Luận văn Công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thời đại thông tin, bùng nổ thông tin, xa lộ thông tin, đó là những khái niệm còn khá mới nhưng chứng tỏ sức mạnh của thông tin trong đời sống xã hội quốc gia và quốc tế hiện nay. Xã hội càng phát triển, yêu cầu thông tin càng đa dạng, phong phú và ngược lại, sự phát triển của thông tin thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trong thời đại hiện nay với xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa mỗi quốc gia muốn phát triển phải khai thác được các quan hệ giao lưu quốc tế. Thông tin chính là chiếc cầu nối trong sự giao lưu giữa các quốc gia, là phương tiện giúp cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa các cộng đồng, là nguồn lực để phát triển đất nước. Theo đó, thông tin đối ngoại đã trở thành một trong những công cụ quan trọng, phổ biến được sử dụng trong quan hệ quốc tế và có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động đối ngoại của mọi quốc gia trên thế giới. Thành công hay thất bại trong việc thực hiện chính sách đối ngoại một phần tùy thuộc vào khả năng chiếm được lợi thế thông tin hay không. Thông tin đối ngoại là một mảng công việc rất quan trọng trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đó là cầu nối, phương tiện mở rộng giao lưu, hiểu biết giữa Việt Nam với các nước. Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại sẽ giúp các bạn bè quốc tế tiếp cận tình hình một cách chính xác, giúp họ hiểu đúng về đất nước, con người Việt Nam. Qua đó, phục vụ chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế của ta, thu hút các nguồn lực bên ngoài như vốn, công nghệ, du lịch phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, sẽ làm hạn chế những thông tin sai lệch, bịa đặt về Việt Nam và ngăn chặn âm mưu "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa và các hoạt động phá hoại an ninh quốc gia của các phần tử chống đối. Ngay từ những năm đầu thập niên 90, công tác thông tin đối ngoại đã được triển khai tích cực và đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế. Những năm gần đây và thời gian tới, tình hình thế giới và trong nước chuyển biến sâu sắc, toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ, thông tin đối ngoại có nhiều thuận lợi nhưng cũng bộc lộ nhiều thách thức. Trước tình hình ấy, làm thế nào để góp phần thực hiện nhiệm vụ của Đảng đặt ra cho lĩnh vực đối ngoại là "tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"; đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh tư tưởng, phát triển nền văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới khi mở rộng giao lưu quốc tế - đó là yêu cầu và nhiệm vụ mới đối với công tác thông tin đối ngoại. Chính vì vậy, việc đánh giá, tổng kết công tác thông tin đối ngoại thời gian qua là rất cần thiết. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đối ngoại, nghiên cứu và xây dựng chiến lược triển khai có hiệu quả công tác thông tin đối ngoại. Với suy nghĩ đó, tôi chọn đề tài: "Công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài và nguồn tài liệu Ở nước ta những năm gần đây, công tác thông tin đối ngoại đã được giới học giả, các cấp, các ngành quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn. Tại các buổi hội thảo, hội nghị tổng kết, đánh giá về hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại đã được đưa ra bàn luận và phân tích sâu ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, đây là chủ đề còn khá mới đối với các sinh viên, học viên cao học ngành quan hệ quốc tế. Về các công trình đã công bố, có thể kể đến tác phẩm Báo chí và ngoại giao (Dương Văn Quảng) là cuốn sách bàn trực tiếp đến vai trò của truyền thông đối với công tác đối ngoại. Một số cuốn sách khác như Cơ sở lý luận báo chí, truyền thông đại chúng (Tạ Ngọc Tấn), Quản lý và phát triển báo chí, Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa -xã hội (Lê Thanh Bình), Báo chí với sự nghiệp đổi mới ngày nay (Ngọc Đán) phân tích vai trò và nghiệp vụ báo chí là tài liệu tham khảo rất quan trọng khi nghiên cứu sâu vào lĩnh vực thông tin. Các cuốn sách nước ngoài đã dịch như Bùng nổ thông tin (Breton Philipe, Serge Proul), Sức mạnh của truyền thông (Michael Schudson) hoặc cuốn The Press and Foreign policy (Cohen) đã đề cập đến vấn đề cơ bản của thông tin và thông tin trong ngoại giao. Luận văn tham khảo và khai thác một số nguồn tài liệu chủ yếu sau: - Các văn kiện Đại hội Đảng. - Các văn bản pháp quy như Hiến pháp, Luật báo chí. - Thông tư, nghị định, chỉ thị của Trung ương Đảng và Chính phủ. - Các bài diễn văn, báo cáo tổng kết, tài liệu của các Bộ, Ban, ngành tham gia làm công tác thông tin đối ngoại như Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Du lịch và Thể thao - Các tham luận hội nghị, tạp chí, bài báo, trang thông tin điện tử có liên quan đến đề tài Việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tìm hiểu, tiếp cận, nắm bắt và sử dụng công cụ thông tin trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài * Mục đích Mục đích của đề tài là phác họa tình hình và bước đầu đánh giá về công tác thông tin đối ngoại, nêu bật vai trò của công tác thông tin đối ngoại như là một kênh quan trọng, một công cụ đắc lực trong các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, qua đó nêu lên một vài giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò của công tác thông tin đối ngoại. * Nhiệm vụ Để thực hiện nhiệm vụ trên, luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích cơ sở lý luận về công tác thông tin đối ngoại. - Thông qua việc phác họa những hoạt động chính trong công tác thông tin đối ngoại của ta trong thời kỳ đổi mới, nêu lên những thành tựu và hạn chế. - Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trước yêu cầu của tình hình mới. Kết quả nghiên cứu công tác thông tin đối ngoại sẽ góp phần thiết thực vào việc triển khai chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm giới thiệu hình ảnh của Việt Nam ra bên ngoài cũng như đấu tranh dư luận chống lại những luận điệu của các thế lực phản động, phát huy ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần thành công trên mặt trận đối ngoại nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thông qua việc triển khai và hoạt động của các ban Đảng, các cơ quan nhà nước và toàn xã hội: các lực lượng chuyên trách chỉ đạo, lực lượng thực hiện, lực lượng hỗ trợ * Phạm vi nghiên cứu Trong giới hạn của mình, luận văn tập trung phân tích công tác thông tin đối ngoại trong những năm đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế từ 1986 đến nay. Để có cái nhìn xuyên suốt, luận văn có nhắc khái quát công tác thông tin đối ngoại thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn được dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thông tin đối ngoại. Luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu quốc tế, nghiên cứu khoa học xã hội, kết hợp tổng kết thực tiến, phân tích, thống kê 6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cùng những hoạt động của các lực lượng tham gia công tác thông tin đối ngoại từ năm 1986 đến nay, luận văn cố gắng làm rõ thành tựu và hạn chế trong công tác thông tin đối ngoại của ta thời kỳ đổi mới, từ đó nêu một vài giải pháp để phát huy công tác này trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hệ thống hóa hoạt động thông tin đối ngoại của nước ta để từ đó rút ra một số kinh nghiệm phục vụ thiết thực đường lối đối ngoại rộng mở và hội nhập quốc tế. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại, cho sinh viên, học viên. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Nhận thức chung về công tác thông tin đối ngoại và hoạt động thông tin đối ngoại ở nước ta trước thời kỳ đổi mới. Chương 2: Công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI VÀ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI Ở NƯỚC TA TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1.1. Nhận thức chung về công tác thông tin đối ngoại 1.1.1. Khái niệm về công tác thông tin đối ngoại 1.1.2. Công tác thông tin đối ngoại là một nhiệm vụ của công tác đối ngoại 1.1.3. Đối tượng của thông tin đối ngoại 1.1.4. Lực lượng tham gia công tác thông tin đối ngoại 1.2. Hoạt động thông tin đối ngoại trước thời kỳ đổi mới 1.2.1. Hoạt động thông tin đối ngoại trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp từ 1945 - 1954 1.2.2. Hoạt động thông tin đối ngoại trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954 - 1975 1.2.3. Công tác thông tin đối ngoại giai đoạn từ 1975 - 1986 Chương 2: CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thông tin đối ngoại trong thời kỳ đổi mới 2.2.1. Vài nét về đường lối đổi mới trong công tác đối ngoại 2.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới công tác thông tin đối ngoại 2.2. Phương thức và tổ chức thực hiện công tác thông tin đối ngoại 2.2.1. Lực lượng tham gia làm công tác thông tin đối ngoại 2.2.2. Phương thức thông tin đối ngoại chính thức của Nhà nước 2.2.3. Công tác thông tin đối ngoại thông qua kênh phương tiện thông tin đại chúng 2.2.4. Công tác thông tin đối ngoại thông qua kênh phóng viên nước ngoài 2.2.5. Thông tin đối ngoại qua kênh đối ngoại nhân dân và giao lưu quốc tế 2.3. Những kết quả chủ yếu của công tác thông tin đối ngoại thời gian qua 2.3.1. Về địa bàn thực hiện thông tin đối ngoại 2.3.2. Công tác thông tin đối ngoại giới thiệu đường lối đổi mới và thành quả xây dựng đất nước 2.3.3. Công tác thông tin đối ngoại với cuộc đấu tranh dư luận, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch 2.3.4. Thông tin đối ngoại trong hoạt động kinh tế đối ngoại 2.3.5. Tuyên truyền các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương 2.3.6. Thông tin đối ngoại trong hoạt động tuyên truyền về đất nước, lịch sử và nền văn hóa lâu đời của cộng đồng dân tộc Việt Nam 2.4. Một số hạn chế trong công tác thông tin đối ngoại thời gian qua 2.4.1. Những hạn chế trong các hoạt động thông tin đối ngoại 2.4.2. Hạn chế trong phương thức chỉ đạo, quản lý điều hành 2.4.3. Một số bài học kinh nghiệm Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI TRONG TÌNH HÌNH MỚI 3.1. Những vấn đề đặt ra đối với công tác thông tin đối ngoại hiện nay 3.1.1. Thuận lợi 3.1.2. Khó khăn 3.1.3. Phương hướng, nhiệm vụ của công tác thông tin đối ngoại trong bối cảnh hội nhập 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới 3.2.1 Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác thông tin đối ngoại 3.2.2. Đổi mới, kiện toàn cơ chế tổ chức, phối hợp trong công tác thông tin đối ngoại 3.2.3. Đổi mới nội dung, hình thức và phương thức thông tin đối ngoại 3.2.4. Chủ động tích cực đấu tranh và vận động dư luận phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc tình hình Việt Nam của các thế lực thù địch 3.2.5. Đẩy mạnh tranh thủ phóng viên nước ngoài 3.2.6. Chú trọng công tác đào tạo, xây dựng cơ chế, chính sách đối với đội ngũ làm công tác thông tin đối ngoại 3.2.7. Tăng cường đầu tư tài chính, cơ sở vật chất cho các hoạt động thông tin đối ngoại KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc98 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7389 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạng hóa các loại hình truyền thông và các dịch vụ truyền thông của Việt Nam. Nhờ vào những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội và hoạt động đối ngoại sau hơn 20 năm đổi mới, sức mạnh tổng hợp, thế và lực của Việt Nam tăng lên mạnh mẽ. Vai trò của Việt Nam ngày càng tăng ở khu vực và trên thế giới, uy tín và vị thế không ngừng được nâng cao. Đây là những sản phẩm phong phú, đa dạng để ta thông tin, tuyên truyền ra thế giới và là nhân tố hết sức thuận lợi cho ta khi bước vào giai đoạn phát triển mới. Với chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên tinh thần Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, Việt Nam cơ bản đã gạt bỏ được những trở ngại lớn trong quan hệ với các nước có vấn đề lịch sử và hiện tại Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 177 quốc gia và quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 220 quốc gia và nền kinh tế, là thành viên tích cực của ASEAN, APEC, ASEM và nhiều tổ chức kinh tế khác. Đa số các nước trên thế giới, nhất là các đối tác quan trọng đều coi trọng thúc đẩy quan hệ với ta. Đó là những chủ trương lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thông tin đối ngoại, đặc biệt là mở rộng môi trường và đối tượng. Lực lượng làm thông tin đối ngoại không còn chỉ bó hẹp trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, dùng ngân sách nhà nước. Đội ngũ những người làm công tác thông tin đối ngoại hiện nay ngày càng mở rộng, tăng mạnh, từ lực lưượng báo chí đến các tổ chức, địa phương, doanh nghiệp đểu tiến hành thông tin đối ngoại. Nhiều nhà ngoại giao, nhà văn hóa, bạn bè của Việt Nam cũng đang góp phần quảng bá Việt Nam. Bên cạnh đó, hơn 3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài vừa là đối tượng vừa là lực lượng hùng hậu, quan trọng của công tác thông tin đối ngoại. Điều này tạo thuận lợi cho thông tin đối ngoại có điều kiện phát triển cả về nội dung, phương thức và lực lượng. Việc nước ta tham gia ngày càng đầy đủ và tích cực, chủ động vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển đất nước, nhất là thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, từ đó làm cho mức sống vật chất và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng cao. Đây chính là một trong những tiền đề cần thiết khích lệ văn hóa phát triển, thúc đẩy việc sáng tạo các sản phẩm văn hóa nghe nhìn, nghệ thuật biểu diễn, sách báo... đến các nhu cầu giải trí khác như du lịch văn hóa, tham quan thắng cảnh, di tích lịch sử, bảo tàng... Các hoạt động này ngày càng được đẩy mạnh tạo thêm nhiều kênh thông tin đối ngoại quảng bá hình ảnh Việt Nam. 3.1.2. Khó khăn Những thuận lợi và khó khăn, thách thức luôn đan xen nhau. Bên cạnh những thuận lợi, thông tin đối ngoại phải vượt qua những tồn tại, hạn chế hiện nay cả về nhận thức, tổ chức quản lý, điều hành để phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống. Công tác thông tin đối ngoại phải đối mặt với những tác động tiêu cực, bất thường của quá trình toàn cầu hóa và những mặt trái của kinh tế thị trường, đặc biệt về mặt văn hóa, tư tưởng. Trong một thế giới cạnh tranh toàn cầu, khi văn hóa là động lực của sự phát triển, cuộc đấu tranh về tư tưởng, văn hóa trong quá trình giao lưu văn hóa quốc tế đang nổi trội, thậm chí có lúc gay gắt, bên cạnh cuộc đấu tranh về lợi ích kinh tế. Các nước có lợi thế vượt trội về kinh tế tìm cách áp đặt các quan điểm, tư tưởng, văn hóa cũng như lối sống của mình cho các nước khác. Theo đó, nhiều trào lưu, khuynh hướng tư tưởng, thông tin sai trái dễ dàng xâm nhập vào nước ta, tác động nhanh mạnh vào tư tưởng, tâm lý, tình cảm, lối sống của nhân dân ta. Thêm vào đó, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường. Những tác động của nền kinh tế thị trường cũng gây ra những thách thức trong quá trình phát triển của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới.Trong bối cảnh đó, thông tin đối ngoại đứng trước thách thức phải giải quyết một cách thích đáng sự mâu thuẫn giữa nhu cầu mở rộng, phát triển quan hệ đối ngoại, quảng bá hình ảnh quốc gia với việc đấu tranh để bảo tồn và phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận thế giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặc dù ta đã có nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội nhưng nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Cùng với tiến trình phát triển của đất nước là quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, làm xuất hiện các lực lượng cơ hội chính trị cả ở trong và ngoài nước. Trong khi đó, sự khác biệt về ý thức hệ là nguyên nhân các thế lực thù địch tiếp tục hoạt động chống phá ta, vẫn không từ bỏ âm mưu "diễn biến hòa bình", gây sức ép với ta trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Tận dụng công nghệ thông tin, các hoạt động ngày càng tinh vi hơn. Hàng ngàn trang web phản động, được thành lập chủ yếu nhằm vào Việt Nam và các cộng đồng người Việt trên khắp thế giới, đang ra sức khai thác thông tin về những khó khăn kinh tế và dư luận tiêu cực về Việt Nam, đe dọa làm xấu đi hình ảnh Việt Nam trên thế giới. Trong hoàn cảnh đó, yêu cầu của thông tin đối ngoại là phải tham gia tích cực và hiệu quả nhất vào việc hạn chế tiêu cực, kiềm chế và đẩy lùi nguy cơ, thách thức. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề, đòi hỏi sự đầu tư thích đáng cả về nguồn lực vật chất lẫn con người, đặc biệt đòi hỏi sự đột phá về tư duy và cách làm sáng tạo. Những yếu kém, khuyết điểm trong hoạt động và quản lý thông tin nói chung và thông tin đối ngoại nói riêng; xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế về thông tin đang đặt ra những thách thức gay gắt trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia và sự bình đẳng về thông tin. Một mặt, chúng ta phải kiên quyết khắc phục những khuyết điểm yếu kém để phát triển; mặt khác, phải bảo đảm tính hợp lý và cân đối giữa yêu cầu phát triển và khả năng quản lý, giữa số lượng và chất lượng, giữa đa dạng và thống nhất, giữa mở cửa của hội nhập quốc tế và giữ vững định hướng chính trị. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, yêu cầu đối với thông tin ngày càng cao cả về chất lượng, nội dung và hình thức thông tin. Trong bối cảnh đó, công tác thông tin nước ta đòi hỏi phải nhanh chóng, kịp thời nắm bắt và tiếp cận những vấn đề mới để bảo đảm không bị tụt hậu, đồng thời vẫn giữ được định hướng phát triển dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước. Điều này đặt ra những áp lực lớn cho công tác thông tin đối ngoại phải xử lý tốt mối quan hệ giữa nhu cầu thông tin đối ngoại và nhu cầu bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia, giữa nhu cầu thông tin đối ngoại và kinh tế thị trường, giữa thông tin đối ngoại và thông tin đối nội. Tuy nội dung thông tin đối ngoại của ta khá phong phú, đa dạng nhưng hiện nay vẫn chưa thu hút được nhiều sự chú ý của quốc tế, trừ những tin nóng hay tin xấu. Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa và cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gay gắt, các quốc gia đều tăng cường công tác quảng bá hình ảnh của mình. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải tăng cường và củng cố hơn nữa công tác thông tin đối ngoại quảng bá hình ảnh quốc gia nhằm nâng cao vị thế, thu hút nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế và tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Những thuận lợi và thách thức nói trên đan xen nhau, lại có thể chuyển hóa lẫn nhau. Nếu nắm vững và tận dụng được những thời cơ và khắc phục được những thách thức, thông tin đối ngoại có thể phát triển lên một tầm cao mới, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2020, thực hiện mục tiêu " dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". 3.1.3. Phương hướng, nhiệm vụ của công tác thông tin đối ngoại trong bối cảnh hội nhập Trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng, trong bối cảnh toàn cầu hóa và diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố khó lường của tình hình thế giới, yêu cầu đặt ra đối với công tác thông tin đối ngoại của ta là phải phục vụ đắc lực và hiệu quả cho việc triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Những thành tựu, bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện thông tin đối ngoại thời gian qua tạo cơ sở để chúng ta xác định phương hướng hành động công tác thông tin đối ngoại trong thời gian tới. Trước hết, chúng ta tận dụng và phát huy cao độ những thời cơ và thuận lợi, hạn chế tới mức thấp nhất những khó khăn và thách thức do sự nghiệp đổi mới và quá trình hội nhập quốc tế mang lại, tập trung mọi nguồn lực hiện có, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế, phải làm cho bạn bè thế giới hiểu sâu, hiểu đúng về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, về đất nước, lịch sử, con người và văn hóa Việt Nam, tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, quán triệt sâu rộng tầm quan trọng, hiệu quả to lớn trước mắt và lâu dài của công tác thông tin đối ngoại trong các cơ quan, ban ngành, tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp ở Trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, cần thiết xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo, tổ chức và quản lý hoạt động thông tin đối ngoại, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật có chọn lọc nhằm xây dựng lực lượng thực hiện công tác thông tin đối ngoại chủ lực, mạnh, nhanh chóng, kịp thời với chất lượng cao. Tăng cường công tác nghiên cứu, triển khai và xử lý thông tin nhằm nâng cao hiệu quả, tính hấp dẫn và nội dung thiết thực của thông tin đối ngoại. Tùy theo từng đối tượng, địa bàn, từ đó ta xác định nhiệm vụ cụ thể, xác định rõ nội dung, phương thức thông tin đối ngoại thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Trên cơ sở phương hướng hành động, thông tin đối ngoại trong thời gian tới có một số nhiệm vụ chính sau: Về nội dung, chúng ta cần tiếp tục bám sát các nhiệm vụ chính trị nêu trong các nghị quyết của Đảng, Nhà nước, nhất là các văn bản liên quan đến công tác thông tin đối ngoại để định hướng hoạt động thông tin đối ngoại thiết thực, kịp thời. Thông tin đối ngoại phải phục vụ đắc lực và hiệu quả cho việc triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Đó là, chúng ta tiếp tục tăng cường thông tin tuyên truyền thành tựu đổi mới toàn diện của Việt Nam 20 năm qua; chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công tác thông tin đối ngoại phải phản ánh kịp thời, đầy đủ quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, đặt trọng tâm vào thông tin phục vụ kinh tế đối ngoại, giới thiệu chính sách, quảng bá đầu tư, thương mại, du lịch, các biện pháp cải thiện môi trường đầu tư, cải cách hành chính, chống tham nhũng. Đồng thời, thông tin đối ngoại cũng phải phản ánh kịp thời diễn biến tình hình thế giới và kinh tế quốc tế, quan điểm, chủ trương của ta trong quan hệ với các nước và về một số vấn đề quốc tế cho nhân dân trong nước; chú trọng những thông tin về xu hướng, giá cả và diễn biến của thị trường thế giới cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thông tin đối ngoại giới thiệu và quảng bá nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đất nước và con người Việt Nam, góp phần quảng bá hình ảnh một Việt Nam thân thiện, hòa bình, năng động, đổi mới, tích cực hội nhập quốc tế và đang trên đà phát triển. Chúng ta cần phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại, đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong đấu tranh, bác bỏ những thông tin sai lệch, những quan điểm sai trái, phản động xung quanh các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo và các vấn đề nhạy cảm khác tác động xấu đến tư tưởng và tâm trạng xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định của đất nước, làm phương hại đến an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội... Về đối tượng, thông tin đối ngoại cần phải xác định tầm quan trọng, vai trò của từng nhóm đối tượng. Đối với nhóm đối tượng là người nước ngoài ở nước ngoài, ta hiểu rằng đây là một tập hợp hết sức đa dạng, bao gồm: chính giới, các đảng phái, phong trào chính trị, các tổ chức xã hội, học giả, các nhà Việt Nam học, nhà đầu tư, kinh doanh và nhân dân các nước trên thế giới nên ta cần phải chú ý đến những đặc điểm về dân tộc, giai tầng, lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, quan hệ và lợi ích của họ. Bện cạnh người nước ngoài ở nước ngoài là là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đối với đối tượng này, ta cần chú ý hoàn cảnh ra đi, điều kiện kinh tế, khả năng vốn, khoa học - công nghệ, trình độ ngoại ngữ của họ, cần phải hiểu cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở đó, ta có nội dung, hình thức tuyên truyền đối ngoại phù hợp với từng đối tượng. Người nước ngoài đang sống, làm việc, học tập, đầu tư kinh doanh và du lịch tại Việt Nam… vừa là đối tượng, đồng thời cũng là một "lực lượng" của công tác thông tin đối ngoại. Do vậy, thông tin đối ngoại tại chỗ có ý nghĩa rất quan trọng và việc kết hợp giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại với đối tượng này càng có ý nghĩa to lớn. Bên cạnh chú trọng hai nhóm đối tượng trên, ta cần phải lưu ý đến một số lực lượng chuyên tuyên truyền xuyên tạc và chống phá ta cả ở trong và ngoài nước. Đối với đối tượng này nhiệm vụ của công tác thông tin đối ngoại là phản ứng nhanh, kịp thời, chủ động cung cấp thông tin chính xác tình hình, những quan điểm về các vấn đề nhạy cảm của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, kiên quyết phản bác, vạch trần động cơ và mục đích của những kẻ cố ý bôi nhọ, xuyên tạc, chống phá ta. Về tổ chức lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại, ta nên tập trung xây dựng lực lượng chủ lực, chuyên trách làm công tác thông tin đối ngoại đủ mạnh về cán bộ và phương tiện để chuyển tải nhanh chóng, chính xác với chất lượng cao ra bên ngoài. Trước hết, các cơ quan báo chí và thông tin đại chúng vẫn là lực lượng chủ chốt trong việc thực hiện công tác thông tin đối ngoại. Do vậy ta nên tập trung, tạo mọi điều kiện thuận lợi trong việc đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực cho các đơn vị này để thực hiện có hiệu quả hơn nữa công tác thông tin đối ngoại. Bên cạnh đó đẩy mạnh việc phát hành các sản phẩm đối ngoại của Việt Nam ra nước ngoài, phát triển và quản lý tốt mạng internet và các mạng thông tin nội địa quốc gia. Tranh thủ tối đa và có phương thức hợp tác tốt với phóng viên nước ngoài tại Việt Nam, sử dụng cộng tác viên nước ngoài và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực báo chí truyền thông để mở rộng phạm vi và hiệu quả thông tin. Lực lượng du học sinh Việt Nam và kiều bào ta ở nước ngoài được xác định là lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại quan trọng. Vì thế, ta chú ý cung cấp thông tin trong nước cho họ và hỗ trợ các hoạt động văn hóa của người Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài là cầu nối giữa nhân dân Việt Nam với nước sở tại. Do đó, cần nâng cao chất lượng cán bộ báo chí - văn hóa tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Đoàn ra, đoàn vào của tất cả các cấp ngành, địa phương, doanh nghiệp là một kênh thực hiện rất hiệu quả thông tin đối ngoại. Do vậy, ta nên giao trách nhiệm cụ thể về thông tin đối ngoại như là một yêu cầu bắt buộc khi xem xét các đoàn đi nước ngoài thực hiện công vụ. Tổ chức thực hiện và quản lý, chúng ta cần nhanh chóng hình thành sự quản lý thống nhất về mặt nhà nước các hoạt động thông tin đối ngoại, củng cố các tổ chức bộ máy của các lực lượng chủ chốt và chuyên trách làm thông tin đối ngoại của các cấp, các ngành, các địa phương. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, nhận thấy nhu cầu cấp bách về tăng cường sự lãnh đạo và phối hợp ở tầm chiến lược của công tác thông tin đối ngoại trong khi lực lượng và hoạt động thông tin đối ngoại ngày càng phát triển, ngày 27/12/2001 Ban Bí thư đã ra quyết định về việc thành lập Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, kèm theo là Quy chế phối hợp chỉ đạo hoạt động thông tin đối ngoại. Thành viên Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại bao gồm các Bộ, ngành như Ban Tư tưởng - Văn hóa (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Thông tin - Truyền thông), Bộ Ngoại giao, Bộ Công an… Đây là những cơ quan phối hợp, giúp Đảng và Chính phủ theo dõi tình hình, điều hành, chỉ đạo, phối hợp công tác thông tin đối ngoại, định kỳ và thường xuyên đánh giá tình hình, đề xuất chủ trương về công tác thông tin đối ngoại. Tiếp đó, trước yêu cầu mới của giai đoạn hội nhập sâu, rộng, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 26-CT/TW ngày 10/9/2008 về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới. Chỉ thị đã đề ra những biện pháp tăng cường đổi mới phương thức hoạt động và lực lượng tham gia thông tin đối ngoại, nhưng điều quan trọng là đã đề ra quy định cụ thể việc tổ chức và phối hợp thực hiện các hoạt động thông tin đối ngoại giữa các Ban, ngành. 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI TRONG TÌNH HÌNH MỚI Để đáp ứng yêu cầu đối với thông tin đối ngoại trong tình hình mới, thúc đẩy công tác thông tin đối ngoại phát triển, tạo ra chuyến biến trong lĩnh vực này, chúng ta có thể xem xét một số giải pháp sau đây. 3.2.1. Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước đối với công tác thông tin đối ngoại Công tác thông tin đối ngoại, thực chất là cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của nước ta trên phạm vi toàn thế giới. Do vậy cần chú trọng công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan, lực lượng chuyên trách về thông tin đối ngoại, nâng cao nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của công tác thông tin đối ngoại. Trong bối cảnh quốc tế có những diễn biến phức tạp khó lường và kẻ địch luôn tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta bằng "diễn biến hòa bình" với sự bùng nổ thông tin, thì vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác thông tin đối ngoại càng quan trọng hơn. Chỉ thị số 11-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu rõ: "Ban Bí thư phối hợp với Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo và quản lý thống nhất công tác thông tin đối ngoại". Tiếp đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X một lần nữa lại khẳng định: "Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, đối ngoại quốc phòng và an ninh, thông tin đối ngoại và thông tin trong nước" [15, tr. 115] Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thông tin đối ngoại là tăng cường sự chỉ đạo định hướng đối với lĩnh vực này, để phát huy sức mạnh nhằm xây dựng và bảo vệ những thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng cần thiết hơn bao giờ hết bởi vì luôn luôn còn một khoảng cách nhất định giữa hai vấn đề "thông tin rộng rãi" và "thông tin có định hướng". Nếu định hướng chính trị sai cho các cơ quan làm công tác thông tin đối ngoại thì thông tin đối ngoại không có tác dụng, mà có có tác dụng ngược lại. Tăng cường vai trò tham mưu và chỉ đạo của các cơ quan làm công tác tư tưởng cho Đảng. Hoạt động thông tin đối ngoại cần nhiều thông tin từ các bộ, ban, ngành và rất cần có sự định hướng thông tin, cái gì cần tập trung tuyên truyền, cái gì chưa cần hoặc phê phán ở mức độ nhất định. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương, thời gian qua các cơ quan thuộc lĩnh vực công tác tư tưởng của Đảng đã làm nhiều việc phục vụ chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại. Với cương vị và trách nhiệm của mình, các cơ quan tham mưu cần đưa ra được mục tiêu và các giải pháp chuẩn xác hữu hiệu để cho các cơ quan truyền thông tiến hành đạt hiệu quả cao trong công tác thông tin đối ngoại. Công tác thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh Việt Nam chỉ có thể thành công nếu huy động được sức mạnh tổng hợp, mọi lực lượng, mọi nguồn lực của đất nước. Do vậy, việc nâng cao nhận thức của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương, doanh nghiệp và mỗi công dân về công tác này có ý nghĩa rất quan trọng. Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị có hoạt động đối ngoại cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn tầm quan trọng của hoạt động thông tin đối ngoại để làm sao có thể khai thác một cách triệt để, sáng tạo nhằm phục vụ sự phát triển của ngành mình, đơn vị mình, địa phương mình. Muốn vậy, các cấp lãnh đạo phải quán triệt công tác thông tin đối ngoại là tuyên truyền cho nước ngoài (gồm cả người Việt Nam định cư, làm việc và học tập ở nước ngoài và nhân dân thế giới) hiểu đúng về nước ta, đồng thời ủng hộ Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đưa công tác này thành một nhiệm vụ cần giải quyết thỏa đáng trong chiến lược phát triển chung. 3.2.2. Đổi mới, kiện toàn cơ chế tổ chức, phối hợp trong công tác thông tin đối ngoại Các văn bản quy phạm pháp luật trước đây liên quan đến công tác thông tin đối ngoại như Chỉ thị 11-CT/TW ngày 13/6/1992, Thông báo 188/TB-TW ngày 29/12/1998, Chỉ thị số 10/2000/CT-TTg ngày 26/4/2000... dường như không còn phù hợp trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng hiện nay. Trước yêu cầu mới, Đảng và Nhà nước cần xây dựng văn bản pháp quy mới hoặc điều chỉnh các văn bản đã có cho phù hợp với tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ hiện nay của thông tin đối ngoại, sớm hoàn thiện "Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại trong thời kỳ mới", với những định hướng cơ bản và chiến lược lâu dài cho hoạt động thông tin đối ngoại. Bên cạnh đó, phải gắn việc triển khai thực hiện chiến lược phát triển thông tin đối ngoại với xây dựng, triển khai thực hiện các chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia khác. Đồng thời với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, việc đổi mới cơ chế tổ chức và phối hợp các lực lượng làm thông tin đối ngoại là rất cần thiết, có quy chế phân định rõ chức năng nhiệm vụ và sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách về thông tin đối ngoại nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này; bảo đảm sự tập trung, hiệu quả của công tác chỉ đạo, quản lý thông tin trong phạm vi cả nước. Ban chỉ đạo quốc gia về thông tin đối ngoại là cơ quan tham mưu, chỉ đạo, định hướng, quản lý và điều phối toàn bộ hoạt động thông tin đối ngoại của cả nước. 3.2.3. Đổi mới nội dung, hình thức và phương thức thông tin đối ngoại Nhiệm vụ của thông tin đối ngoại trong thời kỳ mới được xác định là tập trung xây dựng hình ảnh mới về Việt Nam trên thế giới: một đất nước hòa bình, hữu nghị, năng động, đổi mới mạnh mẽ, tích cực hội nhập quốc tế và đầy tiềm năng phát triển, một đối tác tin cậy. Theo đó, nội dung thông tin đối ngoại cần được đổi mới, xác định cụ thể cho từng khu vực, địa bàn, từng đối tượng, tùy theo mối quan hệ của nước ta với các nước theo từng giai đoạn. Ví dụ, đối với Mỹ, sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, thông tin đối ngoại của ta cần hướng vào sự phát triển các quan hệ hữu nghị, hợp tác kinh tế, thương mại, thu hút vốn đầu tư, khoa học, công nghệ và giải quyết các vấn đề còn tồn tại v.v... giữa hai nước trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Còn đối với các nước láng giềng Đông Nam Á, công tác thông tin đối ngoại cần tiến hành với tinh thần cùng xây dựng một khu vực hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Hơn thế nữa vì nguồn lực có hạn, ta cần xác định đúng, linh hoạt, phù hợp từng thời kỳ phát triển trọng tâm, trọng điểm, đối tượng của hoạt động thông tin đối ngoại để tập trung nguồn lực thực hiện những ưu tiên cao nhất, không dàn trải. Trong thời điểm hiện tại, cần ưu tiên các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia, các nước có tiềm năng hợp tác kinh tế với ta, những nơi tập trung đông đảo cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, trong từng nước cần tập trung vào đối tượng báo chí, doanh nhân, giới trẻ. Chúng ta nên tránh đưa ra các sản phẩm thông tin như nhau cho tất cả mọi khu vực, mọi đối tượng. Như vậy, công tác thông tin đối ngoại mới có hiệu quả hơn. Khi nội dung thông tin đối ngoại thay đổi thì hình thức thể hiện cũng nên được thay đổi sao cho phù hợp với nội dung. Các chương trình phát thanh - truyền hình, tin bài trên báo in phải hấp dẫn, thỏa mãn mỹ cảm, thu hút công chúng và tác động sâu sắc đến tình cảm và lý trí của mỗi loại đối tượng. Các sản phẩm truyền thông quốc tế phải được đa dạng hóa theo các thứ tiếng phù hợp, theo nhu cầu của từng địa bàn, phải được trình bày thể hiện với sức thuyết phục cao, khơi gợi hứng thú, định hướng nhận thức đúng đắn và hành động tích cực có lợi cho uy tín và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta nên xây dựng các chương trình chiến dịch thông tin tuyên truyền lớn cả ở trong nước và ngoài nước, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật, tích cực quảng bá du lịch, tham gia các diễn đàn quốc tế. Phát huy vai trò của các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài trong việc thông tin đối ngoại và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Bên cạnh đó, tăng cường hiện đại hóa phương tiện thông tin, ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là internet, truyền hình cáp… trong thông tin đối ngoại, xây dựng website, weblog và các diễn đàn trên internet làm nơi cung cấp thông tin, trao đổi thông tin và diễn đàn trên mạng, tăng cường đưa nhiều ấn phẩm thông tin đối ngoại lên mạng. Sắp xếp, quy hoạch mạng lưới thông tin, hỗ trợ các kênh báo chí đối ngoại trong cả nước cải tiến nội dung, hình thức, chất lượng phủ sóng, mở rộng địa bàn phủ sóng, ngôn ngữ.. để kênh thông tin đối ngoại như VTV4 hay VOV thực sự mạnh ngang tầm khu vực và trên thế giới, có chức năng tuyên truyền cho khán giả quốc tế, không chỉ dừng ở đối tượng Việt kiều như hiện nay. Các hoạt động văn hóa đối ngoại có thể nói là hình thức tuyên truyền đối ngoại tinh tế, dễ chấp nhận nhất và kênh quảng bá, tuyên truyền có hiệu quả, phù hợp với thời cuộc, thói quen, công nghệ. Đây cũng là một thành tố trong sức mạnh mềm để thể hiện lý tưởng chính trị, sức lôi cuốn và gây ảnh hưởng ra bên ngoài… và mang lại nguồn của cải, vật chất và thịnh vượng bên trong. Vì thế, chúng ta cần tăng cường các hoạt động văn hóa đối ngoại, đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhân dân, trao đổi nghiên cứu khoa học, giao lưu phụ nữ, thanh niên, học sinh, sinh viên… Khai thác những nét văn hóa độc đáo của các địa phương để làm phong phú thêm quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước, lập các Trung tâm Văn hóa, tổ chức ngày Việt Nam, Tháng Việt Nam, thậm chí Năm Việt Nam tại một số địa bàn ta có nhu cầu. Đầu tư hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức các hoạt động giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, thậm chí tùy tình hình cụ thể ở mỗi nơi có thể xuất bản báo, tạp chí của người Việt. Điều này sẽ góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam và nâng cao vị thế của ta. 3.2.4. Chủ động tích cực đấu tranh và vận động dư luận phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc tình hình Việt Nam của các thế lực thù địch Ở nước ta các vấn đề nhạy cảm thường là các vấn đề liên quan đến chủ quyền, dân chủ, tôn giáo, lợi ích và an ninh và những vấn đề này thường bị một số thế lực xấu bóp méo, xuyên tạc. Trong những năm qua, công tác phát ngôn vận động và đấu tranh dư luận, bác bỏ luận điệu sai trái, tư tưởng thù địch của các thế lực phản động trong và ngoài nước, đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" đã được tăng cường, tiến hành tích cực, liên tục, thường xuyên, góp phần quan trọng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ và củng cố vững chắc sự lãnh đạo của Đảng trong mọi mặt đời sống. Tuy nhiên, vẫn có tình trạng phản ứng chậm, tính chủ động và sức thuyết phục trong các lập luận vận động và đấu tranh dư luận còn thấp. Do vậy, cần tăng cường công tác nghiên cứu, chủ động xây dựng lập luận có thông tin, số liệu cập nhật và dẫn chứng minh họa, tạo dựng dư luận, hình ảnh có lợi cho ta trên các phương tiện thông tin đại chúng của ta và nước ngoài, ngăn chặn trước các dư luận bất lợi có thể xảy ra. Đồng thời, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại giao với các Bộ, ban, ngành và các cơ quan báo chí Việt Nam, chú trọng cung cấp thông tin, lập luận đấu tranh nhanh, đầy đủ, đúng thời điểm, đúng liều lượng và đúng đối tượng, đảm bảo hiệu quả thông tin đối nội cũng như đối ngoại. Tăng cường đấu tranh dư luận trực diện trên mạng internet với những hình thức mới như lập trang web, blog… và ngay tại các website chống ta, để bác bỏ những thông tin sai lệch, xuyên tạc về đất nước ta đặc biệt trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo và biên giới hải đảo. Vận động và khuyến khích đông đảo nhân dân trong và ngoài nước, tầng lớp trí thức, sinh viên người Việt ở nước ngoài, học giả, nhân sĩ nước ngoài tham gia đấu tranh trên mạng internet phản bác lại các luận điệu tuyên truyền chống phá Việt Nam. 3.2.5. Đẩy mạnh tranh thủ phóng viên nước ngoài Bước vào thời kỳ xây dựng đất nước và đổi mới, những năm qua, số lượng người nước ngoài vào Việt Nam làm việc, học tập, du lịch, có mặt thường xuyên hoặc không thường xuyên ngày càng tăng, trong đó bao gồm cả phóng viên nước ngoài vào Việt Nam hoạt động ngắn hạn hoặc thường trú. Đối với người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam, công tác thông tin đối ngoại tại chỗ cũng rất quan trọng. Việc kết hợp thông tin đối nội và thông tin đối ngoại với đối tượng này càng có ý nghĩa to lớn. Nếu ta chủ động cung cấp thông tin chính thức, có định hướng cho họ thì đây là kênh quan trọng chuyển tải thông tin đúng đắn về Việt Nam ra bên ngoài. Trong điều kiện tiếng nói chính thức của Nhà nước Việt Nam ra bên ngoài còn nhiều hạn chế do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, đội ngũ phóng viên nước ngoài hoạt động tại Việt Nam là kênh thông tin lớn rất quan trọng để giới thiệu một cách nhanh chóng với thế giới bên ngoài các chủ trương chính sách, đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, thành tựu công cuộc đổi mới, các hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như nền văn hóa, phong tục tập quán của nhân dân ta, góp phần tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho xây dựng, phát triển đất nước. Nhiều chủ trương, phản ứng của Việt Nam chỉ sau 10-20 phút đã được đưa lên mạng Internet và được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng của nước ngoài bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Trong thời đại ngày nay, khi thông tin được coi là quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội thì tin tức về Việt Nam chỉ trong thời gian rất ngắn, đã được truyền tải trên khắp thế giới là điều hết sức có ý nghĩa. Với ưu thế cả về mặt kỹ thuật, tốc độ lên tin và tiếp cận khán giả, tin về Việt Nam thông qua các hãng thông tấn báo chí nước ngoài rất được dư luận quan tâm và có thể khẳng định đây chính là kênh thông tin quan trọng vừa phản ánh nhanh, nhạy tình hình Việt Nam vừa mang tính khách quan cao đối với khán thính giả nước ngoài. Vì thế ta cần chủ động chọn lọc mời phóng viên nước ngoài vào Việt Nam viết bài, hoặc phối hợp ra phụ trương về Việt Nam trên các báo nước ngoài. Chủ động và nhạy bén trong việc cung cấp thông tin có định hướng cho phóng viên nước ngoài. Điều này giúp hạn chế tối đa việc phóng viên lấy tin từ nguồn không chính thức, đưa tin một chiều bất lợi cho ta. Chủ động thu thập và nghiên cứu các bài viết của phóng viên nước ngoài. Điều này giúp ta có được đánh giá một cách tương đối chính xác thái độ và mối quan tâm của từng phóng viên hay rộng hơn là của hãng báo chí nước ngoài để từ đó có đối sách thoả đáng. Phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, Ban, ngành và địa phương trong việc quản lý và tranh thủ phóng viên nước ngoài như đơn giản hóa thủ tục cấp thị thực, cấp phép, thu xếp hoạt động; lãnh đạo tăng cường tiếp xúc với báo chí nước ngoài và gửi đăng bài trên các cơ quan truyền thông nước ngoài. 3.2.6. Chú trọng công tác đào tạo, xây dựng cơ chế, chính sách đối với đội ngũ làm công tác thông tin đối ngoại Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, công tác đào tạo, bồi dưỡng lực lượng cán bộ tham gia làm công tác đối ngoại là vấn đề cấp bách, phải được ưu tiên lớn về bồi dưỡng ngoại ngữ, chuyên môn... trong đó, ưu tiên lớn hơn cho các đầu mối trực tiếp làm công tác thông tin đối ngoại. Người làm thông tin đối ngoại phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, nhạy bén trước âm mưu của các thế lực thù địch và chủ động phản bác, đấu tranh dư luận trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia một cách kịp thời. Đồng thời, phải thạo về nghiệp vụ, giỏi về ngoại ngữ, nắm vững các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, hiểu biết khá toàn diện về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề về công tác cán bộ làm thông tin đối ngoại trong tình hình mới. Điều quan trọng là cần xây dựng các tiêu chuẩn, yêu cầu về trình độ chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ ngoại ngữ và năng lực, kỹ năng chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại. Đề cao trách nhiệm chính trị, đạo đức của người làm thông tin đối ngoại, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học nhằm đảm bảo cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc triển khai công tác thông tin đối ngoại. Khuyến khích việc mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thông tin đối ngoại. Xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo cử nhân, sau đại học, tiến sĩ chuyên ngành thông tin đối ngoại, đồng thời qua tập huấn ngắn hạn, hội thảo, biên soạn tài liệu... nhằm bồi dưỡng nghiệp vụ cho mọi lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại. Bên cạnh đó là tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí đào tạo, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở đào tạo báo chí, thông tin, tuyên truyền hiện có về thông tin đối ngoại và quan hệ công chúng nhằm đáp ứng nhu cầu của ta và phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới. Đi liền với việc đòi hỏi đội ngũ làm công tác thông tin đối ngoại phải tự rèn luyện, nâng cao trình độ mọi mặt, cần phải có những cơ chế chính sách và chế độ ưu đãi để khuyến khích, thu hút cán bộ, chuyên gia giỏi tham gia hoạt động thông tin đối ngoại. Có thể nói, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, từng bước xây dựng cơ chế, chính sách đối với cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại là một nhiệm vụ lớn, mọi thành công hay thất bại của công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hiệu quả công tác thông tin đối ngoại. Do đó, công tác này phải là nhiệm vụ của tất cả các cơ quan làm công tác thông tin đối ngoại. 3.2.7. Tăng cường đầu tư tài chính, cơ sở vật chất cho các hoạt động thông tin đối ngoại Trong những năm qua, kinh phí cho hoạt động thông tin đối ngoại lấy chủ yếu từ ngân sách nhà nước. Việc sử dụng kinh phí đó còn rất hạn chế, chưa có hiệu quả. Sở dĩ như vậy là do chưa có quy chế sử dụng thống nhất mà kinh phí được phân bổ cho từng cơ quan riêng biệt, dẫn tới tình trạng có cơ quan phải cố làm những CD quảng bá kém chất lượng để giải ngân song có cơ quan mời phóng viên nước ngoài vào viết bài quảng bá về Việt Nam lại không có kinh phí thường xuyên cho người đi hướng dẫn và quản lý phóng viên. Trong tình hình mới, chúng ta cần đầu tư ngân sách thỏa đáng cho hoạt động thông tin đối ngoại nhằm đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ quan chuyên trách làm công tác thông tin đối ngoại, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thông tin đối ngoại, phục vụ các chương trình, hoạt động thông tin đối ngoại cả ở trong nước và ngoài nước, nhất là các chiến dịch lớn. Tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh xã hội hóa công tác thông tin đối ngoại, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ tài chính cho các hoạt động thông tin và văn hóa đối ngoại nhằm huy động mọi nguồn lực cho công tác này. Xây dựng chính sách xã hội hóa hoạt động thông tin đối ngoại, quy định rõ về trách nhiệm, quyền lợi của các chủ thể tham gia. Hỗ trợ việc xuất bản và phát hành các ấn phẩm thông tin đối ngoại đến với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài. Thậm chí, Nhà nước có thể mạnh dạn đầu tư xây dựng kênh truyền hình, phát thanh bằng ngoại ngữ phổ biến với thời lượng phát dài hơn, tần suất nhiều hơn để thông tin của ta có thể đến được với các đối tượng khắp các khu vực trên thế giới. Có thể nói, trong bối cảnh đất nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thông tin đối ngoại có vai trò và nhiệm vụ hết sức quan trọng. Thông tin đối ngoại phải tham gia tích cực và hiệu quả nhất vào việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, phải làm cho thế giới hiểu đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, giới thiệu về đất nước, lịch sử, con người và văn hóa Việt Nam ra nhiều nước trên thế giới, góp phần làm nổi bật hình ảnh một đất nước Việt Nam hòa bình, đổi mới, ổn định, phát triển năng động, giàu tiềm năng hợp tác và có nền văn hóa đặc sắc. Bên cạnh đó, thông tin đối ngoại cần đấu tranh có hiệu quả với những luận điệu xuyên tạc, vu cáo chống Việt Nam của các thế lực thù địch. Để hoàn thành những nhiệm vụ rất lớn và khó khăn này, thông tin đối ngoại cần phải được đổi mới mạnh mẽ cả về tư duy và hành động cụ thể. Cần huy động mọi lực lượng, mọi nguồn lực, kết hợp cả nội lực và ngoại lực vào công tác thông tin đối ngoại. KẾT LUẬN Qua hơn hai thập niên tiến hành cải cách đối mới, trên mặt trận đối ngoại, chúng ta đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng tâm là giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ bước đầu phá thế bao vây cấm vận, chúng ta đã nỗ lực, chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa, quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội. Chúng ta đã gắn kết chặt chẽ ba trụ cột: Ngoại giao chính trị - Ngoại giao kinh tế - Ngoại giao văn hóa, tạo dựng môi trường khu vực và quốc tế hết sức thuận lợi, tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ quốc tế cho phát triển kinh tế của ta, đồng thời tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai chính sách đối ngoại, chúng ta đã phối hợp nhịp nhàng giữa ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, xu hướng dân chủ hóa, đa phương hóa và liên kết khu vực, tiểu khu vực phát triển mạnh mẽ cho thấy ngoại giao Nhà nước không thể thiếu ngoại giao nhân dân, ngược lại, các hoạt động ngoại giao nhân dân phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức phong phú, đa dạng nhưng cần thiết phải bám sát chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Các hoạt động đối ngoại nhân dân đều hướng đến tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, tuyên truyền quảng bá về Việt Nam, góp phần tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Trải qua các giai đoạn phát triển đất nước, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, thông tin đối ngoại đã giới thiệu ra quốc tế hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, những thành tựu của công cuộc đổi mới và những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Trước đây, Việt Nam vốn chỉ được thế giới biết đến qua tên của những cuộc chiến thì nay đã được thay bằng một Việt Nam giàu bản sắc văn hóa, đang nỗ lực phát triển kinh tế xã hội và tham gia có trách nhiệm vào những vấn đề của cộng đồng thế giới. Điều này được thể hiện rõ nét qua những sự kiện quan trọng như việc Việt Nam được các nước Châu Á đề cử làm đại diện cho châu lục vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức kinh tế thương mại lớn nhất thế giới (WTO), là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh thứ hai châu Á, chỉ đứng sau Trung Quốc và có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng nhanh hơn cả Trung Quốc, là quốc gia hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút hàng tỷ đô la đầu tư nước ngoài trực tiếp, là con hổ kinh tế mới nhất ở châu Á. Với thế mạnh truyền thống nghìn năm văn hiến giàu bản sắc dân tộc và có nhiều danh lam thắng cảnh là di sản văn hóa thế giới, Việt Nam trong những năm qua đã thu hút được hàng triệu du khách quốc tế. Tuy nhiên, công tác thông tin đối ngoại vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém. Nguyên nhân của những hạn chế đó do cả yếu tố chủ quan và khách quan đem lại. Chặng đường phía trước, công tác thông tin đối ngoại có nhiều thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với từng cơ quan, từng cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại là phải ý thức đầy đủ trách nhiệm chính trị - xã hội, thấm nhuần sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, không ngừng trau dồi tri thức và năng lực chuyên môn. Từ đó, công tác thông tin đối ngoại được thực hiện và triển khai có hiệu quả hơn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm sâu sát, đầu tư cơ sở vật chất, thống nhất quản lý thông tin đối ngoại của Nhà nước và sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các địa phương, các doanh nghiệp... cùng với sự tiến bộ, hiện đại hóa các phương tiện thông tin đại chúng, nhất định công tác này sẽ được đẩy mạnh, hoàn thành nhiệm vụ trên mặt trận đối ngoại, thu được nhiều kết quả to lớn và đặc biệt góp phần vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT Lê Thanh Bình (2004), Quản lý và phát triển báo chí - xuất bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa - xã hội, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Bộ Ngoại giao (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 Breton Philipe, Serge Proulx (1996), Bùng nổ truyền thông, Vũ Đình Phòng dịch, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Chính phủ (2000), Chỉ thị số 10/2000/CT-TTg ngày 26/4 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại, Hà Nội. Ngọc Đản (1995), Báo chí với sự nghiệp đổi mới hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Chỉ thị 11-CT/TW ngày 13/6 của Ban Bí thư khóa VII về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Thông báo số 188/TB-TW ngày 29/12 của Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Quyết định 16-QĐ/TW ngày 27/12 của Ban Chấp hành Trung ương về việc thành lập Ban Chỉ đạo Công tác thông tin đối ngoại, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Thông báo Kết luận số 85-TB/TW ngày 28/6 của Ban Bí thư về Đề án nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình hiện nay, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 1/8 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 5 khóa X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Chỉ thị số 26-CT/TW ngày 10/9 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, Hà Nội. Đỗ Xuân Hà (1999), Báo chí với thông tin quốc tế, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Vũ Dương Huân (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Nguyễn Sông Lam - Nguyễn Lam Châu (Tuyển chọn) (2005), Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn báo chí, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. Luật báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Michael Schudson (2003), Sức mạnh của tin tức truyền thông, Thế Hùng, Trà My dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học báo chí, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Dương Văn Quảng (2002), Báo chí và Ngoại giao, Nxb Thế giới, Hà Nội. Quốc hội (1999), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí, Hà Nội. Lý Văn Sáu, "Mặt trận báo chí và vận động dư luận", Trong sách: Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam. Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên) (1999), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Minh Trưởng (2005), Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1954 đến 1969, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh về cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội. Việt Nam 20 năm đổi mới (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vụ Thông tin Báo chí - Bộ Ngoại giao, (2007), Việt Nam đổi mới và hội nhập - Việt Nam qua con mắt phóng viên nước ngoài, (bản dịch một số bài viết của phóng viên nước ngoài về Việt Nam đăng trên các báo), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Vụ Thông tin Báo chí - Bộ Ngoại giao, Sơ kết dư luận các năm 2004, 2005, 2006, 2007, các Đề án tuyên truyền các chuyến thăm nước ngoài của lãnh đạo ta năm 2005, 2006, 2007, 2008, Hà Nội. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. TIẾNG ANH Cohen (1963), The press and foreign policy, Princetion, Nxb University Press. Dominick Joseph R. (1994), The Dynamics of Mass Communication, New York, Mc Graw- Hill. O’ Heffernan P. (1991), Mass media and American Foreign Policy, New Jerscy, Nxb Ablex Publishing Corporation. TRANG WEBSITE MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI VÀ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI Ở NƯỚC TA TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI 6 1.1. Nhận thức chung về công tác thông tin đối ngoại 6 1.1.1. Khái niệm về công tác thông tin đối ngoại 6 1.1.2. Công tác thông tin đối ngoại là một nhiệm vụ của công tác đối ngoại 11 1.1.3. Đối tượng của thông tin đối ngoại 15 1.1.4. Lực lượng tham gia công tác thông tin đối ngoại 19 1.2. Hoạt động thông tin đối ngoại trước thời kỳ đổi mới 22 1.2.1. Hoạt động thông tin đối ngoại trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp từ 1945 - 1954 22 1.2.2. Hoạt động thông tin đối ngoại trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954 - 1975 25 1.2.3. Công tác thông tin đối ngoại giai đoạn từ 1975 - 1986 29 Chương 2: CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 32 2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thông tin đối ngoại trong thời kỳ đổi mới 32 2.2.1. Vài nét về đường lối đổi mới trong công tác đối ngoại 32 2.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới công tác thông tin đối ngoại 35 2.2. Phương thức và tổ chức thực hiện công tác thông tin đối ngoại 41 2.2.1. Lực lượng tham gia làm công tác thông tin đối ngoại 41 2.2.2. Phương thức thông tin đối ngoại chính thức của Nhà nước 43 2.2.3. Công tác thông tin đối ngoại thông qua kênh phương tiện thông tin đại chúng 44 2.2.4. Công tác thông tin đối ngoại thông qua kênh phóng viên nước ngoài 48 2.2.5. Thông tin đối ngoại qua kênh đối ngoại nhân dân và giao lưu quốc tế 50 2.3. Những kết quả chủ yếu của công tác thông tin đối ngoại thời gian qua 51 2.3.1. Về địa bàn thực hiện thông tin đối ngoại 51 2.3.2. Công tác thông tin đối ngoại giới thiệu đường lối đổi mới và thành quả xây dựng đất nước 52 2.3.3. Công tác thông tin đối ngoại với cuộc đấu tranh dư luận, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch 53 2.3.4. Thông tin đối ngoại trong hoạt động kinh tế đối ngoại 55 2.3.5. Tuyên truyền các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương 56 2.3.6. Thông tin đối ngoại trong hoạt động tuyên truyền về đất nước, lịch sử và nền văn hóa lâu đời của cộng đồng dân tộc Việt Nam 58 2.4. Một số hạn chế trong công tác thông tin đối ngoại thời gian qua 60 2.4.1. Những hạn chế trong các hoạt động thông tin đối ngoại 60 2.4.2. Hạn chế trong phương thức chỉ đạo, quản lý điều hành 62 2.4.3. Một số bài học kinh nghiệm 64 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI TRONG TÌNH HÌNH MỚI 66 3.1. Những vấn đề đặt ra đối với công tác thông tin đối ngoại hiện nay 66 3.1.1. Thuận lợi 66 3.1.2. Khó khăn 68 3.1.3. Phương hướng, nhiệm vụ của công tác thông tin đối ngoại trong bối cảnh hội nhập 71 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới 75 3.2.1 Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác thông tin đối ngoại 76 3.2.2. Đổi mới, kiện toàn cơ chế tổ chức, phối hợp trong công tác thông tin đối ngoại 77 3.2.3. Đổi mới nội dung, hình thức và phương thức thông tin đối ngoại 78 3.2.4. Chủ động tích cực đấu tranh và vận động dư luận phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc tình hình Việt Nam của các thế lực thù địch 80 3.2.5. Đẩy mạnh tranh thủ phóng viên nước ngoài 81 3.2.6. Chú trọng công tác đào tạo, xây dựng cơ chế, chính sách đối với đội ngũ làm công tác thông tin đối ngoại 83 3.2.7. Tăng cường đầu tư tài chính, cơ sở vật chất cho các hoạt động thông tin đối ngoại 84 KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông tác thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.doc
Luận văn liên quan