷ đồng của các chi nhánh ngân hàng khác, số tiền vay được hoàn toàn bị sử dụng sai mục đích. Qua ví dụ trên, có thể thấy thông tin tín dụng có vai trò quan trọng và quyết định tới sự phát triển của chính các tổ chức tín dụng. Trong quá trình thực hiện HĐTD, các tổ chức cho vay phải thường xuyên thực hiện quyền kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng. Theo thạc sĩ Nguyễn Hữu Đương – Học viện Ngân hàng thì: “Giả sử trong ngành ngân hàng hoạt động tín dụng như một nhà máy với sản phẩm đầu ra là các khoản tín dụng. Trong đó, quản trị rủi ro là một phân xưởng quan trọng trong dây chuyền công nghệ để tạo ra sản phẩm. Thông tin tín dụng là một phần nguyên liệu đầu vào cho phân xưởng đó. Nguyên liệu đó bao gồm thông tin lịch sử, hiện tại và xu hướng phát triển của khách hàng (gồm cả về tài chính và phi tài chính) và đặc biệt là các thông tin thống kê về các chỉ tiêu trung bình ngành phục vụ cho việc xếp loại khách hàng vay”. Trong quá trình tiến hành hoạt động cho vay, các bên cho vay nên đặc biệt lưu tâm tới các điều kiện của bên vay để có những quyết định đúng đắn, tránh những tranh chấp về sau. Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số nhân viên tín dụng chưa đủ tầm dẫn đến có trường hợp khách hàng vay vốn có thế chấp bằng tài sản nhưng vẫn được giữ cả vật thế chấp và giấy tờ gốc chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của họ. Rồi sau đó, khách hàng đem bán tài sản bảo đảm cho người thứ ba. Khi đó cả ngân hàng và người thứ ba đều cho rằng tài sản đó phải thuộc sở hữu của mình. Trên thực tế, đã có nhiều tranh chấp HĐTD phát sinh do nguyên nhân này. Như vậy, đối với bên cho vay cần tuân thủ nghiêm chỉnh quy trình, điều kiện cho vay, nâng cao đội ngũ nhân lực ngân hàng, củng cố và phát triển hệ thống thông tin tín dụng, có biện pháp để kiểm tra, giám sát hoạt động của bên vay có đúng như cam kết không. II.2. Nguyên nhân từ phía bên vay Các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp HĐTD do người vay bao gồm: 22 Bên vay không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ những nghĩa vụ của mình. Điều này, có thể do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan chi phối. Về mặt khách quan: là những nguyên nhân tác động ngoài ý chí của khách hàng như do thiên tai, hoả hoạn, do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh tế, điều chỉnh quy hoạch, do biến động của thị trường trong và ngoài nước, quan hệ cung cầu hàng hoá thay đổi… làm cho hoạt động của bên vay không tiến hành được như kế hoạch đã định. Về mặt chủ quan: là yếu tố xuất phát từ mỗi khách hàng. Đó có thể xuất phát từ vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, công nghệ chưa được cải thiện nên sản phẩm tạo ra chưa có tính cạnh tranh cao, hiệu quả kinh doanh kém, hậu quả là doanh nghiệp thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản. Ngoài ra, nhiều trường hợp do khách hàng cố tình đưa ra những thông tin sai sự thật ngay từ khi vay vốn. Do khách hàng thiếu hiểu biết về pháp luật. Hiện nay, trình độ hiểu biết của khách hàng về những kiến thức pháp luật liên quan còn rất hạn chế. Đã có nhiều trường hợp khách hàng ký những hợp đồng trái pháp luật, đặt bản thân họ vào tình trạng bất lợi và phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề. Bà Phan Ngọc Dung, Q8, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004 bà thế chấp ngôi nhà của mình để vay vốn ngân hàng đầu tư và phát triển(NH ĐT&PT) chi nhánh Tân Tạo số tiền 240 triệu VNĐ đầu tư cho cơ sở may gia công. Nhưng sau đó do không có hiểu biết về những quy định của pháp luật bà Dung đã ký hợp đồng bán nhà để đảm bảo cho khoản vay mới. Hiện tại, khoản tín dụng mới không vay được, khoản tín dụng trước thì chưa có khả năng thanh toán và bên vay còn phải đối mặt với nguy cơ mất nhà do chủ nợ đang khởi kiện ra toà yêu cầu thực hiện hợp đồng bán nhà trên. Trong tình huống trên, nếu bà Dung có kiến thức về pháp luật nhất là pháp luật ngân hàng thì sẽ không dẫn đến ký hợp đồng bán nhà để đảm bảo cho khoản vay. Hiện nay, sự hiểu biết những quy định pháp luật của một số lượng lớn người dân còn nhiều hạn chế. Trong thời gian tới, Nhà nước cần có nhiều kênh thông tin tạo cơ hội cho khách hàng tiếp cận và nắm vững được các quy định của pháp luật, hạn chế được những rủi ro đối với các bên. 23 II.3. Nguyên nhân nữa làm phát sinh tranh chấp HĐTD là do quy định của pháp luật. Nhiều quy định của pháp luật còn chưa được hiểu thống nhất, dẫn đến mỗi bên hiểu theo những cách khác nhau nhằm bảo vệ cho quyền và lợi ích của mình, từ đó nảy sinh những bất đồng mâu thuẫn và đi đến tranh chấp. Hiện nay, pháp luật quy định các bên cho vay nếu muốn từ chối khách hàng nào thì bắt buộc phải đưa ra các căn cứ hay những lý do chính đáng. Nhưng chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Vì thế, phía người cho vay quan niệm rằng cho vay là quyền được tự do kinh doanh của họ vì vậy lý do có chính đáng hay không do ho quyết định. Còn người đi vay thì không đồng ý với cách hiểu đó và trong những trường hợp bị từ chối họ sẵn sàng khiếu nại tới các cơ quan liên quan để yêu cầu giải quyết. Cả hai cách hiểu đó đều không thoả đáng. Để khắc phục tình trang này, nhất thiết phải có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng để các bên trong hợp đồng cũng như các nhà áp dụng pháp luật được thông nhất. Nhiều quy định còn chồng chéo nhất là các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy định không thể thực hiện được trên thực tế. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý. Theo Nghị định số 163/2006/NĐ - CP cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như bán tài sản thế chấp, nhận các khoản tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, phương thức khác do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận được phương thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài sản này được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện được các bên lại phải ký hợp đồng uỷ quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền. Điều này thường không thực hịên được do bên thế chấp không đồng ý và khi đó các tổ chức cho vay không có cơ chế nào để bảo vệ được quyền lợi của mình. Để hạn chế được các tranh chấp thì trước hết phải có cách hiểu thống nhất và những quy định cần được hướng dẫn thi hành một cách cụ thể. Đây cũng là một trong những công tác cần làm tốt trong quá trình ban hành và sửa đổi những quy định của pháp luật. III. Một số biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Toà án III.1. Những biện pháp hoàn thiện pháp luật. Thời gian qua, các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng và những định chế tài chính khác đã được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện từng bước theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như với thực 24 tiễn áp dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại những bất cập trong hệ thống pháp luật ngân hàng và các văn bản pháp luật liên quan làm cho các bên cũng như các cơ quan tham gia giải quyết tranh chấp lúng túng, không thống nhất đuợc cách áp dụng. III.1.a. Những biện pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng liên quan tới giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Một là, bổ sung các quy định về thủ tục rút gọn đối với giải quyết tranh chấp HĐTD. Theo quy định của BLTTDS, thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTD còn mất rất nhiều thời gian. Thông thường để giải quyết xong một tranh chấp HĐTD phải mất gần hai năm (bao gồm cả sơ thẩm và phúc thẩm), chưa kể một khoảng thời gian không nhỏ để tiến hành thi hành án. Điều này làm cho các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính khác cho vay không thu hồi được nợ, ảnh hưởng tới hoạt động của bên cho vay. Đối với những tranh chấp HĐTD mà chứng cứ rõ ràng, bị đơn có địa chỉ, lai lịch cụ thể, họ thừa nhận nghĩa vụ của mình trước nguyên đơn,nếu nguyên đơn xuất trình được chứng cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu cầu của mình và nếu như bị đơn cùng tất cả những người liên quan khác trong vụ tranh chấp không có sự phản đối về sự giả mạo của bằng chứng đó thì Toà án có thể khẳng định được tính chính xác thực và độ tin cậy của các thông tin trong các văn bản đó. Do vậy, Toà án không phải mất nhiều thời gian để điều tra, xác minh mà vẫn có thể giải quyết đúng pháp luật vụ tranh chấp đó, đảm bảo giải quyết nhanh gọn, hiệu quả. Vì thế, thủ tục rút gọn có thể được quy định theo mô hình sau: Có cơ chế để cán bộ Toà án có cơ sở để ban hành quyết định áp dụng thủ tục rút gọn đối với những những tranh chấp được áp dụng thủ tục này. Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Đối với những tranh chấp HĐTD áp dụng thủ tục rút gọn thì thời hạn chuẩn bị xét xử là không quá 15 ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án. Về thời hạn mở phiên toà xét xử sơ thẩm: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà. Về phiên toà sơ thẩm: Thành phần tham gia xét xử đối với thủ tục rút gọn chỉ cần một thẩm phán mà không cần thành lập hội đồng xét xử. Không nên phải trải qua tuần tự tất cả các bước như đối với phiên toà thông thường. Thủ tục rút gọn giải quyết các tranh chấp HĐTD đang còn là vấn đề xa lạ trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Mặc dù vậy, việc thừc nhận thủ tục rút 25 gọn trong giai đoạn hiện nay là phù hợp với chư trương cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong Báo cáo chính trị của Đảng: “Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm”. Đồng thời đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp HĐTD đang ngày càng gia tăng, giảm bớt án tồn đọng hàng năm ở các cấp Toà án, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các bên Hai là, ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành một số quy định chưa cụ thể trong BLTTDS. Ví dụ như quy định hướng dẫn thực hiện các quy định về giao nộp chứng cứ, trách nhiệm trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Bổ sung Điều 84 BLTTDS, quy định cụ thể về thời hạn đương sự giao nộp chứng cứ cho Toà án và có văn bản quy định chi tiết về việc xử lý trách nhiệm trong trường hợp không nộp hoặc nộp không đầy đủ. Vì trong quá trình giải quyết tranh chấp HĐTD chứng cứ là yếu tố quan trọng. Vì thế, cần quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của đương sự để nâng cao trách nhiệm và giúp giải quyết nhanh vụ tranh chấp. Ba là, bổ sung quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và nguồn bổ nhiệm thẩm phán và bầu hội thẩm nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường, tranh chấp phát sinh từ HĐTD không chỉ giới hạn ở các chủ thể là tổ chức cá nhân Việt Nam mà còn liên quan tới các chủ thể có yếu tố nước ngoài. Điều này đòi hỏi đội ngũ thẩm phán không chỉ phải giỏi về chuyên môn mà còn phải đáp ứng yêu cầu về khả năng ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin một cách hiệu quả. Với các hội thẩm nhân dân cũng cần nâng cao hiểu biết về pháp luật. Vì thế cần bổ sung tiêu chuẩn này vào quy định của Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân số 02/2002/PLUBTVQH ngày 4/10/2002. Ngoài ra, nguồn bổ nhiệm thẩm phán không chỉ từ những người đang công tác trong ngành mà còn cả những người là các luật sư có đầy đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật. Tiến hành công tác bổ nhiệm thẩm phán, đảm bảo không để thiếu thẩm phán như hiện nay. Có thể tăng nhiệm kỳ của các thẩm phán, tăng nguồn bổ nhiệm. Như vậy tạo điều kiện cho các thẩm phán yên tâm làm tốt công tác của mình. Trong tương lai có thể thay chế độ bổ nhiệm thẩm phán bằng chế độ thi tuyển thẩm phán, thực hiện công tác thi tuyển nghiêm túc, công bằng đối với các đối tượng dự thi. III.1.b. Hoàn thiện các quy định của pháp luật ngân hàng. 26 Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề lãi suất của hoạt động cho vay. Để phù hợp với sự phát triển của hoạt động này,nên sửa đổi quy định tại Điều 476 BLDS. Điều 476 quy định lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Lãi suất cơ bản để cho vay bằng đồng tiền Việt Nam áp dụng từ ngày 1/3/2008 là 8,75%/năm. Theo đó, mức lãi suất cho vay tối đa của các ngân hàng chỉ được ở mức 13,1%/ năm. Quy định như vậy là không phù hợp vì xét về bản chất HĐTD là sự tự do thoả thuận của các đương sự. Việc xác định lãi suất cho vay trong HĐTD phụ thuộc vào nhiều yếu tố: + Lãi suất chung trên thị trường + Số tiền vay: Đối với các khoản vay trung và dài hạn có quy mô lớn, lãi suất cho vay thường thấp hơn các khoản vay cùng kỳ hạn nhưng có quy mô nhỏ hơn. + Thời hạn vay: Về nguyên tắc, có thể lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất ngắn hạn vì tính thanh khoản thấp, chi phí nguồn vốn cho vay cao và chứa đựng nhiều rủi ro. + Loại khách hàng: khách hàng có mức tín nhiệm thấp phải chịu mức lãi suất cao hơn khách hàng có mức độ tín nhiệm cao hơn. Hơn nữa, chỉ nên quy định lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước chỉ là một cơ sở để các bên thoả thuận lãi suất, thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận theo nguyên tắc thị trường. Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể Khoản 1 Điều 11 Quyết định 1627 vì nhiều trường hợp cơ quan thi hành án khi áp dụng các văn bản luật không chấp nhận mức lãi suất mà các bên thoả thuận để xử lý nợ quá hạn đối với tài sản phát mại mà lấy lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố, mức lãi suất này thấp hơn nhiều so với lãi suất các bên thoả thuận trong HĐTD. Thứ ba, sửa đổi nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm phần xử lý tài sản bảo đảm. Nghị định chưa có bất kỳ cơ chế nào để thu hồi tài sản bảo đảm trong trường hợp người thế chấp không chấp nhận tự nguyện giao tài sản cho ngân hàng để xử lý. Ngân hàng muốn xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ là rất khó thực hiện. Khi đó, tổ chức tín dụng cho vay phải gửi đơn đến Toà án để giải quyết. Nhưng thủ tục quá rườm rà, phức tạp từ việc có đơn yêu cầu, ra quyết định thi hành án, thời gian tự nguyện thi hành, quyết định cưỡng chế, tiến hành thành lập hội đồng thẩm định và tiến hành bán đấu giá. Có trường hợp hoàn thành xong thủ tục thì khách hàng không còn khả năng thi hành. Để khắc 27 phục tình trạng đó nên quy định khi xử lý tài sản bảo đảm mà bên cho vay không chịu giao tài sản cho bên vay để xử lý, bên vay có quyền đưa đơn lên toà đề nghị phể chuẩn quyết định xử lý tài sản bảo đảm mà không bắt buộc phải tiến hành thông qua nhiều thủ tục như quy định hiện hành. Dựa và quyết định đó, cơ quan thi hành án yêu cầu bên vay giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng để xử lý. Thứ tư, sửa đổi một số quy định của nghị định số 178/1999/NĐ- CP của chính phủ ngày 29/12/1999 và thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/BCA-BTC- TCĐG ngày 23/4/2001 liên quan tới quyền bán tài sản đảm bảo để thu hồi nợ của các ngân hàng. Cần quy định chế tài cụ thể đối với các cơ quan chức năng như uỷ ban nhân dân, công an địa phương trong quá trình hỗ trợ ngân hàng thu hồi tài sản bảo đảm. Thứ năm, bổ sung quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và nguồn bổ nhiệm thẩm phán và bầu hội thẩm nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường, tranh chấp phát sinh từ HĐTD không chỉ giới hạn ở các chủ thể là tổ chức cá nhân Việt Nam mà còn liên quan tới các chủ thể có yếu tố nước ngoài . Điều này đòi hỏi đội ngũ thẩm phán không chỉ phải giỏi về chuyên môn mà còn phải đáp ứng yêu cầu về khả năng ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin một cách hiệu quả. Với các hội thẩm nhân dân cũng cần nâng cao hiểu biết về pháp luật. Vì thế cần bổ sung tiêu chuẩn này vào quy định của Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân số 02/2002/PLUBTVQH ngày 4/10/2002. Ngoài ra, nguồn bổ nhiệm thẩm phán không chỉ từ những người đang công tác trong ngành mà còn cả những người là các luật sư có đầy đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật. Tiến hành công tác bổ nhiệm thẩm phán, đảm bảo không để thiếu thẩm phán như hiện nay. Có thể tăng nhiệm kỳ của các thẩm phán, tăng nguồn bổ nhiệm. Như vậy tạo điều kiện cho các thẩm phán yên tâm làm tốt công tác của mình. Trong tương lai có thể thay chế độ bổ nhiệm thẩm phán bằng chế độ thi tuyển thẩm phán, thực hiện công tác thi tuyển nghiêm túc, công bằng đối với các đối tượng dự thi. Pháp luật cũng nên thừa nhận quyền tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên của luật sư nước ngoài tại Việt Nam. III.2. Những biện pháp đảm bảo thực hiện pháp luật Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định của pháp luật thì cũng cần có những cơ chế đảm bảo cho những quy định của pháp luật được thực hiện. 28 Thứ nhất, cần tăng cường các biện pháp giám sát, kiểm tra của Viện kiểm sát đối với hoạt động tố tụng của Toà án. Làm tốt công tác này có ý nghĩa rất quan trọng góp phần đảm bảo quá trình tố tụng được tiến hành đúng quy định của pháp luât và giảm đáng kể số án xử oan, sai. Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và kiến thức về HĐTD và giải quyết các tranh chấp này. Nếu làm tốt công tác này sẽ hạn chế được các tranh chấp phát sinh và tăng cường khả năng ký kết các HĐTD giữa các chủ thể. Đi tiên phong trong hoạt động này, ngày 1/9/2006 Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức ra mắt trang website đầu tiên để phổ biến những quy định của pháp luật, tham gia vào mạng thông tin tích hợp trên internet của thành phố. Với nội dung phong phú cụ thể như mục hỏi đáp thông tin pháp luật, lịch xét xử của toà, các mục trình bày về thủ tục tố tụng, những điều kiện về khởi kiện… đã giúp công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được thực hiện một cách thuận lợi. Mô hình nay cần được mở rộng hơn nữa ở Toà án các cấp. Thứ ba, cần đề cao trách nhiệm cá nhân đối với từng chức danh cán bộ tư pháp, đặc biệt là người đứng đầu các đơn vị và các thẩm phán. Tăng cường thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh đối với các cá nhân, tập thể cán bộ của tòa án có vi phạm. Đối với các trường hợp vi phạm pháp luật, phẩm chất đạo đức kém phải kiên quyết loại bỏ khỏi ngành tư pháp. Còn với đội ngũ tham gia hoạt động xét xử (thẩm phán và hội thẩm nhân dân (nếu có)) có bản án tuyên không đúng, bị hủy, bị sửa do có sai lầm nghiêm trọng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, gây thất thoát tài sản Nhà nước thì cần tiến hành kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm để có biện pháp xử lý phù hợp với các quy định pháp luật mà trực tiếp là Nghị quyết số 388 của Uỷ ban Thường Vụ Quốc Hội. Thứ tư, đổi mới và hoàn thiện phương thức tổ chức, chỉ đạo, điều hành và thủ tục hành chính- tư pháp trong hệ thống tòa án nhân dân các cấp theo hướng nhanh gọn, hiệu quả và thuận lợi cho các bên tranh chấp trong quá trình tiến hành các thủ tục luật định, cải tiến phương pháp và lề lối làm việc với phương châm quyền hạn đi liền với trách nhiệm, thực hiện tốt công tác quản lý, điều hành, phân công và thường xuyên kiểm tra các hoạt động của cán bộ Tòa án. 29 Tài liệu tham khảo:  Luật các tổ chức tín dụng 1997 và sử đổi bổ sung năm 2004.  Luật dân sự 2005.  Lý thuyết tài chính – tiền tệ của PGS.TS Lê Văn Tề & TS Lê Văn Hà – NXB thống kê năm 2005.  Quyết định số 1627/2010/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN.  Giáo Trình Pháp Luật Kinh Tế của TS. Lê Thị Thanh (Chủ Biên) – NXB Tài Chính năm 2008.  Hợp đồng tín dụng (Quy định và thực tiễn) của Luật sư Trương Thanh Đức.  Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001.  Luật Các Tổ Chức Tín Dụng Năm 2010 (Luật Số: 47/2010/Qh12). 30 DANH SÁCH NHÓM TRÌNH BÀY STT MSSV Họ và tên Lớp 2 K094040651 Mai Ngọc Ánh K09404B 3 K094040653 Lý Vĩnh Bình K09404B 4 K094040711 Nguyễn Đình Nghĩa K09404B 1 K094040712 Phan Thanh Nghĩa K09404B 5 K094040718 Phạm Thanh Nhất K09404B 6 K094040745 Nguyễn Phan Quỳnh Thảo K09404B 7 K094040755 Lê Thị Hoài Thương K09404B 8 K094040756 Trần Thị Ngọc Thương K09404B 9 K094040758 Trần Thanh Toàn K09404B 10 K094040759 Trần Công Toàn K09404B 11 K094040770 Châu Nhựt Trường K09404B 12 K094040782 Huỳnh Nguyên Vũ K09404B

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfl9404_1499.pdf
Luận văn liên quan