Đề tài Thực trạng và giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương hai Bà Trưng

Trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam hiện nay thì hoạt động tín dụng đóng góp phần lớn trong kết quả kinh doanh của Ngân hàng, nhưng lại là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Chính vì vậy rủi ro tín dụng luôn rình rập và là mối đe dọa đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu với nền kinh tế thế giới thì các NHTM cổ phần và các Ngân hàng nước ngoài đang đua nhau mở rộng mạng lưới và quy mô hoạt động kinh doanh làm cho tình hình cạnh tranh thêm quyết liệt, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, bên cạnh đó là việc tăng trưởng tín dụng quá nhanh dẫn đến chất lượng tín dụng ngày càng kém, điều này cũng đồng nghĩa là mức độ rủi ro tín dụng cũng ngày càng càng cao. Tình hình đó đòi hỏi NHCT Việt Nam nói chung và Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng nói riêng cần phải ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả quản lý RRTD và hạn chế đến mức thấp nhất khả năng rủi ro tín dụng xảy ra.

pdf83 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oài Quốc doanh, nhất là khối DN vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng dư nợ ngày càng Thang Long University Library 53 lớn hơn, và trong những năm vừa qua NH cũng đẩy mạnh công tác cho vay tiêu dùng. Việc thay đổi cơ cấu cho vay cũng nằm trong chính sách của NH trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thị trường. Đối với các DN vừa và nhỏ, tuy trong bối cảnh kinh tế khó khăn nhưng họ cũng đã chứng minh họ là thị phần khách hàng chính của NH, bằng chứng là tỷ trọng cho vay cao, luôn chiếm trên 50% tổng dư nợ, tỷ lệ NQH và nợ xấu cũng có chiều hướng giảm trong tương lai khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi. Chính vì vậy, việc thay đổi cơ cấu cho vay cũng là biện pháp tốt mà NH có thể phòng tránh RRTD. 2.4.2. Những điểm còn tồn tại và nguyên nhân - Những điểm còn tồn tại: Bên cạnh những kết quả đạt được như ở trên thì NHCT Hai Bà Trưng vẫn còn tồn tại một số điểm còn hạn chế sau: Thứ nhất, hoạt động tín dụng của NHCT Hai Bà Trưng vẫn tồn tại nhiều rủi ro tiềm ẩn. Cụ thể là năm 2012, tỷ lệ NQH và nợ xấu tăng nhanh, ảnh hưởng nhiều tới lợi nhuận của NH khi NH phải trích một phần không nhỏ vào chi phí cho hoạt động dự phòng rủi ro tín dụng, bên cạnh đó cũng ảnh hưởng tới hoạt động chung của NH, nếu không giải quyết sớm sẽ có thể dẫn tới tình trạng mất khả năng thanh khoản cho NH. Thứ hai, tỷ lệ cho vay không có TSĐB của NH vẫn còn cao, điều đáng lo ngại hơn là nó tăng dần qua từng năm, chứng tỏ NH vẫn chưa thực sự chú trọng nhiều tới khâu đánh giá TSĐB khi cho vay. Cũng có thể một phần do NH đánh giá tốt khả năng trả nợ của khách hàng, hiệu quả từ phương án S KD, các DN lớn, khách hàng lâu năm, nhưng có thể trong giai đoạn này, hoạt động cho vay không có TSĐB của NH vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, ngay cả khi DN thế chấp bằng tài sản là hàng hóa trong kho nhưng vẫn có nhiều trường hợp khách hàng vay vốn được nhiều NH khác nhau, cố tình lừa đảo gây mất vốn cho NH, chứ không nói trường hợp NH chỉ cho vay bằng tín chấp, bằng uy tín của khách hàng. Chính vì vậy, đây vẫn là dấu hiệu đáng lo ngại cho NH trong công tác cho vay, nó cũng sẽ ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng tại NH trong các giai đoạn tiếp theo, và vì dù gì thì TSĐB vẫn là công cụ thu hồi nợ cuối cùng khi khách hàng không trả được nợ, và nó gần như là điều kiện bắt buộc khi NH giải ngân cho khách hàng. Thứ ba, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ngừng sản xuất nhưng các Bộ ngành địa phương chần chừ không sắp xếp lại do nhiều lý do gây nên khó khăn trong việc thu nợ. Cũng có doanh nghiệp đã có quyết định phá sản, giải thể nhưng tài sản không thể thanh lý được do không có đầy đủ giấy tờ hoặc tài sản không còn giá trị. Do vậy, việc bán tài sản công khai trên thị trường và qua trung tâm bán đấu giá rất mất thời gian để xác định giá trị của tài sản, qua đó làm chậm công tác thu hồi nợ của Ngân hàng. 54 - Nguyên nhân: Một khoản NQH, nợ xấu có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây ra. Do vậy xử lý NQH, nợ xấu là một công việc rất phức tạp và mất nhiều thời gian và công sức. Để xử lý được một khoản nợ xấu có hiệu quả thì trước hết cần phải biết được nguyên nhân chính gây ra nó để có hướng xử lý phù hợp, đảm bảo cho Ngân hàng thu được nợ và tạo điều kiện cho khách hàng tiếp tục hoạt động – SXKD và trả nợ cho Ngân hàng. NQH và nợ xấu của NH đến từ một số nguyên nhân cơ bản sau: - Nguyên nhân từ phía Ngân hàng: Thứ nhất, khâu thẩm định khách hàng ban đầu chưa đầy đủ, chính xác trước khi cho vay nên có những quyết định không kịp thời đúng đắn, cho khách hàng vay trong khi nguồn trả nợ của họ không có. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi khả năng hết sức nhạy bén của cán bộ tín dụng trong công tác thẩm định khách hàng ngay từ đầu. Thứ hai, việc đánh giá tài sản thế chấp của khách hàng chưa chặt chẽ. Ngân hàng không thực hiên tốt công tác kiểm tra, đánh giá đúng giá trị tài sản hoặc giấy tờ mang tính hợp pháp của tài sản thế chấp. Đến khi khách hàng không trả được nợ buộc Ngân hàng phải đem tài sản đó ra phát mại thì gặp khó khăn không thu hồi đủ vốn. Thứ ba, công tác kiểm soát chưa chặt chẽ. Sau khi phát tiền vay cho khách hàng theo quy định của chế độ tín dụng thì cán bộ tín dụng phải có biện pháp theo dõi, nắm bắt đầy đủ mọi diễn biến của quá trình sử dụng tiền vay và tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Từ đó không phát hiện được khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, hoặc kinh doanh thua lỗ để có biện pháp xử lý kịp thời. + Nguyên nhân từ phía khách hàng: Thứ nhất, công nghệ, kỹ thuật, trình độ sản xuất của DN chưa cao, tính toán chọn phương án kinh doanh thiếu thông tin, thiếu chính xác dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, lợi nhuận thấp có khi còn thua lỗ gây khó khăn cho việc trả nợ Ngân hàng. Thứ hai, khả năng tài chính của nhiều DN vẫn còn non yếu nên chỉ một rủi ro nhỏ cũng có thể làm mất khả năng thanh toán và không trả nợ được cho Ngân hàng. Bên cạnh đó là tư cách đạo đức của người đi vay, khi đến hạn trả nợ gỗc và lãi nhưng khách hàng vẫn cố tình không trả trong thời gian dài khiến cho các khoản vay đều bị chuyển thành NQH và nợ xấu. Thứ ba, sử dụng vốn sai mục đích như dùng vốn của NH để kinh doanh nhiều ngành nghề khác nhau nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro, không đúng với hồ sơ xin vay mượn vốn với NH, hoặc cũng có thể do khách hàng cố tình lừa đảo nhằm chiếm dụng vốn của NH. Thang Long University Library 55 + Nguyên nhân khác: Thứ nhất và có lẽ cũng là nguyên nhân lớn nhất là từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, khủng hoảng nơ cộng ở Châu Âu kéo theo khủng hoảng kinh tế vài năm trở lại đây, không chỉ riêng NH bị ảnh hưởng mà còn nhiều NH, tổ chức tín dụng khác và các DN cũng bị ảnh hưởng theo. Kinh tế khó khăn, DN không bán được hàng, lượng hàng tồn kho cao dẫn đến doanh thu và lợi nhuận giảm, đương nhiên kéo theo là không thể trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho NH, qua đó gây ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của NH. Bên cạnh đó, mặt bằng lãi suất vẫn còn cao, nhiều DN không tiếp cận được nguồn vốn và cũng có trường hợp không dám vay NH vì không có nguồn gì để trả nợ, điều đó ảnh hưởng nhiều tới doanh thu và lợi nhuận của NH. Thứ hai, sự thay đổi về cơ chế chính sách. Cơ chế chính sách kinh tế của Nhà nước không ổn định là nguyên nhân làm cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn bị đảo lộn. Việc nhà nước tăng giá một số mặt hàng độc quyền như xăng dầu, điện, nước cũng làm cho các DN vừa và nhỏ có vốn không cao, nhưng lại có tỷ lệ vốn vay NH lớn nên dễ bị tổn thương trước những thay đổi đột ngột này. Thứ ba, xu thế toàn cầu hoá ngày càng mở rộng cũng khiến cho cả NH và khách hàng đều gặp phải những rủi ro nhất định. DN không kịp thích ứng với những biến đổi của môi trường xung quanh, sản phẩm sản xuất ra không thể cạnh tranh được trên thị trường dẫn đến thị phần giảm, thu nhập giảm và làm giảm cả khả năng trả nợ cho NH. Cuối cùng là việc thu thập các thông tin liên quan đến khách hàng nói chung, không những của Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng mà còn cả nhiều Ngân hàng khác cũng gặp nhiều khó khăn. Hệ thống số liệu báo cáo của các doanh nghiệp chưa chính xác, không kịp thời, và khi Ngân hàng không được hỗ trợ bởi một hệ thống thông tin có hiệu quả tạo cơ sở ra để ra các quyết định có cho vay hay không thì các quyết định cho vay này vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho NH, và cũng là nguyên nhân không nhỏ gây ra RRTD. Kết luận chƣơng 2 Nội dụng của chương 2 tập trung vào phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng, NQH và nợ xấu của NHCT Hai Bà Trưng và công tác phòng ngừa RRTD tại Chi nhánh NH, đồng thời nêu lên những mặt còn hạn chế, khó khăn trong công tác tín dụng và phòng ngừa RRTD tại chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. Những đánh giá, phân tích trong chương 2 cũng là cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế RRTD tại NHCT Hai Bà Trưng được thể hiện trong chương 3 tiếp theo. 56 CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH HAI BÀ TRƢNG 3.1. Định hƣớng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thƣơng Hai Bà Trƣng – Hà Nội trong năm 2013 Năm 2013 tiếp tục được dư báo tiếp tục là một năm khó khăn với nền kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng. NHCT Hai Bà Trưng phải đối mặt với nhiều khó khăn trước mắt như tỷ lệ NQH và nợ xấu vẫn ở mức khá cao, mặc dù tỷ nợ xấu vẫn chưa vượt quá 3% để bán lại nợ cho công ty Quản lý tài sản Quốc gia (VAMC), nhưng nếu không có những biện pháp tích cực và đúng đắn thì rất có thể trong năm tới thì tỷ lệ này sẽ vượt quá 3%, ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động tín dụng và kinh doanh của NH. Thứ hai là tìm đầu ra cho nguồn vốn huy động khi dự báo tăng trưởng tín dụng trong năm 2013 ở mức khiêm tốn từ 9% - 12%, nhiều DN nhất là khối DN vừa và nhỏ không tiếp cận được nguồn vốn do mặt bằng lãi suất cho vay vẫn ở mức cao. Bên cạnh đó là tình hình S KD gặp nhiều khó khăn, DN không trả được nợ đúng hạn nên NH không thể tiếp tục cho vay. Hơn nữa là DN cũng không đáp ứng được các điều kiện của NH như TSĐB hay năng lực trả nợ nên NH cũng khó có thể tiếp tục giải ngân. Thứ ba là nhiều chính sách mới của NHNN trong quản lý hoạt động của các NHTM đặc biệt là vấn đề giải quyết nợ xấu của hệ thống NHTM. Bên cạnh đó là một số thông tư, nghị định mới của NHNN cũng được ban hành nhằm thắt chặt hơn hoạt động kinh doanh của NHTM, nổi bật nhất là thông tư 02 sẽ có tác động rất lớn đến NH trong việc quản lý NQH và nợ xấu trong thời gian tới. Sự cạnh tranh ngày càng lớn của các Tổ chức tín dụng khác trên địa bàn, trích lập dự phòng RRTD tăng cao, tăng trưởng tín dụng chậm lại sẽ ảnh hưởng rất lớn tới lợi nhuận của NH và ảnh hưởng trực tiếp tới cán bộ - công nhân viên tại Chi nhánh NH, rõ nhất là việc cắt giảm lương, thưởng vả cắt giảm nhân sự sẽ ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống cũng như tâm lý làm việc của toàn thể cán bộ - nhân viên trong NHCT Hai Bà Trưng. Bên cạnh những khó khăn thì NHCT Hai Bà Trưng cũng có một số thuận lợi như: Dự báo GDP vẫn tăng và cao hơn năm 2012, lạm phát có xu hướng giảm. Chính phủ tiếp tục tung ra nhiều gói kích cầu nhằm hỗ trợ cho các DN trong SXKD và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và ổn định. Thị trường chứng khoán có dấu hiệu phục hồi tốt và thị trường Bất động sản cũng bắt đầu ấm dần lên. Đó là một số thông tin vĩ mô tích cực từ nền kinh tế, còn về phía NH thì NH cũng đã chủ động lường trước được khó khăn và đưa ra các biện pháp kịp thời, tận dụng lợi thế sẵn có của mình như: NH vẫn là một trong những NH có uy tín lớn và hoạt động hiệu quả trong ngành, chiếm được lòng tin của khách hàng gửi Thang Long University Library 57 tiền cũng như của khách hàng vay vốn, thị phần về huy động vốn cũng như cho vay vẫn được đảm bảo, tăng trưởng về tín dụng cũng như lợi nhuận cao và luôn đổi mới phong cách cũng như tư duy làm việc nhằm đưa ra các sản phẩm tốt nhất dành cho khách hàng. ác định và đánh giá được những thuận lợi và khó khăn của mình, Ban lãnh đạo NHCT Hai Bà Trưng đã đã đề ra những định hướng cho hoạt động tín dụng trong năm tới cho Ngân hàng, cụ thể như sau: - Tập trung mở rộng hoạt động tín dụng cùng với việc nâng cao chất lượng tín dụng, không để NQH và nợ xấu phát sinh mới, hạn chế việc cơ cấu lại các khoản nợ, phát triển các dịch vụ NH cũng như tăng cường công tác bán chéo các sản phẩm NH; - Đẩy mạnh công tác thu hồi nợ đã được xử lý rủi ro, NQH và nợ xấu một cách sớm nhất; - Tăng cường kiểm tra kiểm soát theo chuyên đề các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm; - Chú trọng và ưu tiên cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty đã cổ phần hoá làm ăn có hiệu quả, cũng như đẩy mạnh công tác cho vay tiêu dùng; - Triển khai mạnh việc cho vay và huy động ngoại tệ đối với khách hàng để từ đó đẩy mạnh công tác thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ ở Ngân hàng; - Phân loại nợ sát theo tình hình thực tế để có thể đánh giá đúng chất lượng tín dụng; - Cơ cấu lại toàn diện mọi hoạt động, thực hiện chuẩn hóa các nghiệp vụ, quản trị NH, nâng cao trình độ và kỹ năng đội ngũ cán bộ - nhân sự, công khai - minh bạch hóa thông tin và lành mạnh về tài chính. Căn cứ vào những định hƣớng trên, các chỉ tiêu hoạt động năm 2013 của NHCT Hai Bà Trƣng đƣ c cụ thể hoá nhƣ sau: - Tổng nguồn vốn huy động tăng 10% - 15% đạt 2.242.209 triệu đồng - 2.344.128 triệu đồng vào cuối năm 2013; - Tổng dư nợ tăng 15% - 20% đạt 1.935.671 triệu đồng - 2.019.830 triệu đồng vào cuối năm 2013; - Lợi nhuận trước thuế tăng 20% và đạt 134.581 triệu đồng; - Thu phí dịch vụ tăng 20%; - Tỷ lệ NQH nhỏ hơn 4%; - Tỷ lệ nợ xấu dưới mốc 2%; - Thu nợ xử lý tủi ro 50 tỷ đồng trở lên; - Trích lập dự phòng rủi ro dưới 10 tỷ đồng. 58 3.2. Các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thƣơng Hai Bà Trƣng – Hà Nội Trong những năm vừa qua, NHCT Hai Bà Trưng cũng đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm ngăn ngừa rủi ro tín dụng nhưng hiệu quả đạt được là chưa cao, chất lượng tín dụng của NH chưa được đảm bảo. Tỷ lệ NQH và nợ xấu vẫn ở mức mấp mé mức nguy hiểm, nhiều khoản vay có khả năng mất trắng, do đó nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng vẫn còn tiềm ẩn ở mức cao, qua đó làm ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh của NH. Chính vì vậy mà trong thời gian tới, NHCT Hai Bà Trưng nên thực hiện một số biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng như sau. 3.2.1. Hoàn thiện, thực hiện nghiêm ngặt quy trình tín dụng Việc thực hiện đúng quy trình này sẽ giúp loại bỏ những rủi ro, giúp quá trình cho vay được an toàn. Trên thực tế thì Chi nhánh NH vẫn chưa thực hiện đúng và đủ quy trình này. Để thực hiện quy trình này một cách nghiêm túc hơn thì NHCT Hai Bà Trưng cần: - Ban hành đầy đủ các quy trình nghiệp vụ và có hướng dẫn thực hiện cụ thể đồng thời quán triệt đến từng chi nhánh, từng cán bộ NHCT Hai Bà Trưng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng nhận thức đầy đủ tính cấp thiết, lợi ích của việc ngăn ngừa phát sinh NQH và nợ xấu; - Quy định về nhiệm vụ, phân công trách nhiệm, xác định rõ quan hệ điều hành từ Chi nhánh chính xuống cơ sở. Phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng cấp, từng cá nhân. ác định lại thẩm quyền phán quyết đối với từng đơn vị, từng bộ phận nhằm nâng cao tính độc lập và giảm bớt khối lượng công việc cho NHCT Hai Bà Trưng; - Trên cơ sở trách nhiệm và quyền hạn, cần xử lý nghiêm các trường hợp làm sai quy trình nhằm hạn chế rủi ro trong trường hợp khách hàng và cán bộ tín dụng móc ngoặc với nhau. Đồng thời thường xuyên tiến hành kiểm tra, đánh giá thực hiện và xử lý sau khi thực hiện. 3.2.2. Nâng cao hơn nữa chất ƣ ng thẩm định tín dụng Chất lượng thẩm định tín dụng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của NH, nhất là chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định như các chính sách về đầu tư, các quy hoạch ngành, vùng... Thẩm định dự án và cho vay theo dự án là hoạt động có tầm quan trọng bậc nhất tại Ngân hàng. NHCT Hai Bà Trưng đã ban hành nhiều quy trình, quy định, hướng dẫn... về thẩm định dự án, kiểm soát... nhằm không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định. Nội dung thẩm định ngày càng được hoàn thiện, các phương pháp thẩm định tiên tiến đã dần được áp dụng trong toàn hệ Thang Long University Library 59 thống. Trình độ cán bộ phân tích tín dụng và thẩm định dự án không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên bên cạnh những bước phát triển trên còn có một số hạn chế trong quá trình thẩm định, để khắc phục điều đó thì NHCT Hai Bà Trưng cần xem xét: - Hiện nay việc thực hiện các bước chuẩn bị đầu tư mất rất nhiều thời gian. Chủ đầu tư sau khi được cấp có thẩm quyền cho phép triển khai dự án, phải lập dự án. Sau đó là được sự đồng ý của các Bộ, ban ngành có liên quan, chính quyền các cấp và NH cũng cần phải thẩm định lại chắc chắn một lần nữa tính khả thi của dự án. Mỗi bên đều có yêu cầu riêng và để đảm bảo yêu cầu khách quan hoạt động thẩm định của NH cũng được thực hiện tách rời với chủ đầu tư. Kinh nghiệm chuyên môn của cán bộ NH không thể chuyên sâu cho tất cả các lĩnh vực do vậy thời gian thẩm định kéo dài, chi phí lớn. Trong một số trường hợp chủ đầu tư muốn rút ngắn thời gian chuẩn bị đầu tư. Để tiết kiệm chi phí và tận dụng được khả năng của cán bộ xây dựng dự án cần có sự kết hợp ngay từ đầu giữa NH và chủ đầu tư trong việc thẩm định dự án; - Đối với cho vay ngắn hạn, nếu thấy người vay không có khả năng hoàn trả NH có thể ngừng cho vay và có thể yêu cầu phát mại tài sản thế chấp. Cho vay trung và dài hạn thì khó khăn hơn, khi phát sinh rủi ro thì NH khó thực hiện việc phát mại tài sản. Ngân hàng cần tham gia trực tiếp vào quá trình định hướng của ngành mà mình cho vay, tham gia vào quá trình phân tích của chủ đầu tư và Ngân hàng có thể thẩm định thêm một số chỉ tiêu mà Ngân hàng cho là cần thiết để tạo điều kiện tốt nhất cho DN trả được nợ và phòng tránh rủi ro cho Ngân hàng. 3.2.3. Hoàn thiện và nâng cao hệ thống thông tin của Ngân hàng Để thực hiện được tốt công tác thẩm định thì cần phải có hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác, cập nhật và kịp thời. Thông tin đảm bảo yêu cầu sẽ giúp việc thẩm định có được những quyết định phù hợp. Vì vậy mà việc nâng cao chất lượng thông tin là vấn đề mà NHCT Hai Bà Trưng cũng cần phải quan tâm. Nội dung chính là: - Tiến hành thu thập thông tin về khách hàng từ tất cả các kênh: trung tâm thông tin tín dụng, từ nguồn thông tin nội bộ, từ Internet... NHCT Hai Bà Trưng cũng cần nắm được xu hướng phát triển đối với các lĩnh vực, ngành nghề cho vay. Trên cơ sở đó tập hợp, phân tích và đánh giá mức độ rủi ro có thể xảy ra, có cơ sở tính toán xác định hạn mức rủi ro, quản lý và xử lý rủi ro cho phù hợp với thực tiễn hoạt động; - Tổ chức hệ thống thông tin quản lý phải đạt được các yêu cầu đối với quản trị DN, đó là thông tin thông suốt từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên, kịp thời, chính xác, đầy đủ, cập nhật. Quản trị mạng theo mô hình NH hiện đại, an toàn và bảo mật. 60 3.2.4. Đa dạng hoá danh mục cho vay Khi một NH phát triển chiến lược và kế hoạch kinh doanh của mình, để giảm thiểu rủi ro tín dụng, họ phải xem xét đến các yếu tố và mức độ rủi ro của thị trường mục tiêu và phân đoạn khách hàng, sự kết hợp giữa các sản phẩm tín dụng, khả năng cấp và trọng tâm danh mục. Tuy nhiên, theo các chuyên gia NH, việc cần làm nhất vẫn là đa dạng hoá các danh mục cho vay. Thực vậy, việc đa dạng hoá danh mục cho vay của NH sẽ làm giảm tối đa rủi ro vì các khoản vay thường có mức độ rủi ro khác nhau theo năng lực, quy mô khách hàng, ngành nghề, tính chất sở hữu của khách hàng. NHCT Hai Bà Trưng nên tăng cường hơn nữa cho vay đồng tài trợ vì hình thức này cũng giúp phân tán rủi ro. Thông thường các khoản cho vay đồng tài trợ thường là các khoản lớn, khó thẩm định mà khả năng về vốn của NH cũng không tài trợ toàn bộ được. Trong trường hợp đó, NH sẽ kết hợp với các NH khác đánh giá và cho vay, như vậy, rủi ro sẽ được chia sẻ mà vẫn đảm bảo lợi nhuận thu được. Thực tế cho thấy trong năm 2012, NHCT Hai Bà Trưng cho vay đồng tài trợ 3 dự án với dư nợ 192 tỷ thì 2 dự án đã trả nợ gốc và lãi đúng hạn và cho tới thòi điểm này chưa có dấu hiệu rủi ro xảy ra. Do đó, cho vay đồng tài trợ cũng là một trong những biện pháp giảm thiểu rủi ro có hiệu quả. 3.2.5. Tổ chức phân tích, phân loại n xấu theo định k Cán bộ tín dụng phải coi việc phân tích, phân loại nợ xấu là một công việc trọng yếu. Đối với từng khoản nợ có vấn đề phải phân tích chi tiết thực trạng tình hình tài chính của khách hàng, tìm ra nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, khả năng tài chính của khách hàng có thể thu nợ đến đâu, tìm hiểu rõ đạo đức, gia cảnh của khách hàng. Từ đó giúp cán bộ tín dụng nắm được nguyên nhân phát sinh để có cách giải quyết cho từng đối tượng. Cụ thể như sau: - Việc phân tích, phân loại nợ xấu phải tiến hành thường xuyên, liên tục, định kỳ, khi phát hiện ra một sự thay đổi nào phải báo cáo lên trên và phải báo cáo về tình hình xử lý nợ, những khó khăn trong quá trình thực hiện về NHCT Việt Nam và NHNN để lấy ý kiến chỉ đạo kịp thời; - Mỗi chi nhánh cử một vài cán bộ vững vàng nghiệp vụ, thông hiểu từng khách hàng, có kinh nghiệm trong công tác xử lý nợ để kiểm tra, phân tích các khoản nợ xấu. Tiến hành phân tích trên nhiều góc độ khác nhau: Theo thành phần kinh tế, theo phương thức cho vay, theo tài sản bảo đảm, theo mức độ rủi ro... để xác định đúng hướng xử lý các khoản nợ đó. Đồng thời kiểm tra tính pháp lý hồ sơ đề nghị xử lý nợ của các phòng tín dụng chuyển đến và tập hợp trình lên ban xử lý nợ cấp trên, trình tự này sẽ giúp cho công tác đánh giá chính xác, khả thi hơn. Thang Long University Library 61 3.2.6. Tăng cƣờng đôn đốc, xử lý và thu hồi đối với các khoản N quá hạn và các khoản n tồn đọng Nợ quá hạn và nợ xấu luôn có xu hướng tăng trong những năm vừa qua khiến chất lượng tín dụng của NH không đảm bảo. Chính vì vậy mà công tác đôn đốc, xử lý và thu hồi NQH, nợ xấu và nợ tồn đọng là một trong những biện pháp tốt trong việc phòng ngừa RRTD tại Ngân hàng. NHCT Hai Bà Trưng cần phải xác định rõ một số quan điểm trong công tác xử lý và thu hồi các khoản NQH, nợ tồn đọng như sau: - Trước hết cần cương quyết sắp xếp lại đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ tín dụng. Những cán bộ nào chưa đáp ứng được yêu cầu, trình độ thì cho đi đào tạo lại. Còn cán bộ nào không đáp ứng được yêu cầu thì cương quyết chuyển công tác khác; - Cần tập trung nhìn thẳng vào nợ xấu và coi việc xử lý nợ xấu là vấn đề tất yếu vì những rủi ro tiềm ẩn là không thể tránh khỏi, nếu không nhìn thẳng vào thực tế này thì rất khó có những giải pháp triệt để phù hợp nhằm giải quyết các khoản nợ xấu phát sinh; - Cần đánh giá phân tích rõ bản chất tất cả các khoản nợ. Chi nhánh NH phải chuyển NQH ngay đối với các khoản nợ khó có khả năng thu hồi mà không đợi đến khi hết thời hạn gia hạn hoặc ngay cả khi còn trong hạn; - Lập lộ trình thu hồi nợ cụ thể trên cơ sở đánh giá khả năng trả nợ thực tế khách hàng. Lộ trình này sẽ được theo dõi hàng tháng và cập nhật để đảm bảo việc thu hồi nợ được thực hiện theo đúng kế hoạch; - Việc xử lý nợ xấu được tập trung hoàn toàn cho bộ phận thu hồi nợ chuyên nghiệp là phòng quản lý tín dụng khi nợ ở nhóm 3 trở lên thay vì chỉ sau khi được chuyển ngoại bảng. Đồng thời cũng phải kiểm điểm làm rõ trách nhiệm cá nhân có liên quan; - Cán bộ nào để phát sinh NQH, nợ tồn đọng nhiều, thời gian kéo dài thì lãnh đạo phòng không tiếp tục giao công việc mới mà chỉ giao cán bộ đó tập trung vào việc thu hồi nợ xấu; - Và cũng có những cơ chế khuyến khích bằng vật chất đối với các khoản nợ được thu hôi mà Ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi và các khoản nợ xấu đã xử lý từ dự phòng rủi ro chuyển sang ngoại bảng. Trên cơ sở đó, Ngân hàng cần tiến hành các biện pháp đôn đốc, thu hồi thích hợp với từng khoản nợ xấu nhằm đạt hiệu quả thu hồi cao nhất và trong thời gian ngắn nhất. Đây được xem là biện pháp ít tốn kém nhất nhưng hiệu quả mang lại không phải là nhỏ. Cụ thể như sau: 62 - Đối với NQH < 12 tháng: Ngoài việc gửi văn bản thông báo NQH, kết hợp với việc tăng cường kiểm tra kết quả quá trình sử dụng vốn, thực hiện tài chính, tài sản đảm bảo... cán bộ tín dụng có thể tiến hành tư vấn cho khách hàng về các đối tác có quan hệ kinh tế để tránh xảy ra những vụ lừa đảo, hoặc các hợp đồng vô hiệu dẫn đến rủi ro cho khách hàng cũng như Ngân hàng); - Đối với các khoản NQH > 12 tháng, nguy cơ rủi ro cao thì công tác đôn đốc cần được thực hiện liên tục và chặt chẽ hơn: + Tiến hành thương lượng với khách hàng về các biện pháp xử lý nợ. Cần ưu tiên các khách nợ có tư cách đạo đức tốt, có thiện chí trả nợ và có khả năng trả nợ. Các biện pháp thương lượng với khách hàng phải gắn với cơ chế, chính sách...; + Tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chủ quản, tổ trưởng tổ nhóm vay... để nâng cao kết quả thực hiện; + Có các hình thức thu nợ thích hợp: Một phần hoặc toàn phần, thu gốc trước lãi sau... tạo điều kiện cho khách nợ có điều kiện hoàn trả đủ gốc và lãi. 3.2.7. Cơ cấu lại một số khoản n Cho dù việc cơ cấu lại các nhóm nợ cũng là một trong nhưng nguyên nhân gây ra nợ xấu đối với NHCT Hai Bà Trưng trong năm vừa qua nhưng đối với một số khoản NQH, nợ xấu do nguyên nhân khách quan nhưng chưa phải là bất khả kháng thì việc xem xét cơ cấu lại nợ là việc làm cần thiết. Điều này sẽ giúp cho DN có được cơ hội để tiếp tục sản xuất và tiến hành trả nợ cho NH. Việc cơ cấu lại nợ hoặc thay đổi hợp đồng tín dụng gồm: - Nhóm NQH được xét cho khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5, là các DN chưa trả được nợ vay NH do chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi sự thay đổi cơ chế, chính sách và môi trường kinh doanh như bị đóng cửa, mất thị trường...), do tiến hành sắp xếp lại doanh nghiệp, do NH cho vay theo chỉ định của cấp trên... Trước mắt NH chịu rủi ro phần thu lãi hàng năm trên loại nợ xấu này. Tuy nhiên để NH có được nguồn vốn hoạt động NH cần có cơ chế mua bán nợ và khoản nợ khoanh được hạch toán riêng và tạm loại ra khỏi chỉ tiêu tính tỷ lệ nợ xấu của NH từ thời điểm có quyết định được khoanh; - Nhóm nợ xấu được xét cho giãn nợ từ 3 đến 5 năm là các DN, đặc biệt là các DN Quốc doanh chưa có khả năng trả nợ cho NH do kinh doanh thua lỗ, mất thời cơ tiêu thụ hàng hoá hoặc thời kỳ phát huy hiệu quả dự án sản xuất chưa tới, do nhu cầu của nền kinh tế và hướng phát triển trong tương lai mà doanh nghiệp đó cần được tiếp tục tồn tại. Đây là khoản dư nợ được xét cho cơ cấu lại: Biến nợ thời hạn ngắn thành thời hạn dài hơn, biến NQH thành nợ trong hạn và con nợ vẫn phải trả lãi tiền vay Thang Long University Library 63 trong suốt thời gian chưa đáo hạn của các hợp đồng tín dụng đó. Để bù đắp thiếu hụt nguồn vốn thanh toán (do phải kéo dài thời gian thu hồi nợ) thì NHCT Hai Bà Trưng có thể sử dụng thị trường tiền tệ và thị trường mua bán nợ thông qua công ty Quản lý tài sản Quốc gia (VAMC) trong thời gian tới. 3.2.8. Tăng cƣờng kỹ năng công tác quản lý rủi ro trong hoạt động Ngân hàng - Phân tích, đánh giá cơ cấu tài sản nợ: Tiến hành nghiên cứu phân tích toàn diện môi trường kinh doanh để dự báo về xu hướng vận động của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, của lãi suất và tỷ giá hối đoái từ đó có kế hoạch phát triển nguồn vốn phù hợp. Diễn biến tăng giảm cơ cấu các loại vốn trong tổng nguồn vốn, mối quan hệ giữa vốn và sử dụng vốn, trên cơ sở đó xây dựng cơ chế chính sách huy động và điều hành vốn có hiệu quả nhất. Xây dựng các chỉ tiêu an toàn về huy động vốn phù hợp với cơ cấu nguồn vốn tối ưu và tốc độ tăng trưởng hiệu quả tài sản có. - Phân tích, đánh giá cơ cấu tài sản có: Chủ yếu đánh giá tình hình thu nhập, chi phí, kết quả kinh doanh. Đánh giá các khoản thu nhập, chi phí so với mức độ sử dụng vốn hoặc so với khối lượng vốn huy động, việc trích lập dự phòng phải thu khó đòi, tỷ lệ nộp thuế ảnh hưởng tới thu nhập. Cẩn thận trọng công tác nghiên cứu, sàng lọc, lựa chọn các dự án đầu tư có triển vọng tốt, hiệu quả cao để cho vay trên cơ sở thực hiện chuyên môn hoá việc theo nhóm khách hàng, loại dịch vụ và từng ngành, nghề. Phân loại tài sản có theo quy định các hạn mức đầu tư phù hợp với mức độ rủi ro nhằm hạn chế nợ xấu. Sử dụng có hiệu quả hệ thống các chỉ tiêu phòng ngừa rủi ro và điều chỉnh linh hoạt phù hợp với nhu cầu, khả năng tài chính của khách hàng cũng như mục tiêu sinh lời của Ngân hàng; - Phân tích, đánh giá thực hiện quy định về các tỷ lệ để đảm bảo an toàn trong hoạt động NH: Vốn tự có, tài sản có rủi ro được tính theo quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động NH, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, việc chuyển nhượng cổ phần, góp vốn mua cổ phần doanh nghiệp, vốn pháp định, vốn điều lệ; - Phân tích, đánh giá về khả năng chi trả: Tài sản có có thể thanh toán ngay so với tài sản nợ phải thanh toán ngay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đánh giá rủi ro thanh khoản, cân đối vốn và sử dụng vốn, tăng trưởng tài sản có, tài sản nợ và các khoản vốn lớn. 3.2.9. Thực hiện nghiêm túc các quy định về đảm bảo tiền vay Có thể nhận thấy cho vay không có TSĐB của NHCT Hai Bà Trưng trong 3 năm gần đây luôn có xu hướng tăng, NH cũng chưa thật sự quan tâm nhiều đến TSĐB, nhưng việc tăng cho vay có TSĐB cũng là một biện pháp thiết yếu trong việc hạn chế RRTD tại 64 NH. TSĐB là nguồn thu thứ hai sau phương án sản xuất kinh doanh. Khi phương án sản xuất kinh doanh gặp rủi ro thì tài sản bảo đảm là cơ sở để tiến hành thu nợ, quan trọng hơn là TSĐB gắn trách nhiệm của người vay với khoản vay. Do đó, việc thực hiện nghiêm túc các vấn đề quy định về đảm bảo tiền vay là vô cùng cần thiết đối với NH. - Đối với hình thức bảo đảm bằng tài sản: + Tài sản bảo đảm phải có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp, tài sản bảo đảm phải ổn định về giá trị, có tính thanh khoản cao...; + Đối với những dự án có mức độ rủi ro lớn thì cần có mức tài sản bảo đảm tương ứng, quan hệ giữa thời hạn cho vay và tài sản bảo đảm cũng phải được tính toán kỹ. Thời hạn cho vay càng dài thì việc dự báo về rủi ro càng kém chính xác, đòi hỏi phải sử dụng các tài sản bảo đảm có mức độ rủi ro thấp. Mặt khác nếu thời gian thực hiện nghĩa vụ trả nợ càng dài thì sự thay đổi giá trị càng lớn. Do vậy mà Ngân hàng cần tiến hành định giá tài sản theo định kỳ đối với tài sản bảo đảm trong cho vay trung và dài hạn và cách thức xử lý khi giá trị tài sản bảo đảm tái định giá nhỏ hơn dư nợ; + Cũng cần phải xác định rõ trách nhiệm và quyền của các bên trong việc thực hiện hợp đồng về tài sản bảo đảm, tạo điều kiện cho việc xử lý tài sản bảo đảm được thuận lợi nếu rủi ro xảy ra. - Đối với hình thức bảo lãnh của bên thứ ba: Cần xác định rõ năng lực tài chính, năng lực pháp lý cũng như trách nhiệm của người bảo lãnh, tài sản của người bảo lãnh. 3.2.10. Nâng cao ý thức, trách nhiệm và tr nh độ chuyên môn của cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng Có thể thấy nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng đối với NH, không chỉ trong công tác phòng tránh RRTD mà liên quan tới toàn bộ hoạt động của NH. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ, nhân viên còn quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NH. Chính vì vậy mà NH cần phải thực hiện một cách nghiêm túc công tác tuyển chọn, đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn cũng như ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, cụ thể như sau: - Lựa chọn các cán bộ có trình độ chuyên môn, có đạo đức tốt vào các vị trí phù hợp, đảm bảo đúng người, đúng việc, đúng tiêu chuẩn nhằm khai thác tối đa tiềm năng, sử dụng triệt để năng lực, sở trường, thế mạnh của từng cán bộ Ngân hàng; - Ban hành và cụ thể hoá các chính sách thu hút nhân tài, nhất là các chuyên gia đầu ngành, chuyên gia giỏi, những người có trình độ cao trong lĩnh vực chuyên môn, sản phẩm mới, công nghệ Ngân hàng. Đây là cơ sở tiền đề để tạo ra năng lực cạnh tranh mới cho Ngân hàng; Thang Long University Library 65 - Bảo đảm tính thừa kế giữa các lớp cán bộ, trẻ hoá đội ngũ cán bộ, mạnh dạn sử dụng và bố trí cán bộ trẻ, có năng lực và phẩm chất thực sự vào các chức vụ quản lý; - Tập trung đào tạo nâng cao, đào tạo chuyên sâu nghiệp vụ truyền thống, cập nhật kiến thức mới, đào tạo về sản phẩm mới, công nghệ Ngân hàng hiện đại. Sử dụng tối đa các nguồn lực của NH trong phạm vi cho phép. Đồng thời khai thác triệt để các nguồn tài trợ bên ngoài cho công tác đào tạo, bồi dưỡng. Trên cơ sở đó phân loại và thực hiện sắp xếp lại cán bộ. Dựa vào kết quả thu được, Ngân hàng đề ra chính sách tiền lương phù hợp với từng loại trình độ, từng loại công việc chuyên môn, độ phức tạp và trách nhiệm cho từng cán bộ từ đó phát huy hết sức sáng tạo, chủ động của mỗi cán bộ trong hệ thống; - Bên cạnh đó cũng có thể nhận thấy một trong những giải pháp quan trọng nhất để phòng ngừa NQH và nợ xấu chính là năng cao ý thức và năng lực chuyên môn của mỗi cán bộ tín dụng, vì đơn giản cán bộ tín dụng là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên việc móc ngoặc với khách hàng hay cố ý làm sai các quy trình tín dụng để có lợi cũng rất dễ xảy ra. Hơn nữa, việc NH giao mức tăng trưởng tín dụng cho từng cán bộ tín dụng là một chính sách rất dễ gây rủi ro. Để chạy theo mức tăng trưởng tín dụng được giao cán bộ tín dụng có thể làm trái các quy định. Vì vậy, để phòng ngừa rủi ro trong thời điểm này thì NH không nên giao tăng trưởng tín dụng mà cần nâng cao chất lượng tín dụng, mỗi cán bộ tín dụng tuy không đạt được mức tăng trưởng tín dụng nhưng các khoản cho vay của các cán bộ tín dụng này đều thu hồi đủ đầy đủ và đúng hạn thì cũng cần có chính sách khuyến khích và phát huy. 3.2.11. Tăng cƣờng chất ƣ ng, hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ Đây là công tác quan trọng mà NHCT Hai Bà Trưng cần thực hiện một cách nghiêm túc và sát sao hơn nữa để phòng tránh RRTD, cụ thể như sau: - Củng cố, kiện toàn hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Hệ thống kiểm tra nội bộ chuyên trách và các cán bộ kiểm tra hoạt động độc lập với các bộ phận nghiệp vụ và được độc lập đánh giá, kết luận, kiến nghị trong hoạt động kiểm tra - kiểm toán; - Xây dựng hoàn chỉnh các quy chế, quy trình kiểm tra. Xây dựng chương trình kiểm tra định kỳ (kể cả hệ thống giám sát từ xa để giám sát phòng ngừa phòng ngừa mọi sai sót, mọi hành vi vi phạm pháp luật để bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh toàn hệ thống và từng đơn vị thành viên. Chủ động kiểm tra kiến nghị xử lý các trường hợp sai phạm, đảm bảo mọi hoạt động của Ngân hàng đều được kiểm tra kiểm soát chặt chẽ; 66 - Hệ thống kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước giám đốc và việc kiểm tra giám sát bảo đảm thông suốt, an toàn và đúng pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của NH; - Trên cơ sở xây dựng các hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chung của NH, xây dựng và phát triển hệ thống thu thập, quản lý và cung cấp thông tin quản lý rủi ro trên tất cả các mặt hoạt động phục vụ cho việc kiểm tra kiểm soát đạt hiệu quả cao hơn; - Chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện những kiến nghị và kiểm tra của NHCT Việt Nam và NHNN. 3.2.12. Trích lập quỹ dự phòng rủi ro Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 04 năm 2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007 của Thống đốc NHNN, dư nợ cho vay được phân loại và được trích lập dự quỹ bù đắp rủi ro hàng tháng, số tiền trích rủi ro được tính vào chi phí của Ngân hàng. Quy định tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với năm 5 nhóm nợ quy định tại Khoản 1 Điều 6 được sửa đổi, bổ sung như sau: - Nhóm 1: 0%; - Nhóm 2: 5%; - Nhóm 3: 20%; - Nhóm 4: 50%; - Nhóm 5: 100%. Giải pháp này giúp NHCT Hai Bà Trưng có được nguồn tài chính nhằm vào việc xử lý NQH, nợ xấu và được thực hiện hàng năm nên NQH, nợ xấu tại Ngân hàng luôn được giữ ở mức an toàn. Trên thực tế việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro căn cứ vào kết quả kinh doanh của hệ thống sau đó trích lấy nguồn dự phòng rủi ro cho các nhóm nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Việc trích dự phòng đi đôi với việc đôn đốc thu hồi nợ, tức là vẫn thu hồi nợ nhưng vẫn phải trích dự phòng, với các khoản nợ có khả năng tiềm ẩn rủi ro sẽ được hạch toán ra ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và dùng quỹ dự phòng để bù đắp. 3.2.13. Xây dựng hệ thống phân loại và xếp hạng khách hàng tự động Tại NHCT Hai Bà Trưng, khách hàng là doanh nghiệp hay cá nhân đều được phân thành 10 loại theo mức độ rủi ro giảm dần. Việc phân loại này dựa trên điểm số tín dụng của mỗi khách hàng tổng hợp từ nhiều yếu tố như tình hình tài chính, tư cách pháp nhân, quan hệ với NH, tài sản thế chấp Dựa vào điểm số này, Ngân hàng có thể ra các quyết định khi cấp tín dụng cho khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay cán bộ tín dụng vẫn phải chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng bằng tay. Cách làm đó có rất nhiều nhược điểm Thang Long University Library 67 như mất thời gian, dễ sai sót, nhầm lẫn do khối lượng chỉ tiêu lớn, dễ bị chi phối bởi ý kiến chủ quan. Do vậy, để giảm thiểu những yếu tố có thể dẫn đến sai lệch trong điểm số tín dụng và hạng của khách hàng; NH cần xây dựng một phần mềm chấm điểm và phân loại. Như vậy, Ngân hàng có thể giảm thời gian ra quyết định mà vẫn có được kết quả chính xác. Tuy nhiên, hệ thống chấm điểm tự động đó phải điều chỉnh để phù hợp được những thay đổi của nền kinh tế như giá cả, mức sống, yếu tố cạnh tranh Khi có sự thay đổi đó, cần phải xếp hạng và đánh giá lại mức độ rủi ro của khách hàng để có mức phân bổ dự phòng, điều chỉnh giới hạn cấp. Ngoài ra, định kỳ NH nên phân loại khách hàng để loại dần những khách hàng làm ăn không hiệu quả, thu hút những khách hàng tài chính lành mạnh để đầu tư. Như vậy, với hệ thống phân loại và xếp hạng khách hàng tự động, Ngân hàng có thể mở rộng tín dụng mà vẫn đảm bảo hạn chế rủi ro xảy ra. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Công thƣơng Việt Nam NHCT Hai Bà Trưng là Chi nhánh thành viên của hệ thống NHCT Việt Nam, hệ thống có mạnh thì Chi nhánh hoạt động mới ổn định. Vì thế để thực hiện hạn chế RRTD trở thành quy trình nghiệp vụ chính thức và mang tính tổng quát, thì dưới đây là một số đề xuất - kiến nghị với NHCT Việt Nam một số vấn đề khi xây dựng, ban hành quy trình - chế độ tổ chức thực hiện trong công tác tín dụng và phòng ngừa RRTD như sau: - Xây dựng và thực hiện ứng dụng hệ thống thông tin của ngành cập nhật đầy đủ dữ liệu về môi trường liên quan đến hoạt động tín dụng để đáp ứng các nhu cầu cung cấp và sử dụng trong quản trị và hạn chế rủi ro, cũng như tăng cường hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng; - Sớm ban hành quy chế về quản trị rủi ro độc lập với các quy trình nghiệp vụ, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Quy trình này cần phải chi tiết về bộ máy tổ chức và chuyên sâu trong thực hiện nghiệp vụ, có đầy đủ những chuẩn mực áp dụng để phân loại, đánh giá và nhận biết các loại rủi ro; - Xây dựng một hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ độc lập đảm bảo tư vấn có chất lượng trong việc cảnh báo, đề phòng các loại rủi ro trong quá trình hoạt động; - Chính sách nguồn nhân lực trong các khâu nghiệp vụ cần phải chuẩn hoá, có sàng lọc khi thực hiện nghiệp vụ. Các chế độ khuyến khích, đãi ngộ phải phù hợp đúng người đúng việc để động viên kịp thời; - Cần tiếp tục chú trọng hơn nữa công tác xử lý NQH trong năm tới nhất là trong năm 2013, để đạt được mục tiêu của Chính phủ năm 2013 làm trong sạch về cơ bản bảng 68 tổng kết tài sản. Tình thần xử lý nợ tồn đọng phải được quán triệt tới từng Chi nhánh, từng cán bộ làm công tác tín dụng. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nƣớc Dưới đây là một số kiến ngị với NHNN trong công tác lãnh đạo, điều hành nhắm nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế RRTD với không chỉ với NHCT Hai Bà Trưng mà trong cả hệ thống NHTM Việt Nam như sau: - NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính hoàn thiện và khẩn trương ban hành hệ thống kế toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Xây dựng các giải pháp hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các Tổ chức tín dụng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng theo hướng: nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và hệ thống cảnh báo sớm những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD, phát triển và thống nhất cách thức giám sát NH trên cơ sở lí luận và thực tiễn. NHNN cũng cần xây dựng cách tiếp cận hoạt động đánh giá chất lượng quản lí rủi ro trong nội bộ các TCTD và riển khai mạnh hơn nữa các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường tiền tệ như: Quyền chọn (option), hoán đổi (swap), kì hạn (forward , tương lai (future)...; - Triển khai mạnh mẽ và quyết liệt hơn nữa việc tái cơ cấu lại hệ thống NHTM, thúc đẩy quá trình mua bán - sáp nhập các NH cũng như các TCTD hoạt động yếu kém, xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng, nợ xấu, đồng thời khơi thông dòng vốn trong nền kinh tế, nhất là khới thông được dòng vốn nằm trong thì trường bất động sản. Bên cạnh đó thì NHNN cũng cấn phải lành mạnh hóa tình hình tài chính, làm sạch bảng cân đối tiền tệ của các NHTM, đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa khối NHTM Nhà nước để tăng năng lực cạnh tranh, giảm bớt yếu tố can thiệp trực tiếp của Nhà nước, minh bạch hóa hệ thống tài chính theo chuẩn mực quốc tế, từ đó tăng năng lực tự giám sát và quản lý rủi ro nội bộ; - Mới đây, với việc thành lập công ty Quản lý tài sản Quốc gia (VAMC) thì có thể coi đây là động thái tích cực của Chính phủ và nòng cốt là NHNN trong việc xử lý dứt điểm, triệt để các khoản nợ xấu và “làm sạch” hệ thống NHTM. Nhưng tính tới thời điểm này thì công tác mua lại nợ xấu của VAMC từ các TCTD vẫn còn chậm và hạn chế về số lượng, chưa thể hiện đúng vai trò và tầm ảnh hưởng trong công tác xử lý nợ xấu. Chính vì vậy trong thời gian tới, Chính phủ, các Bộ và nòng cốt là NHNN cần có những hướng dẫn, chỉ đạo và thực hiện sát sao hơn nữa để VAMC thưc hiện và hoàn thành tốt chức năng và vai trò của mình, trước tiên là xử lý nợ xấu và tiếp theo là thúc đẩy hơn nữa thì trường mua bán nợ trong hệ thống NHTM Việt Nam. Thang Long University Library 69 - Xây dựng và hoàn thiện chiến lược, chính sách quản trị rủi ro trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến rủi ro tín dụng) phù hợp. Thành lập bộ phận chuyên trách về quản lí rủi ro độc lập với kinh doanh, tiến tới thực hiện quản lí rủi ro theo ngành dọc, giảm dần mức độ uỷ quyền theo hàng ngang. Nâng cao chất lượng các công cụ lượng hoá rủi ro và tiếp tục áp dụng các công cụ đo lường mới, giúp các nhà lãnh đạo NH lượng hoá mức độ rủi ro, phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro, nhận biết chính xác các nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro để có giải pháp kịp thời và hữu hiệu; - Hoàn thiện quy trình cho vay, quy chế hoá mọi hoạt động trong NH, đảm bảo được các nguyên tắc hạn chế rủi ro như phân tách chức năng, tuân thủ hạn mức... ở mọi khâu trong NH. Thường xuyên xem xét lại quy trình theo định kì, đảm bảo mọi công việc được xử lí một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền. Tuân thủ Quy định về các tỉ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các Tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493 và Quyết định 18 và tăng cường các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và của các Tổ chức tín dụng; - Thực hiện minh bạch và công khai hoá thông tin. Đây là tiền đề cơ bản để nâng cao chất lượng quản lí rủi ro. Việc minh bạch và công khai thông tin không chỉ được thực hiện giữa các NHTM với NHNN, trong nội bộ NHTM mà còn giữa NHTM với các nhà đầu tư, với công luận; - Bảo hiểm có vị trí đặc biệt trong hệ thống quản lí rủi ro tín dụng của NH. Cơ sở của bảo hiểm ngân hàng là các nghĩa vụ chi trả bảo hiểm cho các ngân hàng khi gặp sự cố rủi ro. Quản lí rủi ro tín dụng và bảo hiểm là các bộ phận không thể thiếu về an ninh kinh tế và ổn định kinh doanh. Bảo hiểm Ngân hàng là một trong những sản phẩm tiêu chuẩn đối với các NH trên thị trường quốc tế; - Nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin tín dụng tại Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin cập nhật và chính xác về khách hàng. Tăng cường các quy chế công bố thông tin, nâng cao chất lượng và mức độ tin cậy của thông tin thông qua cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt động của kiểm toán độc lập. Ban hành các văn bản hướng dẫn việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm ở từng NH cũng như việc thành lập và hoạt động của các tổ chức tín nhiệm độc lập. Đối với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập, cho phép thành lập với nhiều hình thức sở hữu khác nhau nhưng cũng phải giám sát chặt chẽ để đảm bảo chất lượng của các kết quả xếp hạng này, không để xảy ra tình trạng thông đồng giữa tổ chức xếp hạng với tổ chức được xếp hạng. Bên cạnh đó, những tiêu chí của tổ chức xếp hạng cũng phải phù hợp với Hiệp ước Basel; 70 - NHNN cần có quy định cụ thể biện pháp quản lý, thanh tra, kiểm tra để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Các NHTM Việt Nam cũng như chi nhánh của NH nước ngoài đều phải tuân theo một cơ chế thẩm định thống nhất của NHNN, không được hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để cạnh tranh, giành giật khách hàng, gây rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng. 3.3.3. Kiến nghị với Chính phủ và Chính quyền địa phƣơng các cấp Chính phủ và Chính quyền địa phương các cấp cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện về hành lang pháp lý để hoạt động tín dụng của các NHTM hoạt động hiệu quả. Một số nội dung như sau: - Rà soát sửa đổi bổ xung cơ chế chính sách và các văn bản phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế như cam kết gia nhập WTO (World Trade Organization), hiệp định Việt - Mỹ, hiệp định tự do thương mại ASEAN (AFTA - ASEAN Free Trade Area và đều lệ Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund); - Sửa đổi bổ xung các văn bản liên quan đến tính hiệu quả của nền kinh tế như; Luật đầu tư, luật phá sản... Không áp dụng các hình thức hỗ trợ bằng cơ chế chính sách cho các DN Nhà nước để các đơn vị này kinh doanh có hiệu quả. Quy định bắt buộc các doanh nghiệp công bố thông tin công khai, minh bạch và tình hình S KD được kiểm toán thường niên; - Tiến hành sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan đến ngân hàng và hoạt động tín dụng như: Thúc đẩy ứng dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động tín dụng như luật các Tổ chức tín dụng, các văn bản liên quan đến bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay... nhằm tránh những rắc rối và phiền phức của ngân hàng khi áp dụng những văn bản này trong thực tiễn; - Có chính sách hỗ trợ kịp thời những thiệt hại của các địa phương và đối tượng liên quan để khắc phục thiệt hại do nguyên nhân bất khả kháng gây ra. Kết luận chƣơng 3 Trên cơ sở phân tích thực trạng trong chương 2 và căn cứ vào một số định hướng hoạt động tín dụng cũng như các chỉ tiêu hoạt động của NHCT Hai Bà Trưng, một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế RRTD tại NHCT Hai Bà Trưng đã được đề xuất trong chương 3. Ngoài ra, để các giải pháp đã đề xuất có tính khả thi hơn, một số kiến nghị đối với NHCT Việt Nam, NHNN, Chính phủ và Chính quyền địa phương các cấp cũng được đưa ra trong chương cuối này. Thang Long University Library LỜI KẾT Trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam hiện nay thì hoạt động tín dụng đóng góp phần lớn trong kết quả kinh doanh của Ngân hàng, nhưng lại là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Chính vì vậy rủi ro tín dụng luôn rình rập và là mối đe dọa đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu với nền kinh tế thế giới thì các NHTM cổ phần và các Ngân hàng nước ngoài đang đua nhau mở rộng mạng lưới và quy mô hoạt động kinh doanh làm cho tình hình cạnh tranh thêm quyết liệt, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, bên cạnh đó là việc tăng trưởng tín dụng quá nhanh dẫn đến chất lượng tín dụng ngày càng kém, điều này cũng đồng nghĩa là mức độ rủi ro tín dụng cũng ngày càng càng cao. Tình hình đó đòi hỏi NHCT Việt Nam nói chung và Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng nói riêng cần phải ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả quản lý RRTD và hạn chế đến mức thấp nhất khả năng rủi ro tín dụng xảy ra. Qua bài viết này, trên cơ sở vận dụng những kiến thức đã học và các kiến thức từ thực tế, Khóa luận đã phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng, thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng, từ đó nêu lên những mặt hạn chế, khó khăn trong công tác tín dụng và quản lý rủi ro tại Chi nhánh, từ đó Khóa luận đã đưa ra một số giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHCT Hai Bà Trưng. Do kiến thức và thời gian nghiên cứu có hạn nên Khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự chỉ bảo, góp ý của các Thầy, Cô giáo để Khóa luận của em được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 có hiệu lực từ 01/01/2011). 2. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/05/2005 về việc ban hàng quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của các tổ chức tín dụng. 3. Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động Ngân hàng của các tổ chức tín dụng ban hàng kèm Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN. 4. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng (có hiệu lực từ 01/10/2010). 5. Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27/09/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động Ngân hàng của các tổ chức tín dụng. 6. Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 (Ngày có hiệu lực: 01/06/2014) quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. 7. PGS.TS Mai Văn Bạn (2009), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Đại học Thăng Long, Nhà xuất bản Tài Chính. 8. PGS.TS Phan Thị Thu Hà (2008), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Thống Kê. 9. TS Nguyễn Minh Kiều (2008), Tín dụng và thẩm định tín dụng Ngân hàng, Nhà xuất bản Tài Chính. 10. GS.TS Nguyễn Văn Tiến 2009), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống Kê, tr 343. 11. GS.TS Nguyễn Văn Tiến (2010), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng, Học viện Ngân hàng, Nhà xuất bản Thống Kê. 12. Cẩm nang tín dụng của các NHTM Việt Nam. Thang Long University Library

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfa17334_8848.pdf
Luận văn liên quan