Luận văn Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh

Trên cơ sở lý luận của chương 1 và thực trạng phát triển công nghiệp chế biến trên địa bàn thành phố. Để phát triển công nghiệp chế biến, luận văn đưa ra các giải pháp chủ yếu giải quyết vốn đầu tư cho công nghiệp chế biến, đổi mới công nghệ và đầu tư phát triển chiều sâu, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ngành công nghiệp chế biến với ngành nguyên liệu và kết cấu hạ tầng, tiếp tục sắp xếp tổ chức lại các doanh nghiệp công nghiệp chế biến trên địa bàn, đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, tăng cường việc thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước.

pdf71 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2876 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổ chức, giảm bớt về số lượng, đang phấn đấu giữ các vị trí then chốt trọng yếu. Kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể phát triển khá, năng động diễn ra trong nhiều lĩnh vực, hình thành những doanh nghiệp lớn dưới nhiều mức độ. Kinh tế tư bản nhà nước đang trong quá trình hình thành dưới Công nghiệp và Nông, lâm, thủy sản Các ngành dịch vụ những hình thức liên doanh, liên kết, hợp tác sản xuất kinh doanh, xây dựng kinh doanh... góp phần từng bước hình thành các khu chế xuất, các khu công nghiệp tập trung. Tính đến cuối 1999, đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh là 783 dự án với số vốn hơn 10,5 tỷ USD. Nếu chia theo ngành kinh tế thì công nghiệp chế biến chiếm 312 dự án. Thứ năm, Sự phát triển của công nghiệp chế biến, trong đó có công nghiệp chế biến nông, lâm sản góp phần tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người lao động trên địa bàn thành phố. Theo số liệu thống kê của thành phố năm 1999, số lao động làm việc trong công nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh đều tăng lên, năm 1996 thu hút 467.143 lao động. Đặc biệt là lao động trong công nghiệp chế biến thu hút số lao động nhanh hơn, nhiều hơn: năm 1996 lao động trong công nghiệp chế biến là 393.915 lao động, thì đến cuối năm 1999 là 450.827 lao động, trong đó lao động trong công nghiệp chế biến nông, lâm sản tăng nhanh hơn. Việc mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động dẫn đến tăng thu ngân sách trên địa bàn thành phố. Năm 1999, thu ngân sách trên địa bàn thành phố đạt 25.933 tỷ đồng, vượt dự kiến 496 tỷ đồng, chiếm gần 30% tổng thu của cả nước. Thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn thành phố là 1.350 USD/người/năm, mức thu nhập cao nhất cả nước. Tóm lại, qua 15 năm đổi mới từ 1986 trở lại đây, công nghiệp chế biến, trong đó có công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố có nhiều tiến bộ đáng kể và ngày càng có vai trò to lớn về nhiều mặt; thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tăng kim ngạch xuất khẩu; tăng thu ngân sách; tạo công ăn việc làm; phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế; thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đem lại sức phát triển mới cho công nghiệp thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2.3.2. Những điểm hạn chế của công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong thời gian qua trên địa bàn thành phố 2.3.2.1. Thiết bị công nghệ lạc hậu so với trình độ thế giới và khu vực Trong những năm vừa qua, kinh phí vốn đầu tư đổi mới thiết bị có được tăng cường. Cụ thể là công nghiệp chế biến thuộc Sở Công nghiệp quản lý được đầu tư 8.650 triệu USD tăng 20% so với 1995. Các ngành có tỷ lệ đầu tư cao như ngành nhựa (20%), ngành giấy (19%), ngành chế biến gỗ, tre, nứa (18%). Khu vực công nghiệp chế biến ở các quận huyện có số vốn đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị là 12,670 triệu USD và 420 tỷ 90 triệu đồng. Mặc dù có sự đầu tư như vậy, song nếu so sánh trình độ công nghiệp chế biến, công nghiệp chế biến nông, lâm sản của các nước trên thế giới và khu vực thì trình độ thiết bị và công nghệ chế biến của nước ta còn lại hậu, nhiều máy móc thiết bị từ trước 1975, thậm chí có công nghệ từ những năm 1960 đã hết khấu hao mà vẫn còn sử dụng. Đây là một thử thách lớn, liên quan đến chất lượng, cạnh tranh, xuất khẩu và hội nhập. 2.3.2.2. Thiếu vốn Thiếu vốn là một vấn đề bức xúc ảnh hưởng đến quá trình phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc điểm của nước ta là điểm xuất phát thấp, ngân sách hạn hẹp, nhu cầu chi quá lớn, tiết kiệm tích lũy từ nội bộ nền kinh tế lại thấp, vốn ngân sách phải ưu tiên cho xây dựng kết cấu hạ tầng. Thành phố Hồ Chí Minh cũng nằm trong tình trạng chung đó, do vậy điều kiện thiếu vốn cho các cơ sở công nghiệp chế biến nông, lâm sản là điều không tránh khỏi, đòi hỏi các cơ sở sản xuất phải "tự thân vận động" để tồn tại và phát triển. Thực tiễn cho thấy, những năm qua, các cơ sở công nghiệp chế biến chủ yếu là thiếu vốn trung hạn và dài hạn. Nguyên nhân là thị trường đầu ra không ổn định, đòi hỏi chất lượng cao, giá cả hạ, nên xác định phương hướng sản xuất khó khăn, tỷ suất lợi nhuận thấp, trong lúc lãi suất cho vay của ngân hàng còn cao, thủ tục và điều kiện vay không thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nên không huy động được các nguồn vốn. 2.3.2.3. Nguồn lao động chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra Trong những năm qua, sự nghiệp đào tạo cán bộ, công nhân lành nghề đã có bước phát triển đáng kể do yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của sự phát triển kinh tế thị trường và chính sách cơ cấu kinh tế "mở". Song sự ra đời của nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp, làm cho nhu cầu lao động cả số lượng và chất lượng tăng lên nhanh chóng nên dù có mở rộng đào tạo, thành phố vẫn chưa có khả năng cung ứng đủ theo yêu cầu. Ngoài những khó khăn trên, còn một số hạn chế khác cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của công nghiệp chế biến, đó là: - Trình độ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn có nhiều bất cập như giao thông vận tải, điện nước, đường sá... đòi hỏi phải giải quyết một cách khẩn trương trong thời gian tới. - Một số vấn đề thuộc về cơ chế, chính sách pháp luật, nhất là các chính sách tài chính, thuế, lãi suất tín dụng, tiền tệ, chính sách thị trường, năng lực quản lý vĩ mô của nhà nước và thành phố còn thiếu nhất quán, chưa nghiêm minh, thiếu đồng bộ và kịp thời là một trong những lực cản lớn cho sự phát triển công nghiệp của thành phố nói chung và công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng, cần phải được tập trung giải quyết. 2.3.3. Những vấn đề đặt ra Trên cơ sở thực trạng của công nghiệp chế biến nói chung và công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng, những thành tựu đạt được và hạn chế, những mâu thuẫn cần đặt ra giải quyết trong trong thời gian tới, đó là: Thứ nhất: Mâu thuẫn giữa nguồn nguyên liệu với nhu cầu phát triển của công nghiệp chế biến. Với một vị trí trung tâm công nghiệp lớn, trung tâm giao lưu kinh tế, giao lưu hàng hóa, hệ thống giao thông vận tải thuận lợi. Thành phố Hồ Chí Minh là tâm điểm của thị trường trong nước và là đầu mối trao đổi hàng hóa và thị trường nước ngoài. Vì thế, nhu cầu phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản rất lớn với xu hướng ngày càng tăng lên. Nhưng muốn phát triển công nghiệp chế biến ổn định trên địa bàn thành phố thì một trong những vấn đề đặt ra là nguồn nguyên liệu phải ổn định để tạo thế chủ động trong sản xuất chế biến. Với thành phố Hồ Chí Minh, nguồn cung ứng nguyên liệu không khó, vấn đề là phải có cơ chế, chính sách nhằm thu hút nguyên liệu ở các vùng. Mặt khác, kết cấu hạ tầng cũng phải được sửa chữa, nâng cấp thường xuyên nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản không ngừng tăng lên. Thứ hai, Mâu thuẫn giữa khối lượng hàng nông, lâm sản chế biến được sản xuất ra với thị trường tiêu thụ. Trong thời gian qua, nhiều mặt hàng nông, lâm sản của thành phố sản xuất ra chưa tìm được thị trường trong nước và ngoài nước nên kìm hãm sự phát triển của công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Nguyên nhân là: - Trình độ công nghệ chế biến còn lạc hậu, nên hàng hóa sản xuất ra chất lượng thấp, giá thành cao, mẫu mã còn đơn điệu, chưa đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Hơn nữa, hàng chế biến nông, lâm sản chủ yếu ở dạng thô, bán thành phẩm nên thường bị ép giá, thua thiệt nhiều trong cạnh tranh. - Mặt hàng nông, lâm sản chế biến xuất khẩu của chúng ta cũng như nhiều loại hàng hóa khác chưa tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Chúng ta chưa gia nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế quan trọng như WTO (Tổ chức Thương mại thế giới) nên chưa được hưởng ưu đãi về thuế quan khi buôn bán với thị trường thế giới. Hầu hết hàng nông, lâm sản của Việt Nam phải bán qua thị trường trung gian. - Trình độ tay nghề của người lao động trên địa bàn thành phố còn thấp, lao động chưa được đào tạo, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, đòi hỏi phải có hướng khắc phục trong thời gian tới. Những mâu thuẫn trên là những mâu thuẫn của quá trình vận động và phát triển của công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chương 3 Phương hướng và giải pháp cơ bản phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh 3.1. Những quan điểm phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI chỉ rõ: "Hướng chuyển dịch cơ cấu trong công nghiệp là: Nâng tỷ trọng một số ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển, tăng sản phẩm sử dụng nguyên vật liệu trong nước; ổn định tốc độ phát triển và giữ vững, nâng cao chất lượng của ngành công nghiệp dệt - may, hóa chất, nhựa, vật liệu xây dựng". Từ phương hướng đó, có thể rút ra các quan điểm làm cơ sở cho việc đầu tư phát triển công nghiệp, trong đó có công nghiệp chế biến nông, lâm sản: Thứ nhất: Tập trung đầu tư, đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc vào những ngành mà sản phẩm của nó được thị trường trong nước và thị trường thế giới, trước hết là thị trường các nước trong khối ASEAN có nhu cầu. Quan điểm này đòi hỏi phải chấp nhận cạnh tranh và thông qua cạnh tranh, lợi dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của nước ta nói chung và thành phố để có thể chen chân được vào thị trường quốc tế. Bằng cách đó, thúc đẩy công nghiệp chế biến nông, lâm sản phát triển nhanh, có hiệu quả, góp phần thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển công nghiệp chế biến so với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Thứ hai: Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản trong sự cân đối với các ngành, trong đó có ngành nguyên liệu, với kết cấu hạ tầng. Chúng ta biết rằng chất lượng, quy mô phát triển của công nghiệp chế biến phụ thuộc nhiều yếu tố gắn với đầu vào của sản xuất như điện, nước, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông... đặc biệt phụ thuộc vào chất lượng, số lượng cũng như tính kịp thời của nguồn nguyên liệu trong nước và nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Vì vậy, thực hiện totó quan điểm cân đối, đồng bộ giữa các ngành có ý nghĩa rất quan trọng, có liên quan đến thành bại của sự phát triển. Thứ ba: Lựa chọn một cơ cấu công nghiệp thích hợp trong quá trình phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm công nghiệp lớn, là địa bàn có nhiều lực lượng công nghiệp tham gia (trung ương, địa phương, ngoài nhà nước, liên doanh, đầu tư nước ngoài), nhưng nguồn vốn có hạn, lực lượng lao động nhiều song chất lượng lao động so với thế giới và khu vực chưa cao. Một cơ cấu công nghệ được coi là thích hợp để lựa chọn là phải làm sao thỏa mãn các điều kiện nói trên và đưa lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Vấn đề này cũng phù hợp quan điểm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta như Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đề ra là: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn dự án đầu tư" [9, 96]. Thứ tư: Quá trình phát triển công nghiệp, trong đó công nghiệp chế biến nông, lâm sản phải đảm bảo củng cố và nâng cao vai trò chủ đạo của công nghiệp chế biến nhà nước trên các khía cạnh: Nắm các cơ sở quan trọng, hiện đại về trang bị và tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh có lãi, mẫu mực về chấp hành luật pháp, hỗ trợ và dẫn dắt công nghiệp chế biến thuộc các thành phần kinh tế khác ngoài công nghiệp nhà nước. Mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với quản lý vĩ mô giúp các xí nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh phát huy vai trò tích cực của mình vì sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh". 3.2. phuơng Hướng phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản thuộc loại quan trọng 3.2.1. Chế biến lương thực Từ 1989, nước ta đã chấm dứt việc nhập khẩu gạo và bắt đầu tham gia xuất khẩu sản phẩm này. Muốn giữ vững vị trí này trên cơ sở nâng cao hiệu quả kinh tế, đòi hỏi cấp bách phải nâng chất lượng chế biến gạo. Với thành phố Hồ Chí Minh, diện tích gieo trồng cây lương thực không lớn: Năm 1969 là 319 ha. Vì thế, việc chế biến lương thực của thành phố không chỉ nhằm giải quyết nhu cầu trồng trọt tại chỗ mà còn phải xây dựng cơ sở chế biến cho các tỉnh xung quanh và các nội dung chế biến khác. Thế mạnh của thành phố là đánh bóng gạo để xuất khẩu, chế biến bột mỳ và sản phẩm từ lương thực với chất lượng cao để cung cấp đủ nhu cầu thành phố, nhu cầu trong nước, tiến tới xuất khẩu. Muốn vậy, đòi hỏi đặt ra phải nâng cao chất lượng chế biến thông qua việc đầu tư chiều sâu: cải tiến hệ thống kho, trang bị đồng bộ các thiết bị với mục tiêu nâng cao chất lượng và tăng kim ngạch xuất khẩu. 3.2.2. Chế biến rau quả ở nước ta, việc chế biến rau quả chủ yếu để xuất khẩu. Nhu cầu thị trường trong nước về rau quả chế biến không nhiều (thường sử dụng rau quả tươi sống). Thời gian qua, các cơ sở chế biến của thành phố Hồ Chí Minh đã bước đầu đạt được sự đa dạng về chủng loại sản phẩm đồ hộp rau quả. Bên cạnh một số mặt hàng truyền thống như dứa khoanh cỡ nhỏ, dứa khoanh nước đường, dứa đông lạnh và dưa chuột dầm dấm, thành phố đã sản xuất thêm các loại mặt hàng mới: dưa chuột chẻ, chôm chôm nước đường, chôm chôm nhân dứa, nước dừa đóng hộp, thanh long nước đường v.v... Những mặt hàng xuất khẩu này đều đạt tiêu chuẩn quy định. Bao bì nhãn hiệu của sản phẩm đồ hộp đã có nhiều tiến bộ, đẹp về hình thức và màu sắc. Tuy nhiên, ngành chế biến rau quả của thành phố còn có hạn chế là chất lượng không ổn định mà nguyên nhân trực tiếp là do chất lượng của sản phẩm tươi chưa tốt, nhưng nguyên nhân sâu xa là cơ cấu giá cả chưa kích thích được người sản xuất nông nghiệp phân loại chặt chẽ, còn xuất bán cho các nhà máy nguyên liệu chất lượng chưa cao, các khâu thu gom, vận chuyển, kho tàng còn chưa đồng bộ, chưa phù hợp với yêu cầu của một ngành chế biến công nghệ hiện đại. Mục tiêu và hướng phát triển nâng cao chất lượng sản phẩm chế biến rau quả là: - Điều chỉnh quy hoạch vùng rau quả phù hợp với yêu cầu chế biến xuất khẩu và tiêu dùng, đưa nhà máy gần nguồn nguyên liệu. - Đổi mới và mở rộng công nghệ chế biến để đảm bảo chất lượng và tăng sản lượng rau quả được chế biến. Đầu tư sơ chế bảo quản rau quả ở nông thôn nhằm giảm tỷ lệ hư hao, tăng phẩm chất và giá trị nguyên liệu, cải tạo những nhà máy hiện còn phù hợp với vùng nguyên liệu và thị trường, xây dựng một số nhà máy mới ở vùng nguyên liệu tập trung để chế biến các sản phẩm nước quả, sản phẩm sấy khô và đồ hộp, liên doanh liên kết với Nhật, Đài Loan, Hồng Kông, Pháp... xây dựng nhà máy nước quả, lon hộp rỗng, kho lạnh. 3.2.3. Sản xuất dầu thực vật Nhu cầu dầu thực vật ở nước ta ngày một tăng: Biểu 12: Dự tính nhu cầu dầu mỡ ở Việt Nam Thời gian Dân số (triệu người) Dầu mỡ cần cho cả nước Mức bình quân kg/người/năm Tổng số (tấn) Trong đó dầu thực vật Năm 1996 70 3 216.000 72.000 Năm 2000 80 4 320.000 160.000 Theo WHO, lượng dầu mỡ cho một người là 22 kg/năm. Trong khi đó mức tiêu dùng ở nước ta còn thấp, các nước lân cận mức tiêu thụ bình quân là 4 kg/người/năm. ở các nước phát triển là 18 kg/người/năm. Rõ ràng cả thị trường trong nước và thế giới đang có chỗ đứng cho ngành dầu thực vật ở nước ta, nhất là thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Theo số liệu điều tra hiện nay, 2/3 năng lực sản xuất dầu thực vật của cả nước nằm ở thành phố này, được sản xuất từ 4 nhà máy lớn: Tân Bình. Tường An, Thủ Đức và GoldenHope - Nhà Bè. Nhìn chung, dầu thực vật của thành phố sản xuất ra bảo đảm chất lượng, được người tiêu dùng chấp nhận, đặc biệt là các loại dầu thực vật tinh luyện đóng chai PET: dầu lạc, dầu vừng, dầu dừa do nhà máy Tường An và Tân Bình sản xuất, dầu Marvela do nhà máy Liên doanh GoldenHope - Nhà Bè sản xuất. Thành phố đã xuất khẩu được một số ít sản phẩm dầu tinh luyện và dầu thô sang một số nước tư bản. Tuy nhiên, khả năng xuất khẩu của ngành sản xuất chế biến dầu thực vật bị hạn chế vì giá thành cao hơn nhiều so với giá bán trên thị trường thế giới. Theo thời báo Kinh tế Sài Gòn (số 27/1994), ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có 20 loại dầu nội ngoại với nhiều nhãn hiệu khác nhau. Mỗi năm thành phố Hồ Chí Minh nhập hơn 15.000 tấn dầu ăn và chế phẩm từ dầu. Một số dầu ngoại có giá rẻ hơn dầu nội. Do đó hướng tới của ngành dầu thực vật ở thành phố là đẩy mạnh sản xuất đi đôi với đảm bảo chất lượng, giảm giá thành để cạnh tranh và tiến tới thay thế hàng nhập ngoại. Giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu, đảm bảo cung cấp đủ cho các nhà máy (hiện nay mới cung cấp được 30% nguyên liệu). Mở thêm các nhà máy chế biến dầu thực vật với công nghệ hiện đại, tổ chức phát triển các phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm đầu thực vật. Đặc biệt, thành phố đầu tư một số nhà máy mới với số vốn đầu tư khoảng 85 triệu USD (không kể vùng nguyên liệu) để sản xuất tinh dầu và hương liệu cao cấp nhằm cung cấp nguyên liệu cho ngành hóa - mỹ phẩm. 3.2.4. Chế biến thịt và thủy hải sản Nhu cầu nhập thịt và thủy hải sản qua chế biến đối với nhiều nước và lãnh thổ trên thế giới là rất lớn. Tiềm năng về chăn nuôi thủy hải sản ở nước ta và các địa phương, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh là rất đáng kể. Vấn đề đặt ra là chính sách thu hút nguyên liệu, công nghệ chế biến có chất lượng cao về sản phẩm xuất khẩu.Trong thời gian qua, công nghiệp chế biến thịt và thủy hải sản ở thành phố có bước phát triển khá, đầu tư đổi mới công nghệ ở một số cơ sở sản xuất như Vissan, xí nghiệp Cầu Tre được chú trọng. Tuy nhiên, còn có mặt tồn tại do tỷ lệ thịt nạc chưa cao (lợn giống hơi đạt 32 - 33%, thịt giống loại ngon cũng chỉ đạt được 41 - 42%, nên sản phẩm làm ra có giá thành cao, chủng loại thịt chế biến xuất khẩu còn nghèo nàn, chưa đa dạng và hấp dẫn, các chỉ tiêu về vệ sinh, an toàn kể cả trong chăn nuôi và chế biến còn hạn chế, chưa đánh giá và kiểm soát được đầy đủ các chỉ tiêu như dư lượng kim loại nặng, dư lượng kháng sinh, hoóc môn v.v... Vì thế, hướng phát triển trong thời gian tới, trước hết là phải chú trọng đảm bảo nguyên liệu tốt cho chế biến. Cần chú ý đồng bộ các khâu giống, thức ăn, thú y và kỹ thuật chăn nuôi; Tăng cường và mở rộng việc sản xuất, sử dụng thức ăn công nghiệp. Thứ hai, triệt để sử dụng các cơ sở chế biến đã có trên cơ sở đầu tư chiều sâu, sử dụng công nghệ giết mổ tự động và chế biến thức ăn nguội, xây dựng thêm một nhà máy chế biến có quy mô thích hợp và quá trình chế biến hiện đại để chế biến được nhiều loại sản phẩm khác nhau từ thịt. Thứ ba, đầu tư thêm máy cấp đông, kho lạnh, xe lạnh, phấn đấu đạt công suất chế biến thịt, thủy hải sản trên địa bàn thành phố là 63.000 tấn/năm, đảm bảo vệ sinh công nghiệp, xử lý tốt ô nhiễm môi trường. Thứ tư, coi trọng bao bì, thay dụng cụ bằng sắt, mạ kẽm, sơn... sang dụng cụ thép không gỉ, nhựa cứng. 3.2.5. Công nghiệp sữa Qua điều tra cho thấy mức sử dụng sữa bình quân đầu người ở nước ta còn thấp (sữa hộp 2,17 hộp/năm, sữa tươi 0,7 lít/năm, sữa bột 0,08 kg/năm). Trong khi đó mức tiêu dùng sữa trên thế giới khá cao (sữa tươi: Thái Lan 12,5 lít/người/năm, Malaysia 20 lít/người/năm, Tây Âu 400 lít/người/năm). Như vậy nhu cầu tiêu dùng sữa ở nước ta còn khả năng phát triển rất lớn. Mục tiêu và hướng phát triển trong thời gian tới đến 2010, theo dự báo đạt 6,3 lít/người/năm (sữa tươi), 60 hộp/người/năm (sữa đặc), 2,1 kg/người/năm (sữa bột). Theo dự báo, phải sản xuất 630 triệu lít sữa tươi mỗi năm, nâng đàn bò sữa lên gấp 25 lần hiện nay, một mục tiêu vượt quá khả năng của thành phố, vì thế nó thuộc mục tiêu của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu 150 triệu hộp/năm và 12 triệu lít sữa tươi/năm. Hướng đầu tư là xây dựng một nhà máy sữa cao cấp mà nguyên liệu dựa vào nhập sữa bột và sữa tươi từ đàn bò của thành phố, của các tỉnh lân cận. Đầu tư chiều sâu nâng cấp hai nhà máy hiện có. Xây dựng một số trang trại nuôi bò sữa quy mô công nghiệp. Vốn đầu tư cho công nghiệp sữa khoảng 50 triệu USD. 3.2.6. Sản xuất thuốc lá Đặt trong hoàn cảnh thuốc lá là mặt hàng không được khuyến khích tiêu dùng, các sản phẩm thuốc lá bị cấm quảng cáo dưới mọi hình thức và sự cạnh tranh gay gắt giữa thuốc là nội với thuốc lá ngoại, thì nhu cầu về thuốc lá vẫn còn tăng. Trong xu thế hiện nay, cùng với những thành tựu đổi mới, đời sống người dân ngày một được nâng lên, những yêu cầu về phẩm chất hàng hóa nói chung, thuốc lá nói riêng ngày một nâng cao, nhất là trong những năm tới đây, khi nền kinh tế nước ta thực sự hòa nhập với kinh tế ASEAN và khu vực, khi AFTA thực sự có hiệu quả ở Việt Nam. Đón trước khả năng có thể xảy ra, ngành sản xuất thuốc lá phải củng cố và nâng cao hơn nữa phẩm chất những sản phẩm truyền thống; củng cố và mở rộng thị phần của những sản phẩm này để giữ vững nhịp độ phát triển của ngành. - Tích cực nghiên cứu, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh với những nhãn thuốc ngoại nhập. Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng hạn chế việc sản xuất những sản phẩm còn nhiều độc hại phù hợp với yêu cầu chung của xã hội. - Đầu tư đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ phải phù hợp với khả năng, đúng lúc, đúng trọng điểm, phù hợp với khả năng và trình độ kỹ thuật, đảm bảo các yêu cầu về môi trường. 3.2.7. Công nghiệp da giày Mục tiêu đến năm 2010 của công nghiệp da giày là sản xuất 165 triệu đôi giày dép các loại và 50 triệu sản phẩm hàng mềm, khai thác 9.600 tấn da/năm. Đưa tốc độ tăng trưởng 18 - 20%/năm. Muốn vậy, hướng đầu tư là đổi mới thiết bị công nghệ các nhà máy thuộc da hiện có, xây dựng mới 1-2 nhà máy làm giày da hoàn chỉnh để xuất khẩu; xây dựng 5 - 7 nhà máy giày vải, giày thể dục thể thao công suất 1,5 - 2 triệu đôi/năm; xây dựng một nhà máy giả da, đồng thời hết sức coi trọng việc phân bố tránh gây ô nhiễm môi trường. Tổng vốn đầu tư cho công nghiệp da giày khoảng 120 triệu USD. 3.2.8. Công nghiệp giấy Nhu cầu sản lượng giấy ngày càng tăng, nhưng đòi hỏi của thị trường phải có chất lượng ngày càng cao. Hiện nay, ngành công nghiệp giấy còn nhiều yếu kém. Để đưa sản lượng giấy lên 30 - 35 ngàn tấn vào năm 2000 và 50 - 60 ngàn tấn vào năm 2010, đòi hỏi ngành công nghiệp giấy phải đổi mới mặt hàng, tập trung sản xuất các loại sản phẩm có chất lượng tốt và giá trị cao, phải nhanh chóng hiện đại hóa và đổi mới công nghệ sản xuất giấy với nguyên liệu ngoại nhập hoặc do các vùng khác trong nước cung cấp. Tổng số vốn đầu tư khoảng 25 triệu USD. 3.2.9. Sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic - Mục tiêu và hướng phát triển công nghiệp cao su trong thời kỳ 1996 - 2010 là: củng cố năng lực hiện có. Đầu tư mới vào lĩnh vực sản xuất săm lốp ô tô, máy kéo, xe gắn máy. Chọn công nghệ tiên tiến, thiết bị máy móc hiện đại, đồng bộ để đạt doanh số 15 - 20 triệu USD/năm sau năm 2000; tốc độ tăng bình quân 15 - 20%/năm đạt kim ngạch xuất khẩu 2 triệu USD/năm. - Mục tiêu và hướng phát triển công nghiệp nhựa thời kỳ 1996 - 2010 là: đến năm 2005 cả nước sản xuất đạt 198.000 tấn nhựa, tương đương mức bình quân đầu người 10,8 kg/năm, trong đó công nghiệp nhựa thành phố đóng vai trò quan trọng. Thành phố Hồ Chí Minh phấn đấu hết năm 2000 duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 20 - 25%/năm. Sau năm 2000 sẽ duy trì tốc độ này là 17 - 18%/năm. Thông qua đổi mới cơ bản cơ cấu sản phẩm hiện có, mở rộng mặt hàng, đổi mới đầu tư chiều sâu, tiếp nhận có chọn lọc công nghệ tiên tiến, mở rộng chủng loại sản phẩm, sử dụng đa dạng các loại nguyên liệu có tính năng kỹ thuật đặc biệt, tăng cường quản lý vĩ mô, tránh phát triển tự phát, chệch hướng trong thời kỳ 1996 - 2000. Cơ cấu sản lượng sản phẩm công nghiệp nhựa được thể hiện ở biểu sau: Biểu 13: Cơ cấu sản lượng công nghiệp nhựa thời kỳ 1996 - 2010 Nhóm sản phẩm 1995 2000 2005 2010 1- Bao bì 25 30 30 30 2- Vật liệu xây dựng 15 30 30 25 3- Đồ gia dụng 60 25 20 20 4- Nhựa cho các ngành công nghiệp 10 15 20 25 [14, 48]. 3.3. một số giải pháp cơ bản để phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố hồ chí minh Khó khăn lớn nhất và cũng dễ thấy nhất của ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố hiện nay là tình trạng tiêu thụ sản phẩm chậm, không cạnh tranh được với các loại sản phẩm chế biến ngoại nhập và một số sản phẩm chế biến của một số tỉnh trong cả nước. Do đó có ý kiến cho rằng, yếu tố quyết định sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố là giải quyết đầu ra, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Nhưng xuất phát từ sự phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng của ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản, chúng tôi cho rằng, để phát triển ngành này cần giải quyết đồng bộ ba vấn đề liên quan rất chặt chẽ với nhau, đó là: nguyên liệu - công nghệ - thị trường. Tình trạng tiêu thụ sản phẩm chậm ở thành phố là kết quả tổng hợp của những hạn chế ở cả ba lĩnh vực nói trên: thiếu nguyên liệu và nguyên liệu không ổn định, chất lượng nguyên liệu kém; công nghệ lạc hậu, chắp vá; tổ chức, công tác tiêu thụ, khai thác thị trường chưa tốt... Để giải quyết ba vấn đề trên cần những giải pháp chủ yếu sau. 3.3.1. Sắp xếp lại mạng lưới công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố, xác định quy mô và lựa chọn giải pháp công nghệ thích hợp. Cụ thể là: - Khẩn trương xây dựng quy hoạch ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố. Rà xét, phân loại các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn cùng sử dụng một loại nguyên liệu hoặc sản xuất một loại sản phẩm, kể cả doanh nghiệp của trung ương và địa phương để sắp xếp lại và chuyển hướng sản xuất một số doanh nghiệp cho hợp lý, thậm chí giải thể một số xí nghiệp hoạt động không hiệu quả. - Lựa chọn một số xí nghiệp trọng điểm để tập trung đầu tư thiết bị, cải tiến công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất một số loại sản phẩm chất lượng cao nhằm mục tiêu xuất khẩu là chính. Từ đó, hình thành một loạt doanh nghiệp vệ tinh có nhiệm vụ sơ chế nguyên liệu, sản xuất bán thành phẩm hoặc thành phẩm có quy mô vừa và trình độ công nghệ thích hợp. - Mở rộng mạng lưới của cơ sở nhỏ làm nhiệm vụ thu gom, bảo quản sơ chế nguyên liệu tại các vùng sản xuất nông, lâm nghiệp. Đây là khâu rất quan trọng nhưng hiện nay chưa được coi trọng nền dẫn đến tình trạng sản phẩm nông, lâm nghiệp bị hư hao và giảm phẩm cấp quá lớn khi đưa đến nhà máy. 3.3.2. Tích cực triển khai chương trình đổi mới thiết bị và công nghệ, từng bước ứng dụng công nghệ cao trong ngành công nghiệp chế biến Giải pháp này bắt nguồn từ đặc điểm, nhu cầu hàng công nghiệp chế biến ngày một khắt khe về cơ cấu, chủng loại và chất lượng; bắt nguồn từ xu hướng phát triển của công nghiệp chế biến từ sơ chế bảo quản đến tinh chế, từ sử dụng nguyên liệu đơn chiếc đến sử dụng nguyên liệu tổng hợp gắn với sản phẩm chế biến cuối cùng rất đồng bộ. Đổi mới công nghệ phát triển công nghiệp chế biến theo chiều sâu còn do yêu cầu phải thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng mà thành phố có lợi thế. Giải pháp đổi mới công nghệ, chuyển các doanh nghiệp công nghiệp chế biến phát triển theo chiều sâu đòi hỏi cần tập trung giải quyết những vấn đề sau: - Về trình độ máy móc, thiết bị: Đổi mới từng bước, chọn khâu, bộ phận thực hiện đầu tư mới hệ thống hiện đại, đồng thời trong trường hợp nhất định không loại trừ nhập những thiết bị đã qua sử dụng. Với điểm xuất phát còn thấp, hạn chế về vốn và trình độ sử dụng của lao động có thể phải chịu lạc hậu một thế hệ kỹ thuật so với các nước tiên tiến. Thực hiện chính sách khấu hao nhanh máy móc, thiết bị nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới kỹ thuật ở các ngành quan trọng, áp dụng khấu hao đặc biệt đối với một số ngành công nghiệp chế biến mũi nhọn để rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với bên ngoài. - Về trình độ công nghệ (phần mềm): Thực hiện theo hướng đi vào hiện đại hóa trên cả ba mặt kỹ năng, thông tin và tổ chức quản lý hiện đại, nhất là trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến. Phát huy thế mạnh của một trung tâm công nghiệp lớn, nhiều tiềm năng về khoa học - công nghệ so với cả nước, cần đi đầu và đi nhanh vào một số ngành công nghiệp chế biến mũi nhọn, ngành công nghệ mới, ngành tinh chế, tái chế tạo ra những sản phẩm làm tăng giá trị, tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao hiệu quả của công nghiệp chế biến trên địa bàn. - Nghiên cứu chuyển giao công nghệ (cả trong và ngoài nước) nhất là đối với các khu công nghiệp mới, kỹ nghệ cao và các doanh nghiệp sản xuất nhỏ, hộ gia đình phù hợp với tính cách sản xuất và con người Việt Nam. 3.3.3. Các giải pháp về nguồn nguyên liệu Thành phố cần có những chủ trương và quyết sách dựa trên đòn bẩy lợi ích kinh tế, kết hợp hài hòa giữa khâu khai thác cung ứng nguyên liệu với khâu sơ chế, công nghiệp chế biến để các doanh nghiệp công nghiệp chế biến triển khai trong thực tiễn. Cụ thể là: - Phối hợp giữa các nhà máy chế biến nông, lâm, thủy hải sản với các nhà khoa học, các trung tâm nghiên cứu để tuyển chọn, lai tạo giống cây, con đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy hải sản. Cần đặc biệt chú ý khai thác và ứng dụng các thành tựu của công nghệ sinh học như công nghệ gen, cấy hợp tử, và nhân nhanh các giống cây, con quý. - Hình thành một số vùng nguyên liệu tập trung, hình thành một số vùng nông nghiệp chuyên môn hóa của thành phố như vùng cây ăn quả, vùng rau sạch, vùng cá, vùng bò sữa... Phối hợp với các tỉnh phụ cận để hình thành một số vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản thành phố. - Tích cực chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn ngoại thành, khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển kinh tế nông trại, trang trại. - Tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng nông sản phẩm trước khi đưa đi tiêu thụ. Có chính sách khuyến khích sản xuất các loại nông sản có chất lượng cao. - Đối với nguyên liệu phải nhập ngoại, do tính chất nhập ngoại nên thường bị động, ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất công nghiệp chế biến, cộng vào đó là chính sách thuế nhập khẩu chưa hợp lý. Để chủ động nguồn nguyên liệu nhập ngoại cần xác định có căn cứ khoa học định mức dự trữ nguyên liệu trong sản xuất nhằm sử dụng vốn lưu động có hiệu quả làm cơ sở cho kế hoạch vay vốn ngân hàng, hoặc kế hoạch tăng vốn tự có, thông qua hợp đồng mua bán được ký kết giữa các doanh nghiệp trong nước với các công ty bán nguyên liệu cuả các nước. 3.3.4. Tăng cường mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm Giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu và công nghệ là điều kiện quyết định để nâng cao chất lượng nông sản chế biến và hạ giá thành sản phẩm, nhờ đó mở rộng thị trường tiêu thụ. Thực tế cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của ta còn ở mức khiêm tốn (chỉ hơn 3,4 tỷ USD/ năm). Vì vậy để phấn đấu đưa kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản lên 4-5 tỷ USD cần phải tăng cường hơn nữa công tác mở rộng thị trường [5]. Để mở rộng thị trường cần phối hợp vói các biện pháp sau: - Nghiên cứu xác định một số sản phẩm có lợi thế, có khả năng tiêu thụ ổn định trên thị trường quốc tế để tập trung sản xuất và lựa chọn bạn hàng tiêu thụ. - Nghiên cứu nhu cầu trên thị trường để đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ nhằm khai thác thị trường nội địa và xuất khẩu tại chỗ. Một nghịch cảnh đáng lưu ý hiện nay là, chúng ta quá chú ý đến việc sản xuất các mặt hàng chế biến để xuất khẩu, tham gia vào cuộc cạnh tranh không cân sức với các cơ sở kinh doanh cùng mặt hàng ở nước ngoài thì thị trường nội địa lại để mặc cho hàng hóa nhập ngoại chiếm lĩnh; trong khi các nhà kinh doanh nước ngoài đánh giá rất cao về thị trường tiêu thụ của hơn 70 triệu dân nước ta và hơn 5 triệu dân thành phố hiện có sức tiêu thụ rất lớn. Do vậy giải pháp đồng bộ nhằm khai thác triệt để thị trường nội địa phải được đặt lên hàng đầu trong quá trình phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố trong những năm trước mắt đi đôi với mở rộng thị trường nước ngoài. - Tổ chức có hiệu quả việc thu thập, xử lý về thông tin thị trường trong nước và ngoài nước cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, từng bước phát triển thương mại điện tử hàng hóa nông sản. Bên cạnh đó khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại ở trong nước và cả trên thế giới như hội chợ, triển lãm thương mại, giới thiệu hàng Việt Nam... 3.3.5. Giải quyết những khó khăn về vốn đầu tư cho các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản Để giải quyết khó khăn về vốn cho ngành chế biến nông, lâm sản cần chú trọng các biện pháp sau: - Vốn ngân sách hạn hẹp cần đầu tư tập trung cho các doanh nghiệp trọng điểm và hỗ trợ cho một số doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mới đổi mới thiết bị, công nghệ. - Giảm, miễn thuế doanh thu, thuế lợi tức đối với các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản, sản xuất mặt hàng mới, đổi mới thiết bị công nghệ hoặc các doanh nghiệp mới thành lập trong 1 - 3 năm đầu. - Khuyến khích hỗ trợ các hộ nông dân thông qua chính sách cho vay ưu đãi, đầu tư ứng trước... để phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản hoặc sản xuất nông, lâm sản để chế biến xuất khẩu. Thực tế cho thấy, thị trường hàng hóa nông, lâm sản thường gặp nhiều rủi ro, gây ảnh hưởng đến lợi ích của nông dân và doanh nghiệp, vì vậy ngoài chính sách hỗ trợ cần khuyến khích lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng. 3.3.6. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết Trong thời gian tới cần "áp dụng nhiều hình thức góp vốn liên doanh giữa nhà nước và các nhà kinh doanh tư nhân trong nước và ngoài nước nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp công nghiệp chế biến Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài" theo hướng: - Tiếp tục mở rộng hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài thông qua đầu tư trực tiếp (FDI). Tính đến tháng 12/1999 trên địa bàn thành phố có 783 dự án, số vốn đầu tư 10,5 tỷ USD. Riêng công nghiệp chế biến có đến 313 dự án. - Tiếp tục thu hút hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài thông qua việc hình thành khu chế xuất Linh Trung và Tân Thuận, hình thành các khu công nghiệp thu hút vốn đầu tư đi vào hoạt động có hiệu quả. - Thực hiện hình thức cho thuê thông qua đấu thầu một số cơ sở vật chất của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản nhà nước. Phát triển hình thức gia công đặt hàng, một hình thức thường sử dụng nhiều lao động... 3.3.7. Tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản Chất lượng sản phẩm là một vấn đề tổng hợp. Các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng phải được tiếp cận một cách hệ thống và toàn diện. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: "Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp hình thành các vùng tập trung, chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước". Do đó, chất lượng sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản có ý nghĩa quyết định trong cạnh tranh trên thị trường trong nước, quốc tế, nhất là xu hướng thị trường hiện nay đòi hỏi chất lượng ngày một cao. ở đây nêu ra phương hướng giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của công nghiệp chế biến. - Đối với sản phẩm nội địa: Phải đảm bảo tiêu chuẩn Việt Nam, các chỉ tiêu về an toàn và vệ sinh, nâng cao dần chất lượng về màu sắc, mùi vị. - Đối với sản phẩm xuất khẩu: Đạt đầy đủ các yêu cầu theo hợp đồng, các yêu cầu này thường đòi hỏi đạt trình độ quốc tế về tất cả các loại chỉ tiêu, đặc biệt là các chỉ tiêu về vệ sinh và an toàn, tạo nên sự đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã, phấn đấu đảm bảo bao bì sản phẩm đúng quy cách, đẹp và hấp dẫn. - Nghiên cứu áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng hiện đại vào lĩnh vực công nghiệp chế biến nông, lâm sản, áp dụng hệ thống ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn do tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ban hành. 3.3.8. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và nâng cao tay nghề cho người lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản Con người là nhân tố quyết định của mọi sự biến đổi và phát triển. ở nước ta và thành phố lực lượng lao động khá dồi dào, song chất lượng lao động đang là vấn đề đáng được quan tâm. Để có đội ngũ cán bộ và lao động đáp ứng được yêu cầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và sự nghiệp phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng trong thời gian tới thành phố phải làm tốt các vấn đề sau đây: - Làm tốt công tác quy hoạch và kế hoạch hóa đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề từ nay đến năm 2020, trước mắt là đến 2010 trên địa bàn thành phố: có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân. - Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường đưa cán bộ, công nhân đi học ở nước ngoài, những ai có khả năng đi học nước ngoài đều được khuyến khích. Có chính sách khuyến khích tài năng trẻ đi vào nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu của công nghệ mới vào việc phát triển công nghiệp chế biến. Có chính sách "mở" đối với giáo dục đào tạo với các trường ở nước ngoài. 3.3.9. Tăng cường thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố - Trên cơ sở quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội thành phố, khẩn trương xây dựng quy hoạch các ngành kinh tế, kỹ thuật trong đó có ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Đánh giá đúng thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước và triển vọng phát triển của từng doanh nghiệp trên địa bàn. Chỉ rõ những doanh nghiệp có thể và cần phải củng cố phát triển theo hướng mở rộng quy mô sản xuất tập trung đầu tư chiều sâu hoặc chuyển sản xuất sản phẩm. - Sáp nhập, giải thể hoặc chuyển hình thức sở hữu (dưới hình thức cho thuê, nhượng bán hoặc cổ phần hóa doanh nghiệp) đối với các doanh nghiệp mà nhiệm vụ sản xuất chồng chéo, trùng lắp, hiệu quả kinh doanh thấp. - Bố trí, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp quốc doanh chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố, có kế hoạch di chuyển một số doanh nghiệp nằm trong khu vực đông dân, gây ô nhiễm ra ngoại thành. - Chọn một số doanh nghiệp trọng điểm để tập trung đầu tư thiết bị và cải tiến công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao nhằm mục tiêu xuất khẩu là chính. Bên cạnh đó là xây dựng, hình thành một loạt các doanh nghiệp vệ tinh có nhiệm vụ sơ chế nguyên liệu, sản xuất bán thành phẩm với quy mô và trình độ công nghệ thích hợp. - Giải quyết thỏa đáng mối quan hệ phối hợp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương trên địa bàn thành phố sao cho có thể hướng dẫn, giám sát, kiểm tra được việc thực hiện luật và các văn bản dưới luật có liên quan đến sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố. 3.4. Một số kiến nghị 3.4.1. Lên phương án quy hoạch và có chính sách hỗ trợ - Thành phố khuyến khích hình thành những vùng nông nghiệp chuyên môn hóa sản xuất như vùng cây ăn quả,, vùng rau, vùng cá, vùng nuôi bò sữa v.v... mà trước hết là hỗ trợ vốn đầu tư để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Phối hợp với các tỉnh phụ cận hình thành một số vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản thành phố. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách để cải tạo và phát triển đàn bò sưã, đàn lợn hướng nạc, đàn vịt siêu thịt... - Thực hiện việc duy trì lãi suất cho vay thấp nhằm kích thích các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ, phát triển theo chiều sâu. Thành phố có thể đứng ra bảo lãnh cho một số doanh nghiệp vay vốn nước ngoài để đầu tư. - Để thu hút đầu tư nước ngoài, ngoài việc tích cực cải tiến những thủ tục hành chính như thủ tục cấp đất, cấp phép xây dựng, xét duyệt dự án đầu tư, thành phố cần xây dựng hệ thống danh mục dự án đầu tư lớn nhằm giới thiệu và gọi vốn đầu tư nước ngoài. 3.4.2. Chính sách khuyến khích về thuế Thuế, một chính sách kinh tế, đòn bẩy có tác dụng kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh. Trong lĩnh vực công nghiệp chế biến nông, lâm sản, Nhà nước áp dụng mức thuế theo hướng: - Mở rộng phạm vi miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ đồng bộ từ 1 - 3 năm như là đối với các doanh nghiệp mới thành lập. Sớm cụ thể hóa luật khuyến khích đầu tư trong nước bằng các văn bản cụ thể, đặc biệt là chính sách ưu đãi về thuế với các nhà đầu tư trong nước ở một số lĩnh vực ưu tiên. - Giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu nhập ngoại, bởi vì ở thành phố Hồ Chí Minh, khoảng 80-85% nguyên liệu chính, nguyên liệu thô của công nghiệp chế biến đều nhập ngoại. Giảm thuế để thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp chế biến, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động đang là sức ép của thành phố. - Mức thuế phải ổn định trong một thời gian tương đối dài để tránh thay đổi quá nhiều như vừa qua. 3.4.3. Chính sách về khuyến khích xuất khẩu Để sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản tiếp cận với thị trường thế giới và khu vực, đề nghị chính sách về khuyến khích xuất khẩu theo hướng sau: - Tăng vốn tài chính cho ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu. - Thực hiện ưu đãi về lãi xuất đối với hàng hóa xuất khẩu khi vay vốn ngắn hạn. - Thực hiện lãi xuất ưu đãi với những doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản xuất khẩu khi vay vốn trung hạn và dài hạn ở các ngân hàng để đổi mới công nghệ, đầu tư chiều sâu. - Tổ chức cung cấp thông tin thị trường, các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất của các xí nghiệp. 3.4.4. Kiến nghị về giải pháp khai thác thị trường nội địa - Tăng cường năng lực quản lý, đặc biệt khả năng tiếp thị, nghiên cứu nhu cầu, cải tiến mẫu mã sản phẩm chế biến cho phù hợp với sức mua và thị hiếu tiêu dùng của mọi tầng lớp dân cư, của các doanh nghiệp. - Hạn chế nhập khẩu (tăng thuế nhập khẩu đối với những mặt hàng mà công nghiệp chế biến trong nước có khả năng sản xuất và cung cấp đầy đủ cho thị trường). Đề ra các biện pháp quản lý thị trường hữu hiệu chống hàng xấu, hàng giả và các sản phẩm nhập lậu. - Có quy chế cụ thể đối với việc thông tin quảng cáo, khuyến khích tiêu dùng hàng nội địa như quy định lệ phí quảng cáo cho hàng ngoại phải cao hơn hàng nội. - Mở rộng các đại lý tiêu thụ cho các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản, mở rộng mạng lưới thu mua, sơ chế, bảo quản và vận chuyển một số loại sản phẩm như sữa, rau quả tươi tại một số nơi sản xuất khi chuyển đến nhà máy. kết luận Với mục tiêu nghiên cứu đặt ra, bằng phương pháp hệ thống, phương pháp lôgíc và lịch sử, kết hợp với phương pháp thực chứng, luận văn đã hoàn thành một số nội dung chính dưới đây chính dưới đây: 1- Trên cơ sở làm rõ khái niệm công nghiệp chế biến, đặc điểm của công nghệ chế biến và nét đặc trưng của công nghiệp chế biến nông, lâm sản, luận văn đã phân tích có cơ sở lý luận và thực tiễn vai trò của công nghiệp chế biến một cách toàn diện trên các khía cạnh kinh tế, xã hội ở các nước nói chung và ở nước ta nói riêng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, nhất là các nước NIEs và ASEAN, luận văn tìm ra xu hướng có tính quy luật chung của sự hình thành và phát triển công nghiệp chế biến. Đó là phát triển công nghiệp chế biến gắn với nông, lâm nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến theo hướng sử dụng nguyên liệu tổng hợp có liên quan đến sản phẩm cuối cùng, phát triển công nghiệp chế biến trong sự gắn bó hữu cơ với các ngành kinh tế khác kể cả các ngành kết cấu hạ tầng. 2- Luận văn phân tích làm rõ vai trò của công nghiệp chế biến trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với những nước nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phân tích thực trạng và định hướng phát triển công nghiệp chế biến trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Về các quan điểm gồm có: gắn nông, lâm nghiệp với công nghiệp chế biến, áp dụng công nghệ chế biến nhiều trình độ, có trọng điểm, đi tắt lên hiện đại, tạo điều kiện chuyển sang lấy công nghệ chế biến hiện đại làm chủ yếu. Gắn công nghiệp chế biến nông, lâm sản với nguồn nguyên liệu giữa nông thôn với đô thị, giữa trung ương với địa phương trên địa bàn trong tiến trình phát triển công nghiệp chế biến, gắn chế biến với các ngành kết cấu hạ tầng, tài chính, ngân hàng, thương mại, dịch vụ trong tiến trình phát triển. 3. Thông qua thực trạng công nghiệp chế biến trên địa bàn thành phố, luận văn đánh giá thành tựu và hạn chế của sự phát triển công nghiệp chế biến qua các thời kỳ trước và sau 1986 đến nay trên các khía cạnh: tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất nhập khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài, đóng góp vào ngân sách, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động. Trên cơ sở hạn chế so với yêu cầu phát triển công nghiệp chế biến, luận văn nêu lên những mâu thuẫn đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới, đó là: mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển công nghiệp chế biến với nguồn nguyên liệu và kết cấu hạ tầng, mâu thuẫn giữa khả năng phát triển với tình hình thị trường đầu ra, mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng và phát triển công nghiệp chế biến với trình độ công nghệ, tay nghề và vốn đầu tư, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển công nghiệp chế biến với các yếu tố quản lý vi mô, vĩ mô. 4. Trên cơ sở lý luận của chương 1 và thực trạng phát triển công nghiệp chế biến trên địa bàn thành phố. Để phát triển công nghiệp chế biến, luận văn đưa ra các giải pháp chủ yếu giải quyết vốn đầu tư cho công nghiệp chế biến, đổi mới công nghệ và đầu tư phát triển chiều sâu, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ngành công nghiệp chế biến với ngành nguyên liệu và kết cấu hạ tầng, tiếp tục sắp xếp tổ chức lại các doanh nghiệp công nghiệp chế biến trên địa bàn, đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, tăng cường việc thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước. Từ các giải pháp, luận văn đề xuất một số kiến nghị gắn với chính sách tài chính, tín dụng, chính sách về thuế, chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách tiêu thụ, thị trường nội địa... Tài liệu tham khảo [1]. Báo cáo một số nét về tình hình kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh, 1999. [2]. Báo cáo tổng kết năm 1999 của Ban Quản lý khu chế xuất và khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. [3]. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1994. [4]. Đánh giá phát triển công nghiệp Việt Nam, Dự án VIE/89/007. [5]. Đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp - bài toán đã có lời giải. Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 23-8-2000. [6]. Ngô Đình Giao, Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. [7]. Kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. [8]. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962. [9]. Nguyễn Ngọc Long, Về cuộc cải cách kinh tế của Lênin, Nxb Thanh niên, 1996. [10]. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh năm 1994. [11]. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh năm 1995. [12]. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh năm 1999. [13]. Phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam, Nxb Thống kê, 1999. [14]. Quy hoạch phát triển công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ 1996 - 2010, Sở Công nghiệp, 1995. [15]. Số liệu thống kê 1985 - 1995 của Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam, 10/1996. [16]. Số liệu khảo sát của Văn phòng Chính phủ Malaysia, tháng 9/1995. [17]. Thành phố Hồ Chí Minh thực tế và triển vọng, Nxb Thống kê và Cục Thống kê thành phố, 1991. [18]. Tổng luận khoa học kỹ thuật kinh tế, số 1-1997. [19]. Vũ Anh Tuấn, Xu hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến ở thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 1998. [20]. Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh khóa IV. Thành phố Hồ Chí Minh, 1986. [21]. Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh khóa VI. Thành phố Hồ Chí Minh, 1996. [22]. Văn kiện Hội nghị lần thứ 15 BCH Đảng bộ thành phố khóa VI. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000. [23]. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: Công nghiệp chế biến nông, lâm sản và vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung 4 1.1. Công nghiệp chế biến và vai trò của công nghiệp chế biến đối với sự phát triển nông, lâm nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung 4 1.2. Phát triển công nghiệp chế biến ở một số nước và bài học kinh nghiệm 12 Chương 2: Thực trạng và tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh 20 2.1. Đặc điểm thành phố Hồ Chí Minh với khả năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản 20 2.2. Thực trạng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh 24 2.3. Đánh giá chung và những mâu thuẫn đặt ra cần giải quyết 43 Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh 50 3.1. Những quan điểm phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh 50 3.2. Phương hướng phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản thuộc loại quan trọng 51 3.3. Một số giải pháp cơ bản để phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh 58 3.4. Một số kiến nghị 66 Kết luận 69 Tài liệu tham khảo 71

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh.pdf
Luận văn liên quan