Luận văn Hình ảnh “trăng” trong thơ thiền Lý Trần Việt Nam và thơ Đường Trung Quốc

- PHONG KIỀU DẠ BẠC (Trương Kế) Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, Giang phong ngư hỏa đối sầu miên. Cô Tô thành ngoại Hàn San tự, Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. Dịch nghĩa: ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở PHONG KIỀU Trăng xế, quạ kêu, sương đầy trời, Rặng phong bên sông, lửa thuyền chài, khách gối sầu mà ngủ. Ngoài thành Cô Tô, tiếng chuông chùa Hàn San, Nửa đêm vọng đến bên thuyền khách.

pdf219 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 2194 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hình ảnh “trăng” trong thơ thiền Lý Trần Việt Nam và thơ Đường Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ái ngày hôm nay là ngày lắm chuyện lo phiền. Gió dài muôn dặm tiễn nhạn mùa thu, Trước cảnh này, có thể say ngất trên lầu cao. Văn chương chốn Bồng Lai cốt cách đời Kiến An Trong đám này Tiểu Tạ lại thanh tao rất mực. Lòng đầy tứ thơ phóng khoáng, ý mạnh mẽ tung tẩy. Muốn bay lên trời xanh ngắm trăng sáng Rút dao chém nước, nước vẫn chay. Nghiêng chén tiêu sầu,Sầu thêm sầu, Người sống trên đời nào được như ý, Sớm mai xỏa tóc, thả thuyền con rong chơi. - TẶNG MẠNH HẠO NHIÊN (Lý Bạch) Ngô ái Mạnh phu tử, Phong lưu thiên hạ văn. Hồng nhan khí hiên miện, Bạch thủ ngọa tùng vân. Túy nguyệt tần trung thanh, Mê hoa bất sự quân. Cao sơn an khả ngưỡng, Đồ thử ấp thanh phần. Dịch nghĩa: TẶNG MẠNH HẠO NHIÊN Ta yêu Mạnh phu tử, Tính phong lưu thiên hạ đã biết tiếng, Khi còn trẻ coi thường quan chức, Lúc đầu bạc nằm dưới thông và mây, Say dưới trăng đáng gọi là thanh, Mê hoa mà chẳng thiết thờ vua, Núi cao kia có thể ngẩng mặt nhìn, Chừng ấy cũng đủ phần thơm tho. - Trăng như một biểu tượng trong triết học Thiền Tông  Ngôn bất tận ý:(3 bài) Thơ thiền Lý Trần: - NHẬT NGUYỆT (Thiền Lão) Thúy trúc, hoàng hoa, phi ngoại cảnh, Bạch vân, minh nguyệt, lộ toàn chân. Dịch nghĩa: Ngày Tháng Trúc biếc, hoa vàng chẳng phải là cảnh bên ngoài, Mây trắng, trăng trong lộ rõ cái (chân) toàn vẹn. - THỊ TU TÂY PHƯƠNG BỐI (Tuệ Trung) Tâm nội Di Đà tử má khu, Đông Tây Nam Bắc pháp thân chu. Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt, Sát hải trừng trừng dạ mạn thu. Dịch nghĩa: GỢI BẢO NHỮNG NGƯỜI TU TÂY PHƯƠNG Cái thân vàng cao quý nhất của phật Di Đà ở ngay trong lòng, Pháp thân chan hóa khắp Đông Tây Nam Bắc. Bầu trời bát ngát chỉ nhìn thấy vừng trăng cô đơn, Bể phật trong suốt, đêm chuyển dài vào thu. - ĐĂNG BẢO-ĐÀI SƠN (Trần Nhân Tông) Địa tịch đài du cổ, Thời lai xuân vị thâm. Vân sơn tương viễn cận, Hoa kính bán tình âm. Vạn sự thủy lưu thủy, Bách niên tâm ngữ tâm. Ỷ lan hoành ngọc địch, Minh nguyệt mãn hung khâm. Dịch nghĩa: LÊN NÚI BẢO-ĐÀI Đất hẻo lánh, đài thêm cổ kính, Theo thời tiết, mùa xuân về chưa lâu. Núi mây như xa, như gần, Ngõ hoa nửa rợp, nửa nắng. Muôn việc như nước tuôn nước, Trăm năm lòng lại nhủ lòng. Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc, Ánh trăng sáng chan hòa trước ngực. Thơ Đường - DẠ BẠC NGƯU CHỬ HOÀI CỔ (Lý Bạch) Ngưu Chử Tây Giang dạ, Thanh thiên vô phiến vân. Đăng chu vọng thu nguyệt, Không ức Tạ tướng quân. Dự diệc năng cao vịnh, Tư nhân bất khả văn. Minh triêu quải phàm khứ, Phong diệc lạc phân phân Dịch nghĩa: ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở NGƯU CHỬ NHỚ CHUYỆN CŨ Đêm Tây giang, bến Ngưu Chử, Trời trong xanh không gợn mây, Lên thuyền ngắm trăng thu, Bỗng bâng khuâng nhớ tướng quân họ Tạ. Ta cũng hay cao giọng ngâm vịnh, Người ấy làm sao mà nghe thấy! Sớm mai giong buồm đi, Lá phong rơi lả tả - VÃN THỨ NGẠC CHÂU (Lư Luận) Vân khai viễn kiến Hán Dương thành, Do thị cô phàm nhất nhật trình. Cô khách chú miên tri lãng tĩnh, Chu nhân dạ ngữ giác triều sinh. Tam Tương sầu mấn phùng thu sắc, Vạn lý quy tâm đối nguyệt minh. Cựu nghiệp dĩ tùy chinh chiến tận, Cánh kham giang thượng cổ bề thanh. Dịch nghĩa: CHIỀU ĐẾN NGẠC CHÂU Mây tan, nhìn xa thấy thành Hán Dương, Chiếc thuyền lẻ loi đến đó đẫy một ngày đường. Ông khách buôn ngủ ngày, biết sóng lặng, Đám chèo thuyền, đêm nói chuyện vãn biết thủy triều lên. Mái tóc phờ phạc đất Tam Tương gặp sắc thu, Lòng nhớ đến làng quê, muôn dặm hướng về trăng sáng. Cơ nghiệp cũ đã tàn trong cuộc binh đao, Giờ lại còn nghe thấy tiếng trống trận nổi trên sông. - BÁT NGUYỆT THẬP NGỮ DẠ TẶNG TRƯƠNG CÔNG TÀO (Hàn Dũ) Tiêm vân tứ quyển thiên vô hà, Thanh phong xuy không nguyệt thư ba. Sa bình thủy tức thanh ảnh tuyệt, Nhất bôi tương chúc quân đương ca. Quân ca thanh toan từ chính khổ, Bất năng thinh chung lệ như vũ. Động Đình liên thiên Cửu Nghi cao, Giảo Long xuất một tinh ngô hào. Thập sinh cửu tử đáo quan sở, U cư mặc mặc như tàng đào. Hạ sang úy sà, thực úy dược, Hải khí thấp trập huân tinh tao. Tạc giả châu tiền trùy đại cổ, Tự hoàng kế thanh đăng Qùy, Cao. Sắc thư nhất nhật hành vạn lý, Tội tòng đại tích giai trừ tử. Thiên giả truy hồi lưu giả hoàn, Điều Hà đãng cấu thanh triều ban. Châu gia thân danh sứ gia ức, Khảm kha kỳ đắc di Kinh Man. Phán tư tỳ quan bất kham thuyết, Vị miễn chủy sở trần ai gian. Đồng thời bối lưu đa thượng đạo, Thiên lộ u hiểm nan truy phan. Quân ca thả hưu thinh ngã ca, Ngã ca kim dữ quân thù khoa. Nhất niên minh nguyệt kim tiêu đa, Nhân sinh do mệnh phi do tha, Hữu tửu bất ẩm nại minh hà? Dịch nghĩa: ĐÊM RẰM THÁNG TÁM TẶNG TRƯƠNG CÔNG TÀO Mây đùn bốn phía, trời không có sông(Ngân). Gió mát thổi nhẹ, trăng lồng sóng. Cát phẳng, nước lặng, im ắng vô cùng. Một chén này chúc anh đang hát. Anh hát giọng gắt, lời đang khổ. Tôi nghe chưa hết lệ đã chứa chan. Hồ Động Đình liền trời, núi Cửu Nghi cao. Thuồng luồng hiện rồi mất, khỉ sóc gào kêu. Mười phen sống, chín phen chết đến nơi làm quan. Chỗ ở ẩn lặng lẽ như trốn tránh. Xuống giường sợ rắn, ăn sợ thuốc độc, Hơi biển nơi xa xôi đầy tanh tao. Bữa nào, trước châu phủ đánh trống lớn. Vua nối ngôi dung túng cho bọn Qùy, Cao làm quan to. Chiếu ân xá một ngày đi ngàn dặm, Đám tội phạm tù đầy lẩn trốn được khỏi chết. Người đi đầy được về, người đáng biếm nơi xa thì cho trở lại, Rửa sạch vết nhớ, vết bẩn, ban cho sự trắng trong. Người trong châu vệ kê tên, quan sứ lại dìm mất, Khốn thay chỉ được đổi đến Kinh Man. Ban lệnh, quan thấp không dám nói, Sao thoát được lầm than đòn roi chốn quan trường. Cùng lúc đám người này phần lớn lại lên đường, Đường trời, vắng vẻ hiểm trở, thật khó mà theo vịn, Anh hát đã xong nghe tôi hát, Tôi hát bây giờ nào khác gì anh. Một năm nhiều đêm trăng sáng, đêm nay trăng sáng nhất. Người ta sinh ra có số mênh, đâu do họ! Có rượu không uống, cứ để trăng sáng ư? - TRƯỜNG TƯƠNG TƯ-KỲ 1 (Lý Bạch) Trường tương tư, tại Tràng An, Lạc vi thu đề kim tỉnh lan. Vi sương thê thê điệm sắc hàn, Cô đăng bất minh tứ dục tuyệt, Quyển duy vọng nguyệt không trường than. Mỹ nhân như hoa cách vân đoan, Thượng hữu thanh minh chi trường thiên. Hạ hữu lục thủy chi ba lan. Thiên trường lộ viễn hồn phi khổ. Mộng hồn bất đáo quan sơn nan. Trường tương tư tồi tâm can Dịch nghĩa: NHỚ NHAU MÃI MÃI Nhớ nhau hoài, ở Trường An. Đêm thu, sẹt sành kêu, lan can giếng vàng, Sương mỏng ảm đạm, chiếu nằm lạnh lẽo. Một bóng đèn hiu quạnh không sáng, nhớ mong không dứt, Cuốn rèm trông trăng lại than dài, Người đẹp như hoa, cách ngàn mây. Phía trên vòm trời xanh thẳm cao vời, Bên dưới sóng gợn mặt nước trong biếc, Đất rộng trời dài hồn bay khổ não, Quan san cách trởi mộng hồn làm sao đến được, Nhớ nhau hoài, héo ruột gan. - QUAN CÔNG TÔN ĐẠI NƯƠNG ĐỆ TỬ VŨ KIẾM KHÍ HÀNH (Đỗ Phủ) Tích hữu giai nhân Công Tôn thị, Nhất vũ kiếm khí động tứ phương. Quan giả như sơn, sắc trởi tang, Thiên địa vi chi cửu đê ngang. Quắc như Nghệ xạ, cửu nhật lạc, Kiểu như quần đế tham long tường. Lai như lôi đình thu chấn nộ, Bãi như giang hải ngưng thanh quang. Giáng thần châu tụ lưỡng tịch mịch, Vãn hữu đệ tử truyền phân phương. Lâm Dĩnh mỹ nhân tại Bạch Đế, Diệu vũ thử khúc thần dương dương. Dữ dư vấn đáp ký hữu dĩ, Cảm thời phủ sự tăng uyển thương. Tiên đế thị nữ bát thiên nhân, Công Tôn kiếm khí sơ đệ nhất. Ngũ thập niên gian tự phản chưởng, Phong trần hồng động hôn vương thất. Lê viên đệ tử tán như yên, Nữ nhạc dư tư ánh hàn nhật. Kim túc đôi tiền mộc dĩ củng, Cù đường thạch thành thảo tiêu sắt. Đại diên cấp quản khúc phục chung, Lạc cực ai lai nguyệt đông xuất. Lão phu bất tri kỳ sở vãng, Túc giản hoang sơn chuyển sầu tật. Dịch nghĩa: BÀI HÀNH VỀ VIỆC XEM HỌC TRÒ CÔNG TÔN ĐẠI NƯƠNG MÚA KIẾM Xưa có người đẹp họ Công Tôn, Một lần múa kiếm rung chuyển bốn phương. Người xem im như núi, sắc buồn lạnh, Trời đất tạo lập,cúi ngửa mà múa. Rạng rỡ như Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời, Khỏe như các vị vua, cưỡi rồng lượn. Vụt đến như trận sấm dồn vào cơn giận dữ, Khi thôi, như sông bể ngừng ánh nước trong. Môi thắm tay áo đầy ngọc, nay lặng lẽ, Sau lại có học trò truyền tiếng thơm. Người đẹp đất Lâm Dĩnh ở thành Bạch Đế, Múa khúc đẹp đất ấy vẻ thần thái thật đáng khen ngợi. Cùng ta trò chuyện cũng có bận, Thường cảm nhiều nỗi thời thế càng thêm xót xa. Thị nữ của tiên đế tám ngàn người, tài kiếm của Công Tôn là bậc nhất. Khoảng năm mươi năm nhanh như trở bàn tay, Gió bụi như động hoang, vương phủ mờ tối. Con hát trong nhà tan như khói, Đội nữ nhạc thừa, chỉ còn vẻ lạnh lẽo. Đồi nữ nhạc thừa, chỉ còn vẻ lạnh lẽo. Đồi Kim Túc, phía trước cây đã đầy, Thành đá Cù Đường cỏ hiu hắt. Đàn trầm sáo thổi tiệc đã trọn, Hết vui thì buồn đến, trăng mọc ở phía đông. Ông già này chẳng biết lúc nào lại đến được, Gót chân dầy trên núi hoang lại buồn khổ.  Nhị nhập tứ hạnh: (6 bài) Thơ thiền Lý Trần: - THẤT CHÂU (Đạo Hạnh) Nhật nguyệt xuất nham đầu, Nhân nhân tận thất châu. Phú nhân hữu cáu tử, Bộ hành bất kỵ câu. Dịch nghĩa: MẤT HẠT CHÂU Mặt trời rồi mặt trăng kế nhau mọc ở đầu núi, (Trên cõi đời này), người nào người ấy đều đánh mất hạt ngọc của mình. Như anh nhà giàu có con ngựa quý , Lại đi bộ mà không cưỡi ngựa. - THOÁT THẾ (Tuệ Trung) Phiên thân nhất trịch xuất phàn lung, Vạn sự đô lô nhập nhãn không. Tam giới mang mang tâm liễu liễu, Nguyệt hoa Tây một nhật thăng Đông. Dịch nghĩa: THOÁT ĐỜI Vươn mình một cái vượt ra khỏi lồng, Muôn việc đều như trò chơi, vào mắt cũng thành hư không. Tam giới mênh mông cõi lòng sáng rõ, Bóng trăng chìm xuống phương Tây, mặt trời mọc ở phương Đông. - THẾT THÁI HƯ HUYỄN (Tuệ Trung) Y cẩu phù vân biến thái đa, Du du đô phó mộng Nam-kha. Sương dung tẩy hạ hà phương trạm, Phong sắc lai xuân mai dĩ hoa. Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh, Đông lưu phó hải khởi hồi ba. Quân khan vương, Tạ lâu tiền yến, Kim nhập tầm thường bách tính gia. Dịch nghĩa: THÓI ĐỜI HƯ ẢO Cuộc đời như đám mây nổi luôn luôn đổi thay nhiều vẻ, Mơ màng đành phó cho giấc mộng Nam-kha. Vẻ sương tắm hạ, sen mới đâm bong, Sắc gió vời xuân đến, mai đã nở hoa. Mặt trăng phương Tây đã chìm xuống chân trời thì bóng trăng khó quay trở lại, Dòng Đông đã ra tới biển thì song nước há có thể trở về. Anh hãy xem đàn én trước lầu họ Vương, họ Tạ, Nay xuống đỗ ở nha trăm họ bình thường. - THỊ CHÚNG (Tuệ Trung) Hưu tầm Thiếu-thất dữ Tào-khê, Thể tính minh minh vị hữu mê. Cổ nguyệt chiếu phi quan viễn cận, Thiên phong xuy bất giản cao đê. Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc, Liên nhị hồng hương bất trước nê. Diệu khúc bản lai tu cử xướng, Mạc tầm Nam Bắc dữ Đông Tê(Tây). Dịch nghĩa: GỢI BẢO MỌI NGƯỜI Đường có tìm Thiếu-thất với Tào-khê, Thể tính vằng vặc, chưa có mê lầm. Mặt trăng xưa soi nào kể gì xa hay gần, Gió trời thổi nào chọn nơi cao hay thấp. Ánh sáng mùa thu lúc đen lúc trắng, tùy theo duyên sắc, Nhị sen đỏ thơm, chẳng nhuốm bùn. Khúc kỳ diệu “bản lai” nên cất giọng hát, Chẳng phải tìm ở Nam Bắc với Đông Tây. - TRỪU THẦN NGÂM (Tuệ Trung) Tòng lai nhất vật hề dã phi, Thân sinh đới nghiệp hề dã thị. Như hà ngũ uẩn hề phân vân, Vị cứ tứ đại hề y ỷ. Hoành xuất cao hạ hề đoản trường, Tự thụ sinh lão hề bệnh tỷ(tử). Nhân chi hữu thịnh hề hữu suy, Hoa chi hữu diễm hề hữu ủy. Quốc chi hữu hưng hề hữu vong, Thì chi hữu hưng hề hữu bĩ. Nhật chi hữu mộ hề hữu triêu, Niên chi hữu chung hề hữu thủy. Qui dư đạo ẩn hề sơn làm, Khôi khước lợi danh hề triều thị. Thiếu-thất cửu niên hề dữ ngã đồng tâm, Hoang-mai bán dạ hề dữ ngã tri kỷ. Tùy phận hề Liên-xã tán my, Khoát chí hề Triệu Châu khấu xỉ. Thiết sử thanh tiền hề điểm đầu, Tranh nại ngoa lý hề động chỉ. Hồng lô bất chủ hề nang chủy, Mãnh hổ bất miết hề nhục ky(cơ). Minh châu khởi ngại hề phong ba, Chính sắc hà phương hề hồng tử. Đảo nhậm ma thì hề lý sự toàn chương, Đề trì phóng quá hề hà tu nghĩ nghĩ, Thạch ngưu dạ bán nhập Hải-đông, Chàng trước san hô nguyệt như thủy. Dịch nghĩa: BÀI NGÂM BĨU MÔI Xưa tới nay, bất kỳ vật nào cũng đều là 《phi》, Thân sinh ra mang lấy nghiệp, ấy là 《thị》. Tại sao ngũ uẩn lại rối bời? Vì tựa nương vào tứ đại đấy thôi. Lầm sinh cao thấp với vắn dài, Mang lấy sinh, già, ốm, chết. Người đời có thịnh thì có suy. Hoa kia có tươi thì vó héo. Quốc gia có hưng thì có vong, Thời thế có thái thì có bĩ. Ngày có sớm thì có chiều, Năm có trước thì có sau. Về thôi! Ẩn đạo nơi núi rừng, Nguội lạnh lợi danh với triều thị. Người ở Thiếu-thất chín năm là bạn đồng tâm của ta, Người nơi Hoàng-mai lúc nửa đêm là bạn tri kỷ của ta. Theo số phận của mình, Liên-xã chau mày, Bừng tỉnh cái chí của mình, Triệu Châu nghiến răng. Ví bằng gập đầu trước tiếng nói, Thì đâu phải động ngón ở trong giày. Chiếc lò lớn không đúc mũi dùi ở trong túi, Loài hổ mạnh đâu thèm miếng thịt thiu. Hạt ngọc sáng há ngại gì sóng gió, Màu sắc chính nào hiềm chi tía hồng. Đến khi nào thì “lý” và “sự” mới hoàn toàn rõ rệt, Sao còn đắn đo gì nắm cầm và buông bỏ. Trâu đá nửa đêm chạy xuống Hải-Đông, Xông vào giữa đám san hô ánh trăng như nước. - THỬ THỜI VÔ THƯỜNG KỆ (Trần Thái Tông) Vạn lại thanh trầm hậu, Tam canh vổ động sơ. Tử quy đề thiết thiết, Hồ điệp mộng cừ cừ. Cam hỗn hòe trung nghị, Phiên vi thủy thượng ngư. Bất năng khán nguyệt khởi, Duy ái luyến hoa cư. Mê thất gia thiên lý, Do tham thụy nhất dư. Bất tri thân thị huyễn, Mông muội quá cư chư. Dịch nghĩa: KỆ VÔ THƯỜNG LÚC BẤY GIỜ Sau khi muôn sáo trời im bặt, Tiếng trống điểm canh ba bắt đầu. Tử quy kêu da diết, Giấc mơ bướm miệt mải. Đành chịu lẫn trong đám kiến cành hòe, Hoặc trở thành con cá trên mặt nước. Không biết xem trăng mọc, mà thức dậy, Chỉ quyến luyến cùng hoa. Lạc xa nhà nghìn dặm, Còn tiếc giấc ngủ tàn. Không biết tấm thân là hư ảo, U mê qua ngày tháng ở chốn này. Thơ Đường - TRÚC LÝ QUÁN (Vương Duy) Độc tọa u hoàng lý, Đàn cầm phục tràng khiếu. Thâm lâm nhân bất tri. Minh nguyệt lại tương chiếu. Dịch nghĩa: QUÁN TRONG TRE TRÚC Một mình ngồi dưới rặng trúc rợp, Gảy đàn cầm thổi sáo. Rừng sâu chẳng ai biết, Trăng sáng đến bên soi. - XUÂN PHIẾM NHƯỢC GIA KHÊ (Kỳ Vô Tiềm) U ý vô đoạn tuyệt, Thử khứ tùy sở ngẫu. Vãn phong xuy hành chu, Hoa lộ nhập khê khẩu. Tế dạ chuyển tây hác, Cách sơn vọng Nam Đẩu. Đàm yên phi dung dung, Lâm nguyệt đê hướng hậu. Sinh sự thả di mạn, Nguyệt vi trì can tẩu. Dịch nghĩa: MÙA XUÂN DẠO CHƠI KHE NHƯỢC GIA Ý muốn được yên lặng chưa thể dứt, Chuyến đi này, là hoàn toàn tình cờ. Gió chiều thổi theo, thuyền lướt sóng, Đường hao dẫn vào cửa khe. Cõi đêm chuyển tới góc rừng tây, Cách núi nhìn thấy sao Đẩu phía Nam. Khói đầm trải mênh mông, Trăng rừng lặn ở phía sau. Chuyện đời còn lan man, Xin được buông chiếc cần câu nhỏ. - THÙ TRƯƠNG THIẾU PHỦ (Vương Duy) Vãn niên duy hiếu tĩnh, Vạn sự bất quan tâm, Tự cố vô trường sách, Không tri phản cựu lâm. Tùng phong suy giải đái, Sơn nguyệt chiếu đàn cầm. Quân vấn cùng thông lý, Ngư ca nhập phố thâm. Dịch nghĩa; ĐÁP LẠI TRƯƠNG THIẾU PHỦ Tuổi già duy chỉ thích tĩnh lặng, Muôn việc đều không để ý. Tự nhìn lại chợt thấy chẳng có kế sách gì hay. Những mong trở lại nơi rừng cũ, Gió tùng thổi, cởi dây lưng, Dưới bóng trăng núi, gảy đàn cầm. Bác hỏi lẽ cùng thông, Lời hát của ông chài đã lọt sâu vào bến. - SƠN THẠCH (Hàn Dũ) Sơn thạch lao xác hành kính vi, Hoàng hôn đáo tự biển bức phi. Thăng đường tọa giai tân vũ túc, Ba tiêu diệp đại chi tử phì. Tăng ngôn cổ bích phật họa hảo, Dĩ hỏa lai chiếu sở kiến hi. Phô sàng phất tịch chí canh phạn, Sơ lệ diệc túc bão ngã ky. Dạ thâm tĩnh ngọa bách trùng tuyệt, Thanh nguyệt xuất lĩnh quang nhập phi. Thiên minh độc khứ vô đạo lộ, Xuất nhập cao hạ cùng yên phi. Sơn hông giản bích phân lạn mạn, Thời kiến tùng lịch giai thập vi. Đương lưu xích túc đạp giản thạch, Thủy thanh kích kích phong sinh y. Nhân sinh như thử tự khả lạc, Khởi tất cục xúc vi nhân ky. Ta tai ngô đảng nhị tam tử, An đắc chí lão bất canh quy. Dịch nghĩa: NÚI ĐÁ Núi đá gồ ghề, đường đi nhỏ, Chiều tối đến chùa, dơi bay ra. Lên nhà ngồi ở thềm, trận mưa vừa dứt, Là chuối rất to, cây rành rành rậm rạp. Sư nói về cái vách cổ, có tranh Phật đẹp, Lấy lửa để mà xem cũng chẳng nhìn thấy rõ. Dẹp giường trải chiến dọn cơm canh, Gạo rối cũng đủ làm cho ta no bụng. Đêm khuya ngồi lăng,côn trùng mọi thứ đã im tiếng, Trăng trong ra khỏi núi, ánh sáng vào cửa. Sáng ra một mình ra đi không thấy đường, Vào ra bước cao bước thấp, hòa vào khói mưa. Núi hồng, suối biếc nhòa loang loáng, Thấy đám tùng thông to đến mười ôm. Nước chảy, chân không đạp lên đá suối, Tiếng nước gấp gấp, gió trở lạnh. Đời người như thế tự cho là vui, Việc gì phải lật đật tự trói buộc mình. Ngán thay bọn ta chỉ vài ba người, Có lẽ đến già cũng không về làng được.  Hư vô quan: (10 bài) Thơ thiền Lý Trần: - ĐÁP LÝ THÁI TÔNG TÂM NGUYỆN CHI VẤN (Huệ Sinh) Tịch tịch Lăng-già nguyệt, Không không độ hải chu. Tri không, không giác hữu, Tam muội nhậm thông chu. Dịch nghĩa: TRẢ LỜI LÝ THÁI TÔNG HỎI VỀ TÂM NGUYỆN Lặng lẽ như vầng trăng trên núi Lăng-già, Hư không như con thuyền vượt biển. Biết đúng cái không thì cái không hóa ra cái có, Và sẽ mặc ý mà đi suốt và đi khắp tam muội. - HỮU KHÔNG (Đạo Hạnh) Tác hữu trần sa hữu, Vi không nhất thiết không. Hữu, không như thủy nguyệt, Vật trước hữu không không. Dịch nghĩa; CÓ VÀ KHÔNG Bảo là “có” thì từ hạt cát, mảy bụi đều có, Cho là “không” thì hết thảy đều không. “Có” với “không” như ánh trăng dưới nước, Đừng có bám hẳn vào cái “có”, và cũng đừng cho cái “không” là không. - ĐÁP PHÁP DUNG SẮC, KHÔNG, PHÀM, THÁNH CHI VẤN (Nguyễn Khánh Hỷ) Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không, Học đạo vô qua phỏng tổ tông. Thiên ngoại mịch tâm nan định thể, Nhân gian thực quế khởi thành tùng. Kiền khôn tận thị mao đầu thượng, Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung. Đại dụng hiện tiền, quyền tại thủ, Thùy tri phàm thanh dữ Tây Đông. Dịch nghĩa: TRẢ LỜI SƯ PHÁP DUNG HỎI VỀ SẮC, KHÔNG, PHÀM, THÁNH Thôi đừng hỏi sắc với không cho thêm mệt cuộc đời, Học đạo chẳng qua là tìm hỏi đến nguồn gốc. Tìm kiếm cái “tâm” ở ngoài trời thì khó mà định được “thể” của nó, (cũng như) trồng quế ở trần gian, há thành khóm được. (Hãy xem) kiền khôn hết thảy đều ở trên đầu một sợi lông, Mà mặt trời mặt trăng thì chứa đựng ở trong hạt cải. Cái “dụng” lớn hiện ra trước mặt, giống như nắm tay ở ngay trên tay, Còn phàm, thánh với Tây, Đông ai mà biết được. - QUY TỊCH (Bảo Giác) Vạn pháp quy không, vô sở y, Quy tịch, chân như mục tiền ky. Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ, Thủy thủy tâm nguyệt dẫn tâm nghi. Dịch nghĩa: TRỞ VỀ CÕI TỊCH MỊCH Muôn vàn hiện tượng trở về với cái không, không nơi nương tựa, Trở về cõi tịch mịch thi chân như là cơ trước mắt. Cái tâm đạt ngộ đã viên mãn không thể chỉ ra được, (Quan niệm) cái tâm như ánh trăng ở trong nước (chính là phương pháp để) gạt bỏ cái tâm. - TẦM HƯỞNG (Tô Minh Trí) Tùng phong thủy nguyệt minh, Vô ảnh diệc vô hình. Sắc thân giá cá thị, Không không tầm hưởng thanh. Dịch nghĩa: TÌM TIẾNG VỌNG Gió trên cành thông, trăng sáng ở dưới nước. Không có bóng cũng không có hình. Sắc thân cũng như thế đó, (Muốn tìm nó có khác chi) tìm tiếng vang ở trong khoảng không. - TRỤ TRƯỢNG TỬ (Tuệ Trung) Nhật nhật trượng trì tại chưởng trung. Hốt nhiên như hổ hựu như long. Niêm lai khước khủng sơn hà toái. Trác khởi hoàn phương nhật nguyệt lung. Tam Xích Song-lâm hà xứ hữu? Lục hoàn Địa Tạng khoái nan phùng. Túng nhiêu thế đạo kỳ khu thậm, Bất nại tòng tiền bột tốt ông. Dịch nghĩa: CHIẾC GẬY Ngày ngày cầm chiếc gậy trong tay. Bỗng nhiên như cọp lại như rồng. Nâng lên,chỉ sợ non sông vỡ nát, Dựng thẳng, e rằng mặt trời mặt trăng bị che khuất. Ba thước Song-lâm, biết tìm chốn nào được? Sáu vòng Địa Tạng thật khó mà gặp gỡ. Dẫu cho đường đời gập ghềnh biết mấy, Chẳng còn ngại gì như ông già trước đây đi lại lật đật. - ĐỐN TỈNH (Tuệ Trung) Đoán tri không hữu bất tương sa(sai), Sinh tử nguyên tòng nhất phái ba. Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt, Tân niên hoa phát cố niên hoa. Tam sinh thúc hốt chân phong chúc, Cửu giới tuần hoàn thị nghĩ ma. Hoặc vấn như hà vi cứu cánh, Ma-ha bát-nhã tát-bà-ha. Dịch nghĩa: CHỢT TỈNH Đoán biết rằng (không) và (có)không cách nhau lắm, Sống và chết vốn từ một đợt sóng. Trăng sáng đêm qua vẫn là trăng đêm nay, Hoa nở năm mới cũng là hoa năm cũ. Ba sinh thấm thoắt thực như ngọn đuốc trong gió, Chín cõi tuần hoàn, giống như cái kiến bò trên miệng cối xay bột. Có người hỏi thế nào là cứu cánh, Thi ta bảo: 《Ma-ha bát-nhã, tát-bà-ha》 - TRỮ TỪ TỰ CẢNH VĂN (Tuệ Trung) Quang âm lưu thủy, Phú quí phù vân. Phong hỏa tán thì, Lão thiếu thành trần. Hồn phách phàn sắc thân như mộng, Đãn nhật dụng khiên trừu ổi lỗi, Thường mỗi hú bả tróc lân hư. Đan đính hạc cửu cao hữu dự, Trinh vĩ ngư Vũ-môn bất dị, Bất chuyển dầu hồi quang phản chiến, Khế tâm yếu thức tính thông minh. Cầu giải thoát chính giác viên thành, Tại minh dục thanh tâm diệu dụng. Mộng trung tạo tác, Giác hậu đô vô. Mộng trung tác sinh tế sinh thô, Giác hậu vô tuyệt tiêm tuyệt hào. Thanh tịnh tâm phi trần phi cấu, Kiên cố thân vô hậu vô tiên, Xuân hoa sắc đóa đóa hồng tiên, Thu nguyệt ảnh đoàn đoàn viên diệu. Phàm thánh hệ niệm, Đãn chỉ hiềm chân thực tương quai. Sinh tử vong hoài, Tiện liễu đắc bản lại tinh ngộ. Sát-na tình tam đồ ứng báo, Hào ly niệm lục đại kế nhân. Tùy thất thức hữu yếm hữu hân, Phá tam độc vô chân vô vọng. Nhân ngã tướng nan thu nan nhiếp, Hà sa kiếp luân hồi tứ sinh. Tham sản si tương đấu tương tranh, Tăng kỳ số hoành ành cửu loại. Khẳng chiếu nguyện vô minh tắc cá, Uổng không quá tứ đại sắc thân. Năng chi di hữu lậu chư căn, Tiện chứng nhập chân như tam muội. Điên đảo nhị kiến, Tiện tương võng sơn thượng la ngư. Tịch diệt nhất như, Kỵ đảo lư cao đăng bỉ ngan. Hung trung nhược vô thiên vô thảng, Nhĩ thính nhậm tha bang thi phỉ, Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bi, Nhãn để kiến thủy bi thủy từ. Cầu chàn như nhi đoạn vọng niệm, Tự dương thanh chỉ hưởng tương man. Xả phiền não nhi thủ nê-hoàn. Như nhật ảnh đào hình ban loại. Miết nhĩ túy tâm viên ý mã, Nan miễn lụy lợi tỏa danh cương. Khởi chỉ qui tổ vực đạo trường, An đắc miễn Diêm vương ngục lại. Tương cá tự vô thường tấn tốc, Bất thoái chuyển lục tặc nhưng khư. Phát tam muội hỏa quang thiêu trừ, Chứng đắc nhập vô dư Niết-bàn. Quảng đại trương phượng hoàn diệu võng, Mạc phóng chí yến tước đồng mưu. Kim dục phao kinh nghê điếu câu, Khước lụy sầu hà mô đẳng loại. Cao ấp trân trọng, Bằng hữu đệ huynh. Hoặc nhân nhân hữu thánh hữu linh, Hiếu trác khởi nhỡn tinh tiến da. Đốt. Dịch nghĩa: BÀI VĂN TRỮ TÌNH TỰ RĂN Ngày tháng như nước trôi, Giầu sang như mây nổi. Khi gió, lửa tan đi, Thì trẻ, già thành bụi. Khi hồn phách chia lìa thì sắc thận như mông, Nhưng ngày thường vấn vương trò múa rối. Thường đùa nghịch nắm bắt cái lân hư. Hạc đầu đỏ chin nội có thừa, Cá đuôi đỏ Vũ-môn không dễ có. Sao không quay đầu soi lại, Để hẹn lòng nên biết tính thông minh. Tìm giải thoát chính giác viên thành, Ở diệu dụng thanh tâm diệt dục. Sự tạo tác trong giấc chiêm bao, Sau khi tỉnh đều là không cả. Trong giấc mộng sinh nhỏ sinh to, Sau khi tỉnh không tơ không tóc. Tâm thanh tịnh không bụi không nhơ, Thân kiên cố không sau không trước. Sắc hoa xuân đóa đóa tươi hồng, Bóng trăng thu tròn đầy viên diệu. Thánh phàm vấn vương trong ý nghĩ, Nhưng e thực tưởng lánh xa. Sống chết không dễ bụng, Thì hiểu ngay chân tính nguyên xưa. Một chút tình giây lát cũng báo ứng ba đường. Một ý nghĩ tóc tơ cũng luân hồi lục đạo. Theo bảy thức có ghét có ưa, Phá ba độc không chân không vọng. Tướng nhân ngã khó thu khó nắm, Kiếp hà sa, luẩn quẩn bốn loài. Tham, sân, si trành đấu cùng nhau, Tăng kỳ số hoành hành chín loài. Không nhìn ngó cải vô minh mờ mịt, Uổng trôi qua cái tứ đại sắc thân. Gạt bỏ dược các căn hữu lậu, Thì chứng ngay tam muội chân như. Đảo điên nhị kiến, Nào khác chi giăng lưới trên núi để bắt cá. Tịch diệt nhất như, Là cưỡi ngược con lừa thẳng tới bờ kia. Trong bụng bãng không lệch không thiên, Bên tai mặc ai dẻ ai bỉu. Đem lửa đốt trời luống nhọc mình thôi, Dưới mắt thấy rủ lòng thương xót. Tìm chân như mà dứt vọng niệm, Có khác chi dối nhau bằng cách thét lớn để ngăn tiếng vang. Bỏ phiền não mà lấy Niết-bàn, Thực chẳng khác trốn hình trong nắng chỏi. Lấm lét theo ý ngựa lòng vượn. Khó tránh khôi cái lụy lợi ràng danh buộc. Không hướng về đất tổ cõi đạo, Sao tránh khỏi ngục lại của Diêm vương? Nêu cái chữ 《vô thường nhanh chóng》, Thì sáu giặc vững trơ trơ cũng dẹp xong. Phóng ngọn lửa tam muội thiêu trừ, Liền chứng được Niêt-bàn vĩnh cửu. Muốn bủa lưới diệu rộng lớn để bắt phượng hoàng, Thì đừng mưu cùng loài yến tước bé nhỏ. Nay muốn thả cần câu loại kinh ngạc, Đừng để phiền lụy cho đám ễnh ương. Trân trọng vái chảo, Bạu hữu an hem. Hoặc mọi người có thánh có linh, Hãy mở to mắt lên mà tiến. Hết! Thơ Đường - TỐNG TĂNG QUY NHẬT BẢN (Tiền Khởi) Thượng quốc tùy duyên trú, Lai đồ nhược mộng hành. Phù thiên thương hải viễn, Khứ thế pháp chu khinh. Thủy nguyệt thông thiền tịch. Ngư long thinh Phạn thanh. Duy liễu nhất đăng ảnh, Vạn lý nhỡn trung minh. Dịch nghĩa: TIỀN SƯ VỀ NHẬT BẢN Đất thượng quốc, theo cái duyên đến ở, Con đường hướng tới ví như đi trong mộng, Mây nổi ngoài biển xanh xa xa, Rũ bỏ cuộc đời, con thuyền pháp nhẹ nhàng. Trăng và nước như thấu suốt cõi thiền lặng lẽ, Cá và rồng nghe tiếng nhà phật. Chỉ thương xót cho một đèn, một bóng, Con mắt nhìn thấu suốt muôn dặm. - CẨM SẮT (Lý Thương Ẩn) Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền, Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên. Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp, Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên. Thương hải nguyệt minh, châu hữu lệ, Lam Điền nhật noãn, ngọc sinh yên. Thử tình khả đãi thành truy ức, Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên. Dịch nghĩa: NGHE ĐÀN CẨM SẮT Đàn cầm sắt năm mươi dây biết đâu là manh mối, Mỗi giây, mỗi trụ đàn nghĩ về thời tuổi hoa. Chàng trang trong giấc mộng sớm mơ hóa bướm, Vọng đế lòng xuân gửi vào chim đỗ quyên. Tiếng trong tựa bể xanh, trăng sáng, như giọt ngọt nhở đầu ghềnh. Nắng ấm trời Lam Điền, ngọc mới hình còn khói vẩn. Tình ấy nên dằng dai nhớ mãi, hay chỉ là nỗi lòng vu vơ trong thoáng chốc. - Trăng như phương tiện giúp nhà thơ bày tỏ tâm trạng, cảm xúc. + Trực tiếp: (9 bài) Thơ thiền Lý Trần - TRUY TÁN TỲ-NI-ĐA-LƯU-CHI THIỀN SƯ (Lã Định Hương) Sáng tự lai Nam quốc, Văn quân cửu tập Thiền. Ưng khai chư phật tín, Viễn hợp nhất tâm nguyên. Hạo hạo Lăng-già nguyệt, Phân phân Bát nhã liên. Hà thời lâm diện kiến, Tương dữ thoại trùng huyền. Dịch nghĩa: TRUY TÁN THIỀN SƯ TỲ-NI-ĐA-LƯU-CHI Lần đầu đến nước Nam, Được biết người am hiểu rất sâu sắc đạo Thiền. Nên đã mở mang giáo lý của các Phật, Khiến người đời sau hòa hợp được với cội nguồn của chữ tâm. Trăng Lăng-già sáng vằng vặc, Sen Bát nhã ngát hương thơm. Bao giờ được gặp mặt nhau, Để cùng đàm luận về lý lẽ vô cùng huyền diệu. - THỦY HỎA (Huệ Sinh) Tự cổ lai tham học, Nhân nhân chỉ vị Nam. Nhược nhân vấn tân sự, Tân sự nguyệt sơ tam. Dịch nghĩa: NƯỚC VÀ LỬA Từ xưa đến nay (người) đến học đạo, Ai nấy đền chỉ vì một phương hướng. Ví bằng có người hỏi cái mới, Thì cái mới (giống như) trăng mồng ba. - CẢM HOÀI (Bảo Giám) Trí giả do như nguyệt chiếu thiên, Quang hàm trần sát chiếu vô thiên. Nhược nhân yếu thức vô phân biệt, Lĩnh thượng phù sơ tỏa mộ yên. Dịch nghĩa: CẢM HOÀI Trí tuệ như trăng soi giữa trời, Ánh sáng bao phủ trần gian, soi dọi không lệch bên nào. Nếu người ta muốn nhận thức nó thì chớ nên phân biệt, (Vì nó cũng chính là)cây cỏ sum suê trên ngọn núi phủ khói chiều. - HÃN TRI ÂM (Tịnh Giới) Thu lai lương khí sảng hung khâm, Bát đấu tài cao đối nguyệt ngâm. Kham tiếu thiền gia si độn khách, Vi hà tương ngữ dĩ truyền lâm? Dịch nghĩa: ÍT TRI ÂM Mùa thu đến mát rượi, sảng khoái trong lòng, Những nhà thơ tài cao tám đấu thì nhìn trăng mà ngâm vịnh. Đáng buồn cười cho kẻ ngớ ngẩn trong làng Thiền, Cớ sao lại đem ngôn ngữ để (truyền tâm) cho người? - HÓA VẬN (NGUYỄN Y SƠN) Chân thân thành vạn tượng, Vạn tượng tức chân thân. Nguyệt điện vinh đan quế, Đan quế tại nhất luân. Dịch nghĩa: BIẾN HÓA VÀ CHUYỂN VẦN Chân thân (biến hóa) thành muôn vàn hiện tượng, Muôn vàn hiện tượng cũng là chân thân. (Cũng như)cung trăng làm cho cây quế đỏ tươi tốt Nhưng cây quế vẫn ở giữa cung trăng. - CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN (Trần Thái Tông) Nhất nguyện linh nguyên thường trạm tịch, Nhị nguyện tạng thức tuyệt phan duyên. Tam nguyện nghị đoàn câu phá toái, Tứ nguyện định nguyêt vĩnh đoàn viên. Ngũ nguyện pháp trần vô(vong) khởi diệt, Lục nguyện ái võng ly câu khiên. Thất nguyện tư duy hành thập địa, Bát nguyện đế thính xả tam thiên. Cửu nguyện tâm viên hưu trạo tí, Thập nguyện ý mã tức dương triên. Thập nhất nguyện khoan hoài chư Phật giáo, Thập nhị nguyện thích hứng tổ sư thiền. DỐC LÒNG PHÁT NGUYỆN(dịch nghĩa) Một nguyền nguồn linh thiêng mãi mãi trong lặng, Hai nguyền tạng thức dứt mọi vấn vương. Ba nguyền mọi mối nghi ngờ được phá vỡ, Bốn nguyền trăng định mãi mãi tròn vạnh. Năm nguyền mọi bụi pháp không nổi dậy, Sáu nguyền thoát khỏi sự lôi kéo của lưới yêu. Bảy nguyền tư duy đi khắp hàng thập địa, Tám nguyền nghe kỹ mà bỏ cảnh trời thứ ba. Chín nguyền lòng vượn thôi không vùng vẫy, Mười nguyền ý ngựa tắt ham muốn rong ruồi. Mười một nguyền rộng mở lòng theo lời Phật dạy, Mười hai nguyền vui thích với cách thiền định của Tổ sư. - THỊ TỊCH (Pháp Loa) Vạn duyên tiệt đoạn nhất thân nhàn, Tứ thập dư niên mộng ảo gian. Trân trọng chư nhân hưu tá vấn, Ná biên phong nguyệt cánh hoàn khoan. Dịch nghĩa: THỊ TỊCH Cắt dứt vạn duyên, một thân nhàn hạ, Hơn bốn chục năm qua chỉ là trong ảo mộng. Trân trọng nhắn mọi người đừng gạn hỏi, Trăng gió ở thế giới bên kia lại càng mênh mông. Thơ Đường - NGUYỆT HẠ ĐỘC CHƯỚC (Lý Bạch) Hoa gian nhất hồ tửu, Độc chước vô tương thân. Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân. Nguyệt ký bất giải ẩm, Ảnh đồ tùy ngã thân. Tạm bạn nguyệt tương ảnh, Hành lạc tu cập xuân. Ngã ca nguyệt bồi hồi, Ngã vũ ảnh linh loạn, Tỉnh thời đồng giao hoan. Túy hậu các phân tán. Vĩnh kết vô tình du, Tương kỳ mạc Vân Hán. Dịch nghĩa: MÌNH UỐNG RƯỢU DƯỚI TRĂNG Giữa hoa một hồ rượu, Một mình rót uống, không ai là người thân. Nâng chén lên mời trăng sáng, Cùng bóng mình thành ba người. Trăng đã không biết uống rượu, Bóng thì theo thân mình. Tạm đánh bạn với trăng với bóng, Vui cho kịp với ngày xuân. Ta hát trăng cũng bồi hồi, Ta múa, bóng cũng quay cuồng nghiêng ngả. Khi tỉnh cùng vui với nhau, Say rồi đều tan tác. Tình giao kết buộc nhau lại mãi làm chi, Hẹn hò nhau trên tít Vân Hán. - TẶC BÌNH HẬU TỐNG NHÂN BẮC QUY (Tư Không Thự) Thế loạn đồng nam khứ, Thời thanh độc bắc hoàn. Tha hương sinh bạch phát, Cựu quốc kiến thanh san. Hiểu nguyệt quá tàn lũy, Phồn tinh túc cố quan. Hàn cầm dữ suy thảo, Xứ xứ bạn sầu nhan. Dịch nghĩa: BÌNH GIẶC XONG, TIỄN NGƯỜI VỀ BẮC Đời loạn lạc cùng đi về nam, Khi thanh bình một mình về đất bắc. Tha hương tóc bạc đã mọc đầy, Nước non cũ lại được thấy núi xanh. Trăng sớm mai soi trên lũy cũ, Sao dầy ngủ lại ải quan ngày xưa. Chim xứ lạnh và đám cỏ rạc, Nơi nơi đều là bạn lứa, cùng với gương mặt buồn rầu. - PHỤNG TẾ DỊCH TRÙNG TRỐNG NGHIÊM CÔNG TỨ VẬN (Đỗ Phủ) Viễn tống tòng thử biệt, Thanh sơn không phục tình. Kỷ thời bôi trùng bả, Tạc dạ nguyệt đồng hành, Liệt quận âu ca tích, Tam triều xuất nhập vinh. Giang thôn độc quy xứ, Tịch mịch dưỡng tàn sinh. Dịch nghĩa: Ở TRẠM DỊCH PHỤNG TẾ LẠI TIỄN NGHIÊM CÔNG, LÀM BỐN VẦN Tiễn đi xa, từ đây chia tay, Núi xanh vốn có tình, Mấy lúc cùng cầm lấy chén, Đêm qua, trăng cùng đi theo người! Dân khắp quận thành ngợica, tiếc nhớ. Ba triều vua ra vào vinh hiển, Sông làng một mình trở về, Trong cõi lặng lẽ, sống nốt những ngày cuối đời. - YẾT HÀNH NHẠC MIẾU TOẠI TÚC NHẠC TỰ ĐỀ MÔN LẦU (Hàn Dũ) Ngũ nhạc tế trật giai tam công. Tứ phương hoàn trấn tung đương trung. Hỏa duy địa hoang túc yêu quái. Thiên giả thần bính chuyên kỳ hùng. Phún vân thế vụ tàng bán phúc. Tuy hữu tuyệt đỉnh thùy năng cùng. Ngã lai chính phùng thu vũ tiết. Âm khí hối muội vô thanh phong. Tiềm tâm mặc đảo nhược hữu ứng. Khởi phi chính trực năng cảm thông. Tu du tĩnh tảo chúng phong xuất. Ngưỡng kiến đột ngột sanh thanh không. Tử Cái liên diên tiếp Thiên Trụ. Thạch Lẫm đằng trịch đôi Chúc Dong. Sâm nhiên động phách hạ mã bái. Tùng bách nhất kính xu linh cung. Phấn tường đan trụ động quang thái. Quỷ vật đồ họa điền thanh hồng. Thăng giai ủ lũ tiến bô tửu. Dục dĩ phỉ bạc minh kỳ trung. Miếu nội lão nhân thức thần ý. Huy hu trinh tứ (tý) năng cúc cung. Thủ trì bôi giao đạo ngã trịch. Vân thử tối cát dư nan đồng. Thoán trục man hoang hạnh bất tử. Y thực tài tục cam trường chung. Hầu vương tướng tướng vọng cử tuyệt. Thần tung dục phúc nan vi công. Dạ đầu phật tự thướng cao các. Tinh nguyệt yểm ánh vân đồng lung. Viên minh chung động bất tri thự. Cảo cảo hàn nhật sinh ư động. Dịch nghĩa: VÀO RA MẮT MIẾN NÚI HÀNH BÈN NGỦ Ở CHÙA NÚI ĐỀ THƠ Ở CỬA LẦU Theo phép , tế Ngũ nhạc, đều dự vào lễ tam công. Bốn phía núi vây giữ, núi Tung ở giữa. Lửa dữ ở đất hoang nhiều yêu quái. Trời trao quyền bính, lo kẻ trị. Phun mây, tạo sương mù, che khuất sườn núi. Tuy có đỉnh cao, ai đã đến được. Ta đến đúng dịp tiết mưa thu. Âm khí mờ tối không có gió mát. Lòng kín đáo cầu khấn lặng lẽ may ra được ứng. Há chẳng lấy lòng ngay thẳng để có thể được cảm thông. Chốc lát, mây mù quang, các ngọn núi hiện. Ngửa trông thấy cao ngất, núi chiếm giữ trời xanh. Núi Tử Cái liền liền tiếp núi Thiên Trụ. Núi Thạch Lẫm vọt lên, núi Chúc Dong kề liền Lòng đầy cảm động xuống ngựa lậy. Một hàng tùng bách dẫn vào đền thiêng. Tường phấn cột đỏ rung động ánh vẻ. Hình thù kỳ quái lấp cả vẻ xanh hồng. Lên thềm khom lưng, bèn dâng rượu. Lấy lễ vật đơn bạc, tỏ rõ tấm lòng. Người già giữ miếu biết ý thần. Thăm thú dò xem thấy hết lòng. Tay cầm chén Thần bảo ta xem quẻ bói. Nói rằng như thế rất tốt, thoát được nhiều việc khó. Ta phải đến mảnh đất người Man, may khỏi chết. Ăn mặc qua loa,cam chịu lâu dài. Làm hầu vương làm tướng, thôi trông lên ngôi cao. Thần buông tha làm phúc, giúp khó mà nên chuyện. Đêm náu ở cửa chùa, cửa phật, lên gác cao. Trăng sao bị che mờ, mây vừa ló, đã giăng đầy. Vượn kêu chuông going, trời sắp sáng. Khô hanh ngày rét hiện ra mặt trời phía đông. + Gián tiếp: (10 bài) Thơ thiền Lý Trần: - VÃN QUẢNG TRÍ THIỀN SƯ (Đoan Văn Khâm) Lâm loan bạch thủ độn kinh thành, Phát tụ cao sơn viễn cánh hinh. Kỷ nguyện tịnh cân xu trượng tịch, Hốt văn di lý yểm Thiền quynh. Trai đình u điểu không đề nguyệt, Mộ tháp thùy nhân vị tác minh. Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt, Viện tiền sơn thủy thị chân hình. Dịch nghĩa: VIẾNG THIỀN SƯ QUẢNG TRÍ Xa lánh kinh thành, vào nơi rừng núi cho đến bạc đầu, Phất tay áo trên núi cao, càng xa càng ngát thơm. Đã mấy lần (tôi) những muốn chít khăn tu hành đến hầu bên chiếu, (Thế mà nay) bỗng nghe nhà sư qua đời, cửa chùa đã khép kín. Trước sân nhà trai, tiếng chim khuya khắc khoải kêu dưới bóng trăng. Có ai vì người mà đề bài minh vào ngọn tháp trên mộ? Các bạn tu hành chớ nên đau thương về nỗi vĩnh biệt, Sông núi trước chùa, chính là hình ảnh chân thực của người. - THẾ SỰ (Nguyễn Nguyện Học) Giang nguyệt mang nhi phong lãnh lãnh, Cân y trước vô thường cảnh cảnh. Thời quang tấn tốc lão thôi nhan, Bách sự vô thành thủy phục tỉnh. Dịch nghĩa: SỰ THẾ Trăng nước mênh mông, gió lạnh lùng, Áo khăn mặc rồi mà thường đêm vẫn thao thức. Thời giờ thấm thoắt giục người chóng giả, Trăm việc không thành, ai người biết tỉnh ngộ. - SINH TỬ NHÀN NHI DĨ (Tuệ Trung) Tâm chi sinh hề sinh tử sinh, Tâm chi diệt hề sinh tử diệt. Sinh tử nguyên lai tự tính không, Thử huyễn hóa thân diệc đương diệt. Phiền não bồ-đề ám tiêu ma, Địa ngục thiên đường tự khô kiệt. Hoạch thang lô than đốn thanh lương. Kiếm thụ đao sơn lập tồi chiết. Thanh văn tọa thiền ngã vô tọa, Bồ-tát thuyết pháp ngã thực thuyết. Sinh tự vọng sinh tử vọng tử, Tứ đại bản không tòng hà khỉ(khởi)? Mạc vi khát lộc sấn dương điễm, Đông tẩu tây trì vô tạm dĩ. Pháp thân vô khứ diệc vô lai, Chân tính vô phi diệc vô thị. Đáo gia tu tri bãi vấn trình, Kiến nguyệt an năng khổ tầm chỉ. Ngu nhân điên đảo bố sinh tử, Tri giả đạt quan nhàn nhi dĩ. Ngu nhân điên đảo bố sinh tử, Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ. Dịch nghĩa: SỐNG CHẾT LÀ LẼ THƯỜNG MÀ THÔI Tâm sinh thì sống chết sinh, Tâm diệt thì sống chết diệt. Sống chết vốn là không có tự tính, Cái thân do huyễn ảo hóa thành này rồi cũng phải diệt. Phiền não, bồ-đề đều ngầm tiêu ma hết, Địa ngục, thiên đường cũng tự khổ kiệt. Vạc dầu , lò lửa bỗng trở nên mát mẻ, Rừng gươm, núi dao lập tức đổ gãy. Thanh văn ngồi thiền, ta không ngồi, Bồ tát thuyết pháp,ta nói thực. Sinh từ cái càn rỡ mà sinh ra, chết từ cái càn rỡ mà chết đi, Tứ đại vốn là không thì còn từ đâu mà dấy lên được. Đừng như con hươu khát chạy vào giữa ảo ảnh, Chạy Đông chạy Tây không lúc nào dừng. Pháp thân không di cũng không lại, Chân tính không trái cũng không phải. Đến nhà thì nên thôi đừng hỏi đường nữa, Thấy mặt trăng rồi sao còn vất vả đi tìm ngón tay. Người ngu ngả nghiêng, sợ sống chết. Bậc trí có cái nhìn thông đạt, xem sống chết là lẽ thường mà thôi. Người ngu ngả nghiêng, sợ sống chết, Bậc trí có cái nhìn thông đạt, xem sống chết là lẽ thường mà thôi. - ĐỀ GIA LÂM TỰ (Trần Quang Triều) Tâm khôi oa giác mộng, Bộ lý đáo thiền đương. Xuân vãn hoa dung bạc, Lâm u thiền vận trường. Vũ thu thiên nhất bích, Trì tịnh nguyệt phân lương. Khách khứ tăng vô ngữ, Tùng hoa mãn địa hương. Dịch nghĩa: ĐỀ CHÙA GIA-LÂM Lòng nguội lạnh với giấc mơ sừng con sên, Dạo bước đến cửa thiên. Xuân muộn, dáng hoa mỏng mảnh, Rừng sâu, tiếng ve ngân dài. Mưa tạnh, trời xanh biếc một màu, Ao trong, trăng mát dịu tỏa xuống. Khách ra về, sự chẳng nói, Mặt đất thơm ngát mùi hoa thông. - ĐỀ PHÚC THÀNH TỪ ĐƯỜNG (Trần Quang Triều) Vân tự du du tuế nguyệt thâm, Từ đường lưỡng bạn bách sâm sâm. Hoa ngưng túc vũ thiên hàng lệ, Nguyệt ấn hàn đàm nhất phiến tâm. Đại hạ thảo phân kim nhật lộ, Tùng trung hạc thức cựu thời cầm. Dạ lại ký đắc đăng tiền mộng, Hải khoát thiên cao hà xứ tầm? Dịch nghĩa: ĐỀ NHÀ THỜ PHÚC-THÀNH Mây bay man mác năm tháng lâu rồi, Hai bên nhà thờ cây bách um tùm. Những hạt mưa đêm đọng lại trên hoa như nghìn hàng lệ, Mặt trăng in xuống đầm lạnh như một mảnh lòng. Dưới đài, cỏ rẽ thành lối đi ngày nay, Trong cây thông, chim hạc nhớ cung đàn thưở trước. Đêm đến ghi nhớ giấc mộng trước đèn. Nhưng trời cao biểu rộng biết tìm đâu? - CÚC HOA (Huyền Quang) Niên niên hòa lộ hướng thu khai, Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài. Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ, Mãn đầu tủy đào tháp quy lai. Dịch nghĩa: HOA CÚC Hàng năm cùng với sương móc, vào thu hoa cúc nở, Trăng thanh gió mát, thỏa thích tấc lòng. Thật đáng cười kẻ không hiểu vẻ huyền diệu của hoa, Đến đâu là hái hoa giắt đầy đầu mà về. Thơ Đường - ĐỒNG TÒNG ĐỆ NAM TRAI NGOẠN NGUYỆT ỨC SƠN ÂM THÔI THIẾU PHỦ (Vương Xương Linh) Cao ngọa Nam Trai thời, Khai duy nguyệt sơ thổ. Thanh huy đạm thủy mộc, Diễn dạng tại song hộ. Nhẫm nhiễm kỷ doanh hư, Trừng trừng biến kim cổ. Mỹ nhân thanh giang bạn, Thị dạ Việt ngâm khổ. Thiên lý kỳ như hà, Vi phong xuy lan đỗ. Dịch nghĩa: CÙNG VỚI EM HỌ Ở NAM TRAI, THƯỞNG TRĂNG NHỚ THÔI THIẾU PHỦ ĐẤT SƠN ÂM Nằm khểnh ở Nam Trai, Vén rèm ngắm trăng mới mọc. Ánh trăng hòa vào cây cỏ, nước đêm, Chập chờn ánh lên bên cửa sổ. Thấm thoắt khi đầy khi vơi, Lặng soi vào những đổi thay kim, cổ. Người đẹp bên bờ sông trong, Khúc ngâm đêm ấy dường như ngậm ngùi. Xa cách nghìn dặm như thế, Gió nhẹ lướt ngang nhóm hoa cỏ thơm. - NGUYỆT DẠ (Đỗ Phủ) Kim dạ Phu Châu nguyệt, Khuê trung chỉ độc khan, Dao liên tiểu nhi nữ, Vị giải ức Tràng An. Hương vụ vân hoàn thấp, Thanh huy ngọc tý hàn, Hà thời ỷ hư hoảng, Song chiếu lệ ngân can. Dịch nghĩa: ĐÊM TRĂNG Trăng Phu Châu đêm nay, Chỉ có một người ở phòng khuê đang ngắm. Cảm thương cô gái tho dại ở xa, Chưa biết nhớ(người đang ở)Tràng An. Sương móc thơm, tóc mây thấm ướt, Ánh trăng trong làm lạnh cánh tay ngọc ngà, Bao giờ được tựa bên rèm cửa, Trăng chiếu cả hai, cho ráo lệ. - CÔ NHẠN (Thôi Đồ) Kỷ hàng quy tái tận, Niệm nhĩ độc hà chi? Mộ vũ tương hô thất, Hàn đường dục hạ trì. Chử vân đê ám độ, Quan nguyệt lãnh tương tùy. Vị tất phùng tăng chước, Cô phi tự khả nghi. Dịch nghĩa: NHẠN LẺ Mấy hàng nhạn bay về tận cửa ải! Cứ nghĩ mày sao chỉ có một minh? Cơn mưa chiều gọi nhau cũng không được, Ao lạnh muốn xuống cũng chậm. Bến mây thấp lặng bay qua, Trăng cửa ải lạnh dõi theo. Chưa hẳn đã gặp phải tên nỏ, Một đám mây lẽ cũng luôn ngờ vực. - CHƯƠNG ĐÀI DẠ TỨ (Vi Trang) Thanh sắt oán dao dạ, Nhiễu huyền phong vũ ai. Cô đăng văn Sở giác, Tàn nguyệt há Chương Đài. Phương thảo dĩ vân mộ, Cố nhân thù vị lai. Hương thư bất khả ký, Thu nhạn hựu nam hồi. Dịch nghĩa: SUY NGHĨ VỀ ĐÊM CHƯƠNG ĐÀI Tiếng đàm sắt oán nỗi đêm dài, So giây tơ gió mưa buồn thảm, Ngọn đèn lẻ loi nghe tù và nước Sở, Trăng tàn phía Chương Đài. Cỏ thơm đã chuyển mùa, tàn úa, Bạn xưa thì vẫn không quay lại. Thư nhà làm sao mà gửi đi, Cánh nhạn mùa thu lại bay về Phương nam. - TÚC ĐÔNG LƯ GIANG KÝ QUẢNG LĂNG CỰU DU (Mạnh Hạo Nhiên) Sơn minh thinh viên sầu, Thương giang cấp dạ lưu. Phong minh lưỡng ngạn diệp, Nguyệt chiếu nhất cô chu. Kiến Đức phi ngô thổ, Duy dương ức cựu du, Hoàn tương lưỡng hàng lệ, Giao ký hải tây đầu. Dịch nghĩa: NGỦ Ở SÔNG ĐỒNG LƯ NHỚ BẠN CŨ Ở QUẢNG LĂNG Núi âm u nghe vượn kêu buồn, Sông lạnh đêm chảy gấp về xuôi, Gió khua hai bên bờ lá, Trăng dõi một con thuyền lẻ loi. Kiến Đức không phải đất của ta, Lòng càng thêm nhớ bạn bè cũ ở Duy Dương, Xin đem hai hàng nước mắt, Xa gửi đến đầu biển phía tây. - KÝ LÝ ĐAM NGUYÊN TÍCH (Vi Ứng Vật) Khứ niên hoa lý phùng quân biệt, Kim nhật hoa gian hựu nhất niên. Thế sự mang mang nan tự liệu, Xuân sầu ảm ảm độc thành miên. Thân đa tật bệnh tự điền lý, Ấp hữu lưu vong quý bổng tiền. Văn đạo dục lai tương vấn tấn, Tây lâu vọng nguyệt kỷ hồi viên. Dịch nghĩa: GỬI LÝ ĐAM NGUYÊN TÍCH Năm ngoái, trong hoa gặp anh rồi chia tay, Bữa nay hoa nở thêm một năm nữa. Việc dời mênh mang, thật khó xoay xở, Sầu mùa xuân ủ dột lại nằm ngủ một mình. Thân nhiều bệnh, lòng hướng về quê cũ, Làng ấp xiêu tán, thện vì bổng lộc của mình. Nghe tin anh sắp sang thăm hỏi, Trông ngóng ở lầu tây đã mấy bận trăng tròn. - TĨNH DẠ TỨ (Lý Bạch) Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương. Dịch nghĩa: Ý NGHĨ TRONG ĐÊM Ánh trăng sáng ở ngay đầu giường, Ngỡ là sương trên mặt đất. Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng, Cúi đầu thương nhớ làng quê. - VỌNG NGUYỆT HOÀI VIỄN (Trương Cửu Linh) Hải thượng sinh minh nguyệt, Thiên nhai công thử thì. Tình nhân oán giao dạ, Cánh tịch khởi tương tư. Diệt chúc liên quang mãn, Phi y giác lộ ty, Bất kham doanh thủ tặng, Hoàn tẩm mộng giai kỳ. Dịch nghĩa: NGẮM TRĂNG NHỚ NGƯỜI XA Trăng sáng mọc trên biển, Cùng lúc này soi chung đến tận chân trời. Đêm xa cách,người có tình ai chẳng hận, Suốt đêm lúc nào nỗi nhớ cũng không nguôi. Tắt đèn vì thương ánh sáng chan hòa, Khoác áo mới biết trời sương lạnh, Làm sao vốc trăng đầy tay mà tặng, Thôi hãy ngủ để được gặp trong mơ. - QUAN SAN NGUYỆT (Lý Bạch) Minh nguyệt xuất Thiên San, Thương mang vân hải gian. Trường phong kỷ vạn lý, Xuy độ Ngọc Môn quan. Hán há Bạch Đăng đạo, Hồ khuy Thanh Hải loan. Do lai chính chiến địa, Bất kiến hữu nhân hoàn. Thú khách vọng biên sắc, Tư quy đa khổ nhan. Cao lâu đương thử dạ, Than tức vị ưng nhàn. Dịch nghĩa: TRĂNG CỬA ẢI Mặt trăng hiện ra từ núi Thiên San, Mây biển xanh một màu man mác. Cơn gió dài thổi qua ngàn dặm, Gió thổi qua cửa ải Ngọc Môn. Nhà Hán đem quân xuống đóng đường Bạch Đăng, Rợ Hồ ngấp nghé ở vịnh Thanh Hải. Xưa nay những miền chiến địa, Chẳng thấy có người quay về. Người lính thú nhìn cảnh sắc vùng biên giới, Nhớ nhà, mặt mày ủ dột. Người ở lầu cao trong đêm nay, Cũng không nguôi thở than. - TỬ DẠ NGÔ CA (Lý Bạch) Trường An nhất phiến nguyệt, Vạn hộ đảo y thanh. Thu phong xuy bất tận, Tổng thị Ngọc Quan tình. Hà nhật bình Hồ lỗ, Lương nhân bãi viễn chinh. Dịch nghĩa: KHÚC CA NƯỚC NGÔ CỦA TỬ DẠ Một mảnh trăng đất Tràng An, Muôn nhà vang tiếng đập áo. Gió thu thổi không dứt, Như thâu tóm cả tình người ở Ngọc Quan. Ngày nào bình xong giặc Hồ, Để người chồng thôi chinh chiến xa. - TUẾ MỘ QUY NAM SƠN (MẠNH HẠO NHIÊN) Bắc khuyết hưu thướng thư, Nam sơn quy tệ lư. Bất tài minh chủ khí, Đa bệnh cố nhân sơ. Bạch phát thôi niên lão, Thanh dương bức tuế trừ. Vĩnh hoài sầu bất mị, Tụng nguyệt dạ song hư. Dịch nghĩa: CUỐI NĂM VỀ NÚI CHUNG NAM Cửa khuyết đừng dâng thư nữa, Hãy về túp nhà nát ở núi Chung Nam. Vì chẳng có tài nên vua sáng không dùng, Hay ốm nên bạn cũ thưa dần. Tóc trắng như giục cái già mau đến, Tiết mùa xuân làm cho năm tháng chóng hết. Nghĩ ngợi hoài không ngủ vì buồn, Trăng lấp ló ngọn tùng, cửa sổ bỏ ngỏ. - VÔ ĐỀ (Lý Thương Ẩn) Tương kiến thời nan, biệt diệc nan, Dông phong vô lực bách hoa tàn. Xuân tàm đáo tử ti phương tận, Lạp cử thành hôi lệ thủy can. Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải, Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn. Bồng sớn thử khứ vô đa lộ, Thanh điểu ân cần vị thám khan. Dịch nghĩa: KHÔNG ĐỀ Gặp nhau thật khó, xa nhau cũng thật khó, Gió đông không còn sức khiến trăm hoa phải tàn. Tằm xuân đến chết tơ còn rút hết, Nến sáp đã thành tro mà lệ nhỏ mới khô. Xem gương buổi sớm buồn tóc mây thay đổi, Ban đêm ngâm ngợi càng biết ánh trăng lạnh giá. Lần này tới Bống Sơn, không mấy lối, Ân cần nhờ chim xanh thăm hỏi giúp ta. - THU ĐĂNG LAN SƠN KÝ TRƯƠNG NGŨ (Mạnh Hạo Nhiên) Bắc sơn Bạch vân lý, Ẩn giả tự di duyệt. Tương vọng thí đăng cao, Tâm tùy nhạn phi diệt. Sầu nhân bạc mộ khởi, Hứng thị thanh thu phát. Thời kiến quy thôn nhân, Sa hành độ đầu yết. Thiên biên thụ nhược tì, Giang bạn châu như nguyệt. Hà đương tải tửu lai, Cộng túy trùng dương tiết. Dịch nghĩa: MÙA THU LÊN LAN SƠN GỬI CHO TRƯƠNG NGŨ Núi Bắc trong đám mây trắng, Người ở ẩn tự bằng lòng, vui vẻ. Lòng những muốn lên cao, Hướng theo những cánh nhạn bay không dứt. Chiều đến lòng bỗng chớm buồn, Mùa thu xanh trong khiến cao hứng. Thường thấy người lui về thôn làng, Vượt qua cát, ngồi nghỉ đầu bến. Xa tít, hàng cây xanh rì, Bờ sông, bãi cát đầy trăng. Sao không mang rượu ra nhỉ, Cùng nhau uống say trong tiết trùng dương. - TRƯỜNG TƯƠNG TƯ—KỲ 2 (Lý Bạch) Nhật sắc dục tận hoa hàm yên, Nguyệt minh dục tố sầu bất miên. Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ, Thục cầm dục tấu uyên ương huyền. Thử khúc hữu ý vô nhân truyền, Nguyện tùy xuân phong ký Yên Nhiên. Ức quân thiều thiều cách thanh thiên, Tích thời hoành ba mục, Kim tác lưu lệ tuyền. Bất tín thiếp trằng đoạn, Quy lai khán thủ minh kính tiền. Dịch nghĩa: NHỚ NHAU MÃI MÃI Ánh ngày muốn hết, hoa ngậm khói, Trăng sáng như lụa, buồn không ngủ nổi. Đán sắt trụ khắc hình phượng hoàng của nước Triệu vừa dừng Đàn cầm muốn tầu dây uyên ương, Khúc ấy có tình ý, không có người truyền. Muốn gửi theo gió xuân đến Yên Nhiên. Nhớ chàng dằng dặc như đường lên trời Ngày xưa mắt dâng ngang sóng, Nay thành suối lệ tuôn. Chẳng tin thiếp đứt ruột, Khi chàng về thử ngắm gương trong! - PHONG KIỀU DẠ BẠC (Trương Kế) Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, Giang phong ngư hỏa đối sầu miên. Cô Tô thành ngoại Hàn San tự, Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. Dịch nghĩa: ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở PHONG KIỀU Trăng xế, quạ kêu, sương đầy trời, Rặng phong bên sông, lửa thuyền chài, khách gối sầu mà ngủ. Ngoài thành Cô Tô, tiếng chuông chùa Hàn San, Nửa đêm vọng đến bên thuyền khách. - DẠ THƯƠNG THỤ HÀNG THÀNH VĂN ĐỊC (Lý Dịch) Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết, Thụ Hàng thành ngoại nguyệt như sương. Bất tri hà xứ xuy lô quản, Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương. Dịch nghĩa: ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG NGHE SÁO THỔI Trước ngọn Hồi Nhạc, cát giống như tuyết, Bên ngoài thành Thụ Hàng, trăng như sương, Không biết ở chỗ nào thổi sao lau, Suốt đêm người lính chiến thảy đều trông về quê hương. - DAO SẮT OÁN (Ôn Đình Quân) Băng điệm ngân sàng mộng bất thành, Bích thiên như thủy dạ vân khinh. Nhạn lai viễn qua Tiêu Tương khứ, Thập nhị lâu trung nguyệt tự minh. Dịch nghĩa: NỖI OÁN ĐÀN DAO SẮT Chiếu băng, giường bạc, mộng không thành, Trời xanh như nước, mây đêm nhẹ. Tiếng nhạn xa, đã bay qua Tiêu Tương, Trong mười hai lầu trăng tự sáng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhinh_anh_trang_trong_tho_thien_ly_tran_viet_nam_va_tho_duong_trung_quoc_4648.pdf
Luận văn liên quan